Tin nông nghiệp ngày 30 tháng 10 năm 2019

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 30 tháng 10 năm 2019

Tuần hàng đặc sản Đồng Tháp tại TP. Hồ Chí Minh năm 2019

Nguồn tin:  Báo Đồng Tháp

Từ ngày 8 - 10/11, tại Siêu thị Big C An Lạc, TP. Hồ Chí Minh sẽ diễn ra Tuần hàng đặc sản Đồng Tháp tại TP.Hồ Chí Minh.

Mặt hàng xoài sẽ được giới thiệu tại Tuần hàng đặc sản Đồng Tháp tại TP.Hồ Chí Minh năm 2019

Tuần hàng đặc sản Đồng Tháp tại TP.Hồ Chí Minh được thiết kế với quy mô khoảng 40 gian hàng của 42 doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, hội quán, cơ sở sản xuất, cơ sở khởi nghiệp của tỉnh Đồng Tháp. Các nội dung chính của chương trình lần này là: Lễ khai mạc; tổ chức kết nối trực tiếp với hệ thống siêu thị Big C về tiêu thụ hàng hóa; tập huấn đưa hàng vào hệ thống siêu thị Big C và thông tin chương trình sinh kế cộng đồng của Big C; trưng bày, giới thiệu sản phẩm Đồng Tháp.

Trong đó, hoạt động trưng bày các sản phẩm, hàng hóa gắn với Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, truy xuất nguồn gốc trên địa bàn tỉnh; các đặc sản của địa phương, sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu, thực phẩm an toàn; các sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu như: xoài, nhãn, cam, quýt, sen, mận, chanh, ớt; sản phẩm chế biến; sản phẩm thủ công mỹ nghệ để trang trí, làm quà tặng...

Việc tổ chức tuần hàng đặc sản Đồng Tháp tại TP.Hồ Chí Minh nhằm quảng bá, giới thiệu sản phẩm an toàn của Đồng Tháp cho người tiêu dùng, kết nối tiêu thụ tại hệ thống siêu thị BigC. Bên cạnh đó, đây cũng là cơ hội tìm hiểu các phương thức, tiêu chuẩn, quy cách để kết nối tiêu thụ hàng hóa với hệ thống siêu thị Big C; giúp cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, hội quán, cơ sở sản xuất, cơ sở khởi nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp cận và nắm bắt thị hiếu của người tiêu dùng TP.Hồ Chí Minh. Từ đó, xây dựng kế hoạch, chiến lược sản xuất, kinh doanh đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và hướng đến xuất khẩu.

Trang Huỳnh

Biến rác thải thành phân bón

Nguồn tin:  Khoa Học Phổ Thông

Thu gom rác thải tái chế thành phân bón hữu cơ đang là hướng đi đúng đắn, giúp tạo ra lượng phân hữu cơ vi sinh phục vụ cho nông nghiệp sạch, góp phần giải quyết được những vấn đề ô nhiễm môi trường từ rác thải sinh hoạt.

Vấn đề ô nhiễm môi trường do rác thải sinh hoạt trở thành thách thức lớn, khi tốc độ đô thị hóa ngày càng cao, mật độ dân số tăng nhanh, đặc biệt là ở các thành phố lớn như TP.HCM. Rác thải hữu cơ chiếm tỷ lệ lớn khoảng 60% trong tổng số rác thải, đây là lượng rác thải khổng lồ nếu không được xử lý đúng cách sẽ phân hủy và gây ô nhiễm môi trường nặng nề, ảnh hưởng lớn đến đời sống sinh hoạt của người dân.

Biện pháp xử lý hiệu quả được đưa ra là thực hiện tái chế rác thải sinh hoạt thành phân bón hữu cơ, biến thành nguyên liệu phục vụ cho nông nghiệp sạch. Theo hướng dẫn từ Chi cục phát triển nông thôn TP.HCM, trước khi thực hiện xử lý rác thải thành phân bón hữu cơ cần thực hiện phân loại đúng các loại chất thải trong sinh hoạt. Thứ nhất, chất thải hữu cơ dễ phân hủy bao gồm: thức ăn thừa, lá cây, rau củ quả, xác động vật… có thể sử dụng ủ làm phân bón trong nông nghiệp. Thứ hai, chất thải có khả năng tái chế như giấy, vỏ hộp, vỏ lon nhôm, vỏ chai nhựa… người dân sẽ thu gom lại và chuyển cho các đơn vị có khả năng tái chế để sử dụng làm nguyên liệu để sản xuất sản phẩm mới. Thứ ba, các loại chất thải còn lại như vỏ trứng, bóng đèn, sành, sứ, túi nylon… thực hiện thu gom, vận chuyển đến nơi xử lý an toàn.

Chất thải hữu cơ dễ phân hủy được tái chế thành phân bón hữu cơ bằng cách đơn giản, trước hết thực hiện phân loại rác, tiếp theo đưa chất thải dễ phân hủy vào hố ủ hoặc thùng ủ phân hữu cơ. Đối với thùng ủ bằng nhựa, cần đặt cách xa nguồn nước sinh hoạt, đặt chậu nhựa để thu nước rỉ từ rác. Sau đó, sử dụng nước rỉ từ rác tưới lên lượng rác ủ trong thùng giúp rác mau phân hủy thành phân. Đặc biệt lưu ý, không đưa các loại lá như lá bạch đàn, lá tràm, lá sả tươi, vỏ cam, quýt vào thùng ủ vì các loại lá này chứa tinh dầu làm hại đến sự phát triển của vi sinh vật. Phân hữu cơ được tạo thành sau 30 - 35 ngày được sử dụng bón cho cây trồng, vườn rau hữu cơ. Ngoài ra, có thể sử dụng tháp trồng rau kết hợp ủ phân hữu cơ.

HOÀI CHI

Sản xuất nông nghiệp hữu cơ: Hướng đi bền vững

Nguồn tin:  Hà Nội Mới

Sản xuất hữu cơ đã và đang trở thành xu hướng tất yếu của nông nghiệp thế giới. Không đứng ngoài cuộc, ngành Nông nghiệp Việt Nam đã từng bước đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hữu cơ, coi đây là hướng đi bền vững góp phần giải quyết những vấn đề còn tồn tại như tiêu chuẩn chất lượng, quy trình sản xuất... tiến tới đưa nông sản nước ta chiếm lĩnh những thị trường lớn, giàu tiềm năng. Từ những mô hình cho giá trị cao…

Là nước có sản lượng hồ tiêu xuất khẩu lớn nhất thế giới trong nhiều năm nhưng giá trị của hồ tiêu Việt Nam không cao. Để giải “bài toán” về giá trị này, nhiều doanh nghiệp đã liên kết cùng nông dân xây dựng các mô hình trồng hồ tiêu hữu cơ để nâng cao chất lượng sản phẩm.

Mô hình trồng rau hữu cơ tại xã Tiến Xuân (huyện Thạch Thất) cho hiệu quả kinh tế cao.

Giám đốc Công ty TNHH Sinh học tự nhiên Phú Quốc Võ Đức Huy cho biết: Năm 2017, Công ty đã đầu tư cho 12 hộ dân ở huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang trồng 11,5ha hồ tiêu theo quy trình hữu cơ và đến nay đã được 3 cơ quan uy tín của Mỹ, Nhật Bản, châu Âu cấp chứng nhận sản phẩm. Toàn bộ sản phẩm hồ tiêu hữu cơ của các hộ dân này được thu mua với giá 80.000 đồng/kg, trong khi giá hồ tiêu thường là 47.000 đồng/kg. Công ty đang nhân rộng mô hình trồng hồ tiêu hữu cơ tại đây với tổng diện tích khoảng 100ha, xuất bán chủ yếu sang thị trường Mỹ, Nhật Bản, châu Âu …

Thực tế tại nhiều địa phương cho thấy, các mô hình sản xuất hữu cơ đang được nhân rộng trên hầu hết sản phẩm nông nghiệp. Nói về mô hình trồng rau, quả hữu cơ của Hợp tác xã Nông nghiệp hữu cơ Tiên Dương, xã Tiên Dương (huyện Đông Anh), Giám đốc Phạm Thị Lý chia sẻ, hợp tác xã đang xây dựng mô hình trồng rau hữu cơ tại xã Tàm Xá với quy mô 2,4ha và 25ha trồng cam Canh, cam Vinh tại xã Xuân Canh. Mục tiêu của hợp tác xã là phát triển khoảng 500ha trồng rau, quả hữu cơ tại huyện Đông Anh.

Cùng với rau, quả thì thủy sản, lợn, gà… chăn nuôi theo phương thức hữu cơ cũng đang được nhân rộng. Theo Thứ trưởng Bộ NN& PTNT Trần Thanh Nam, cả nước hiện có 40 tỉnh, thành phố có mô hình trồng trọt hữu cơ với tổng diện tích khoảng 23.400ha; 12 tỉnh, thành phố chăn nuôi lợn hữu cơ với tổng đàn trên 64.200 con (trong đó, Hà Nội có khoảng 1.000 con); 6 tỉnh chăn nuôi gà hữu cơ với khoảng 273.000 con; Nghệ An, Lâm Đồng chăn nuôi 3.500 con bò theo hướng hữu cơ và 4 tỉnh nuôi trồng thủy sản hữu cơ với tổng diện tích khoảng 134.800ha.

Hiện tại, Việt Nam đã có gần 20 doanh nghiệp xuất khẩu các loại rau quả hữu cơ ra thị trường thế giới, tổng sản lượng hằng năm đạt khoảng 260.000 tấn, giá trị hơn 15 triệu USD. Một số mặt hàng thủy sản hữu cơ cũng đã có mặt ở nhiều quốc gia với mức giá cao hơn khoảng 30% và tổng giá trị ước đạt trên 10 triệu USD/năm.

… Đến nỗ lực phát triển nền nông nghiệp hữu cơ

Phân tích tiềm năng của sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, ông Olivier Catrau - Viện Quốc gia về xuất xứ và chất lượng, Bộ Nông nghiệp Pháp khẳng định: Chi phí sản xuất của 1ha cây trồng hữu cơ, hoặc 1 tấn thịt hữu cơ (lợn, gà, bò) cao hơn từ 1,15 đến 1,3 lần, nhưng lại cho doanh thu cao hơn từ 1,5 đến 1,7 lần so với trồng trọt, chăn nuôi truyền thống.

Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Lâm San, huyện Cẩm Mỹ (tỉnh Đồng Nai) Nguyễn Ngọc Luân nêu thực tế: Sản phẩm nông sản hữu cơ thường bán cao hơn từ 1,5 đến 2 lần so với sản phẩm thường, nên sản xuất hữu cơ gặp khó khăn ngay từ “đầu vào”. Trong khi “đầu ra” cũng có không ít vấn đề bởi chi phí chứng nhận hữu cơ cao, thời gian chứng nhận lại kéo dài, thị trường tiêu thụ còn hạn chế...

Về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam cung cấp thông tin: Bộ NN&PTNT đang lấy ý kiến của các chuyên gia, nhà sản xuất để hoàn thiện đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ. Bộ cũng đang phối hợp với các bộ, ngành liên quan hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn để hướng dẫn nông dân phát triển sản phẩm hữu cơ (từ sản xuất đến tiêu thụ) cũng như cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế, doanh nghiệp, hợp tác xã và người dân tham gia phát triển nông nghiệp hữu cơ….

Cùng với chính sách hỗ trợ của Nhà nước, nhiều địa phương đã chủ động vào cuộc với những cơ chế phù hợp. Cụ thể, theo Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Chu Phú Mỹ, UBND thành phố Hà Nội đã ban hành Kế hoạch số 196/KH-UBND ngày 18-10-2018 về nâng cao năng lực chứng nhận sản phẩm nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2019-2020. Theo đó, bên cạnh những cơ chế hỗ trợ về vốn, kỹ thuật, Hà Nội xây dựng từ 5 đến 10 mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ…

Về phía cộng đồng doanh nghiệp, Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần tập đoàn Quế Lâm Khắc Ngọc Bá cho biết: Năm 2019, tập đoàn đã liên kết với nông dân tỉnh Sơn La triển khai một số mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Ngoài việc đầu tư vốn, kỹ thuật, tập đoàn đã chú trọng tuyên truyền để nông dân hiểu được lợi ích kép từ phương thức sản xuất này. Để phát triển nông nghiệp hữu cơ, doanh nghiệp cần chủ động liên kết, xây dựng các chuỗi và kênh bán hàng ổn định…

Trong quý IV-2019, Bộ NN& PTNT sẽ lấy ý kiến các chuyên gia, nhà sản xuất để hoàn thiện Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam giai đoạn 2020-2030. Đề án có tổng nguồn vốn đầu tư 36.490 tỷ đồng; mục tiêu, đến năm 2025, diện tích cây trồng hữu cơ đạt khoảng 1,5-3% tổng diện tích gieo trồng; chăn nuôi có 5-10% sản phẩm hữu cơ; khoảng 2-3% diện tích nuôi trồng thủy sản đạt tiêu chuẩn hữu cơ (tương đương 60.000ha).

BÀI, ẢNH: ĐỖ MINH

Cacao hữu cơ Việt Nam lần đầu xuất đi Nhật

Nguồn tin: VnExpress

Lô 1.000 sản phẩm bột cacao hữu cơ của Việt Nam đã đến Nhật Bản và sẽ được bán tại 2 tỉnh Okinawa và Hamamatsu.

Đây là lần đầu tiên Việt Nam có mặt hàng cacao hữu cơ xâm nhập chính ngạch vào thị trường này. Sản phẩm được sản xuất tại Bà Rịa - Vũng Tàu, bởi Công ty Thực phẩm Amazon. Ông Hồ Sĩ Bảo, Giám đốc công ty cho biết đã mất 3 năm để cùng nông dân xây dựng vùng trồng cacao đạt chứng nhận hữu cơ USDA (Mỹ) và JAS (Nhật Bản).

Đóng gói lô hàng bột cacao hữu cơ để xuất khẩu đi Nhật. Ảnh: Hồ Sĩ Bảo

Cùng với đó, công ty còn trải qua 6 tháng để hoàn thiện thủ tục, giấy tờ, chứng nhận, bao bì và vượt qua các đợt kiểm tra của đối tác Nhật Bản. Lô hàng vừa rồi được mua bởi Tập doàn Cpoint Nhật Bản thông qua đại diện tại Việt Nam là Công ty Mặt Trời Đỏ Vũng Tàu. Bà Nguyễn Thị Thu, Giám Đốc công ty đại diện cho biết sản phẩm sẽ được bán tại tỉnh Okinawa và Hamamatsu.

Theo kế hoạch, vào tháng 11 tới, lô hàng 1.000 thanh chocolate sẽ tiếp tục được xuất khẩu sang Nhật. Năm 2018, sản phẩm chocolate hữu cơ 92% của ông Hồ Sĩ Bảo đạt giải đồng trong cuộc thi chocolate thế giới tại Italy.

Viễn Thông

Phù Cát (Bình Định): Người trồng mì gặp nhiều khó khăn

Nguồn tin: Báo Bình Định

Huyện Phù Cát (Bình Định) đã thu hoạch gần 2.600 ha mì, năng suất ước đạt hơn 277 tạ/ha, cao hơn 1,6 tạ/ha so với năm ngoái, giá mì bán tại ruộng là 1.000 đồng/kg, chỉ bằng khoảng một nửa so với năm ngoái (1.800 - 2.100 đồng/kg).

Theo kế hoạch thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành Nông nghiệp huyện Phù Cát đến năm 2020, huyện xác định cây mì thuộc nhóm cây nguyên liệu cho công nghiệp chế biến; phấn đấu đến năm 2020 diện tích cây mì đạt 2.500 ha, sản lượng trên 750 nghìn tấn. Vùng chuyên canh được bố trí tại các xã: Cát Trinh, Cát Lâm, Cát Hiệp, Cát Sơn, Cát Hanh, Cát Tường. Việc canh tác cây mì được quan tâm hỗ trợ khá nhiều như: Cung cấp giải pháp canh tác chống thoái hóa đất, áp dụng cơ giới hóa để giảm thất thoát sau thu hoạch. Tuy nhiên với mức độ biến động giá như trên, người trồng mì gặp nhiều khó khăn.

THẾ HÀ

Hà Nội đẩy mạnh tập huấn kỹ thuật sản xuất rau an toàn

Nguồn tin: Hà Nội Mới

Để góp phần nâng cao nhận thức trong nhân dân, thay đổi thói quen canh tác rau truyền thống, hướng đến nền nông nghiệp hiện đại, an toàn, bền vững, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Hà Nội mở nhiều lớp tập huấn kỹ thuật chuyên sâu cho nông dân về sản xuất rau an toàn. Qua đó, hình thành các vùng sản xuất rau an toàn hiệu quả trên địa bàn Hà Nội.

Nhiều vùng rau an toàn của Hà Nội đang phát huy hiệu quả. Ảnh: Quỳnh Dung

Hiện nay, xã Tiến Thắng (huyện Mê Linh) có 49,6ha rau an toàn và 10ha rau theo tiêu chuẩn VietGAP. Tuy nhiên, việc canh tác của người dân chủ yếu vẫn theo tập quán cũ, dựa vào kinh nghiệm là chính. Để thúc đẩy phát triển rau an toàn tại các vùng tập trung đạt hiệu quả cao và tạo những địa chỉ tin cậy về sản phẩm rau an toàn, bảo đảm chất lượng, Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật huyện Mê Linh đã phối hợp với xã Tiến Thắng, Hợp tác xã Thái Lai tiến hành thực hiện mô hình bón khô dầu đậu tương, cải tạo đất trên cây hành ăn lá.

Về vấn đề này, Trạm trưởng Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật huyện Mê Linh Bùi Mạnh Tiến cho biết, thực hiện phương pháp kỹ thuật bón khô dầu đậu tương cải tạo đất trên cây hành lá cho hiệu quả kinh tế rất cao (đạt 6,8 triệu đồng/sào - cao hơn 1,4 triệu đồng/sào so với tập quán canh tác cũ). So với bón phân theo cách truyền thống, việc sử dụng phân bón hữu cơ đã tạo tơi, xốp cho đất trồng; hạn chế sự phát sinh, phát triển các loại vi sinh vật, sâu bệnh; cây sinh trưởng khỏe mạnh hơn nên số lần phun thuốc bảo vệ thực vật giảm 2 lần…

Tại xã Yên Viên (huyện Gia Lâm), Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật huyện đã triển khai mô hình kiểm tra cộng đồng áp dụng PGS trong sản xuất và tiêu thụ rau an toàn với diện tích 22ha, chủ yếu là các loại: Cải canh, cải ngồng, cải ngọt… Theo bà Hoàng Thị Thúy Nga - Trạm trưởng Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật huyện Gia Lâm, sau thời gian thực hiện mô hình kiểm tra cộng đồng áp dụng hệ thống bảo đảm có sự tham gia truy xuất nguồn gốc (PGS) trong sản xuất rau, nông dân có chuyển biến rõ nét trong sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón trên rau; thu hoạch rau bảo đảm thời gian cách ly, truy xuất được rõ ràng nguồn gốc sản phẩm…

Ghi nhận hiệu quả của phương pháp canh tác này, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Hà Nội Nguyễn Mạnh Phương cho biết thêm: Trong 9 tháng năm 2019, Chi cục đã mở 55 lớp IPM trên cây rau (28 lớp đã kết thúc khóa học); 20 mô hình bẫy bả chua ngọt phòng trừ sâu khoang và sâu đục cà chua; 21 mô hình thử nghiệm sử dụng bẫy dính phòng trừ sâu hại trên rau… Bên cạnh đó, Chi cục thường xuyên tuyên truyền cho nông dân quy định về an toàn thực phẩm, quy trình kỹ thuật, kiến thức khoa học, kinh nghiệm canh tác rau an toàn… Nhờ đó, đến nay, tỷ lệ sử dụng thuốc thảo mộc, sinh học đạt khoảng 60% và theo đó, giảm khoảng 30% số lần và số lượng thuốc bảo vệ thực vật hóa học trên cây trồng. Về cơ bản, nông dân đã tuân thủ thời gian cách ly khi thu hái sản phẩm; giảm tỷ lệ mẫu rau phân tích vượt dư lượng thuốc bảo vệ thực vật tối đa cho phép (hằng năm phân tích gần 1.000 mẫu rau, kết quả có 1% mẫu bị vượt mức cho phép).

Thời gian tới, để kiểm soát chất lượng rau an toàn, giúp truy xuất nguồn gốc sản phẩm, tạo niềm tin cho người tiêu dùng, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tiếp tục tăng cường theo dõi, kiểm tra tiến độ, kỹ thuật sản xuất trên các loại cây trồng, trong đó có rau an toàn. Chi cục tiếp tục hỗ trợ một số loại phân bón và thuốc bảo vệ có nguồn gốc thảo mộc vừa tăng hiệu quả kinh tế, vừa giảm độc hại cho môi trường, bảo vệ sức khỏe người dân; đồng thời, chú trọng xây dựng và duy trì các tổ/nhóm thành nếp, góp phần thay đổi cơ bản quy trình từ sản xuất đến tiêu thụ nhằm hướng đến lợi ích đa chiều...

NGỌC QUỲNH

Đắk Nông: Hiệu quả từ việc chăm sóc cà phê theo hướng bền vững ở Đắk R’lấp

Nguồn tin: Báo Đắk Nông

Gia đình ông Trần Long Ẩn ở thôn Quảng An, xã Đạo Nghĩa (tỉnh Đắk Nông) trồng hơn 1,5 ha cà phê. Theo ông Ẩn, mặc dù cà phê mới bắt đầu chín bói, nhưng gia đình tự tin năng suất năm nay đạt cao.

Nhìn cả vườn cà phê xanh mướt, cành tán khỏe mạnh và đều tăm tắp, ông Ẩn phấn khởi bộc bạch: Hơn một năm nay, gia đình tham gia chương trình phát triển bền vững của Dự án VnSAT nên đã thay đổi nhiều về quy trình chăm sóc cây trồng. Những năm trước, khi gia đình làm theo kinh nghiệm thì vườn cà phê phát triển không đều, cho năng suất đạt thấp. Còn năm nay, nhờ áp dụng quy trình bón phân, tưới nước, phòng dịch bệnh khoa học nên năng suất chắc đạt 5 tấn/ha. Nếu so với mọi năm thì năm nay năng suất cao hơn hẳn 1 tấn/ha.

Tham gia chương trình sản xuất cà phê bền vững đã giúp vườn cà phê của ông Trần Long Ẩn ở thôn Quảng An, xã Đạo Nghĩa xanh tốt, năng suất tăng

Cũng áp dụng mô hình sản xuất cà phê bền vững, gia đình ông Nguyễn Văn Sáu ở thôn 11, xã Đắk Wer lại tham gia chương trình sản xuất theo tiêu chuẩn 4C (Chứng nhận Tổ chức thực hiện Bộ nguyên tắc chung cho cộng đồng cà phê).

Nói về hiệu quả khi tham gia chương trình, ông Sáu cho biết “Qua hơn 3 năm áp dụng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn 4C, lợi nhuận gia đình tôi thu được đã cao hơn khi chưa áp dụng (tiêu chuẩn 4C-PV) trung bình từ 16 – 22 triệu đồng/ha. Lợi nhuận cao nhờ vào 3 yếu tố gồm: Việc cộng thưởng giá cà phê thêm từ 300 – 600 đồng/kg so với trước đây; năng suất tăng và chi phí vật tư đầu vào giảm nên lợi nhuận thu về đạt từ 60 – 90 triệu đồng/ha (tăng 5 – 10 triệu/ha so với trước đây-PV)”.

Ông Sáu cho biết thêm, trước thực tế giá cà phê chưa có dấu hiệu phục hồi và nếu cứ sản xuất theo cách truyền thống thì nông dân dễ bị thua lỗ. Còn khi áp dụng quy trình sản xuất bền vững thì người trồng cà phê sẽ cân đối được chi phí, giảm tối đa thiệt hại…

Trong những năm qua, quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn 4C, UTZ Certifield… được áp dụng ở hầu hết các xã trên địa bàn huyện Đắk R’lấp. Khi tham gia các chương trình, dự án này, ngoài việc được hỗ trợ cây giống đạt chất lượng thì nông dân còn được hướng dẫn kỹ thuật trong chăm sóc vườn cây… Qua thời gian áp dụng quy trình chăm sóc cà phê bền vững đã từng bước thay đổi cách thức sản xuất truyền thống của nhiều nông dân trên địa bàn huyện.

Theo ông Phạm Quang Vượng, Trưởng Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Đắk R’lấp, toàn huyện hiện có trên 19.000 ha cà phê. Trong đó, diện tích cà phê kinh doanh đạt gần 17.000 ha với sản lượng khoảng 40.000 tấn. Nhờ đẩy mạnh công tác tuyên truyền cũng như hỗ trợ trực tiếp nông dân, đến nay, địa phương đã có 5.000 ha cà phê được sản xuất theo các tiêu chuẩn quốc tế như: 4C, UTZ Certified… với hàng ngàn hộ tham gia. “Việc áp dụng quy trình sản xuất cà phê theo các tiêu chuẩn quốc tế còn giúp nông dân giảm chi phí sản xuất, sản phẩm dễ tiếp cận thị trường và bán được cà phê với giá cao hơn”, ông Vượng cho biết thêm.

Bài, ảnh: Văn Tâm

Thu tiền tỷ từ trồng cây ăn quả

Nguồn tin: Báo Thái Bình

Những năm qua, có không ít nông dân ở các địa phương trong tỉnh Thái Bình đã mạnh dạn chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả mang lại hiệu quả kinh tế cao. Thậm chí, có những hộ đã thu về hàng tỷ đồng/năm. Các hộ nông dân không chỉ tìm tòi trồng những giống cây đang được người tiêu dùng ưa chuộng mà còn nhạy bén trong việc ứng dụng khoa học công nghệ, góp phần giảm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế.

Trang trại Surfam là một trong những điển hình tích tụ ruộng đất, trồng cây ăn quả cho hiệu quả kinh tế cao. Trên diện tích 5,5ha, trang trại Surfam của gia đình anh Trần Văn Thưởng, xã Hồng An (Hưng Hà) trồng hàng nghìn cây ăn quả theo tiêu chuẩn VietGAP như táo lê, ổi lê, cam Vinh, cam đường canh,… Ngoài trồng cây ăn quả, anh còn nuôi gà thịt, tận dụng nguồn phân ủ mục bón cho cây trồng. Sau khi trừ chi phí, lợi nhuận thu về của trang trại Surfam vào khoảng 1,5 tỷ đồng/năm. Hiện nay, ổi lê đang là cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho gia đình anh Thưởng bởi ổi lê cho thu hoạch quanh năm. Trên diện tích 2,5ha trồng ổi, một năm anh thu hoạch từ 100 - 120 tấn quả. Ngoài ra, dù chỉ cho thu hoạch 1 vụ trong năm nhưng cây cam cũng đang là một trong những cây trồng chủ lực tại trang trại Surfam bởi một gốc cam cho thu hoạch khoảng 1 tạ quả. Ngoài ra, vào mỗi dịp tết đến xuân về, việc bán cam chậu cũng mang lại hiệu quả kinh tế đáng kể. Để cam có chất lượng tốt và lưu quả trên cây được lâu, anh Thưởng chia sẻ: Phải “luyện” cây từ rất sớm, cho cây cam làm quen với môi trường sống trong chậu cảnh có khi tới 1 năm. Ngoài ra, để cây có dáng đẹp, phù hợp với việc trưng bày trong dịp tết, những người thợ của trang trại Surfam cũng đã dày công cắt tỉa, uốn ép,…

Ông Đường Khắc Thủy, Chủ tịch UBND xã Hồng An chia sẻ: Trang trại Surfam của gia đình anh Thưởng nằm trong vùng chuyên màu, cây ăn quả thuộc đất bãi ven sông với diện tích 140ha. Trước đây, toàn bộ diện tích rộng lớn này của 1.000 hộ dân, chủ yếu chỉ trồng ngô, khoai, những cây trồng cho hiệu quả kinh tế rất thấp. Sau chuyển đổi, 36 hộ dân đã mạnh dạn đầu tư trồng cây ăn quả mang hiệu quả cao như bưởi, cam, nhãn, táo, ổi, chuối tây, chuối tiêu,... Với những kết quả đã đạt được, chúng tôi tiếp tục đề nghị các cấp có thẩm quyền cho chuyển đổi toàn bộ diện tích cấy lúa kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả cho hiệu quả kinh tế cao.

Ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất

Để có được thành công như ngày hôm nay ở trang trại Surfam, anh Thưởng chia sẻ đó không chỉ là những tháng ngày mòn mỏi “bán mặt cho đất bán lưng cho trời” mà còn là hiệu quả của cả quyết tâm, mày mò nghiên cứu, áp dụng khoa học kỹ thuật, giúp cho công việc của nhà nông bớt cực nhọc. Để các loại cây trồng đạt năng suất cao, thời gian đầu, anh cùng các cộng sự dày công tìm tòi, qua nhiều địa phương trên cả nước có những mô hình trồng cây ăn quả thành công để học hỏi kinh nghiệm, cách thức sản xuất và nghiên cứu thị trường. Tiếp đến, trên diện tích đất đã quy hoạch, việc thử độ pH ở từng góc đất và cải tạo đất cho phù hợp với sự phát triển của các loại cây, qua đó có thể cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho cây trồng. Hiện các loại cây trồng như táo, ổi lê,… đã phát triển ổn định, cho năng suất, hiệu quả kinh tế cao.

3 năm nay, trang trại Surfam đã ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt - một công nghệ nổi tiếng trong lĩnh vực trồng trọt của Israel, là giải pháp tưới cho những khu vực ít nguồn nước tưới tự nhiên. Mang băn khoăn tại sao giữa vùng có nguồn nước dồi dào mà trang trại Surfam vẫn áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt, tôi được giải thích: tưới nước, bón phân là khâu quan trọng đối với cây trồng nhưng không phải cứ tưới nước nhiều là tốt. Áp dụng công nghệ này giúp điều tiết được lượng nước tưới cho cây trồng. Bên cạnh đó, khi bón phân bằng công nghệ tưới nhỏ giọt rất thuận tiện, cây sẽ được thấm đều, lại tiết kiệm được phân bón cũng như công sức lao động. Anh Thưởng cho biết: Để tưới được một sào vườn, nếu theo cách thông thường thì cần tới một ngày công lao động nhưng khi sử dụng công nghệ tưới nhỏ giọt thì cần chưa tới hai giờ đồng hồ. Như vậy đã tiết kiệm được rất nhiều chi phí thuê nhân công, ngoài ra, cách làm này cũng giúp phân bón thấm đều và có khả năng giữ được độ ẩm đồng đều trong tầng đất canh tác, góp phần nâng cao năng suất cây trồng.

Có thể khẳng định, tích tụ ruộng đất, từng bước sản xuất theo hướng hiện đại, bền vững đang là xu hướng tất yếu của sản xuất nông nghiệp, qua đó góp phần tăng năng suất lao động, hiệu quả sử dụng đất, nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông sản… Như vậy, người nông dân cũng cần mạnh dạn thay đổi tư duy, cách làm cho phù hợp với yêu cầu của thị trường, nâng khả năng cạnh tranh và tăng thu nhập trong sản xuất nông nghiệp.

Anh Tú

Lào Cai: Quýt Mường Khương vào vụ thu hoạch, giá tăng nhẹ

Nguồn tin: Báo Lào Cai

Cuối tháng 10, quýt ngọt Mường Khương (quýt sen) bắt đầu vào chính vụ thu hoạch. Theo tìm hiểu của phóng viên, quýt năm nay được mùa, giá tăng nhẹ so với năm trước.

Tiểu thương từ thành phố Lào Cai đến thu hái quýt tại vườn.

Tính đến hết năm 2018, diện tích quýt tại huyện Mường Khương đạt 488 ha, trong đó 150 ha đến thời kỳ cho thu hoạch. Mường Khương có 3 giống quýt là quýt bột, quýt giấy và chủ yếu là quýt sen (là giống quýt ngọt đặc sản). Năng suất quýt trung bình đạt từ 10-15 tấn/ha. Năm nay, vụ quýt bắt đầu sớm hơn, giá quýt dao động từ 15.000 – 25.000 đồng/kg, cao hơn vụ quýt năm 2018.

Quýt ngọt Mường Khương đã được cấp nhãn hiệu tập thể từ năm 2017. Giống quýt đặc sản này được trồng tập trung tại thị trấn Mường Khương và các xã lân cận. Nguyên nhân giá quýt tăng nhẹ là do các tiểu thương ít nhập khẩu quýt từ thị trường Trung Quốc, nên giảm sự cạnh tranh, sản lượng quýt không đủ phục vụ nhu cầu của thị trường.

THÚY PHƯỢNG

Trồng sầu riêng Monthong thu tiền tỷ

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Năm 2000, vợ chồng bà Nguyễn Thị Thái Hà (tổ dân phố 8, thị trấn Quảng Phú, huyện Cư M'gar, tỉnh Đắk Lắk) trồng 7 ha cà phê và tiêu. Cà phê, hồ tiêu phát triển tốt, cho năng suất cao, mỗi năm gia đình có thu nhập hàng trăm triệu đồng. Nhưng đến năm 2013, sản lượng cà phê giảm, tiêu thì bị bệnh chết nhanh chết chậm, tiền thu từ vườn cây không đủ chi phí cho phân bón, nước tưới và công lao động.

Trong một chuyến tham quan vùng Tây Nam Bộ, bà Hà đã tận mắt chứng kiến một gia đình ở đây chỉ trồng 10 cây sầu riêng giống Monthong mà mỗi vụ thu được 98 triệu đồng nên đã dành thời gian học hỏi kinh nghiệm thực tế và tìm hiểu tư liệu về đặc tính của loại cây này.

Vườn sầu riêng Monthong của gia đình bà Nguyễn Thị Thái Hà.

Năm 2013, bà Hà đặt mua 700 cây sầu riêng giống Monthong về trồng xen vào 7 ha cà phê và tiêu của gia đình. Nhận thấy cây sầu riêng phát triển tốt, phù hợp với thổ nhưỡng địa phương nên năm 2015, vợ chồng bà Hà mua thêm một rẫy cà phê rộng 3,5 ha bị bỏ hoang để tiếp tục trồng 350 cây sầu riêng Monthong, nâng tổng diện tích của gia đình lên 10,5 ha, với 1.050 cây sầu riêng.

Nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật, rút kinh nghiệm trong sản xuất nên mấy năm gần đây, vườn sầu riêng của gia đình bà Hà thường xuyên thu hoạch trên dưới 100 tấn. Riêng năm 2019, gia đình đã thu gần 129 tấn, bán với giá 53.000 đồng/kg, thu về trên 6,8 tỷ đồng. Cây sầu riêng là cây trồng xen, nhưng nay đã trở thành cây trồng chính và là nguồn thu nhập chính của gia đình bà Hà.

Hiệu quả kinh tế từ cây sầu riêng Monthong không chỉ giúp gia đình bà Hà có cuộc sống khá giả mà còn tạo việc ổn định làm cho nhiều lao động địa phương. Bà cũng thường xuyên chia sẻ kinh nghiệm cho bà con nông dân khi họ có nhu cầu trồng loại cây này.

Sầu riêng Monthong của gia đình bà Nguyễn Thị Thái Hà được thương lái đến tận nhà thu mua.

Theo ông Phạm Quang Mười, Trưởng Phòng Nông nghiệp huyện Cư M’gar, hiện nay nhiều nông dân trên địa bàn huyện đang chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng trồng xen cây ăn trái vào diện tích cà phê, tiêu. Sắp tới địa phương sẽ tổ chức cho bà con nông dân tham quan, học tập kinh nghiệm mô hình hiệu quả của bà Nguyễn Thị Thái Hà để nhân rộng và tiến tới hình thành vùng sản xuất tập trung.

Thanh Nga

Bình Định: Sản xuất - tiêu thụ sản phẩm cây ăn quả theo chuỗi

Nguồn tin: Báo Bình Định

Ðây là một trong những giải pháp để phát triển bền vững cây ăn quả tại 3 huyện phía Bắc tỉnh là Hoài Ân, Hoài Nhơn và An Lão (tỉnh Bình Định), trong bối cảnh các địa phương này đang phát triển mạnh diện tích trồng bưởi da xanh, bơ, cam, sầu riêng, quýt.

Chưa phát huy tiềm năng

Cả 3 huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn và An Lão đều xác định cây ăn quả là một trong những loại cây trồng có thế mạnh của địa phương. Năm 2019, tổng diện tích trồng cây ăn quả của 3 huyện ước đạt gần 2.500 ha; trong đó, huyện Hoài Ân có 1.423 ha, huyện Hoài Nhơn có 637,7 ha, huyện An Lão 352 ha.

Cán bộ Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện Hoài Ân trao đổi về cách chăm sóc cây bưởi với nông dân.

Tại huyện Hoài Ân, trong khi diện tích cây ăn quả truyền thống như chuối, đu đủ có xu hướng giảm thì diện tích trồng bưởi da xanh và bơ không ngừng tăng lên. Huyện hiện có 250 ha bưởi da xanh, trong đó khoảng 30 ha đang cho thu hoạch. Ở huyện Hoài Nhơn, bên cạnh diện tích trồng chuối khá lớn, huyện đã phát triển dừa xiêm, bưởi, bơ, cam và xoài. Huyện miền núi An Lão thời gian qua đã phát triển một số loại cây có múi, trong đó trồng nhiều nhất là bưởi da xanh với 79,5 ha, ngoài ra còn có cam, sầu riêng, bơ, quýt.

Mùa mưa ở Bình Định trái với mùa mưa ở các vùng trồng cây ăn quả trọng điểm là miền Đông Nam bộ và miền Bắc. Do đó, thời điểm thu hoạch cây ăn quả ở Bình Định trái vụ tự nhiên với các vùng khác, giúp tránh được sự cạnh tranh trong khâu tiêu thụ.

Theo các chuyên gia của Viện KHKT Nông nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ, điều kiện tự nhiên, đất đai, khí hậu, thị trường tiêu thụ đang là những thế mạnh để phát triển trồng cây ăn quả, nhưng các huyện phía Bắc tỉnh chưa phát huy tốt. Ông Nguyễn Tấn Hưng, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển cây lâu năm, Viện KHKT Nông nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ, cho biết tổng diện tích đất nông nghiệp của 3 huyện trên là hơn 30.000 ha. Mùa mưa ở Bình Định trái với mùa mưa ở các vùng trồng cây ăn quả trọng điểm là miền Đông Nam bộ và miền Bắc. Do đó, thời điểm thu hoạch cây ăn quả ở Bình Định trái vụ tự nhiên với các vùng khác, giúp tránh được sự cạnh tranh trong khâu tiêu thụ. “Nhiều tiềm năng phát triển nhưng diện tích sản xuất cây ăn quả ở 3 huyện còn manh mún nên DN rất khó tiếp cận. Chưa nơi nào hình thành chuỗi sản xuất và tiêu thụ khép kín để thuyết phục khách hàng về sự ổn định của chất lượng và nguồn cung”, ông Hưng trao đổi.

Cần liên kết để phát triển

Bên cạnh niềm vui bưởi Hoài Ân liên tục “cháy hàng”, không ít nông dân tỏ ra lo lắng khi biết các tỉnh lân cận như Phú Yên, Khánh Hòa, Gia Lai... cũng đang đầu tư mở rộng diện tích trồng bưởi da xanh. Nông dân Võ Đông Sơ ở thị trấn Tăng Bạt Hổ (huyện Hoài Ân) chia sẻ băn khoăn: “Liệu rằng trong những năm tới, khi tất cả 250 ha bưởi của Hoài Ân đều cho trái thì bưởi có còn “cháy hàng” nữa hay không?”.

Để giải tỏa nỗi trăn trở này, các chuyên gia cho rằng: Cần phải liên kết tiêu thụ theo chuỗi. Ông Phan Trọng Hổ, Giám đốc Sở NN&PTNT, nói: Các địa phương cần xác định sản phẩm chủ lực của mình, đăng ký bảo hộ độc quyền sản phẩm, áp dụng tiến bộ KHKT, tạo lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm trên thị trường.

“Sẽ rất khó thuyết phục DN tham gia khi quy mô sản xuất vẫn nhỏ lẻ như hiện tại. Theo tôi, bước đầu có thể hình thành tổ hợp tác sản xuất, sau đó đến hợp tác xã ở các địa phương. Tiếp đó, đẩy mạnh quảng bá sản phẩm. Riêng với việc tạo lợi thế cạnh tranh, tôi lấy ví dụ với cây bưởi da xanh đang được các địa phương trồng nhiều, thử tính toán xem nên xây dựng vùng sản xuất bưởi hữu cơ hay vùng sản xuất bưởi an toàn. Làm ngay từ bây giờ để trong 4 - 5 năm nữa, dù trên thị trường có nhiều loại bưởi chẳng hạn thì Hoài Ân có bưởi sạch hoặc bưởi hữu cơ, giúp tăng được khả năng cạnh tranh...”, Giám đốc Phan Trọng Hổ gợi mở.

NGỌC TÚ

Nuôi trùn quế hiệu quả cao, ít chi phí

Nguồn tin: Báo Sóc Trăng

Xuất phát từ niềm đam mê và mong muốn được làm giàu ngay trên chính mảnh đất quê hương, anh Lê Văn Nhớ, ở ấp Thạnh An 1, xã Thạnh Thới Thuận (Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng) đã không ngừng tìm tòi, học hỏi và áp dụng thành công mô hình nuôi trùn quế. Mô hình từng bước mang lại lợi nhuận tương đối cao, giúp gia đình anh có nguồn thu nhập ổn định hơn 10 triệu đồng mỗi tháng.

Là nông dân chịu khó làm ăn nên anh Nhớ đã thực hiện nhiều mô hình khác nhau. Tuy nhiên, các mô hình trước đó thường rủi ro cao nên nguồn thu nhập thấp. Cách đây hơn 4 năm, anh Nhớ đi đến huyện Củ Chi (TP. Hồ Chí Minh) thấy mô hình nuôi trùn quế mang lại hiệu quả cao, anh đã học hỏi rồi áp dụng làm theo. Khi mới thực hiện mô hình, do thiếu vốn nên anh Nhớ chỉ mua 100kg sinh khối về nuôi. Anh Nhớ chia sẻ, chỉ cần bỏ ra vài triệu đồng chi phí làm chuồng và mua sinh khối là được.

Sau thời gian thực tế nuôi, từ từ rút kinh nghiệm và học hỏi, tìm hiểu thêm trên internet, anh Nhớ nhận thấy nuôi trùn quế tương đối dễ, chỉ cần đảm bảo nguồn thức ăn thì trùn phát triển rất nhanh, ít có bệnh nên không rủi ro. Từ đó, mỗi năm anh Nhớ đều tăng diện tích nuôi trùn, từ vài trăm mét vuông nuôi trùn ban đầu, hiện nay anh Nhớ đã mở rộng diện tích gần 1.000m2.

Chị Phạm Thị Bích Thùy (vợ anh Nhớ) đang chăm sóc trùn quế.

“Do ít vốn nên trong 2 năm đầu nuôi, tôi không bán, chỉ nhân rộng dần ra. Khi mô hình đi vào phát triển ổn định, tôi bắt đầu tìm đầu ra. Nuôi trùn quế có hai sản phẩm cơ bản đó là phân trùn và trùn thịt. Phân trùn làm phân hữu cơ rất tốt để bón cho cây trồng, thân thiện với môi trường. Tôi dùng để làm phân bón cho lúa nên giảm chi phí rất nhiều, đất lại được cung cấp một lượng phân hữu cơ tương đối tốt. Ngoài ra, còn dư phân tôi cung cấp cho các hộ trồng rau, cam, còn trùn thịt bán làm thức ăn trong chăn nuôi và bán sinh khối trùn giống cho những ai có nhu cầu nuôi. Con gì nuôi lỗ chứ con trùn nuôi không lo lỗ, nếu một công lúa thì sống không nổi chứ bỏ một công đất ra nuôi trùn quế thì sống khỏe re” - anh Nhớ chân tình tiết lộ.

Kiên trì với niềm đam mê của mình, giờ đây mô hình nuôi trùn quế của gia đình anh Nhớ không chỉ người dân địa phương biết đến mà thông qua mạng xã hội, nhiều khách hàng ở các tỉnh lân cận cũng tìm đặt mua trùn sinh khối, trùn thịt. Với nhiều hữu ích nên sản phẩm từ trùn quế ngày càng được bà con nông dân sử dụng nhiều trong chăn nuôi và trồng trọt. Sản phẩm từ trùn quế của gia đình hiện không đủ cung cấp ra thị trường.

Hiện nay, mỗi tháng trung bình anh Nhớ cung cấp ra thị trường hàng trăm kílôgam trùn thịt, với giá 80.000 đồng/kg. Ngoài ra, anh còn bán sinh khối với giá 20.000/kg và phân trùn bán với giá 2.000 đồng/kg để làm phân bón cho cây trồng. Tổng nguồn thu nhập từ bán trùn thịt, sinh khối và phân của trùn quế, anh Nhớ cũng thu về hơn 10 triệu đồng mỗi tháng.

Khi hỏi về những dự định sắp tới, anh Nhớ cho biết: “Thời gian tới, tôi tiếp tục tăng đàn trâu để có phân đảm bảo nguồn thức ăn cho trùn quế, sử dụng phân trùn làm phân bón cho lúa để giảm chi phí, giảm ô nhiễm môi trường, tạo ra sản phẩm sạch trong nông nghiệp. Cùng với đó, tăng diện tích nuôi trùn quế, hướng dẫn, vận động bà con ở địa phương cùng làm mô hình và thu mua sản phẩm trùn quế, giúp bà con tăng thu nhập”.

Với sự dám nghĩ dám làm để phát triển những mô hình mới đã giúp anh Nhớ thành công với mô hình mình đã chọn. Mô hình nuôi trùn quế không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn góp phần rất lớn trong việc xử lý ô nhiễm môi trường. Đây thực sự là mô hình kinh tế hiệu quả không chỉ tận dụng thời gian nông nhàn mà còn mở ra hướng phát triển an toàn đối với ngành nông nghiệp cần khuyến khích nhân rộng.

K. Thoa

Khánh Hòa: Dịch tả heo châu Phi: diễn biến phức tạp

Nguồn tin: Báo Khánh Hòa

Lây lan nhanh

Theo báo cáo của Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Khánh Hòa, tính từ ngày xuất hiện (11-4-2019) đến 20-10, bệnh dịch tả heo châu Phi (ASF) đã xảy ra tại 485 hộ, 106 thôn, 46 xã của 5 địa phương gồm: Diên Khánh, Cam Lâm, Khánh Vĩnh, Nha Trang và Cam Ranh. Đã có hơn 9.400 con heo với tổng khối lượng hơn 540 tấn buộc phải tiêu hủy.

Cơ quan chức năng tiêu hủy một đàn heo dương tính với ASF tại Cam Lâm.

2 tháng gần đây, ASF có dấu hiệu bùng phát mạnh, lây lan nhanh. Chỉ tính từ ngày 26-8 đến 29-9, ASF đã phát sinh thêm ở 1 địa phương mới (TP. Cam Ranh), 12 xã mới phát sinh thuộc địa bàn các địa phương: Cam Lâm, Cam Ranh, Diên Khánh và Nha Trang.

Trong 3 tuần đầu của tháng 10, tình hình dịch bệnh trở nên phức tạp với tốc độ lây lan nhanh hơn. Tổng số lượng heo và khối lượng heo buộc phải tiêu hủy chiếm tới 54% so với lũy kế kể từ khi xuất hiện. Cụ thể, từ ngày 30-9 đến 20-10, đã có hơn 5.100 con heo với tổng trọng lượng hơn 295 tấn phải tiêu hủy. Đáng chú ý, ở Cam Lâm, ASF đã xuất hiện ở hộ có đàn heo lớn (tổng đàn 971 con), hộ có nhiều kinh nghiệm chăn nuôi (tổng đàn 378 con). Ngoài ra, có 5 xã phát sinh ASF lần 2, 1 xã phát sinh lần 3...

Có nhiều yếu tố tác động tiêu cực khiến cho khả năng lây lan dịch bệnh càng trở nên cao hơn như: Đàn heo của các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ và gia trại chăn nuôi không đủ điều kiện áp dụng an toàn sinh học; tình hình thời tiết đang chuyển sang mùa mưa, ảnh hưởng đến khả năng đề kháng của vật nuôi cũng như thuận lợi cho vi rút gây bệnh tồn tại và phát tán trong môi trường.

Ở góc độ khác, giá bán heo hơi đang tăng cao hơn nhiều so với giá hỗ trợ tiêu hủy, nhu cầu mua bán, vận chuyển heo giữa các địa phương tăng nên công tác kiểm soát dịch bệnh rất khó khăn. Ngoài ra, quy định chỉ được tiêu hủy đối với heo dương tính với ASF, người dân được giữ lại những con heo khỏe mạnh (trong cùng ô chuồng, dãy chuồng với heo mắc bệnh) để nuôi hoặc vận chuyển đi nơi khác cũng khiến cho công tác phòng, chống dịch gặp khó. Chính quyền địa phương, cơ quan chức năng và hộ chăn nuôi trong nhiều trường hợp đã phải tiến hành tiêu hủy nhiều lần trên cùng 1 đàn/chuồng heo. Việc này không chỉ gây mất thời gian, tốn kém nhân lực, kinh phí, mà hoạt động kiểm soát dịch bệnh cũng trở nên khó khăn hơn.

Cơ quan chuyên môn nhận định, thời gian tới, ASF có nguy cơ tiếp tục lây lan, diễn biến phức tạp. Bệnh có khả năng xâm nhiễm vào các cơ sở chăn nuôi tập trung, quy mô và số lượng lớn, gây hậu quả khó lường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển chăn nuôi heo...

Không tổ chức tái đàn

Khuyến cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đối với các địa phương trong việc tăng cường phòng, chống ASF là không tổ chức tái đàn. Để tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành, phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành và địa phương trong việc triển khai hiệu quả các biện pháp phòng, chống ASF, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị các địa phương tiếp tục tập trung chỉ đạo, triển khai quyết liệt, đồng bộ các biện pháp phòng, chống và khống chế ASF theo tinh thần Chỉ thị số 34 ngày 20-5 của Ban Bí thư; Chỉ thị số 667 ngày 4-6 của Thủ tướng Chính phủ và văn bản chỉ đạo của các bộ, ngành, Tỉnh ủy, UBND tỉnh.

Sở đề nghị cấp huyện chỉ đạo các xã tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn người chăn nuôi áp dụng nghiêm ngặt các biện pháp vệ sinh phòng bệnh, thường xuyên sát trùng, tiêu độc và áp dụng chăn nuôi an toàn sinh học; khuyến cáo hộ chăn nuôi sử dụng các chế phẩm vi sinh trong thức ăn để tăng cường sức đề kháng cho đàn heo; không tái đàn nếu cơ sở chăn nuôi không đáp ứng các điều kiện an toàn sinh học. Cùng với đó, tổ chức giám sát chặt việc nhập đàn để nuôi trên địa bàn; chỉ cho phép nhập đàn đối với những cơ sở an toàn dịch bệnh; cơ sở có quy trình và thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn sinh học theo quy định, cơ sở đăng ký tham gia chương trình giám sát dịch bệnh.

Ngoài ra, các địa phương cần công khai minh bạch chính sách hỗ trợ, kịp thời hỗ trợ người chăn nuôi bị thiệt hại do dịch bệnh để người dân yên tâm thực hiện các biện pháp chống dịch.

Hồng Đăng

Hà Nội: Tiêu hủy 1.135 con lợn mắc bệnh Dịch tả lợn châu Phi

Nguồn tin: Hà Nội Mới

Theo Sở NN&PTNT Hà Nội, trong 4 ngày (từ 21 đến 24-10), trên địa bàn thành phố, bệnh Dịch tả lợn châu Phi phát sinh tại 124 hộ, cơ sở chăn nuôi thuộc 16 quận, huyện, thị xã; làm mắc bệnh, tiêu hủy 1.135 con lợn với trọng lượng 75.022kg.

Đến ngày 24-10, bệnh Dịch tả lợn châu Phi đã xảy ra tại 32.375 hộ chăn nuôi (chiếm 40,1% tổng số hộ, cơ sở chăn nuôi) ở 1.311 thôn, tổ dân phố của 449 xã, phường, thị trấn thuộc 24 quận, huyện, thị xã; làm mắc bệnh và tiêu hủy 538.351 con lợn (chiếm 28,7% tổng đàn) với trọng lượng 36.823 tấn.

Đến nay, trên địa bàn thành phố đã có 228 xã, phường, thị trấn (chiếm 51% tổng số xã, phường, thị trấn xảy ra bệnh Dịch tả lợn châu Phi) và 5 quận (Hà Đông, Nam Từ Liêm, Tây Hồ, Hoàng Mai, Bắc Từ Liêm) đã qua 30 ngày không phát sinh lợn mắc bệnh.

Thời gian tới, Sở NN&PTNT tiếp tục phối hợp với các quận, huyện, thị xã tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ bệnh dịch đến từng hộ chăn nuôi; phát hiện và xử lý sớm, triệt để bệnh dịch ngay từ giờ đầu; hướng dẫn các hộ dân thực hiện biện pháp phòng, chống, xử lý bệnh theo quy định; kiểm tra, rà soát, bổ sung đầy đủ vật tư, hóa chất... nhằm phục vụ kịp thời công tác phòng, chống bệnh dịch trên địa bàn thành phố.

NGỌC QUỲNH

Lào Cai: Nghề mới để làm giàu ở vùng cao Si Ma Cai

Nguồn tin: Báo Lào Cai

Dựa trên lợi thế sẵn có về tự nhiên và kinh nghiệm của người dân, nhiều năm qua, chăn nuôi trở thành thế mạnh đặc thù và được huyện Si Ma Cai (tỉnh Lào Cai) chú trọng. Đặc biệt, bên cạnh phát triển đàn đại gia súc như trâu, bò, huyện đang triển khai mô hình nuôi ngựa bạch với kỳ vọng mở ra hướng đi mới hiệu quả, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.

Người dân xã Lử Thẩn chăm sóc ngựa bạch.

Cuối năm 2018 và đầu năm 2019, huyện Si Ma Cai triển khai mô hình nuôi ngựa bạch tại một số xã trên địa bàn. Có 68 nhóm hộ đăng ký tham gia mô hình, tập trung ở các xã: Lử Thẩn, Lùng Sui, Quan Thần Sán, Si Ma Cai, Thào Chư Phìn, Nàn Sín, Bản Mế, Sín Chéng. Các nhóm hộ được hỗ trợ tiền giống từ nguồn vốn Nghị quyết 22 của Tỉnh ủy (50 triệu đồng/con/nhóm hộ). Bên cạnh đó, để mô hình triển khai hiệu quả, huyện tăng cường thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn người dân kỹ thuật chăm sóc ngựa bạch.

Gia đình ông Hoàng Quang Long, ở thôn Lử Thẩn, xã Lử Thẩn trước đây từng nuôi ngựa thường. Năm 2019, gia đình ông cùng một số hộ trong thôn tham gia nuôi ngựa bạch theo chủ trương của huyện và xã. Với kinh nghiệm chăm sóc đại gia súc, lại thêm sự hướng dẫn, hỗ trợ của cán bộ xã nên ngựa bạch của nhóm hộ này phát triển tốt. Ông Long hy vọng đây sẽ là nguồn thu ổn định cho nhóm hộ, từ đó có thể mở rộng quy mô chăn nuôi trong tương lai.

Ông Viên Đình Hiệp, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện cho biết: Người dân Si Ma Cai có truyền thống và kinh nghiệm nuôi ngựa bạch, tuy nhiên số lượng đàn không nhiều và bị gián đoạn trong khoảng thời gian chục năm gần đây. Huyện Si Ma Cai hiện có hơn 500 con ngựa, trong đó có khoảng 100 con ngựa bạch. Hiện đàn ngựa bạch đang sinh trưởng và phát triển tốt.

Giống ngựa bạch được nuôi ở địa phương có đặc tính hiền, dễ chăm sóc, sau khoảng 2 - 3 năm chăm sóc là có thể xuất bán, chất lượng thịt tốt, được sử dụng để lấy thịt và làm nguyên liệu nấu cao. Ngựa bạch có giá trị kinh tế cao hơn 4 - 5 lần so với ngựa thông thường. Đặc biệt, với nhu cầu cao của thị trường như hiện nay (cung không đủ cầu) thì giá trị kinh tế của ngựa bạch được đánh giá rất khả quan. Ngoài ra, cùng với việc mở hướng đi mới cho nông dân, huyện Si Ma Cai cũng hướng đến mở rộng vùng chăn nuôi, phát triển nghề nuôi ngựa bạch và xây dựng thương hiệu cho sản phẩm này.

Là một trong những địa phương triển khai mô hình, xã Si Ma Cai hiện có 10 con ngựa bạch. Đến thời điểm này, việc triển khai xây dựng sản phẩm OCOP ở xã gặp nhiều khó khăn vì chưa tìm được sản phẩm thế mạnh đặc thù. Đây cũng là khó khăn lớn của địa phương trong xây dựng xã nông thôn mới nâng cao. Ông Phạm Văn Chinh, Phó Chủ tịch UBND xã Si Ma Cai cho biết: Bên cạnh việc triển khai trồng 0,5 ha cây tam thất, việc hỗ trợ người dân nuôi ngựa bạch được chính quyền quan tâm, định hướng để xây dựng thành sản phẩm OCOP.

Có thể nói, việc lựa chọn, triển khai mô hình nuôi ngựa bạch ở vùng cao Si Ma Cai được thực hiện dựa trên những thuận lợi, thế mạnh của địa phương và đang mở ra những tín hiệu khả quan. Hy vọng với những cách làm cụ thể, mô hình này sẽ giúp tăng nhanh đàn đại gia súc trên địa bàn huyện, giúp các hộ có nguồn thu ổn định, đồng thời từ sản phẩm này, các địa phương có thêm cơ sở để lựa chọn, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm.

QUỲNH TRANG

Khấm khá nhờ nuôi bò tập trung

Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng

Vài năm trở lại đây, người dân các xã Điện Thọ, Điện Hòa, Điện Quang (thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) đã cải tạo nhiều bãi bồi ven sông thành vùng chăn nuôi bò tập trung với số lượng lên đến hàng ngàn con; qua đó, không chỉ góp phần xóa đói, giảm nghèo hiệu quả mà còn giúp nhiều hộ dân trở nên khá giả.

Nuôi bò tập trung đã mang lại lợi ích kinh tế cao cho nhiều nông dân ở thị xã Điện Bàn

Được mệnh danh là “đại gia bò” với thâm niên gần 30 năm, ông Nguyễn Đức Sơn ở thôn Kỳ Lam, xã Điện Thọ, cho biết từ khoảng 5 năm qua, ông đã tập trung xây dựng chuồng trại, nuôi hàng trăm con bò thịt trên bãi bồi sông Kỳ Long, xã Điện Thọ. Đến nay, bình quân mỗi năm trang trại ông cung cấp ra thị trường gần 100 con bò giống và hơn 200 con bò thịt, mang lại thu nhập hơn 3 tỷ đồng.

“Thuận lợi ở đây là có những bãi đất trống rộng rãi tận dụng để trồng cỏ hoặc rào chắn nuôi bò nên hiệu quả mang lại khá tốt”, ông Sơn nói. Với kinh nghiệm của mình, ông Sơn đã chia sẻ bí quyết nuôi bò khỏe đến nhiều hộ dân trong vùng và các xã lân cận như Điện Quang, Điện Trung, Điện Hòa… khi họ đến học hỏi kinh nghiệm.

Ngoài “đại gia bò” như ông Sơn, hiện nay tại các xã của thị xã Điện Bàn còn có hàng ngàn hộ chăn nuôi bò quy mô tập trung. Chỉ tính riêng xã Điện Quang hiện có khoảng 1.200 hộ dân tổ chức nuôi bò tập trung, ít thì 3 - 5 con, nhiều thì tăng đàn đến 30 con/hộ, số lượng bò thịt toàn xã dao động từ 4.000 - 4.300 con. Theo ông Trần Công Tín, Chủ tịch UBND xã Điện Quang, ý tưởng đưa chuồng trại bò ra bãi chăn nuôi tập trung, ngoài việc tận dụng những bãi bồi ven sông, hoặc vùng canh tác hoa màu kém hiệu quả, còn giúp hạn chế ô nhiễm môi trường do chuồng trại chăn nuôi nằm ngay trong khuôn viên gia đình.

“Trước đây, khi còn nuôi nhốt trong vườn nhà, môi trường các khu dân cư thường bị ô nhiễm, ảnh hưởng đến đời sống người dân. Trước thực trạng này, UBND xã Điện Quang đã quy hoạch các khu chăn nuôi bò tập trung ở ngoài đồng, để vừa thuận tiện việc chăm sóc vừa không còn lo ô nhiễm nguồn nước, lại ít dịch bệnh”, ông Trần Công Tín nhìn nhận.

Bà Hoàng Thị Phương (thôn Xuân Đài, xã Điện Quang) kể rằng, ngày trước gia đình bà cũng như các hộ khác thường nuôi bò ngay sát bên nhà. Do chuồng nuôi gần với không gian sinh hoạt của gia đình nên xảy ra tình trạng ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe các thành viên trong nhà. Giờ đây, khi đưa đàn bò ra khu vực chăn nuôi tập trung, những lo lắng trên đã được khắc phục. Ngoài ra, còn tận dụng nguồn phân bò thải ra hàng ngày để làm phân bón trồng cỏ ngay tại khu chăn nuôi. Nhà bà Phương nuôi 10 con bò, bình quân mỗi năm thu nhập khoảng 50 triệu đồng.

Theo ông Nguyễn Đức Chơi, Trưởng phòng Kinh tế thị xã Điện Bàn, nuôi bò tập trung đã thật sự mang lại lợi ích kinh tế cao cho nhiều nông dân của Điện Bàn. Chỉ riêng thôn Bích Bắc, xã Điện Hòa có gần 50 hộ nuôi bò theo mô hình tập trung với gần 400 con. Còn tại 3 xã vùng Gò Nổi (Điện Phong, Điện Trung, Điện Quang) tính đến đầu tháng 10-2019, tổng đoàn bò ước có khoảng 8.000 con. Trong đó, xã Điện Quang có số lượng nhiều nhất với gần 4.300 con, đa phần là bò lai.

“So với cách đây 1 năm, đàn bò của Điện Quang tăng khoảng 700 con. Trong bối cảnh bệnh dịch tả heo châu Phi gây hại dai dẳng, thị trường tiêu thụ các loại thịt heo hạn chế như hiện nay, thì việc gia tăng đàn bò của người dân nơi đây, kết hợp với việc đầu tư mở rộng diện tích đất trồng cỏ nguyên liệu và phát triển mạnh mô hình chăn nuôi bò lai thâm canh, chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao. Dự báo, nhiều khả năng tổng đàn bò của xã sẽ tăng lên 10.000 con trong thời gian tới”, ông Nguyễn Đức Chơi phấn khởi nói.

NGỌC PHÚC

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop