Tin nông nghiệp ngày 31 tháng 05 năm 2021

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 31 tháng 05 năm 2021

Cơ cấu lại lĩnh vực chế biến nông sản

Nguồn tin:  Báo Đồng Tháp

Thực hiện cơ cấu lại lĩnh vực chế biến nông sản, Đồng Tháp đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp trên các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và thủy lợi; phát triển các sản phẩm giá trị gia tăng, chế biến tinh, chế biến sâu...

Sản phẩm xoài - ngành hàng thế mạnh của tỉnh

Trên tinh thần đó, ngoài thực hiện các giải pháp triển khai các chính sách hỗ trợ tái cơ cấu nông nghiệp, Đồng Tháp còn đẩy mạnh tổ chức lại sản xuất, thu hút đầu tư vào nông nghiệp. Hiện nay, toàn tỉnh có 180 hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) với hơn 28.800 thành viên. Doanh thu bình quân trên 2 tỷ đồng (tăng 565 triệu đồng)/HTXNN, lợi nhuận bình quân là 254 triệu đồng/HTXNN, thu nhập bình quân lao động thường xuyên là 48 triệu đồng/năm. Bên cạnh đó, toàn tỉnh có 934 tổ hợp tác, 106 trang trại và 110 Hội quán được thành lập, hoạt động ổn định, hiệu quả với tổng số gần 6.000 thành viên tham gia. Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thời gian qua, có 25 hợp tác xã được thành lập từ mô hình Hội quán. Thành công của mô hình này sẽ dẫn dắt kinh tế hợp tác của tỉnh phát triển bền vững, góp phần chuyển biến nhận thức của người dân; phát huy tinh thần đoàn kết và hợp tác để cùng phát triển.

Giải pháp phát triển chế biến nông sản theo chuỗi ngành hàng và định hướng thị trường đóng góp quan trọng trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Thời gian qua, công nghiệp chế biến tiếp tục phát huy vai trò then chốt trong gắn kết sản xuất và tiêu thụ, gia tăng giá trị chuỗi ngành hàng nông sản và thu hút lao động. So với năm 2017, chế biến thủy sản năm 2020 tăng 42,4%, thu hút 21.000 lao động; chế biến thức ăn gia súc tăng 28,3%, thu hút 4.000 lao động và chế biến lương thực tăng 12,6%. Việc chế biến nông sản theo chuỗi ngành hàng giúp tăng tính cạnh tranh của sản phẩm, nâng dần tỷ lệ tinh chế. Qua đó, nhiều sản phẩm mới được nghiên cứu phát triển đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường.

Bên cạnh đó, công tác xúc tiến thương mại và phát triển thị trường nông sản trong và ngoài nước của tỉnh có nhiều khởi sắc. Hệ thống phân phối hàng hóa ngày càng mở rộng và đa dạng phục vụ tốt nhu cầu của người tiêu dùng. Hiện nay có hơn 100 sản phẩm của hơn 40 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, hợp tác xã có mặt tại các siêu thị: Co.opmart, Big C, Satra, Tứ Sơn, Vinmart, Lotte, Aeon... Thời gian qua, hoạt động xuất khẩu tăng trưởng tốt, từng bước nâng cao chuỗi giá trị ngành hàng thủy sản chế biến, lúa gạo theo hướng toàn cầu hóa. Nhiều sản phẩm trái cây (nhãn, xoài,...) đáp ứng được các tiêu chuẩn của nhiều thị trường nhập khẩu, mở ra thêm cơ hội hội nhập quốc tế của nông dân Đồng Tháp.

Đối với giải pháp nghiên cứu khoa học và khuyến nông, từ năm 2016 đến nay, tỉnh triển khai thực hiện 121 nhiệm vụ (đề tài, dự án). Trong đó, có 50 nhiệm vụ góp phần thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nghiệm thu và chuyển giao ứng dụng 31 nhiệm vụ khoa học công nghệ. Hướng đến sự phát triển bền vững, nhiều tổ chức, cá nhân mạnh dạn thay đổi và áp dụng công nghệ cao vào sản xuất nâng cao hiệu quả và chất lượng sản phẩm như ứng dụng cơ giới hóa; sử dụng hệ thông tin địa lý (GIS) để dự báo tình hình sâu bệnh; ứng dụng WebGis trong quản lý và giám sát hệ thống đê điều; ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất.

Theo Sở NN&PTNT, công tác đảm bảo điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm và truy suất nguồn gốc trên cây ăn trái được ngành chuyên môn quan tâm nhân rộng. Đến nay, có 95 mã số vùng trồng và 12 mã số cơ sở đóng gói quả tươi xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, 32 mã số vùng trồng xuất khẩu sang nước phát triển tổng diện tích 5.440ha (chiếm 16,14% diện tích trồng cây ăn trái). Ngoài ra có 960ha cây ăn trái đạt chứng nhận VietGAP, 13ha được chứng nhận GlobalGAP, 19ha đạt chứng nhận LocalGAP và 3ha đạt chứng nhận sản xuất đủ điều kiện an toàn thực phẩm. Thời gian qua, có 472ha được cấp giấy chứng nhận cơ sở nuôi cá tra thương phẩm đủ điều kiện an toàn thực phẩm và 853ha được cấp chứng nhận tiêu chuẩn an toàn thực phẩm (ASC, BAP, GlobalGAP, VietGAP).

Y DU

Thủ tướng chỉ đạo tháo gỡ khó khăn tiêu thụ nông sản cho Bắc Giang

Nguồn tin:  Báo Chính Phủ

Trước diễn biến phức tạp của dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Công Thương thực hiện ngay một số nhiệm vụ để kịp thời tháo gỡ khó khăn trong việc tiêu thụ nông sản, đặc biệt là mặt hàng quả vải cho tỉnh Bắc Giang.

Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Công Thương tập trung chỉ đạo, tổ chức hướng dẫn, kịp thời hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho tỉnh Bắc Giang trong việc lưu thông, tiêu thụ nông sản.

Đồng thời, khảo sát thực tế và trực tiếp làm việc với tỉnh Bắc Giang để hỗ trợ xây dựng kế hoạch thu mua, tiêu thụ quả vải; bảo đảm tạo điều kiện thuận lợi nhất, ưu tiên tối đa cho hoạt động thu mua, phân phối, tiêu thụ mặt hàng quả vải; đẩy mạnh triển khai các hoạt động kết nối, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu; phối hợp chặt chẽ với các bộ, cơ quan, địa phương liên quan kịp thời tháo gỡ khó khăn vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi để xe chở quả vải và nông sản của tỉnh Bắc Giang lưu thông ra vào các tỉnh, thành phố; đồng thời bảo đảm yêu cầu công tác phòng chống dịch bệnh theo quy định.

Theo báo cáo của UBND tỉnh Bắc Giang, niên vụ vải năm 2021, toàn tỉnh Bắc Giang có 28.100 ha trồng vải thiều, sản lượng ước đạt 180.000 tấn, tăng 15.000 tấn so với năm trước và bắt đầu thu hoạch chính vụ từ ngày 10/6 - 20/7.

Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang cho biết vải thiều Bắc Giang có chất lượng vượt trội, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, được trồng và chăm sóc ở “vùng vải an toàn dịch bệnh”, không bị tác động COVID-19 nên thị trường trong và ngoài nước có thể yên tâm tin dùng.

Tuy nhiên, dù được trồng trong vùng vải an toàn dịch bệnh, song việc lưu thông tiêu thụ vải thiều còn gặp khó khăn. Do đó, Bắc Giang mong muốn các tỉnh, thành phố tạo điều kiện cho nông sản Bắc Giang nói chung và vải thiều nói riêng được lưu thông tiêu thụ khi đảm bảo các điều kiện về an toàn dịch bệnh.

Một trong những bạn hàng truyền thống của vải thiều Bắc Giang là những đội thương lái từ Trung Quốc. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình dịch bệnh phức tạp như hiện nay, các thương nhân Trung Quốc không thể nhập cảnh vào vùng vải để thu mua.

Trước tình hình trên, Bộ Công Thương cam kết sẽ làm hết sức trong chức năng nhiệm vụ của mình để giúp kết nối cung ứng hàng hóa thiết yếu cho Bắc Giang trong mọi hoàn cảnh.

Được biết, tỉnh Bắc Giang cũng đã quyết định thành lập 2 tổ hỗ trợ xuất khẩu vải thiều tại cửa khẩu tỉnh Lào Cai và Lạng Sơn. Các tổ này có nhiệm vụ nắm bắt và xử lý tại chỗ những vấn đề khó khăn, vướng mắc nảy sinh trong quá trình vận chuyển, lưu thông và xuất khẩu vải qua các cửa khẩu.

Vũ Phương Nhi

Đắk Nông: Xoài Đắk Gằn rớt giá kỷ lục

Nguồn tin: Báo Đắk Nông

Vùng xoài Đắk Gằn (Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông) đang bước vào mùa thu hoạch. Xoài năm nay được mùa, nhưng người trồng xoài rất thất vọng vì giá giảm kỷ lục.

Thua lỗ nặng nhưng rẻ mấy cũng phải bán

Gia đình ông Trần Văn Khuông, ở thôn Tân Lập, xã Đắk Gằn, có hơn 14 ha xoài đang cho thu hoạch chính vụ. Gia đình ông trồng các giống xoài Đài Loan, Úc, 3 mùa...

Vụ xoài được mùa nhưng giá rớt thê thảm

Đến nay, gia đình ông đã thu hoạch được khoảng 40 tấn xoài các loại, sản lượng cao hơn rất nhiều so với năm trước. Thế nhưng, ông không khỏi thất vọng vì giá xoài hiện chỉ bán được từ 3.000 – 5.000 đồng/kg.

Theo ông Khuông, xoài được tiêu thụ chủ yếu bằng hình thức xuất khẩu. Thời điểm thu hoạch xoài năm nay rơi vào giai đoạn dịch Covid-19 bùng phát trở lại, ảnh hưởng đến việc xuất khẩu nên giá xoài thấp kỷ lục.

Hiện nay, giá xoài Thái Lan cao nhất chỉ có 9.000 đồng/kg, nhưng chủ yếu bán ở thị trường trong nước. Đối với xoài 3 mùa giá càng thảm hại hơn, với chỉ 1.000 đồng/kg.

Tương tự, gia đình ông Nguyễn Văn Lanh, ở thôn Tân Lợi, xã Đắk Gằn, có gần 1 ha xoài đang cho thu hoạch, trong đó xoài Đài Loan, Úc chiếm số lượng lớn. Xoài năm nay được mùa, quả đều và đẹp, chất lượng được bảo đảm.

Ông Lanh đã thu hoạch gần 10 tấn xoài và chỉ bán được với giá từ 3.000 - 5.000 đồng/kg. "Giá thấp, nên tôi neo quả trên cây. Nhưng càng neo, tỉ lệ quả xì mủ, nổ đầu, chín càng nhiều, nên dù rẻ mấy cũng đành phải bán", ông Lanh cho biết.

Người trồng xoài buồn rầu vì vụ xoài thất bát

Nhiều bà con cho biết, chi phí đầu tư cho xoài khá cao. Cụ thể, mỗi vụ 1 ha xoài chi khoảng từ 50 - 70 triệu đồng chi phí sản xuất. Các năm trước, giá xoài có thời điểm chạm mốc 40.000 đồng/kg, còn lại đạt từ 20.000-30.000 đồng/kg.

Năm nay, với giá xoài hiện tại, nguồn thu nhập của người trồng xoài không đủ chi phí đầu tư, thậm chí phải chịu lỗ rất nặng.

Ông Lê Văn Điệp, Bí thư Đảng ủy xã Đắk Gằn cho biết, toàn xã hiện có khoảng 1.000 ha xoài các loại. Trong đó, có khoảng 700 ha xoài đang cho thu hoạch, năng suất bình quân đạt 15 - 20 tấn/ha/vụ.

Mỗi năm, người dân sản xuất xoài theo 2 vụ. Cây xoài phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của vùng đất Đắk Gằn và được xem là cây trồng chủ lực tại địa phương.

Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của dịch Covid-19 đã khiến việc tiêu thụ xoài gặp rất nhiều khó khăn, giá biến động theo hướng bất lợi cho nông dân. Hiện nay, chính quyền địa phương đang tìm hướng mở rộng thị trường tiêu thụ xoài ở trong nước để giảm bớt ảnh hưởng của việc mất giá.

Dù xoài rớt giá, nhưng người dân vẫn kiên trì chăm sóc vườn cây đề chờ vụ sau giá sẽ cao hơn

Cần giải pháp "đầu ra" bền vững

Năm 2020, ở Đắk Gằn có 196 hộ nông dân trồng xoài đã được chứng nhận theo tiêu chuẩn VietGAP, với tổng diện tích 283,5 ha. Trên địa bàn xã đã thành lập Hội xoài VietGAP Đắk Gằn, Hợp tác xã Nông nghiệp - Thương mại - Dịch vụ xoài Đắk Gằn...

Thời gian qua, các cấp, các ngành và địa phương có những hoạt động hỗ trợ nông dân Đắk Gằn phát triển cây xoài. Thế nhưng, theo chính quyền địa phương, sản xuất xoài trên địa bàn còn ẩn chứa nhiều yếu tố thiếu ổn định, người trồng xoài vẫn gặp khó khăn ở khâu tiêu thụ.

Theo ông Hoàng Văn Lâm, Chủ tịch Hội Nông dân xã Đắk Gằn, Chủ tịch Hội xoài VietGAP Đắk Gằn, nông dân đã có ý thức sản xuất xoài theo tiêu chuẩn sạch. Thế nhưng, hiện nay thương lái đến thu mua họ không quan tâm đến chất lượng, xoài đạt VietGAP hay không cũng vậy. Thậm chí, giữa xoài VietGAP với xoài sản xuất thông thường hầu như không có sự chênh lệch về giá bán.

Chẳng hạn như vụ xoài này, việc tiêu thụ được hay không, giá cao hay thấp đều phụ thuộc vào... thương lái. Thậm chí, hiện nay thương lái chỉ chọn những quả xoài đẹp nhất để mua, nhưng cũng chỉ có giá từ 3.000 - 5.000 đồng/kg.

Xoài xuống giá quá thấp, nhiều nông dân để quả rụng đầy gốc. "Chúng tôi đã nhiều lần có ý kiến đề nghị các cấp hỗ trợ người trồng xoài bằng cách liên kết với doanh nghiệp thu mua, chế biến xoài để phát triển đầu ra bền vững, nhưng đến nay vẫn chưa có phản hồi gì", ông Lâm cho biết.

Còn theo ông Lê Văn Điệp, Bí thư Đảng ủy xã Đắk Gằn, nhiều năm nay cây xoài là nguồn thu nhập chính của nông dân trên địa bàn. Thế nhưng, 2 năm nay, xoài không tiêu thụ được và rớt giá, nông dân đã phải bù lỗ khá nhiều.

"Từ thực tế này, cả nông dân và các cấp, các ngành cần vào cuộc mạnh mẽ, sâu sát hơn để không để lãng phí những lợi thế của địa phương", ông Điệp chia sẻ.

Bài, ảnh: Thanh Nga - Đức Hùng

Những vườn nho trĩu quả trên Đất Sen hồng

Nguồn tin: Báo Đồng Tháp

Không phải là vùng đất thế mạnh để phát triển cây nho nhưng đến với Đồng Tháp hôm nay, du khách không khó bắt gặp những vườn nho trĩu quả như tại thủ phủ nho Ninh Thuận. Đây là thành quả của những nông dân dám suy nghĩ và hành động để biến những ruộng lúa kém hiệu quả trở thành những vườn nho trĩu quả ngọt lành.

Vườn nho của ông Dương Phước Hùng đang chín rộ, thu hút du khách đến tham quan

Dám nghĩ dám làm

Vào những năm trước, ít nông dân dám bỏ hàng trăm triệu đồng để đầu tư trồng nho. Bởi số tiền đầu tư không hề nhỏ trong khi việc trồng nho trên vùng đất đồng bằng chưa chắc mang lại hiệu quả kinh tế như mong đợi. Tuy nhiên, ông Nguyễn Thanh Tuấn ở ấp Long Bình, xã Long Khánh B, huyện Hồng Ngự mạnh dạn bỏ vốn để đầu tư trồng 1,3ha nho. Chính nhờ sự táo bạo trong việc lựa chọn cây nho để canh tác đã mang lại thu nhập ổn định cho ông Tuấn với khoảng vài trăm triệu đồng mỗi năm.

Theo ông Tuấn, hiện vườn nho của ông có 1.400 gốc giống NH01-152 (còn gọi là nho 3 màu). Đến nay, vườn nho của ông Tuấn được hơn 1 năm, bình quân cho thu hoạch từ 2-2,5 tấn/1.000m2 (2 vụ/năm). Đặc biệt, việc kết hợp khai thác du lịch sinh thái cho du khách tham quan giúp tăng thêm thu nhập từ nho gấp 2,3 lần so với trồng lúa.

Với sự thành công từ mô hình, không ít người dân trong tỉnh đến tận vườn nho của ông Tuấn tham quan, ngắm cảnh, thưởng thức nho ngay tại vườn và học tập cách trồng giống nho độc đáo này.

“Kết duyên” với cây nho

Cách đây hơn 1 năm, khi việc chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang trồng cây ăn trái nở rộ nên ông Dương Phước Hùng (ấp 3, xã Mỹ Ngãi, TP.Cao Lãnh) bắt đầu hình thành ý tưởng trồng cây ăn trái kết hợp làm du lịch. Trong lúc đang loay hoay tìm cây trồng thích hợp, tình cờ trong một lần đi du lịch tại Ninh Thuận thấy những vườn nho trĩu quả, đẹp mắt, ông Hùng rất thích và quyết định “kết duyên” với cây trồng này. Ông đã quyết định cải tạo 6.000m2 đất (chia làm 2 khu) và mua cây nho về trồng thử. “Qua tham khảo, loại nho ở Ninh Thuận cũng dễ trồng, lại được nhiều người sử dụng. Đặc biệt, khi trái chín đỏ đan xen với màu xanh của lá nhìn rất đẹp và ấn tượng, khi chụp ảnh, quay phim nhìn càng đẹp hơn” - ông Hùng giải thích về lý do lựa chọn cây nho để trồng.

Đến nay, sau hơn 1 năm trồng, chăm sóc, cây nho sinh trưởng nhanh. Hiện vườn nho 2.000m2 của ông (gồm 4 loại giống 152 - nho móng tay đỏ, giống 126 - nho kẹo, nho hạ đen, nho 3 màu) bắt đầu cho trái. Định hướng sản xuất kết hợp du lịch nên ông Hùng mở cửa đón khách du lịch đến tham quan, chụp ảnh. Hiện tại, du khách được tham quan vườn nho miễn phí, khách có nhu cầu mua nho thì ông hái bán theo giá thị trường. “Do năm đầu mở cửa, cơ sở vật chất phục vụ chưa đầy đủ nên gia đình quyết định chưa thu tiền vé. Khi cơ sở vật chất hoàn chỉnh, phục vụ du khách được chu đáo, điểm du lịch sẽ thu tiền vé và không để du khách thất vọng”, ông Hùng nói.

Do “tiếng lành đồn xa” vườn nho của ông Hùng ngày càng được nhiều du khách trên địa bàn tỉnh tìm đến tham quan. Ngoài vườn nho 2.000m2, ông Hùng còn một vườn nho 4.000m2 đang bắt đầu cho trái, hứa hẹn sẽ không làm du khách thất vọng. Bên cạnh đó, trên diện tích 24.000m2 cùng thửa cũng được ông trồng thêm một số loại cây khác như dâu tằm, lựu, bưởi; đào ao thả cá cho điểm du lịch thêm nhiều dịch vụ phong phú, đa dạng nhằm thu hút khách du lịch đến tham quan, góp phần nâng cao thu nhập.

Nho lên chậu hút khách

Với mong muốn làm giàu trên mảnh đất quê hương, anh Lê Hồng Xuân ở xã Tân Thuận Đông, TP.Cao Lãnh mạnh dạn chặt bỏ 1.000m2 xoài, mãng cầu để trồng 200 gốc nho đỏ xứ Ninh Thuận. Qua thời gian đầu khó khăn, đến nay, vườn nho của anh Xuân bén rễ và phát triển rất tốt.

Chia sẻ về ý định táo bạo này, anh Xuân cho biết: “Nói thật, lúc đầu bỏ xoài, mãng cầu qua canh tác nho tôi cũng rất lo lắng, sợ cây trồng này không thể phát triển được trên quê hương. Nếu thất bại sẽ là thiệt hại rất lớn, vì vốn đầu tư cho cây trồng này khá cao, khoảng 55 - 60 triệu đồng/công. Tuy nhiên, nhờ sự động viên của gia đình và sự hỗ trợ từ sách báo, tôi mạnh dạn thực hiện và kết quả mang lại khá tốt. Hiện vườn nho 1 năm tuổi của tôi phát triển rất tốt. Tôi dự định sẽ để trái và đầu tư cơ sở để làm du lịch”.

Mặc dù mới thử nghiệm trồng nho hơn 1 năm nhưng nhờ sự chịu khó, ham học hỏi, anh Xuân đã thử nghiệm thành công “nho lên chậu” để phục vụ cho khách hàng. Dịp Tết Nguyên đán năm 2021, gần 50 chậu nho Tết trĩu quả của anh Xuân được trưng bày tại Chợ Hoa xuân Cao Lãnh thu hút rất đông lượng khách đến tham quan chụp ảnh. Định hướng trong thời gian tới, anh Xuân sẽ mở rộng việc đưa nho và cây trồng khác lên chậu nhằm thỏa chí đam mê, góp phần tăng giá trị cây trồng tỉnh nhà.

Có thể thấy, việc người dân Đồng Tháp mạnh dạn chuyển sang trồng cây nho vừa để phát triển kinh tế vừa tạo những nét độc đáo hơn cho du lịch vùng Đất Sen hồng...

MN

Vải u hồng bén đất Thăng Hưng

Nguồn tin: Báo Gia Lai

Sau 3 năm chăm bón, vườn vải u hồng của ông Mai Văn Quang (thôn 1, xã Thăng Hưng, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai) đã cho thu bói. Nhờ được mùa và giá cao, chỉ riêng vụ này, gia đình ông đã thu hồi đủ vốn đầu tư.

Vườn vải u hồng của gia đình ông Mai Văn Quang cho bói ước đạt 4-5 tấn. Ảnh: Lê Hòa

Trước đây, gia đình ông Quang trồng 5 ha cà phê. Năm 2018, vườn cà phê đã già cỗi, năng suất thấp, trong khi giá cà phê giảm nên hiệu quả kinh tế không cao. Sau đó, ông chuyển đổi sang trồng cây ăn quả. “Tôi không trồng đại trà một loại cây mà đa canh. Ngoài mít và sầu riêng, tôi còn trồng 200 cây vải u hồng trên diện tích 6 sào”-ông Quang cho biết.

Thay vì chọn giống vải nổi tiếng ở các tỉnh phía Bắc thì ông Quang lại sang Đak Lak học hỏi kinh nghiệm trồng vải u hồng. Ông tin rằng với sự tương đồng về khí hậu, thổ nhưỡng, giống vải này sẽ phù hợp với vùng đất Chư Prông.

“Tôi qua huyện Krông Nô (tỉnh Đak Lak) để học hỏi kinh nghiệm lựa chọn giống, cách chăm sóc, cách ép cây ra quả. Sau khi vững vàng kiến thức, tôi đặt họ cây giống để đưa về trồng. Xác định hướng canh tác lâu dài nên tôi chuẩn bị đất, bón lót phân hữu cơ kỹ lưỡng”-ông Quang cho hay.

Theo ông Quang, chăm sóc cây vải u hồng đòi hỏi kỹ thuật phức tạp và tốn nhiều công hơn cà phê. Mùa nắng, trung bình 15-20 ngày phải tưới nước 1 lần. Để vải trổ bông, cho quả đều, nhà vườn phải áp dụng kỹ thuật kích hoa bằng cách siết cành. Thời gian thích hợp bắt đầu ép cây, kích hoa là khoảng cuối tháng 10.

“Việc cắt siết cành có tác dụng tạo ức chế đến quá trình sinh trưởng của cây, khống chế không cho cây ra lá mới và dành sức để tạo hoa. Tuy nhiên, vết siết cành không nên quá sâu vì sẽ vô tình cắt đứt mạch vận chuyển dinh dưỡng, gây chết cành; còn vết cắt quá nông sẽ không tạo đủ sức ép, cành không ra hoặc ra ít hoa”-ông Quang chia sẻ kinh nghiệm.

Vụ thu bói này, ông Quang thu hoạch tầm 20-25 kg quả/cây, ước tính sản lượng vườn đạt 4-5 tấn, giá bán lẻ tại vườn là 40 ngàn đồng/kg. Hiện vườn vải u hồng của gia đình ông Quang đang thu hút khá đông người dân đến tham quan, trải nghiệm. Ước tính từ đầu vụ thu hoạch đến nay, gia đình ông Quang đã bán được trên 1 tấn vải. Đặc biệt, trái vải u hồng vườn nhà ông Quang rất to, mọng nước, khoảng 30 quả/kg, hạt vừa phải, cơm dày.

“Vụ vải năm nay, gia đình tôi ước tính thu về khoảng 150-160 triệu đồng. Với khoản thu này, gia đình đã lấy lại đủ chi phí đầu tư, nhân công chăm sóc cả 3 năm nay. So với bơ, mít thì lợi nhuận đem lại từ cây vải cao hơn nhiều. Vừa qua, tôi tự nhân giống, chiết cành trồng thêm 200 cây”-ông Quang cho biết thêm.

Vụ thu hoạch bói, ông Quang ước tính mỗi cây vải cho 20-25 kg quả. Ảnh: Lê Hòa

Là khách hàng nhiều lần ghé mua vải u hồng tại vườn nhà ông Quang, anh Nguyễn Minh Trung (thôn 4, xã Thăng Hưng) chia sẻ: “Tôi mua vải từ vườn ông Quang nhiều rồi. Vải rất thơm, ngọt, không bị sâu cuống. Khách còn được ra vườn tự hái những chùm vải ưng ý nên cảm giác rất thú vị”.

Ông Trần Việt Đức-Chủ tịch Hội Nông dân xã Thăng Hưng-cho hay: Những năm qua, nhiều hộ dân trong xã đã mạnh dạn chuyển đổi, đưa vào canh tác một số loại cây trồng mới, bước đầu góp phần đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp và được nhiều người tiêu dùng lựa chọn. Vườn vải u hồng của gia đình ông Quang là một điển hình.

Chúng tôi khá bất ngờ khi vườn vải đạt năng suất cao, chất lượng tốt. Điều đó cho thấy cây vải u hồng phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu của địa phương. Giá bán hiện tại dù cao hơn vải thiều được nhập từ các vùng khác về, nhưng nhiều người tiêu dùng vẫn chọn mua bởi sự tươi ngon. Hội Nông dân và các ban, ngành địa phương đang có định hướng hỗ trợ gia đình xây dựng và phát triển mô hình vải u hồng trở thành sản phẩm OCOP của xã, mở ra hướng đi mới cho người dân địa phương”-ông Đức nói.

LÊ HÒA

20 tấn vải thiều Bắc Giang ở Nhật Bản tiêu thụ gần hết trong ngày đầu

Nguồn tin: Báo Bắc Giang

Nhờ chất lượng vượt trội cùng sự hỗ trợ của cơ quan chức năng của Việt Nam tại Nhật Bản, vải thiều sớm Bắc Giang đã tiêu thụ gần hết ngay ngày đầu cập bến sang Nhật Bản.

Vải thiều Bắc Giang tại một siêu thị tại Nhật Bản. Ảnh CTV cung cấp.

Cụ thể, Sở Công Thương Bắc Giang cho biết, Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản thông tin, 20 tấn vải thiều sớm của Bắc Giang ngay trong ngày đầu (27/5) cập bến sang thị trường Nhật Bản đã được tiêu thụ gần hết.

Giá bán dao động từ 350-500 nghìn đồng/kg. Ngoài chất lượng, mẫu mã vượt trội được người dân bản xứ ưa chuộng còn có một phần do Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản phối hợp với doanh nghiệp (DN) tại nước này tạo kênh bán vải Bắc Giang online. Nhờ vậy, vải thiều Bắc Giang được đông đảo người dân Nhật Bản biết tới.

Kênh bán hàng online vải thiều Bắc Giang tại Nhật Bản. Ảnh CTV cung cấp.

Trước những phản ứng, đánh giá tích cực từ người tiêu dùng Nhật Bản, thời gian tới, Bắc Giang xuất khẩu khoảng một nghìn tấn sang quốc gia này.

Người dân xã Phúc Hòa (Tân Yên)-nơi được cấp mã số vùng trồng vải thiều xuất khẩu sang Nhật Bản thu hoạch sản phẩm. Ảnh: Trịnh Lan.

Được biết, Nhật Bản là một trong những thị trường cao cấp, khó tính. Khi vải thiều tiêu thụ được vào quốc gia này càng khẳng định uy tín của sản phẩm, như một giấy “thông hành” có thể tiếp cận các thị trường khác.

Trước đó, để đáp ứng yêu cầu các chỉ tiêu nông sản xuất khẩu vào Nhật Bản, người trồng vải được cấp mã số vùng trồng đã chăm sóc đúng quy trình, đặc biệt không dùng thuốc trừ cỏ, chú trọng sử dụng thảo dược gồm: Tỏi, ớt, rượu, gừng… chăm sóc cây trồng.

Trịnh Lan

Gia Lai: Nhiều nông dân thiệt hại do gieo trồng quá sớm vụ mùa

Nguồn tin: Báo Gia Lai

Mặc dù các cơ quan chuyên môn đã khuyến cáo, song khi mới xuất hiện vài cơn mưa, nhiều hộ dân ở Gia Lai vội vàng xuống giống mì vụ mùa 2021. Vừa qua, nắng nóng kéo dài đã làm cho nhiều diện tích mì không mọc nổi hoặc phát triển chậm gây thiệt hại về nguồn giống của người dân.

Những ngày qua, sau khi có mưa lớn, nhiều nông dân xã Kon Thụp (huyện Mang Yang) bắt đầu dặm lại những diện tích mì trồng mới vào cuối tháng 4 vừa qua. Ông Lưng (làng Dơ Nâu) cho biết: “Cuối tháng 4 vừa qua, trên địa bàn xã xuất hiện 1-2 cơn mưa nên tôi xuống giống hơn 1 ha mì. Sau khi trồng, nắng nóng kéo dài khiến cây mì mọc thưa thớt, thậm chí một số bị chết. Gần đây, mưa lớn xuất hiện và kéo dài được mấy ngày, đất đủ độ ẩm nên tôi trồng dặm những chỗ cây bị chết. Cũng may mình còn trữ được một ít hom giống nên không phải tốn tiền mua”.

Bà Nguyễn Thị Lộc (làng Groi, xã Kon Thụp, huyện Mang Yang) cùng con trai đang chặt hom mì chuẩn bị xuống giống. Ảnh: Nguyễn Diệp

Còn bà Nguyễn Thị Lộc (làng Groi, xã Kon Thụp) thì cho hay: Cuối tháng trước, nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thấy mưa xuống đã trồng mì. Sau đó, nắng nóng kéo dài nên một số diện tích mọc thưa thớt khiến bà con phải trồng dặm. Riêng tôi do phải thuê 1 ha đất với giá 4 triệu đồng, mua hom giống mất hơn 2 triệu đồng, chưa kể tiền cày, phân bón và công trồng nên chờ mưa nhiều mới dám xuống giống.

Không chỉ cây mì, một số diện tích lúa vụ mùa của người dân xã Kon Thụp gieo trồng sớm cũng bị thiệt hại do gặp nắng nóng kéo dài. Ông Nghin (làng Đak Trang) nói: “Tháng 4 vừa qua, thấy mưa xuống, bà con có đất sản xuất trên cánh đồng Đrưng đã gieo lúa sớm. Không ngờ nắng nóng kéo dài trở lại khiến một số hộ bị mất giống. Riêng tôi cũng bị thiệt hại gần 6 sào”.

Trao đổi với P.V, ông Lương Đình Lực-Chủ tịch UBND xã Kon Thụp-cho biết: Sau những cơn mưa đầu mùa, UBND xã khuyến cáo người dân không nên vội vàng xuống giống mà phải chờ đất đủ độ ẩm mới gieo trồng. Dù vậy, người dân vẫn trồng mới trên 400 ha mì. Xã đang thống kê diện tích thiệt hại. Người dân đang trồng lại những khu vực cây mì mọc không đều hoặc chết.

Gia đình ông Lưng (làng Dơ Nâu, xã Kon Thụp, huyện Mang Yang) trồng dặm lại cây mì. Ảnh: Nguyễn Diệp

Không chỉ huyện Mang Yang, các địa phương khác như: Chư Prông, Chư Sê… cũng đã khuyến cáo người dân cần cẩn trọng khi xuống giống sớm cây trồng vụ mùa để tránh thiệt hại. Ông Nguyễn Văn Luyến-Trưởng phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Chư Prông-cho hay: Cuối tháng 4 vừa qua, trên địa bàn huyện xuất hiện mưa diện rộng do ảnh hưởng của bão. Xác định đây chưa phải là thời điểm mùa mưa, nếu gieo trồng sớm có thể gặp hạn hoặc cây trồng sinh trưởng, phát triển chậm gây thiệt hại cho người dân.

Vì vậy, UBND huyện có văn bản khuyến cáo bà con không nên gieo trồng sớm dễ gặp hạn. Người dân cần chủ động sản xuất theo hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn, theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết để xuống giống phù hợp, tránh bị thiệt hại do nắng hạn gây ra.

Vừa qua, Sở Nông nghiệp và PTNT đã công bố lịch thời vụ gieo trồng từng khu vực và khuyến cáo nông dân các địa phương theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết để điều chỉnh phù hợp, tránh tình trạng gieo trồng sớm dễ bị hạn, gây thiệt hại về nguồn giống.

NGUYỄN DIỆP

Đức Trọng (Lâm Đồng): Xuống giống 600 ha khoai lang

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Nông dân huyện Đức Trọng (Lâm Đồng) vừa xuống giống 600 ha khoai lang cho vụ khoai hè - thu 2021. Khoai lang chủ yếu được trồng tại các vùng xa của huyện, nơi diện tích đất lớn và chưa phát triển hệ thống nhà kính, nhà lưới. Khoai xuống giống chủ yếu là giống khoai lang Sweet potato Japan, vỏ đỏ ruột vàng, vị ngọt đậm, phù hợp với độ cao trên 800 m so với mặt nước biển. Được biết, đa số diện tích trồng khoai được xuống giống theo hợp đồng thu mua với các công ty chuyên xuất khẩu nông sản. Khoai lang Sweet potato Japan được trồng ở Lâm Đồng là một trong những mặt hàng xuất khẩu được thị trường các nước Đông Nam Á cũng như Nhật Bản rất ưa chuộng với lượng xuất khẩu hàng ngàn tấn/năm.

D.Q

Bảo Yên (Lào Cai): 111 ha quế bị sâu đo ăn lá

Nguồn tin: Báo Lào Cai

Theo thông tin từ Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Bảo Yên (tỉnh Lào Cai), hiện nay, trên địa bàn huyện có 111 ha quế bị sâu đo ăn lá, chủ yếu tập trung tại các xã Xuân Hòa, Vĩnh Yên, Phúc Khánh…

Đối tượng sâu đo ăn lá quế đang gây hại và có chiều hướng lan rộng trên diện tích quế 4 – 5 năm tuổi, những rừng quế trồng thuần loài. Mật độ gây hại phổ biến từ 40 - 50 con/cây, có chỗ cao tới 100 con/cây, cục bộ trên 200 con/cây. Cây quế bị sâu ăn hết lá làm mất khả năng quang hợp, gây ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cây. Cây có thể bị chết khô nếu mật độ sâu dày.

Sâu đo ăn lá quế với mật độ cao tại xã Xuân Hòa.

Ngay sau khi phát hiện sâu đo ăn lá quế, Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Bảo Yên đã phối hợp với UBND các xã, kiểm lâm địa bàn đi kiểm tra thực địa, tuyên truyền, khuyến cáo Nhân dân các biện pháp phòng, trừ và cung ứng thuốc bảo vệ thực vật cho chủ rừng phun phòng, trừ kịp thời, không để lây lan ra diện rộng.

Theo đó, với diện tích nhiễm nặng cần tập trung phát dọn thực bì, chặt bỏ những cành, cây bị sâu gây hại, thu gom để đốt nhằm tiêu diệt mầm bệnh. Diện tích sâu gây hại với mật độ cao phải sử dụng một trong các loại thuốc hóa học như: Actara 25WG, Bestox 5EC, Neretox 95 WP, gà nòi 95 SP... để phun trừ. Khi phun trừ sâu đo ăn lá quế nên phun trừ khi sâu mới nở sống tập trung trên lá hoặc kẽ thân, hiệu quả sẽ cao hơn.

Người dân tích cực phun thuốc phòng, trừ sâu đo ăn lá quế.

Với diện tích nhiễm nhẹ dùng bẫy đèn bắt sâu trưởng thành, xới đất diệt nhộng quanh tán cây quế. Đối với diện tích cây lâu năm đã lớn, có thể thu hoạch được cành, lá, vỏ quế, khi thu hoạch phải đảm bảo thời gian cách ly trước khi thu hoạch sản phẩm. Nhân dân cần chú ý gieo trồng đúng mật độ, không trồng quá dầy, tỉa thưa hợp lý, đảm bảo độ thông thoáng cho rừng quế.

Bà Nguyễn Thị Thùy, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Bảo Yên cho biết: Hiện nay, với diễn biến bất thường của thời tiết, nắng mưa xen kẽ, độ ẩm cao sẽ tạo điều kiện cho sâu đo ăn lá quế bùng phát và lây lan ra diện rộng. Để hạn chế thấp nhất thiệt hại do sâu đo ăn lá quế gây ra, Nhân dân cần chủ động kiểm tra rừng quế, phát hiện sâu đo ăn lá sớm, khoanh vùng và phòng, trừ kịp thời.

Kim Thoa

Đồng Tháp: Giá khoai môn giảm

Nguồn tin: Báo Đồng Tháp

Hiện nay, nông dân trên địa bàn huyện Lấp Vò (tỉnh Đồng Tháp) tất bật vào mùa thu hoạch rộ khoai môn. Tuy nhiên, giá khoai môn lại giảm.

Nông dân phân loại khoai môn để bán cho thương lái

Theo ông Đặng Văn Long - Phó Chủ nhiệm Tân Hưng Hội quán (xã Mỹ An Hưng A, huyện Lấp Vò), hiện khoai môn được thu mua với giá 17.000 đồng/kg, giảm khoảng 3.000 đồng/kg so với tháng trước. Năm nay, thời tiết có phần thuận lợi nên năng suất khoai đạt khoảng 5 tấn/công. Mặc dù giá khoai môn giảm so với tháng trước nhưng nông dân vẫn còn lãi khoảng 17 triệu đồng/công.

TRANG HUỲNH

Triển vọng từ chăn nuôi bò 3B hướng thịt

Nguồn tin: Báo Đắk Nông

Anh Ung Thái Cường, ở thôn Nam Thắng, xã Nam Đà (Krông Nô, tỉnh Đắk Nông) đã phát triển thành công đàn bò lai 3B với năng suất, chất lượng thịt, hiệu quả kinh tế cao. Mô hình chăn nuôi bò của anh Cường là một hướng phát triển kinh tế cho người chăn nuôi trên địa bàn huyện Krông Nô.

Trước sự biến động bất lợi về giá cả các loại cây trồng, năm 2015, anh Cường mạnh dạn chuyển đổi 4 sào đất trồng cà phê xen hồ tiêu sang trồng cỏ để nuôi bò. Anh đầu tư mua con giống, xây dựng chuồng trại chăn nuôi bò.

Bò 3B của anh Cường có trọng lượng vượt trội, mang lại hiệu quả kinh tế cao

Anh Cường cho biết, anh sinh ra và lớn lên trên vùng đất chuyên sản xuất nông nghiệp Krông Nô, nên nhìn thấy tiềm năng từ những phụ phẩm nông nghiệp có thể tận dụng để phát triển chăn nuôi. Từ đó, anh đã quyết định mua 40 con bò giống về nuôi.

Vừa chăm sóc đàn bò, anh Cường vừa đi học hỏi kinh nghiệm, tìm hiểu cách làm từ các trang trại nuôi bò quy mô lớn, nổi tiếng ở miền Tây. Thời gian đầu, anh chăn nuôi bò lai Sind, nhưng đến cuối năm 2017, anh chuyển sang nuôi dòng bò 3B.

Theo anh Cường, giống bò 3B có nhiều ưu điểm vượt trội như: Trọng lượng lớn, ngoại hình đẹp, thịt thơm ngon, tỷ lệ xẻ thịt cao. Bò 3B có sức đề kháng tốt, dễ nuôi, tỷ lệ bệnh tật thấp, trong khi nguồn thức ăn và điều kiện chăm sóc như các giống bò địa phương.

Đặc biệt, giống bò 3B phù hợp với điều kiện khí hậu của huyện Krông Nô. Trọng lượng của bò 3B tăng nhanh và loại bò này không kén chọn nguồn thức ăn, ít xảy ra dịch bệnh.

Để đàn bò phát triển tốt, anh Cường đầu tư xây dựng chuồng nuôi kiên cố, bảo đảm ấm áp về mùa đông, thoáng mát về mùa hè. Nền chuồng bò không trơn trượt, có độ dốc để thoát nước, luôn khô ráo, thuận tiện trong khâu chăm sóc, quản lý.

Cũng theo anh Cường, để chăn nuôi bò 3B đạt hiệu quả cao, hạn chế thấp nhất rủi ro, người nuôi phải chủ động trong khâu chăm sóc, phòng bệnh. Quá trình vỗ béo, ngoài nguồn thức ăn chính là cỏ voi, ngô, cần sử dụng bã bia và mật mía được lấy từ cơ sở sản xuất có uy tín, tăng chất dinh dưỡng cho bò.

Hệ thống chuồng trại được anh Cường đầu tư bài bản

Sau 4 năm gây đàn, anh Cường đã có 10 con bò cái 3B sinh sản. Bên cạnh đó, mỗi năm anh Cường còn mua thêm 10 con bò đực 3B về nuôi vỗ béo lấy thịt. Mỗi con bò 3B trưởng thành có trọng lượng từ 750-850 kg, bán với giá từ 75 - 85 triệu đồng. Bò 3B sau 14 - 16 tháng bắt đầu sinh sản; sau 2 - 3 tháng có thể phối giống tiếp. Bê con mới đẻ có trọng lượng 30 - 45 kg.

Gia đình anh Cường luôn duy trì nuôi 20 con bò. Mỗi ngày 2 vợ chồng anh bỏ ra khoảng 2 giờ để chăm sóc từ việc cắt cỏ, cho bò ăn, vệ sinh chuồng nuôi đến phòng chống dịch bệnh, xử lý chuồng trại. Theo tính toán của anh Cường, mỗi năm từ chăn nuôi bò 3B, gia đình anh thu lời khoảng 500 triệu đồng, cao gấp nhiều lần so với trồng cà phê, hồ tiêu. Ngoài ra, tiền bán phân bò mỗi năm anh thu được gần 100 triệu đồng. Số tiền phân này đủ để đầu tư mua cám, thức ăn cho bò.

Theo lãnh đạo UBND xã Nam Đà, mô hình chăn nuôi bò 3B của anh Cường đang mở ra hướng phát triển chăn nuôi mới trên địa bàn xã và cả huyện Krông Nô. Thời gian tới, địa phương sẽ tổ chức cho người dân tham quan, học tập kinh nghiệm để mở rộng mô hình chăn nuôi bò 3B.

Bài, ảnh: Đức Hùng

Hiệu quả trang trại gà công nghệ cao

Nguồn tin: Báo Bình Dương

Chúng tôi vừa có dịp trở lại xã An Bình, huyện Phú Giáo (tỉnh Bình Dương), đến thăm trang trại chăn nuôi gà của ông Đinh Ngọc Khương, ấp Tân Thịnh. Nằm giữa những cánh rừng cao su là khuôn viên trang trại chăn nuôi gà hậu bị, bố mẹ rộng 10 ha của gia đình ông Khương với nhiều thiết bị máy móc hiện đại, tân tiến.

Ông Trịnh Đức Dũng (bên phải), Chủ tịch Hội Nông dân huyện Phú Giáo tham quan trại gà hộ ông Đinh Ngọc Khương

Vay vốn đầu tư trại gà…

Sau một vòng quanh trang trại gồm 17 trại gà lạnh ở khu vực ấp Tân Thịnh, chúng tôi trở lại tư gia của ông Đinh Ngọc Khương ở ấp Nước Vàng để nghe ông kể lại câu chuyện khởi nghiệp với nghề chăn nuôi gà từ 11 năm về trước. Theo lời ông Khương, thời điểm năm 2010, khi mô hình chăn nuôi gia công các loại gia súc, gia cầm bắt đầu trở nên phổ biến ở Bình Dương và các tỉnh miền Đông Nam bộ, gia đình ông cũng tìm tham quan và học hỏi. Sau những ngày tháng ngược xuôi đây đó, giữa năm 2010 gia đình ông quyết định vay 300 triệu đồng từ ngân hàng để thuê đất và xây dựng một trại gà hở, chăn nuôi gia công theo phương pháp bán công nghiệp.

Ông Khương cho biết thời điểm đó, sau nhiều năm dành dụm, gia đình ông mới chỉ có một ít vốn trong tay nên khi bàn chuyện vay vốn để mở trại gà khiến mọi người đều khá thận trọng. Trong đó, bản thân ông với vai trò là trụ cột của gia đình đã phải tính toán nhiều phương án, thậm chí cả chuyện phải bán nhà đất để trả nợ trong trường hợp làm ăn thất bại. Đó cũng là lý do khiến gia đình ông tất bật chuẩn bị cho mô hình kinh tế mới này một cách cẩn thận nhất. Mỗi một thành viên trong gia đình đảm nhận một nhiệm vụ, từ thủ tục vay vốn, ngoại giao thuê đất, tìm kiếm công ty cung cấp con giống và hỗ trợ chăn nuôi gia công… Do các khâu chuẩn bị được thực hiện khá tốt nên lứa gà đầu tiên của gia đình ông Khương đã cho kết quả thành công khá mỹ mãn. Chỉ sau hơn 2 tháng chăn nuôi gia công gà thịt, gia đình ông thu về gần 100 triệu đồng.

Nhận thấy đây là mô hình làm kinh tế hiệu quả, khi đã tích lũy được kinh nghiệm thực tiễn trong quy trình chăn nuôi, gia đình ông Khương tiếp tục vay ngân hàng và người thân một số vốn lớn để mở thêm 7 trại gà. Với việc nắm vững kỹ thuật chăn nuôi và chủ động phòng ngừa dịch bệnh, kịp thời xử lý, chỉ sau vài vụ nuôi thành công, gia đình ông Khương đã trả được gần hết số vốn vay mượn. Thêm vào đó còn dư ra một khoản tiền để mua đất, chuẩn bị cho sự ra đời của một trang trại chăn nuôi gà khép kín, hiện đại trong tương lai. Thời điểm này, trang trại chăn nuôi gà của gia đình ông Đinh Ngọc Khương đã là một trong những đối tác chăn nuôi gia công lớn của các Công ty Thanh Bình, Nhất A…

Đầu tư dây chuyền hiện đại

Tích lũy được khá nhiều kinh nghiệm thực tiễn và dư ra một khoản vốn, năm 2014 gia đình ông Khương quyết định thoát khỏi “vùng an toàn” để thành lập trang trại chăn nuôi khép kín. Đến năm 2018, khi đã nắm bắt kỹ thuật, quy trình chăn nuôi gà hậu bị, bố mẹ và quy trình chăn nuôi gà thịt gia công, gia đình ông Khương mạnh dạn đầu tư nhập khẩu máy móc, dây chuyền hiện đại để làm trại giống. Tổng số vốn đầu tư cho việc xây dựng 17 trại gà lạnh (7 trại gà hậu bị, bố mẹ và 10 trại gà thịt) với hệ thống máy móc, dây chuyền tiên tiến, hiện đại ước tính lên đến hàng chục tỷ đồng.

Theo quan sát của chúng tôi, khuôn viên trại gà lạnh của gia đình ông Khương được bố trí rất khoa học và bảo đảm an toàn chăn nuôi theo đúng quy trình mà các chuyên gia khuyến cáo. Cụ thể, trước khi bước vào khu vực trang trại, khách tham quan sẽ đi qua khu vực sát khuẩn ở lối vào để bảo đảm an toàn dịch bệnh đối với gà trong trại. Cách đó không xa là khu vực nhà máy phát điện, khu căng tin, khu giải trí sinh hoạt và khu nhà ở của công nhân lao động. Sau khi bước qua khu vực hậu cần dành cho công nhân lao động, là khu vực nhà máy ấp trứng, gồm: Phòng xông trứng, phòng bảo quản trứng, phòng ấp trứng, phòng soi trứng, phòng gà nở ra con và phòng ra gà. Hết thảy những công đoạn này đều được thực hiện bằng các máy móc hiện đại liên tục ngày đêm dưới sự giám sát của công nhân lao động.

Ông Khương cho biết trước đây, khi chưa có dây chuyền tự động này, việc xông trứng, bảo quản trứng, soi trứng và canh gà nở mất khá nhiều thời gian và hiệu quả không đạt như mong muốn. Theo ông, kể từ khi nhập các thiết bị này về, tỷ lệ trứng đạt tăng lên gần như tuyệt đối chứ không còn nằm ở mức 70- 80% như trước. Ngoài những thiết bị máy móc hiện đại ở khu vực nhà máy trứng, các trại lạnh nuôi gà hậu bị, bố mẹ và gà thịt cũng được ông trang bị tự động hóa một cách triệt để. Theo đó, việc cho gà ăn, uống, đo lường nhiệt độ, độ ẩm và thông báo vệ sinh chuồng trại được thiết lập tự động hóa thông qua hệ thống máy tính tại phòng kỹ thuật.

Từ một người chăn nuôi gà gia công, với sự nỗ lực vươn lên, đến nay gia đình ông Đinh Ngọc Khương đã trở thành một đơn vị cung cấp con giống, thức ăn, thuốc thú y, hỗ trợ kỹ thuật chăn nuôi giúp nhiều nông hộ khác thoát nghèo và vươn lên làm giàu. Cụ thể, đến nay trang trại đang hỗ trợ chăn nuôi gia công cho 27 nông hộ trong và ngoài tỉnh, trong đó trên địa bàn Bình Dương có 18 hộ. Cùng với việc hỗ trợ nhiều nông hộ thoát nghèo, vươn lên làm giàu từ nghề chăn nuôi gà gia công, trang trại Đinh Ngọc Khương còn giải quyết việc làm thường xuyên cho 30 công nhân lao động với mức thu nhập bình quân từ 8 - 12 triệu đồng/người/ tháng. Với sự nỗ lực không ngừng nghỉ, ông Đinh Ngọc Khương đã trở thành một tấm gương nông dân tiêu biểu được Hội Nông dân tỉnh vinh danh 2 năm liên tiếp (2019-2020).

Trao đổi với chúng tôi, ông Trịnh Đức Dũng, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Phú Giáo, cho biết trang trại gà của hộ Đinh Ngọc Khương là một trong những mô hình kinh tế làm ăn hiệu quả trên địa bàn huyện. Thời gian qua, Hội Nông dân huyện đã tổ chức nhiều chuyến tham quan, học tập mô hình cho hội viên, nông dân đến đây với mong muốn giúp hội viên, nông dân có thêm một ý tưởng, lựa chọn trong việc phát triển kinh tế gia đình nhằm góp phần tăng thêm thu nhập và hướng tới làm giàu trên chính mảnh đất Phú Giáo nghĩa tình.

ĐÌNH THẮNG

Làm giàu từ nuôi vịt Super

Nguồn tin: Báo Gia Lai

Tận dụng hồ nước tự nhiên, ông Đỗ Mạnh Tú (thôn 6, xã Ia Nhin, huyện Chư Păh) đầu tư nuôi vịt thương phẩm với mức lợi nhuận 300 triệu đồng/năm.

Trước đây, ông Tú nuôi nhiều loại gia cầm khác nhau nhưng hiệu quả không cao. Một lần tình cờ gặp lại người bạn cũ quê Thạch Thất (Hà Nội) giới thiệu mô hình nuôi vịt giống Super thương phẩm, ông lặn lội tìm đến tham quan, học hỏi kinh nghiệm.

Ông Đỗ Mạnh Tú (thôn 6, xã Ia Nhin, huyện Chư Păh) bên đàn vịt của mình. Ảnh: Đinh Yến

Sau đó, ông Tú tận dụng 2 sào đất trống trong 5 sào giao khoán trồng cà phê của Công ty Cà phê 706 để làm trang trại nuôi vịt. Ông đầu tư hơn 200 triệu đồng làm chuồng trại và tận dụng hồ nước tự nhiên cạnh bên. Đầu tiên, ông mua 1.500 con giống về nuôi thử nghiệm. Do đã nắm bắt kỹ thuật, giống vịt Super phù hợp với khí hậu nên đàn vịt phát triển tốt. Thấy hiệu quả, ông Tú quyết định tăng đàn. Đến nay, sau hơn 2 năm, đàn vịt của ông Tú lên đến 4.000 con. Trung bình mỗi ngày, trang trại của ông xuất ra thị trường 100 con vịt thương phẩm với giá 85.000 đồng/con.

Để mô hình đạt hiệu quả cao, ông thuê 1 kỹ sư để chăm sóc, tư vấn trong chăn nuôi. Ông kể: “Cái duyên đưa tôi đến với nghiệp nuôi vịt thật ngẫu nhiên. Cuối năm 2019, khi đến nhà người bạn chơi, tôi thấy mô hình nuôi vịt thương phẩm tận dụng hồ nước tự nhiên rất hiệu quả. Sau khi được truyền đạt kinh nghiệm, tôi về Gia Lai chuẩn bị chuồng trại rồi nhờ bạn mua giống gửi vào nuôi thử nghiệm. Tôi nhận thấy nuôi vịt thương phẩm không khó, ít dịch bệnh, ít công chăm sóc. Thức ăn cho vịt chi phí không nhiều. Ngoài ra, tận dụng nguồn nước tự nhiên nên vịt có môi trường phát triển tốt, thịt cũng thơm ngon, được rất nhiều khách hàng ưa chuộng”.

Trong vòng 12 tháng, ông Tú xuất bán khoảng 5 lứa vịt thương phẩm, lãi 300 triệu đồng. Chia sẻ về kỹ thuật nuôi vịt thương phẩm, ông Tú cho hay, cần chú ý tiêm vắc xin phòng bệnh cho vịt đầy đủ. Ngoài ra, vịt cần ăn uống, nghỉ ngơi đúng giờ, chuồng trại đảm bảo yên tĩnh, thoáng mát.

Bà Lê Thị Ánh Dương-Chủ tịch Hội Nông dân huyện Chư Păh-nhận xét: Thành công từ mô hình nuôi vịt thương phẩm của gia đình ông Tú đã góp phần mở ra hướng đi mới trong phát triển kinh tế gia đình đối với nhiều hộ nông dân trên địa bàn huyện.

ĐINH YẾN

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop