Tin nông nghiêp ngày 31 tháng 10 năm 2019

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiêp ngày 31 tháng 10 năm 2019

Giống lúa OM 18 được nhiều nhà nông lựa chọn gieo sạ cho vụ mùa đông xuân sắp tới

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Theo Trung tâm Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và Sản xuất nông nghiệp- Viện Lúa ĐBSCL, hiện tại nông dân mới bắt đầu chuẩn bị giống lúa cho đầu vụ đông xuân 2019-2020 nhưng giống lúa OM 18 đang hút hàng, được nhiều nông dân chọn gieo sạ trong vụ đông xuân tới. Hiện Viện Lúa ĐBSCL chỉ đáp ứng giống cấp siêu nguyên chủng và giống nguyên chủng cho các đơn vị sản xuất giống; giống cấp xác nhận không đủ bán trước nhu cầu đang tăng cao.

Giống lúa OM 18 có nguồn gốc từ tổ hợp lai OM8017/OM 5166 được lai tạo bởi Bộ môn Công nghệ sinh học, Viện Lúa ĐBSCL. OM 18 là giống lúa ngắn ngày, có thời gian sinh trưởng 95-100 ngày (lúa sạ), 100-105 ngày (lúa cấy), chiều cao cây 100-110cm, cứng cây độ 1, đẻ nhánh khỏe. Năng suất trung bình vụ đông xuân 7-8 tấn/ha, vụ hè thu 5-6 tấn/ha. Phẩm chất gạo đạt tỷ lệ gạo lứt 78-79%, gạo trắng 67-68%, gạo nguyên 40-45%. Chiều dài hạt gạo 7,0-7,1mm. Hạt gạo thon dài, cơm mềm và ngọt. Đặc tính của lúa OM 18 kháng đạo ôn (cấp 2), hơi nhiễm rầy nâu (cấp 5), chống chịu mặn 3-4‰. Giống canh tác được các vụ trong năm, thích hợp cho các vùng sinh thái ở ĐBSCL và vùng nhiễm mặn…

Trên thực tế, giống lúa OM 18 đã được chuyển giao nhiều năm qua. Nông dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau sau khi thực hiện qua các mô hình trình diễn ban đầu nhận thấy lúa thích nghi, chống chịu hạn, mặn tốt. Hơn nữa, nhờ đặc tính kháng rầu nâu và bệnh đạo ôn khá tốt, năng suất cao, nhất là chất lượng hạt gạo trắng trong, cơm thơm nhẹ đạt tiêu chuẩn xuất khẩu và tiêu dùng nội địa nên OM 18 được thương lái đặt cọc mua từ đầu vụ. Từ đó nông dân chuyển sang chọn canh tác giống lúa OM 18 càng nhiều, diện tích tăng nhanh hằng năm…

H.VĂN

Xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt hơn 33 tỷ USD

Nguồn tin:  Nhân Dân

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản của cả nước từ đầu năm đến hết tháng 10 đạt 59,1 tỷ USD; trong đó xuất khẩu đạt 33,18 tỷ USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2018; nhập khẩu đạt 25,9 tỷ USD, giảm 0,5%.

Thặng dư thương mại nông, lâm, thủy sản đạt 7,3 tỷ USD, cao hơn 664 triệu USD so với cùng kỳ năm trước. Đến nay, ngành nông nghiệp có sáu nhóm sản phẩm có giá trị xuất khẩu hơn hai tỷ USD. Trong 10 tháng qua, nhóm lâm sản vẫn duy trì sự tăng trưởng mạnh với kim ngạch xuất khẩu đạt 9,04 tỷ USD, tăng 18,8%.

Trong khi đó, so với cùng kỳ năm 2018, nhóm nông sản chính giảm 7,4%, ước đạt 15,25 tỷ USD, chiếm 46% tổng kim ngạch xuất khẩu; thủy sản ước đạt 7,06 tỷ USD, giảm 2,4%, tỷ trọng chiếm 21,3%. Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của nông sản Việt Nam, chiếm tỷ trọng 26,8% tổng kim ngạch xuất khẩu; tiếp đến là Mỹ chiếm 21,7%; EU chiếm 11,9%; ASEAN chiếm 10,3%.

PV

Bắc Kạn: Na Rì vào vụ dong riềng

Nguồn tin: Báo Bắc Kạn

Năm 2019, huyện Na Rì (tỉnh Bắc Kạn) trồng được hơn 240ha dong riềng, hiện đã bước vào vụ thu hoạch. Huyện đã chủ động thực hiện các phương án ổn định giá, liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm giữa các cơ sở chế biến bột, miến dong và người trồng dong riềng trên địa bàn.

HTX Tài Hoan ở xã Côn Minh hiện đã thu mua được hơn 50 tấn củ dong theo hợp đồng đã ký đầu năm.

Dong riềng được mùa

Ông Nông Văn Thành, cán bộ nông lâm xã Cư Lễ cho biết: Người dân đã có kinh nghiệm trồng lâu năm cây dong riềng cùng với việc áp dụng rộng rãi kỹ thuật trồng lên luống trên đất ruộng, nên vụ dong riềng năm nay nhìn chung năng suất tốt hơn so với mọi năm. Riêng xã Cư Lễ, phòng chuyên môn của huyện đánh giá thí điểm cho thấy năng suất cao gần gấp đôi so với vụ dong năm 2018. Hiện nay người dân đang bắt đầu bước vào vụ thu hoạch. Các cơ sở chế biến tinh bột, miến trên địa bàn huyện đã ký hợp đồng thu mua củ dong từ đầu năm. Giá thu mua đầu vụ hiện là 1.600 đồng/kg, cao hơn so với năm 2018.

Vụ dong riềng năm 2019, huyện Na Rì trồng được hơn 242ha. Để vụ tránh thu hoạch dồn dập, các cơ sở chế biến không kịp, huyện chỉ người dân trồng rải vụ từ tháng 12/2018 đến tháng 3/2019 để giãn thời gian. Cùng với đó, huyện tiếp tục vận động bà con trồng dong riềng lên luống cao được hơn 65ha, tập trung ở các xã Côn Minh, Hảo Nghĩa, Đổng Xá, Dương Sơn nhằm nâng cao năng suất, chất lượng củ dong.

Theo đánh giá của ngành chuyên môn huyện Na Rì, năng suất củ dong năm nay đạt và vượt so với kế hoạch. Dự ước ban đầu đạt khoảng trên 750 tạ/ha trở lên, tương đương 18.198 tấn củ. Trong đó, 500 tấn củ để làm giống cho vụ dong năm 2020, còn lại, 17.690 tấn làm nguyên liệu chế biến.

Liên kết giữa cơ sở chế biến và người trồng dong

Ông Nông Văn Chính- chủ cơ sở sản xuất miến dong Chính Tuyển ở thôn Lủng Vạng, xã Côn Minh cho biết: Ngay khi vào vụ trồng dong riềng, các cơ sở sản xuất, chế biến bột, miến dong của Hội Dong riềng huyện đã chủ động ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm với người dân, đảm bảo đủ nguyên liệu sản xuất, đáp ứng công suất máy móc cũng như nhu cầu thị trường. Cơ sở của Chính Tuyển mỗi năm tiêu thụ cho bà con khoảng hơn 2.000 tấn củ dong.

Theo ông Chính, đầu ra cho sản phẩm dong riềng vẫn phụ thuộc nhiều vào thị trường, các đầu mối tiêu thụ của một số cơ sở thành viên sản xuất, chế biến miến dong còn hạn chế…Vì vậy, để bình ổn giá củ dong cho người trồng cũng như tạo thuận lợi cho các cơ sở chế biến thì việc liên kết chặt chẽ giữa hai bên theo phương châm bền vững, cùng có lợi là rất quan trọng.

Năm 2019, Hợp tác xã Tài Hoan ở xã Côn Minh ký hợp đồng thu mua dong tại 6 xã, với gần 700 hộ, dự ước tiêu thụ khoảng 2.000 tấn củ dong riềng. Theo bà Nguyễn Thị Hoan, Giám đốc HTX miến dong Tài Hoan: Do diện tích trồng dong năm nay không nhiều, vì thế, số hộ đăng ký tăng nhiều hơn so với mọi năm. Đến thời điểm này, HTX đã thu mua củ dong được khoảng 50 tấn.

Không chỉ thực hiện tốt việc ký hợp đồng với hộ trồng dong riềng, HTX Tài Hoan còn hỗ trợ giống, phân bón cho bà con. Mặc dù giá thu mua dong củ của UBND huyện là 1.600 đồng/kg, nhưng hiện HTX đang thu mua cho bà con với giá cao hơn so với dự kiến ban đầu với 1.700 đồng/kg tại vườn và 1.900 đồng/kg tại xưởng.

Đồng chí Nông Văn Nguyên- Chủ tịch UBND huyện Na Rì cho biết: Trên cơ sở diện tích đã trồng, UBND huyện chỉ đạo hộ trồng dong, các cơ sở chế biến tuân thủ thời vụ sản xuất, chế biến bột và miến. Thực hiện tốt việc đảm bảo vệ sinh môi trường, nâng cao chất lượng miến; xây mới, sửa chữa các bể chứa nước thải, lót nilon để nước thải lắng, đọng trước khi xả ra môi trường; dùng chế phẩm vi sinh để ủ bã thải thành phân vi sinh, vừa đảm bảo vệ sinh môi trường, vừa có nguồn phân hữu cơ thay thế phân chuồng. Hiện cơ quan chức năng, chính quyền các xã đang tăng cường kiểm tra, hướng dẫn để các cơ sở chế biến thực hiện tốt, đầy đủ, nghiêm túc việc cam kết thực hiện vệ sinh môi trường... Bên cạnh đó, huyện cũng chỉ đạo các địa phương chuẩn bị tốt cho vụ trồng dong riềng tiếp theo.

Kế hoạch năm 2020, Na Rì duy trồng 250ha dong riềng; tiếp tục thực hiện tốt việc liên kết sản xuất, tiêu thụ củ dong giữa người dân và các cơ sở chế biến tinh bột, miến; tích cực quảng bá sản phẩm để tăng tính cạnh tranh, mở rộng thị trường tiêu thụ cho sản phẩm dong riềng; coi đây là cây chủ lực trong giảm nghèo và xây dựng sản phẩm nông sản tiêu biểu của địa phương./.

Tùng Vân

Lục Ngạn (Bắc Giang): Giá bưởi da xanh tăng cao

Nguồn tin: Báo Bắc Giang

Theo một số nhà vườn trên địa bàn huyện Lục Ngạn (Bắc Giang), hiện giá bán bưởi da xanh tại vườn ngày 29-10 dao động từ 38 - 41 nghìn đồng/kg (quả nặng hơn 1,2 kg trở lên), tăng 15-17 nghìn đồng/kg so với đầu vụ, 5 - 7 nghìn đồng/kg so với một tuần trước.

Nông dân xã Giáp Sơn (Lục Ngạn) thu hoạch bưởi da xanh.

Năm nay, toàn huyện có 537 ha bưởi da xanh, sản lượng ước đạt 2,6 nghìn tấn. Bưởi da xanh được trồng tập trung tại các xã như: Thanh Hải, Hồng Giang, Trù Hựu, Tân Quang, Quý Sơn, Tân Mộc và Giáp Sơn…

Ông Tăng Văn Huy, Trưởng Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện thông tin: “Năm nay, do người dân có nhiều kinh nghiệm chăm sóc, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất bưởi da xanh, cây trồng đạt năng suất cao, chất lượng tốt, mẫu mã đẹp. Giá bán bưởi tăng bởi dịp này là mùa cưới, nhu cầu sử dụng của người dân tăng cao và các chủ vườn đã thu hoạch gần hết. Dự kiến, giá bưởi da xanh sẽ tiếp tục tăng cho tới cuối vụ”.

Bưởi da xanh huyện Lục Ngạn được gắn tem truy xuất nguồn gốc bày bán tại hội chợ thuộc Chương trình "Tuần lễ Văn hóa - Du lịch - Thương mại doanh nhân Bắc Giang thời kỳ hội nhập năm 2019".

Đến thời điểm này, bà con trong huyện Lục Ngạn đã thu hoạch được 70% sản lượng bưởi da xanh. Hầu hết sản phẩm được các thương nhân đặt hàng, thu mua tại vườn để chuyển đi các tỉnh, TP như: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh và đưa vào hệ thống siêu thị BigC, Co.opmart... Nhiều hộ dân trong huyện có thu nhập hàng trăm triệu đồng từ cây trồng này.

Từ năm 2017 đến nay, UBND huyện Lục Ngạn đã có chương trình hỗ trợ tem, nhãn, bao bì cho các hợp tác xã sản xuất, kinh doanh cây ăn quả trên địa bàn, góp phần quảng bá, xúc tiến thương mại cho các loại trái cây, trong đó có bưởi da xanh.

Hiện nay, phòng chuyên môn của huyện đang chỉ đạo các xã hướng dẫn người dân chăm sóc diện tích bưởi da xanh ở những vườn được tuyển chọn giữ lại phục vụ trưng bày trong Hội chợ trái cây Lục Ngạn tổ chức vào cuối tháng 11, đầu tháng 12 tới đây.

Hoàng Phương

Huyện nghèo khấm khá nhờ cây ăn quả

Nguồn tin: Báo Gia Lai

Nhằm đa dạng hóa sản phẩm cây trồng có giá trị kinh tế cao, vài năm gần đây, nông dân huyện Kông Chro, Gia Lai đã mạnh dạn đưa nhiều loại cây trồng mới vào sản xuất. Trong số đó, cây na dai mới “bén rễ” hơn 3 năm nay nhưng đã khẳng định ưu điểm vượt trội, mang lại thu nhập ổn định cho người dân.

Đa dạng hóa cây ăn quả

Đến thăm vườn na dai của ông Vũ Văn Nhất (thôn 9, xã Yang Trung), chúng tôi thật sự bất ngờ trước những trái na to gấp 3-4 lần so với những trái na thông thường. Được biết, đây là giống na Thái-một trong những loại cây trồng mới ở địa phương.

Vườn nhãn sai trĩu quả trên địa bàn Kông Chro đang vào vụ thu hoạch. Ảnh: N.S

Mô hình trồng cây ăn quả của gia đình ông Nhất được triển khai trên diện tích 7 ha gồm na, nhãn, xoài, dừa xiêm lùn, mía và đậu đỗ các loại. Riêng na dai có 600 cây, trong đó có 300 cây đã cho thu hoạch được 2 năm nay. Theo ông Nhất, phần đất này trước đây canh tác mía, mì, đậu đỗ nhưng hiệu quả sản xuất không cao do giá cả bấp bênh. Năm 2016, sau khi tham khảo thông tin trên báo, đài, nhận thấy mô hình trồng cây ăn quả phát triển ở nhiều địa phương, mang lại thu nhập ổn định, ông đã mạnh dạn cải tạo vườn để làm theo. “Na dai là loại cây dễ trồng, nhẹ công chăm sóc, phù hợp với điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng của vùng đất này. Từ lúc xuống giống đến khi ra quả khoảng 2 năm. Hình dạng trái na Thái cũng như những loại na khác, nhưng xét về trọng lượng thì to gấp 3-5 lần, trái nhỏ nhất đạt 300 gram, có trái nặng tới 1,5 kg”-ông Nhất cho biết.

Thu nhập cao từ na trái vụ

Là hộ tiên phong trồng na trái vụ trên địa bàn, ông Nhất cho hay: “Thực tế cho thấy đất ở đây phù hợp với cây na dai, song mùa chính vụ thường rơi vào tháng 5 hoặc tháng 6, đợt 2 thu hoạch vào dịp áp Tết Nguyên đán. Vào vụ chính, nhiều hộ thu hoạch cùng thời điểm dẫn đến giá na không cao. Vì vậy, tôi đã tìm hiểu, học hỏi kỹ thuật xử lý na ra hoa trái vụ để cây cho thu hoạch vào thời điểm tháng 10 nhằm nâng cao thu nhập”. Biện pháp để na ra trái vụ là cắt tỉa cành để cây được trẻ hóa, thường xuyên đâm chồi mới, ra hoa. Khi nụ hoa hé mở thì tiến hành thụ phấn nhân tạo cho hoa. Sau khi đậu quả, tiến hành khoảng 2 đến 3 đợt cắt loại bỏ quả lép, méo mó mỗi vụ.

Nhiều hộ nông dân ở huyện Kông Chro đã trở nên khấm khá nhờ trồng cây ăn quả. Ảnh: N.S

Nhờ áp dụng đúng kỹ thuật nên tháng 10 năm nay, 300 cây na của gia đình ông Nhất bắt đầu cho thu hoạch trái vụ. Trung bình na trái vụ có giá 47.000 đồng/kg cắt tại vườn, cao hơn 35.000 đồng/kg với chính vụ. Ước tính vụ này, vườn na nhà ông Nhất cho khoảng 2 tấn quả, giúp gia đình thu 80-95 triệu đồng. “Nếu như năm ngoái, sau 2 vụ na, gia đình tôi thu được 100 triệu đồng thì năm nay thu 150 triệu đồng sau khi trừ chi phí. Vì vậy, trong các vụ sản xuất tiếp theo, tôi sẽ nghiên cứu để xử lý cây ra hoa, đậu trái và thu hoạch trái vụ để bán giá cao hơn”-ông Nhất chia sẻ kinh nghiệm.

Ông Nguyễn Quang Quốc-Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Kông Chro-cho biết: Trên địa bàn huyện có khoảng 624 ha cây ăn quả được trồng tập trung ở các xã: Yang Trung, An Trung, Đak Pơ Pho, Sró và thị trấn Kông Chro. Riêng xã Yang Trung có 91,4 ha cây ăn quả, trong đó thôn 9 có đến 72,3 ha gồm các loại: na 30,2 ha, nhãn 21,3 ha, còn lại là các cây trồng khác như: ổi, thanh long, gấc, dừa xiêm lùn... Thời gian qua, địa phương đã đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, từ đó xuất hiện nhiều mô hình mới, cách làm hay, đem lại thu nhập ổn định cho bà con nông dân, trong đó đáng kể nhất là mô hình trồng na dai của gia đình ông Vũ Văn Nhất. Mô hình đã mở ra hướng đi mới để người dân chuyển đổi diện tích vườn tạp, vườn cây kém hiệu quả. Thời gian tới, địa phương sẽ tiếp tục tuyên truyền nhân rộng các mô hình làm kinh tế hiệu quả, góp phần tăng thu nhập cho bà con nông dân, từ đó cải thiện một số tiêu chí trong xây dựng nông thôn mới.

NGỌC SANG

Kinh doanh thức ăn chăn nuôi gặp khó

Nguồn tin: Báo Thái Bình

“Cơn bão” bệnh dịch tả lợn châu Phi đã để lại những hậu quả nặng nề. Không chỉ hàng nghìn hộ chăn nuôi lâm vào cảnh nợ nần mà các đại lý kinh doanh thức ăn chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Thái Bình hiện cũng đang “méo mặt” vì những khoản nợ trong dân ngày một nhiều nhưng rất khó đòi, trong khi lượng thức ăn tồn đọng lớn không biết bán cho ai.

Các đại lý kinh doanh thức ăn chăn nuôi gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của bệnh dịch tả lợn châu Phi. Mấy tháng nay, đại lý kinh doanh thức ăn chăn nuôi của vợ chồng chị Nguyễn Thị Phương ở xã Chương Dương (Đông Hưng) giảm từ 80 - 90% lượng bán so với trước khi bệnh dịch tả lợn châu Phi bùng phát trên địa bàn.

Chị Phương cho biết: Gia đình tôi kinh doanh thức ăn chăn nuôi 4 năm nay, trung bình mỗi tháng bán hơn 30 tấn cám nhưng từ khi xảy ra bệnh dịch, lợn của các hộ chăn nuôi trong vùng mắc bệnh đem đi tiêu hủy hết nên dừng hẳn bán cám lợn, giờ chỉ bán cám cho gà, vịt nhưng với lượng không đáng là bao. Thông thường các hộ chăn nuôi thường mua cám của gia đình, sau 3 tháng xuất bán lợn mới trả tiền nhưng giờ lợn của họ chết hết rồi, cụt cả vốn nên không có tiền trả chúng tôi. Trong khi đó, để có vốn hai vợ chồng phải vay ngân hàng, giờ kinh doanh ế ẩm, tiền không có để trả, lãi mẹ đẻ lãi con, không biết chúng tôi phải xoay sở thế nào.

Cùng cảnh ngộ như chị Phương, anh Đinh Ngọc Thạo, chủ đại lý kinh doanh thức ăn chăn nuôi ở xã Lô Giang (Đông Hưng) cho biết: Tôi kinh doanh thức ăn chăn nuôi 14 năm nay, trải qua rất nhiều đợt dịch bệnh trên đàn lợn rồi giá lợn hơi sụt giảm nhưng chưa bao giờ kinh doanh trong tình trạng khó khăn như đợt bệnh dịch tả lợn châu Phi này. Trên địa bàn xã Lô Giang và các xã lân cận khu vực tôi cung cấp thức ăn chăn nuôi, hộ chăn nuôi nào cũng trống chuồng, chưa thể tái đàn nên cám không bán được cho ai. Trước đây mỗi tháng tôi cung ứng từ 20 - 40 tấn cám cho bà con, giờ mỗi ngày cũng chỉ bán được vài bao cám cho các hộ nuôi gia cầm. Hiện nay bà con còn nợ gia đình khoảng 800 triệu đồng, thế nhưng sau đợt dịch họ cũng kiệt quệ, không có tiền để trả. Giờ đây gia đình rơi vào cảnh “tiến thoái lưỡng nan”, nợ không đòi được, kinh doanh thì ế ẩm, không biết xoay sở như thế nào để kiếm sống. Tôi mong Nhà nước sớm có cơ chế khuyến khích, hướng dẫn người chăn nuôi khôi phục lại sản xuất, bù đắp thiệt hại do bệnh dịch gây ra đồng thời giúp chúng tôi kinh doanh thuận lợi hơn.

Bà Trần Thị Dung, chủ đại lý thức ăn chăn nuôi ở xã Tân Lập (Vũ Thư) cho biết: Từ khi bệnh dịch tả lợn châu Phi xuất hiện đến nay, lượng bán ra của gia đình đã giảm 70% so với trước, hiện nay chủ yếu bán cám cho gia cầm. Việc kinh doanh ế ẩm và chưa biết đến bao giờ có thể ổn định trở lại nên gia đình đang tính chuyển nghề khác để kiếm sống.

Trên địa bàn tỉnh hiện có hàng trăm đại lý thức ăn chăn nuôi. Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết các đại lý bán cám và hộ chăn nuôi vẫn duy trì hình thức là đại lý cung ứng cám trước, đến khi xuất bán gia súc, gia cầm bà con mới thanh toán tiền. Thế nhưng khi bệnh dịch tả lợn châu Phi bùng phát, lợn chết bị tiêu hủy đã làm cho các hộ chăn nuôi kiệt quệ, dẫn đến việc không thể trả nợ cho các đại lý. Trong khi đó, các đại lý thức ăn chăn nuôi khi mua hàng từ các công ty thường phải thanh toán tiền ngay, dẫn đến tình trạng nhiều đại lý rơi vào cảnh nợ nần, không thể duy trì việc kinh doanh.

Chị Trịnh Thị Lê, xã Đông Sơn (Đông Hưng) chia sẻ: Gia đình tôi chăn nuôi 10 năm nay nhưng chưa bao giờ rơi vào cảnh túng quẫn như hiện nay. Toàn bộ lợn mắc bệnh dịch phải tiêu hủy hết, nợ ngân hàng hơn 1 tỷ đồng, nợ đại lý thức ăn chăn nuôi trên 500 triệu đồng. Hiện nay chuồng bỏ trống, người thì chơi mà không thể tái đàn được. Vì vậy, tôi đề nghị sớm chi trả tiền hỗ trợ tiêu hủy lợn bị bệnh cho người chăn nuôi; chỉ đạo hệ thống các ngân hàng khoanh nợ, giãn nợ cho người chăn nuôi và chủ đại lý thức ăn chăn nuôi, hỗ trợ bà con tái sản xuất hoặc tiếp tục cho vay vốn để chuyển sang ngành nghề kinh doanh khác giúp chúng tôi vượt qua giai đoạn khó khăn này.

Đến nay, bệnh dịch tả lợn châu Phi trên địa bàn tỉnh có chiều hướng giảm dần, nhiều xã, phường, thị trấn đã công bố hết dịch, tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay người chăn nuôi vẫn chưa thể tái đàn. Điều này có nghĩa cả người chăn nuôi và các đại lý kinh doanh thức ăn chăn nuôi vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, để tháo gỡ, tỉnh sớm hoàn thành việc hỗ trợ người chăn nuôi có lợn bị tiêu hủy do bệnh dịch tả lợn châu Phi. Chỉ đạo ngành chuyên môn nắm bắt tình hình, hỗ trợ và hướng dẫn về kỹ thuật để người chăn nuôi chuyển hướng từ nuôi lợn sang nuôi các loại vật nuôi khác với thời gian nuôi ngắn, quay vòng vốn nhanh như gà, vịt, thủy sản... để đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường, có thu nhập bù đắp thiệt hại. Tiếp tục làm tốt công tác vệ sinh, tiêu độc, khử trùng, hạn chế bệnh dịch phát sinh, tăng cường hướng dẫn kỹ thuật cho người chăn nuôi để bà con có thể tái đàn khi có đủ điều kiện.

Nhóm phóng viên

Cần hỗ trợ người chăn nuôi heo tái đàn

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Đầu tháng 9-2019, giá heo hơi tại TP Cần Thơ và nhiều tỉnh vùng ĐBSCL chỉ ở mức từ 37.000-41.000 đồng/kg, nhưng bước sang tháng 10 đã vọt lên ở mức 55.000-58.000 đồng/kg (tương đương 5,5-5,8 triệu đồng/tạ) và hiện đang duy trì ở mức cao này. Theo nhiều hộ dân chăn nuôi heo, giá heo hơi ở mức 5,8 triệu đồng/tạ, xuất bán mỗi con heo khoảng 100kg, người chăn nuôi heo có thể đạt mức lời khoảng 2 triệu đồng/con. Nhiều dự báo vào dịp Tết Nguyên đán 2020 nhu cầu thịt heo tăng cao, khả năng giá heo hơi và thịt heo sẽ ở mức cao. Dù vậy, người dân nuôi heo vẫn đang ngại tái đàn...

Ngại rủi ro

Ông Trương Văn Hem, ngụ ấp Đông Hòa, xã Đông Thuận, huyện Thới Lai, cho biết: "Trước đây, tôi thường xuyên nuôi trên 20 con heo thịt, nhưng từ khi có dịch tả heo châu Phi (DTHCP) tôi đã bán gần hết đàn heo, chỉ còn nuôi 6 con heo lứa. Tôi chưa dám tái đàn heo vì sợ rủi ro do dịch bệnh, giá cả không ổn định lâu dài, vì chưa có hợp đồng bao tiêu đầu ra của doanh nghiệp". Bà Nguyễn Thị Tuyền, ngụ ấp Thới Hữu, xã Đông Hiệp, huyện Cờ Đỏ, chia sẻ: "Sau khi 9 con heo bị thiệt hại do bệnh DTHCP, tôi nghỉ nuôi heo gần 2 tháng nay. Gần đây, nghe nói giá heo vượt lên mức hơn 5,5 triệu đồng/tạ, người chăn nuôi heo có thể đạt mức lời rất hấp dẫn, nhưng tôi vẫn chưa dám bắt heo con thả nuôi vì sợ tái phát bệnh DTHCP. Hơn nữa, gia đình tôi cũng gặp khó về vốn đầu tư nuôi heo, lại khó tìm mua con giống. Dự định sẽ bỏ trống chuồng trại trong 6 tháng mới dám nuôi heo trở lại cho an toàn hơn".

Chăn nuôi heo tại hộ bà Nguyễn Thị Huệ ở huyện Cờ Đỏ, TP Cần Thơ.

Hiện nay, vẫn có người dân quyết định tái bầy heo để nắm bắt cơ hội về giá cả đầu ra đang tốt, nhất là các đơn vị, doanh nghiệp chăn nuôi heo theo các mô hình trang trại khép kín đảm bảo tốt vấn đề an toàn sinh học và dịch bệnh. Ngoài ra, người dân chăn nuôi nhỏ lẻ cũng quyết định tái đàn heo. Bà Nguyễn Thị Huệ, ở xã Đông Hiệp, huyện Cờ Đỏ, cho biết: "Dù tình hình bệnh DTHCP còn phức tạp, nhưng tôi vẫn mua 5 con heo con về thả nuôi để chuẩn bị phục vụ nhu cầu thị trường Tết Nguyên đán 2020, hiện heo đã được hơn 20 kg/con, dự kiến sẽ xuất bán sau 4 tháng nuôi. Ngoài ra, tôi còn có 5 con heo lứa, mỗi con nặng khoảng 40kg, sẽ xuất bán trước Tết. Tôi nuôi ít, chấp nhận rủi ro... Thời gian qua, gia đình tôi luôn duy trì nuôi thường xuyên từ 6-10 con heo".

Hỗ trợ người dân tái đàn heo

Từ đầu năm đến nay, người chăn nuôi heo ở TP Cần Thơ chịu tác động của nhiều yếu tố bất lợi do thị trường sản phẩm chăn nuôi có nhiều biến động về giá cả, sức mua và thời tiết, nhất là tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp. Đặc biệt, bệnh DTHCP đã xảy ra gây thiệt hại rất lớn cho người chăn nuôi, với gần 50% đàn heo của thành phố bị ảnh hưởng. Ngành nông nghiệp và địa phương nỗ lực triển khai nhiều giải pháp đồng bộ nhằm phòng chống dịch bệnh và hỗ trợ người dân xuất bán kịp thời lượng heo hơi sạch bệnh để tránh thiệt hại. Một tín hiệu đáng mừng là gần đây bệnh DTHCP có dấu hiệu chậm lại, số hộ dân nuôi heo xảy ra dịch bệnh và số heo tiêu hủy giảm nhiều so với trước đây. Hiện các cơ quan chức năng thành phố và địa phương chủ động khuyến khích và hướng dẫn các trại, hộ chăn nuôi tái đàn, khôi phục sản xuất.

Theo ông Nguyễn Quốc Vinh, Phó Chi cục trưởng Chăn nuôi và Thú y TP Cần Thơ, đơn vị đã tham mưu Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) thành phố xây dựng Kế hoạch tái đàn, khôi phục sản xuất sau dịch bệnh và phát triển chăn nuôi heo bền vững từ nay đến cuối năm 2019. Trong đó, chú ý tăng cường công tác thông tin tuyên truyền để người chăn nuôi tiếp tục nâng cao ý thức về công tác phòng, chống dịch bệnh và thực hiện tái đàn heo đảm bảo theo quy định. Đồng thời, đề nghị UBND các quận, huyện tùy tình hình thực tế địa phương mà xem xét có khuyến cáo để người dân phát triển chăn nuôi các loại vật nuôi phù hợp nhằm bù đắp một phần do thiếu hụt nguồn cung thịt heo trên nguyên tắc kiểm soát được dịch bệnh, cân đối cung cầu thực phẩm và đảm bảo sinh kế cho người dân. Tích cực tuyên truyền để người tiêu dùng không quay lưng lại với thịt heo sạch, an toàn.

Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ Nguyễn Thanh Dũng nhấn mạnh, việc tái đàn heo phải đảm bảo đủ các điều kiện và tiêu chuẩn, tránh bị thiệt hại do dịch bệnh. Sở NN&PTNT TP Cần Thơ cùng các sở, ngành thành phố và địa phương phải tăng cường hướng dẫn nông dân chủ động phòng chống các loại dịch bệnh trên cây trồng vật nuôi, nhất là tăng cường quản lý chặt chẽ đối với bệnh DTHCP. Đẩy nhanh việc thực hiện hỗ trợ cho những hộ dân có heo bị thiệt hại do bệnh DTHCP và kịp thời hướng dẫn, hỗ trợ người dân tại những nơi đủ điều kiện tái đàn, tăng cường nguồn cung heo hơi phục vụ thị trường Tết. Đồng thời, quan tâm công tác kiểm dịch thú y, quản lý chặt việc vận chuyển, giết mổ, mua bán heo hơi và thịt heo.

Chi cục Chăn nuôi và Thú y thành phố khuyến cáo người dân và các cơ quan chức năng tại địa phương cần tập trung giám sát, hướng dẫn chống dịch và xử lý dịch bệnh theo quy định. Đối với các trang trại, hộ chăn nuôi chưa xảy ra dịch bệnh, cần tăng cường một số biện pháp kỹ thuật tổng hợp về an toàn sinh học nghiêm ngặt để bảo vệ đàn heo. Khuyến khích tái đàn (nhất là ưu tiên phát triển đàn heo giống cung cấp cho địa bàn thành phố) với điều kiện đảm bảo vệ sinh và chăn nuôi an toàn theo hướng dẫn của Bộ NN&PTNT. Đối với các cơ sở chăn nuôi đã xảy ra dịch bệnh, khi tái đàn cần đảm nghiêm ngặt các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học và các điều kiện theo quy định. Cụ thể, như kiểm soát chặt chẽ người, động vật, côn trùng, chuột, các vectơ truyền bệnh ra vào khu vực chăn nuôi. Cải tạo lại chuồng trại, phải thường xuyên vệ sinh, sát trùng, tiêu độc. Có lưới bao xung quanh chuồng nuôi để ngăn chặn động vật mang trùng như chuột, chim, ruồi, muỗi... Không sử dụng thức ăn thừa để nuôi heo, thức ăn phải đảm bảo có nguồn gốc rõ ràng. Khuyến cáo nên sử dụng chế phẩm vi sinh trong thức ăn. Nguồn nước sử dụng cho chăn nuôi heo phải đảm bảo an toàn, không sử dụng nước sông, mương, ao hồ chưa được xử lý để tắm rửa hoặc cho heo uống. Nếu sử dụng thì phải thực hiện các biện pháp xử lý nước theo quy định. Heo được nhập về nuôi phải có nguồn gốc rõ ràng, khỏe mạnh và phải có kết quả xét nghiệm âm tính với mầm bệnh DTHCP. Đối với heo nhập từ ngoài thành phố phải có Giấy kiểm dịch. Chấp hành các quy định phòng, chống dịch bệnh của cơ quan thú y và chính quyền địa phương...

Bài, ảnh: KHÁNH TRUNG

Ia Pa (Gia Lai): Nông dân thoát nghèo nhờ hỗ trợ sinh kế nuôi dê lai

Nguồn tin: Báo Gia Lai

Với khả năng sinh trưởng, chống chịu bệnh tốt, không kén thức ăn, thích ứng với điều kiện thời tiết khắc nghiệt khô nóng nên dê lai Bách Thảo và dê Boer đang trở thành vật nuôi được nhiều nông dân huyện Ia Pa (Gia Lai) lựa chọn để phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo.

Trao “cần câu”

Từ năm 2017 đến nay, Dự án giảm nghèo khu vực Tây Nguyên đã triển khai 20 tiểu dự án hỗ trợ sinh kế nuôi dê Bách Thảo và dê Boer sinh sản tại 5 xã: Ia Broăi, Ia Tul, Chư Mố, Ia Kdăm và Ia Ma Rơn (huyện Ia Pa) với tổng kinh phí hơn 5,2 tỷ đồng. Trong đó, riêng xã Ia Ma Rơn được hỗ trợ 12 tiểu dự án (12 nhóm) nuôi dê cho 232 hộ dân, hầu hết là người Jrai nghèo và cận nghèo. Mỗi nhóm khoảng 20 hộ được hỗ trợ tổng cộng 260 triệu đồng gồm kinh phí mua dê giống cấp theo định mức mỗi hộ 3 con dê cái, cứ 4 hộ thì có 1 con dê đực; hỗ trợ tập huấn kỹ thuật chăn nuôi, vật tư làm chuồng trại, thức ăn ban đầu, thuốc thú y… Cán bộ của tiểu dự án theo sát từng hộ dân để hướng dẫn cách phòng bệnh, chăm sóc dê mẹ và dê con. Mỗi tháng, các nhóm tổ chức họp 1 lần để bà con chia sẻ kinh nghiệm, trao đổi tình hình sinh trưởng và phát triển của đàn dê cũng như giá cả thị trường.

Ông Rô Kly (thôn Hlim 1, xã Ia Ma Rơn) phấn khởi vì đàn dê phát triển nhanh. Ảnh: Đ.P

Gia đình ông Nay Tuân (thôn Hlim 1, xã Ia Ma Rơn) trước đây thuộc diện hộ nghèo. Sau khi được cấp 3 con dê cái Bách Thảo để nuôi, đàn dê của gia đình ông hiện đã phát triển lên 8 con. Gia đình với 3 nhân khẩu nhờ đó có thêm kế sinh nhai. “Tôi rất vui mừng vì được Nhà nước quan tâm hỗ trợ dê giống để gia đình chăn nuôi, gầy dựng kinh tế. Dê Bách Thảo dễ nuôi lại chóng lớn, đẻ nhiều nên đàn dê của gia đình tăng số lượng nhanh chóng. Cuối năm 2019, gia đình tôi đã thoát nghèo”-ông Nay Tuân phấn khởi nói.

Hộ ông Siu Khoát (cùng thôn) cũng được dự án hỗ trợ mua 3 con dê giống Boer. Đến nay, đàn dê đã tăng lên trên 20 con. Ông Khoát bán bớt 10 con dê cho người dân trong thôn nhân giống. Vui mừng vì tìm thấy cơ hội thoát nghèo, ông Khoát bày tỏ: “Gia đình tôi không có ruộng, không có đất trồng mì, chỉ đi làm thuê nên cuộc sống khó khăn. Nhờ được Nhà nước cấp dê để nuôi cải thiện đời sống, gia đình đã có tiền để sắm ti vi, xe máy”.

Mở hướng thoát nghèo

Huyện Ia Pa hiện có đàn dê hơn 8.000 con. Tuy nhiên, chiếm đa số vẫn là giống dê cỏ địa phương có trọng lượng nhỏ (20-25 kg/con dê trưởng thành) nên hiệu quả kinh tế thấp. Còn dê Bách Thảo trưởng thành có cân nặng gấp đôi, lại tạp ăn, nhanh lớn, ít bị dịch bệnh nên năng suất và hiệu quả kinh tế cao hơn. Ông Siu Kuơn-cán bộ Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Ia Pa-cho hay: Vừa qua, Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện đã triển khai dự án “Nhân rộng mô hình nuôi dê Bách Thảo” để ngành chăn nuôi dê phát triển theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Mô hình thực hiện tại xã Ia Ma Rơn và Ia Kdăm với 30 hộ tham gia, mỗi hộ được hỗ trợ 1 con dê đực giống và 50% chi phí thuốc thú y; tổng kinh phí thực hiện 665 triệu đồng. “Mục đích của việc nhân rộng mô hình là cải tạo đàn dê trên địa bàn huyện. Các hộ tham gia được Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện hướng dẫn quy trình kỹ thuật chăn nuôi dê như: cách làm chuồng nuôi đảm bảo cao ráo, sạch sẽ, thoáng mát; cách bổ sung thức ăn tinh, lựa chọn thức ăn thô xanh theo mùa và các biện pháp vệ sinh phòng bệnh để đàn dê luôn khỏe mạnh, khả năng sinh sản tốt”-ông Siu Kuơn nói.

Ông Rô Kly (thôn Hlim 1, xã Ia Ma Rơn) là trưởng nhóm nuôi dê thuộc tiểu dự án hỗ trợ sinh kế có 20 hộ tham gia. Gia đình ông cùng với gia đình anh Ksor Ngol là hộ nghèo ở cùng thôn được cấp 5 con dê cái và 1 con dê đực để nuôi chung. “Tôi thấy giống dê này hơn hẳn giống dê địa phương lâu nay bà con vẫn nuôi. Nguồn thức ăn cho nó cũng dễ kiếm, chủ yếu là lá cây, cỏ... Dê của nhà tôi và bà con phát triển tốt, chưa thấy bị bệnh gì. Chúng đẻ 1 năm 2 lứa, mỗi lứa được 1-2 con. Đến nay, tôi đã bán được 13 con rồi, trong chuồng hiện vẫn còn hơn 10 con dê cái và 2 con dê đực”-ông Rô Kly cho hay.

Theo ông Dương Văn Bắc-hướng dẫn viên cộng đồng của Ban Quản lý Dự án giảm nghèo khu vực Tây Nguyên phụ trách xã Ia Ma Rơn, xã có 12 nhóm nuôi dê, trong đó 9 nhóm đã được cấp dê giống trong 2 năm 2017 và 2018 (riêng 3 nhóm của năm 2019 chuẩn bị được cấp). Nhìn chung, đàn dê tăng trưởng mạnh cả về số lượng và chất lượng, bà con rất phấn khởi. Đàn dê hiện đã tăng lên hơn 1.000 con, là nguồn giống bổ sung cho địa phương phát triển chăn nuôi, giúp ổn định sinh kế cho hàng trăm hộ dân.

Các tiểu dự án hỗ trợ sinh kế nuôi dê Bách Thảo và dê Boer mà Ban Quản lý Dự án giảm nghèo khu vực Tây Nguyên triển khai cùng với dự án “Nhân rộng mô hình nuôi dê lai Bách Thảo” của Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Ia Pa được xem là cách làm mang lại hiệu quả kinh tế cao. Từ đàn dê giống ban đầu này đã lai tạo sinh sản ra đàn dê tốt hơn, đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho các hộ tham gia mô hình. Dự án là hướng khai thác hiệu quả tiềm năng và thế mạnh của địa phương, thúc đẩy ngành chăn nuôi dê phát triển bền vững.

ĐỨC PHƯƠNG

Yên Thế (Bắc Giang): Chuyện con gà đồi và tư duy mới trong sản xuất

Nguồn tin:  Báo Công Thương

Được người dân chăn nuôi đã mấy chục năm, nhưng khoảng 5 năm trở lại đây, gà đồi Yên Thế (Bắc Giang) mới được tiêu thụ rộng rãi với sản lượng lớn, mang lại thu nhập cao cho hàng chục nghìn hộ gia đình. Từ hiệu quả trông thấy của sản phẩm gà đồi, Yên Thế đã và đang tập trung phát triển một số sản phẩm thế mạnh, dựa trên điều kiện tự nhiên thuận lợi của địa phương. Khi chính quyền đồng hành cùng người chăn nuôi

Là người dành nhiều tâm huyết cho vấn đề phát triển kinh tế của huyện Yên Thế nên ông Vũ Trí Hải – Bí thư huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện Yên Thế - rất tự hào khi chia sẻ về các sản phẩm chăn nuôi hàng hoá của địa phương, đặc biệt là sản phẩm gà đồi Yên Thế.

Với tổng đàn gà duy trì ổn định 4-4,5 triệu con/năm, mỗi năm, Yên Thế xuất bán ra thị trường trên 14 triệu con gà thương phẩm. Nhờ giá gà thương phẩm tương đối ổn định nên giá trị từ chăn nuôi gà của Yên Thế tăng hàng năm, riêng năm 2019 ước tính khoảng 1.500 tỷ đồng.

Chăn nuôi gà đồi đã trở thành một nghề với nhiều hộ nông dân ở Yên Thế; giúp nhiều hộ xóa được đói, giảm được nghèo và vươn lên làm giàu. Đến nay, số hộ nuôi gà ở Yên Thế lên tới hơn 12.000 hộ. Hộ ít nhất cũng vài trăm con, hộ nhiều lên tới vài nghìn con, một số trang trại chăn nuôi lớn còn có quy mô trên 10.000 con.

Gà đồi Yên Thế có chất lượng thơm ngon nhờ được chăn thả tự nhiên ngoài vườn đồi theo hướng an toàn sinh học

“Sau khi gà đồi Yên Thế - vật nuôi đầu tiên trong cả nước - được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp chứng nhận nhãn hiệu (năm 2011), Yên Thế đã triển khai nhiều đề án nâng cao chất lượng gà đồi, đẩy mạnh xúc tiến thương mại và tiêu thụ sản phẩm… Trong đó, điểm nhấn là Hội nghị Xúc tiến tiêu thụ gà đồi Yên Thế năm 2017. Những chương trình này đã dần tạo cho người chăn nuôi gà ở Yên Thế có ý thức lựa chọn từ chất lượng con giống đến chăn nuôi sinh học, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn VietGap. Đặc biệt, việc hình thành các chuỗi “sản xuất – chế biến – tiêu thụ” với sự tham gia của nhiều công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã và người nông dân đã đưa gà thương phẩm của Yên Thế đến được với hệ thống siêu thị và nhà hàng lớn trên cả nước. Nhãn hiệu gà đồi Yên Thế cũng đã được bảo hộ sở hữu công nghiệp tại 3 nước Lào, Trung Quốc và Singapore” – ông Vũ Trí Hải cho biết.

Với những cố gắng này, đến nay, gà đồi Yên Thế không chỉ là sản phẩm chủ lực của huyện Yên Thế, mà đã trở thành sản phẩm đặc trưng của tỉnh Bắc Giang. Ông Nguyễn Xuân Hiếu - chủ một trong những trang trại gà lớn ở Yên Thế - chia sẻ: “Hai mươi năm nuôi gà, tôi đã chứng kiến rất nhiều thăng trầm của người nuôi gà ở Yên Thế. Nay có sự đồng hành của chính quyền, của các cơ quan, ban ngành… người nuôi gà ở Yên Thế rất yên tâm vì nếu chăn nuôi đảm bảo an toàn, chất lượng thì sẽ không còn phải lo về đầu ra cho sản phẩm”.

Nông nghiệp gắn với du lịch – Chuyện hôm nay…

Từ hiệu quả thu được sau những bước đi đúng với sản phẩm gà đồi, mấy năm trở lại đây, huyện Yên Thế tiếp tục xây dựng thành công nhãn hiệu cho các sản phẩm có thế mạnh như: Chè Yên Thế, chè xanh Bản Ven, dê núi Hồng Kỳ, mật ong hoa rừng Yên Thế. Trong đó xác định, cơ cấu lại sản xuất theo hướng vùng sản xuất hàng hóa tập trung, chất lượng cao, gắn với sơ chế, chế biến và tiêu thụ nhằm nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm.

Hiện, Yên Thế đã có tổng đàn dê hơn 13.000 con, sản lượng đạt 800 tấn/năm, doanh thu đạt trên 130 tỷ đồng. Tổng đàn ong đạt trên 8.000 đàn, sản lượng mật an toàn, tự nhiên là trên 90 tấn. Sản phẩm chè xanh 530ha, diện tích chè kinh doanh là 480ha, năng suất đạt 9-10 tấn/ha/năm, tổng sản lượng chè búp tươi đạt trên 4.300 tấn/năm. Nhiều sản phẩm của Yên Thế đã đến được với các thị trường tiêu thụ lớn như: Quảng Ninh, Ninh Bình, Hải Phòng, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Hà Nội…

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường tham quan các gian hàng giới thiệu sản phẩm của Yên Thế

Việc hình thành được những vùng sản xuất lớn, sản phẩm chất lượng, cùng với những tiềm năng du lịch sẵn có, chính là nền tảng để Yên Thế tính tới vấn đề phát triển nông nghiệp gắn với du lịch sinh thái, miệt vườn, trải nghiệm, nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, nâng cao thu nhập cho người dân.

Tại Diễn đàn Xúc tiến đầu tư phát triển nông nghiệp, du lịch và tiêu thụ gà đồi Yên Thể tổ chức mới đây tại Yên Thế, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - ông Nguyễn Xuân Cường - bày tỏ sự đồng tình, ủng hộ với định hướng phát triển nông nghiệp gắn với du lịch của Yên Thế. Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, Yên Thế có tới 120 di tích lịch sử, có Lễ hội gắn với người anh hùng áo vải Hoàng Hoa Thám… Cùng với đó là nhiều công trình văn hoá dân gian, các điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Đây chính là điều kiện để Yên Thế có thể phát triển du lịch gắn với trải nghiệm và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. “Lễ hội cũng là một hoạt động bán hàng thời đại. Khách du lịch cũng chính là những người tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và giới thiệu các sản phẩm này đến với những người khác” - Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh.

Đại diện huyện Yên Thế ký kết hợp tác với Sở Công Thương các tỉnh trong thực hiện chuỗi liên kết sản xuất – chế biến – tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp Yên Thế

Với định hướng chung của đất nước là không đô thị hóa một cách ồ ạt, mà tập trung xây dựng những miền quê đáng sống, giàu bản sắc; hướng tới sản xuất các sản phẩm đặc sản, lợi thế... Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhìn nhận: Nếu Yên Thế biết khai thác hiệu quả 80% diện tích đất đồi núi để phát triển các sản phẩm thế mạnh như: Gà, dê, chè… thì hoàn toàn có thể trở thành vùng kinh tế sinh động. Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng đặc biệt lưu ý, Yên Thế phải quan tâm đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã để kêu gọi các đơn vị này tham gia vào các khâu sản xuất, chế biến, thương mại… bởi đây chính là những nòng cốt, giường cột quan trọng giúp sản xuất hàng hóa đạt được hiệu quả và giá trị cao nhất.

Hoàng Mai

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop