Tin nông nghiệp ngày 31 tháng 7 năm 2019

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 31 tháng 7 năm 2019

‘Cùng nông dân bảo vệ môi trường’

Nguồn tin:  Báo Sóc Trăng

Thực hiện Chương trình “Cùng nông dân bảo vệ môi trường gắn liền với xã nông thôn mới và sản xuất nông sản an toàn”, Cục Bảo vệ thực vật (BVTV) phối hợp Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (TT-BVTV) Sóc Trăng tổ chức thu gom bao bì thuốc BVTV tại chi cục và tại xã Thạnh Trị (Thạnh Trị) đem đi tiêu hủy.

Chương trình “Cùng nông dân bảo vệ môi trường gắn liền với xã nông thôn mới và sản xuất nông sản an toàn” do Cục BVTV, Trung tâm BVTV phía Nam và 22 chi cục TT-BVTV phía Nam kết hợp Tập đoàn Lộc Trời thực hiện tại các xã xây dựng nông thôn mới. Chương trình trải qua 7 năm triển khai tại các tỉnh, đã thu gom hơn 60.700kg bao bì thuốc BVTV đã qua sử dụng ngoài đồng cũng như làm 756 hố chứa bao bì thuốc BTVT. Trong 6 tháng đầu năm 2019, chương trình đã phát 21.500 bao chứa chuyên dụng, xây thêm 105 hố chứa bao bì thuốc BVTV sau sử dụng, tổ chức 139 buổi tập huấn cho gần 5.000 nông dân trong và ngoài mô hình điểm và phát 5.220 tờ rơi, dán 242 poster thông tin về chương trình tại các điểm tập huấn.

Bao bì thuốc BVTV được đưa lên xe để đem đi tiêu hủy nhằm bảo vệ môi trường.

Hiện tại đang tiến hành thu gom bao bì thuốc BVTV đã qua sử dụng tại 22 tỉnh, thành phía Nam từ Ninh Thuận đến Cà Mau, dự kiến sẽ thu gom số lượng trên 13.700kg. Tính riêng Sóc Trăng, trong đợt thu gom này đã thu về gần 2.000kg bao bì thuốc BVTV đã qua sử dụng và tất cả các bao bì trên sẽ đem đi tiêu hủy tại Nhà máy Insee Ecocycle Việt Nam.

Phó Chi cục trưởng Chi cục TT-BVTV tỉnh Sóc Trăng Huỳnh Ngọc Hạp cho biết: “Chương trình cùng nông dân bảo vệ môi trường được triển khai tại các địa phương trên địa bàn tỉnh đạt rất nhiều thành công, bởi đã nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cũng như hướng dẫn nông dân từ khâu sử dụng nông dược an toàn, hiệu quả cho đến khâu tiêu thụ vỏ bao bì thuốc BVTV. Thông qua chương trình đã làm lan tỏa việc bảo vệ hệ sinh thái, hướng đến nền nông nghiệp phát triển bền vững, sản xuất ra các sản phẩm nông sản an toàn, góp phần nâng cao thương hiệu nông sản Việt Nam”.

Thúy Liễu

Tây Ninh: Các địa phương ‘khởi động’ phát triển du lịch nông thôn

Nguồn tin:  Báo Tây Ninh

Vừa qua, Báo Tây Ninh có bài “Du lịch nông thôn, bao giờ khởi sắc” phản ánh những hạn chế hoạt động của du lịch nông thôn tại một số địa phương.

Khách đến tham quan vườn nho tại xã Trường Đông, huyện Hoà Thành (ảnh FB).

Ðược biết, hiện nay, một số huyện đã xây dựng kế hoạch, định hướng phát huy lợi thế để phát triển du lịch nông thôn, khắc phục những hạn chế, tồn tại.

Theo Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Gò Dầu, huyện có những thắng cảnh gắn liền các yếu tố tâm linh (chùa, đình) và thiên nhiên (sông nước) hoặc hệ sinh thái miền quê như vườn cây - đồng ruộng - dòng sông cùng với các ngành nghề nông thôn đang phát triển như nghề tráng bánh, làm muối ớt… Tất cả yếu tố này là điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch nông thôn. Ðịnh hướng đến giai đoạn 2020-2030, huyện sẽ phát triển ít nhất 1 khu du lịch nông thôn thuộc các xã có lợi thế như Phước Trạch, Cẩm Giang, Thạnh Ðức, Bàu Ðồn, Phước Ðông.

Bên cạnh đó, huyện có diện tích cây ăn trái khoảng 2.117 ha (số liệu thống kê 2018), trong đó, cây chủ yếu là nhãn, xoài, thanh long, sầu riêng, chôm chôm, mít, vú sữa, quýt, chanh. Ðây cũng là một trong những lợi thế có sẵn để địa phương phát triển du lịch nông thôn. Huyện dự kiến chọn xã Phước Trạch triển khai chương trình Ocop gắn kết với thị trấn Gò Dầu bằng việc tổ chức tour du lịch đường sông (Vàm Cỏ Ðông) và đường bộ (quốc lộ 22); còn xã Bàu Ðồn là vùng du lịch miệt vườn nối kết với vườn cây ăn trái các xã trong huyện gắn với tuyến du lịch núi Bà Ðen.

Theo UBND huyện Dương Minh Châu, huyện đã có kế hoạch phát triển bền vững, bảo đảm hài hoà giữa lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường theo hướng du lịch văn hoá - lịch sử, du lịch sinh thái; bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị du lịch; khai thác các tiềm năng lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, hệ thống di tích lịch sử, văn hoá, cách mạng… và các sản phẩm du lịch có sẵn trên địa bàn. Huyện Dương Minh Châu xác định sẽ phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, thúc đẩy sự phát triển của các ngành khác.

Huyện Dương Minh Châu đưa ra giải pháp đầu tư phát triển, đa dạng hoá, nâng cao chất lượng, hiệu quả sản phẩm, dịch vụ du lịch như du lịch truyền thống, sinh thái, nghỉ dưỡng, vui chơi, giải trí, góp phần lan toả và phát triển du lịch. Trong đó, tập trung phát triển và khai thác tiềm năng du lịch các làng nghề truyền thống, hình thành các vùng chuyên canh trồng ổi, mãng cầu có chỉ dẫn địa lý mãng cầu núi Bà Ðen.

Song song đó, huyện quy hoạch và phát triển du lịch miệt vườn gắn với nông nghiệp công nghệ cao và mô hình du lịch cộng đồng, các loại hình du lịch homestay, du lịch gắn với các làng nghề truyền thống, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao hoặc mô hình du lịch farmstay gắn với miệt vườn, đồng lúa, sông nước.

THẾ NHÂN

Ninh Thuận: Những hợp tác xã nông nghiệp đi đầu trong liên kết sản xuất có hiệu quả

Nguồn tin:  Báo Ninh Thuận 

Thời gian qua, Ban Chỉ đạo đổi mới, phát triển kinh tế tập thể tỉnh đẩy mạnh công tác hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các hợp tác xã nông nghiệp (HTX) thực hiện những mô hình sản xuất có hiệu quả, qua đó nâng cao thu nhập cho thành viên, góp phần xây dựng nông thôn mới. Tiêu biểu là hoạt động hỗ trợ liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm ngày càng đi vào chiều sâu, có hiệu quả.

HTX Dịch vụ tổng hợp Tuấn Tú, xã An Hải (Ninh Phước) thành lập vào tháng 6-2016, hoạt động theo mô hình HTX kiểu mới, ban đầu chỉ có 13 thành viên, đến nay phát triển lên 63 thành viên. Khai thác tiềm năng, lợi thế về điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng thích hợp với canh tác các loại cây trồng cạn ở xã An Hải, HTX vận động thành viên chuyển 35 ha rau xanh sang trồng măng tây xanh, tạo đột phá thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng chú trọng ứng dụng công nghệ cao để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Năm 2017, được sự hỗ trợ của ngành chức năng, chính quyền địa phương, HTX triển khai mô hình cánh đồng lớn sản xuất măng tây xanh, quy mô 20 ha, áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước, giống mới, sử dụng phân bón hữu cơ, cho năng suất cao gấp 1,5 lần so với hình thức canh tác truyền thống trước đây.

Hợp tác xã Dịch vụ tổng hợp Tuấn Tú liên kết sản xuất măng tây xanh ứng dụng công nghệ cao có hiệu quả.

Điểm nổi bật của HTX Tuấn Tú đó là Ban Quản trị luôn cầu thị, đổi mới tư duy, năng động xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh theo hướng liên doanh, liên kết chuyển giao khoa học - kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm. Từ đầu năm 2019 đến nay, HTX ký hợp đồng với Trang trại Nông nghiệp hữu cơ Tiên Tiến bán gần 18 tấn măng tây xanh, lợi nhuận thu được hơn 70 triệu đồng. Anh Hùng Ky, Giám đốc HTX, cho biết: Đạt được kết quả, đó là nhờ có sự quan tâm, hỗ trợ của các cấp, các ngành trong việc tạo điều kiện thuận lợi để HTX tiếp cận được các nguồn vốn ưu đãi mở rộng diện tích sản xuất măng tây xanh. Tiềm năng phát triển cây măng tây xanh trên địa bàn là rất lớn, thời gian tới, HTX tiếp tục tăng cường liên kết với các doanh nghiệp để nhận được sự hỗ trợ về giống, mở rộng diện tích sản xuất, nâng cao thu nhập cho thành viên.

Hợp tác xã Nho Evergreen Ninh Thuận áp dụng kỹ thuật bao trái cây nho trong canh tác mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ảnh: N.S

Cùng với HTX Tuấn Tú, HTX Nho Evergreen Ninh Thuận, phường Văn Hải (Tp. Phan Rang - Tháp Chàm) cũng đã đẩy mạnh liên kết hai chiều, giữa HTX với nông dân và HTX với doanh nghiệp. Đối với nông dân, HTX liên kết canh tác 15 ha nho trồng theo tiêu chuẩn VietGAP, thực hiện các khâu dịch vụ, như: Cung cấp vật tư nông nghiệp, chuyển giao khoa học - kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm cho nông dân. Về liên kết với doanh nghiệp, điểm sáng của HTX là liên kết với Công ty TNHH SX-TM Mộc Thành Quả (TP. Hồ Chí Minh) nhằm đưa sản phẩm vào các siêu thị. Để đáp ứng yêu cầu về chất lượng sản phẩm cao phục vụ người tiêu dùng trong cả nước, HTX phối hợp với Viện Nghiên cứu Bông và Phát triển nông nghiệp Nha Hố áp dụng kỹ thuật bao trái, quy mô 5 ha; đồng thời, thực hiện các quy trình canh tác, thu hoạch, chế biến, đóng gói, bảo quản đảm bảo các tiêu chí về an toàn vệ sinh thực phẩm. Năng lực sản xuất hiện tại của HTX là 24 ha, mỗi năm cung cấp cho thị trường khoảng 100 tấn nho, doanh thu đạt 5 tỷ đồng. HTX đang đứng trước cơ hội lớn để mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, bởi nhu cầu sử dụng nho sạch của người tiêu dùng hiện nay rất lớn. Nhằm tạo ra khối lượng hàng hóa ổn định cung cấp cho các siêu thị, ngoài duy trì và phát triển 2 vùng nguyên liệu chính ở phường Văn Hải (Tp. Phan Rang - Tháp Chàm) và xã Xuân Hải (Ninh Hải), HTX đang xây dựng kế hoạch mở rộng vùng sản xuất nho ở xã Thành Hải (Tp. Phan Rang - Tháp Chàm) và thị trấn Khánh Hải (Ninh Hải). Với đà phát triển mạnh, dự kiến đến cuối năm 2019 thành viên HTX tăng từ 83 hộ hiện nay lên 150 hộ, tổng diện tích sản xuất nho là 75 ha.

Thành công của HTX Dịch vụ tổng hợp Tuấn Tú và HTX Nho Evergreen Ninh Thuận cho thấy, việc tuân thủ phương châm chia sẻ rủi ro, phân phối lợi ích hài hòa trong sản xuất nông nghiệp thông qua hình thức liên kết với doanh nghiệp là rất cần thiết. Đây là hướng đi tất yếu để các HTX hoạt động có hiệu quả, đứng vững trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt.

Anh Tùng

Thành Công Gia Lai: Vượt khó cùng người trồng mía

Nguồn tin: Báo Gia Lai

Liên tục 3 niên vụ gần đây, ngành sản xuất mía đường ở Gia Lai gặp khó khăn do chịu ảnh hưởng của hiện tượng El Nino và áp lực từ đường nhập khẩu. Trong hoàn cảnh đó, Công ty TNHH một thành viên Thành Thành Công Gia Lai (TTC Gia Lai) đã nỗ lực triển khai nhiều giải pháp để hỗ trợ người trồng mía vượt qua khó khăn.

Nông dân yên tâm gắn bó với cây mía

Gia đình ông Phạm Văn Thứ (thôn 3, xã Ia Sol, huyện Phú Thiện) trồng mía đã hơn 20 năm nay với diện tích 5 ha. Niên vụ vừa qua, năng suất mía của gia đình ông đạt trên 70 tấn/ha, lợi nhuận 15 triệu đồng/ha. Là khách hàng gắn bó lâu năm của TTC Gia Lai, ông chưa bao giờ bán mía cho thương lái bên ngoài. Ông Thứ chia sẻ: “Khâu quản lý công, xe, lịch đốn mía của nhà máy ngày càng cải tiến, công bằng. Vụ thu hoạch vừa qua, lệnh đốn mía được thống nhất từ trước khi thu hoạch, niêm yết công khai. Mía chặt đến đâu chở về nhà máy tới đó nên chúng tôi không còn lo việc mía phơi trên đồng. Ngoài ra, nhân viên của Công ty cũng thường xuyên vào nhắc nhở bà con làm cỏ, bón phân, chăm mía”.

Cách đây hơn 1 tháng, TTC Gia Lai tổ chức hội thảo kỹ thuật canh tác, trình diễn bằng cơ giới cải tiến có thể thực hiện 2-3 khâu chăm sóc trong 1 lần giúp giảm chi phí sản xuất. Ông Thứ chỉ đám đất 1 ha vừa mua nằm sát 2 ha mía đang phát triển tươi tốt của gia đình và cho biết thêm: “Năm sau, gia đình tôi sẽ trồng mía luôn trên 1 ha này. Có được 3 ha liền kề, tôi sẽ áp dụng cơ giới hóa các khâu sản xuất. Tôi thấy mấy hộ cày ngầm và để lá sau thu hoạch thì mía phát triển tốt, không có cỏ, giảm được chi phí đầu tư”.

Ông Siu Blunh bên ruộng mía phát triển tốt. Ảnh: N.T

Cũng là khách hàng gắn bó với TTC Gia Lai, ông Siu Blunh-Trưởng nhóm liên kết trồng mía xã Ia Kdăm (huyện Ia Pa) phấn khởi nói: “Nhóm chúng tôi liên kết trồng 5,9 ha mía, năng suất năm vừa rồi đạt 96 tấn/ha. Tuy giá không cao bằng các năm trước nhưng chúng tôi cũng lãi 25 triệu đồng/ha. Năng suất cao một phần do ruộng mía được cày ngầm nên giữ được nước và khi bón phân không bị bốc hơi. Niên vụ vừa qua, TTC Gia Lai thu mua nhanh gọn nên mía không bị khô héo, tái sinh gốc rất tốt”.

Liên kết để phát triển bền vững

Sau gần 3 năm đi vào hoạt động, Hợp tác xã Nông nghiệp Tân Tiến (xã Pờ Tó, huyện Ia Pa) đã chứng minh việc liên kết trồng mía mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với sản xuất nhỏ lẻ. Bà Lê Thị Quỳnh Trang-Chủ tịch Hội đồng Quản trị Hợp tác xã Nông nghiệp Tân Tiến-khẳng định: “Mía là một trong rất ít loại cây trồng được bao tiêu sản phẩm, nông dân không phải lo đầu ra. Nhưng để trồng mía có hiệu quả, bà con cần thay đổi tập quán canh tác. Nhiều người chưa hiểu về các lợi ích khi tham gia hợp tác xã, sợ mất đất khi hợp thửa. Trong khi hiện nay, nông dân áp dụng cơ giới hóa sẽ giảm được 30-40% chi phí canh tác và chủ động trong khâu thu hoạch. Một số người nói muốn đốn chặt mía sớm phải “lót tay”, “o bế cán bộ Công ty” nhưng từ khi trồng mía đến nay, tôi chưa gặp chuyện đó bao giờ. Cán bộ nông vụ của TTC Gia Lai cũng thường xuyên đồng hành cùng người trồng mía từ khâu trồng, chăm sóc đến thu hoạch”.

Ông Hoàng Trọng Tịnh-Giám đốc TTC Gia Lai-cho hay: “Trong tất cả các cây trồng ở Gia Lai, chỉ cây mía có thể áp dụng cơ giới trong các khâu từ trồng, chăm sóc đến thu hoạch. Đây là cây trồng bảo đảm cho hộ dân chủ động phương án canh tác trên diện rộng. Nếu áp dụng cơ giới đồng bộ, người trồng mía vẫn bảo đảm được thu nhập. Để làm được việc đó, nông dân cần phối hợp với nhà máy cùng tháo gỡ những vướng mắc. Công ty luôn lắng nghe và điều chỉnh những vấn đề còn tồn đọng để mang lại lợi ích cho bà con nông dân”.

Theo thống kê, niên vụ vừa qua, vùng nguyên liệu mía của TTC Gia Lai có chữ đường cao hơn so với năm trước. TTC Gia Lai vẫn đang nghiên cứu những phương pháp canh tác tiên tiến có thể áp dụng cho bà con để nâng cao hiệu quả kinh tế. Vì vậy, TTC Gia Lai mong muốn nông dân trồng mía thấu hiểu và đồng hành cùng Công ty vượt qua giai đoạn khó khăn của ngành Mía đường Việt Nam như hiện nay. “Công ty đã công bố chính sách đầu tư năm nay với định mức đầu tư cho mía tơ gần 31 triệu đồng/ha, mía gốc gần 18 triệu đồng/ha, hỗ trợ không hoàn lại tối đa mía tơ là 7,3 triệu đồng/ha và mía gốc là 3,3 triệu đồng/ha tùy theo mức độ áp dụng thâm canh”-ông Tịnh cho biết thêm.

Theo dự báo của các chuyên gia, niên vụ 2019-2020, thị trường sẽ thiếu hụt đường. Đây là tín hiệu lạc quan cho ngành Mía đường nước ta, cũng là cơ hội cho người trồng mía phát triển sản xuất, cải thiện thu nhập.

NGUYỄN TRINH

Giá lúa Hè Thu tăng nhẹ

Nguồn tin: Báo Long An

Đến nay, toàn tỉnh Long An gieo sạ 222.296ha lúa Hè Thu 2019, đạt 100,3% kế hoạch (221.600ha), trong đó, thu hoạch 95.943ha, năng suất khô ước đạt 46,1 tạ/ha, sản lượng 441.825 tấn.

Nông dân thu hoạch lúa Hè Thu

Hiện nay, giá lúa tươi tại ruộng có dấu hiệu tăng nhẹ. Cụ thể, lúa IR50404 từ 4.000-4.100 đồng/kg; lúa OM các loại (OM4900, OM6976,…) từ 4.600-5.100 đồng/kg, tăng 300-400 đồng/kg; nếp từ 5.300-5.500 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 từ 5.300-5.500 đồng/kg, tăng 200 đồng/kg; lúa ST 24 từ 5.200-5.500 đồng/kg, tăng 200 đồng/kg so với tuần trước. Theo nhiều nông dân, giá lúa tăng nhẹ do nguồn cung giảm vì lúa Hè Thu 2019 tại nhiều địa phương được nông dân thu hoạch và bán hết cho thương lái, doanh nghiệp. Ngoài ra, giá tăng do chất lượng hạt lúa Hè Thu đạt tốt, nhờ thời tiết nắng, việc thu hoạch lúa diễn ra đúng tiến độ và không bị ảnh hưởng bởi mưa, gió như các tuần trước.

Để nông dân sản xuất ổn định đầu ra, vụ Hè Thu 2019, ngành nông nghiệp cùng các địa phương ký kết hợp đồng liên kết với 25 doanh nghiệp xây dựng 94 cánh đồng lớn, diện tích thực hiện 7.714,4ha, 2.677 hộ đăng ký tham gia. Đến nay, lúa ở các cánh đồng lớn thu hoạch được 1.813,9ha, năng suất ước đạt 45 tạ/ha, sản lượng ước đạt 8.162,6 tấn, trong đó doanh nghiệp thu mua 1.224,1ha.

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Nguyễn Chí Thiện cho biết: Để vụ Hè Thu 2019 sản xuất hiệu quả, các địa phương cần tập trung chỉ đạo phòng trừ sâu, bệnh trên lúa; tăng cường tuyên truyền, vận động nông dân thường xuyên thăm đồng, chú ý các đối tượng gây hại như sâu năn, ốc bươu vàng, rầy nâu, bệnh vàng lùn - lùn xoắn lá, bệnh đạo ôn lá, ngộ độc phèn, chuột, bọ trĩ...

Hải Phong

Mô hình thâm canh tổng hợp, áp dụng cơ giới hoá trong sản xuất đậu phộng cho hiệu quả cao

Nguồn tin: Báo Tây Ninh

Trung tâm Nghiên cứu chuyển giao TBKT nông nghiệp tỉnh Tây Ninh cho biết thêm, dự án “Xây dựng mô hình thâm canh tổng hợp, áp dụng cơ giới hoá sản xuất đậu phộng tại các vùng trồng chính” giúp nông dân trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong sản xuất, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, giảm chi phí đầu tư, tăng lợi nhuận.

Nông dân xã Thạnh Đức (Gò Dầu) cùng nhân viên Trung tâm Nghiên cứu chuyển giao TBKT nông nghiệp bên mô hình.

Đậu phộng là một trong những cây trồng thế mạnh của Tây Ninh, được trồng nhiều ở các huyện Trảng Bàng, Gò Dầu, Dương Minh Châu. Những năm gần đây, nhiều nông dân không còn trồng đậu phộng mà chuyển đổi cây trồng khác nên diện tích cây đậu phộng ngày càng giảm. Trong khi đó, cây đậu phộng là cây ngắn ngày có giá trị kinh tế cao, có thể dùng làm đối tượng chuyển đổi cơ cấu cây trồng luân canh trên đất lúa.

Nguyên nhân chính của tình trạng giảm mạnh diện tích trồng đậu phộng là do chưa được cơ giới hoá trong các khâu sản xuất. Các khâu xuống giống, thu hoạch phải cần nhiều nhân công. Trong khi lao động ở nông thôn ngày càng trở nên khan hiếm vì đa số đi làm công nhân ở các nhà máy, xí nghiệp nông dân trồng đậu phộng phải rất vất vả tìm công thu hoạch mỗi khi vào vụ. Mặt khác, do công lao động khan hiếm nên giá thuê nhân công ngày càng tăng cao, làm tăng chi phí đầu tư.

Từ năm 2017 đến nay, Trung tâm Nghiên cứu chuyển giao tiến bộ kỹ thuật (TBKT) nông nghiệp, thuộc Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam đã triển khai thực hiện mô hình thâm canh tổng hợp, áp dụng cơ giới hoá trong sản xuất đậu phộng (thuộc dự án xây dựng mô hình thâm canh tổng hợp, áp dụng cơ giới hoá sản xuất đậu phộng tại các vùng trồng chính).

Năm 2017, mô hình được triển khai thực hiện ở xã Truông Mít; năm 2018 được triển khai tại xã Cầu Khởi (huyện Dương Minh Châu). Mục tiêu đến là nâng cao tỷ lệ áp dụng cơ giới hoá lên 70% trong các khâu sản xuất, hiệu quả kinh tế mô hình tăng 20% so với sản xuất đại trà.

Tại xã Cầu Khởi, mô hình thực hiện trong thời gian từ tháng 7 đến tháng 11.2018, diện tích trồng 15 ha với 75 hộ tham gia. Giống đậu phộng sử dụng là GV3 và VD2. Nông dân tham gia mô hình được tập huấn về kỹ thuật sản xuất gieo trồng đậu phộng thương phẩm gắn với cơ giới hoá.

Ngoài ra, Trung tâm Nghiên cứu chuyển giao TBKT nông nghiệp còn tổ chức 3 lớp tập huấn cho khoảng 90 nông dân không tham gia mô hình nắm được quy trình kỹ thuật canh tác đậu phộng thương phẩm và giới thiệu một số thiết bị, máy móc trong các khâu gieo hạt, thu hoạch và bứt củ, qua đó, nông dân có thể áp dụng vào quá trình sản xuất tại hộ gia đình, đồng thời tuyên truyền, hướng dẫn cho các hộ gia đình khác.

Ông Phan Văn Phi (ngụ ở ấp Khởi An, xã Cầu Khởi), là một trong những nông dân tham gia vào mô hình này, cho biết, gia đình ông có đất sản xuất 2 ha, hằng năm sản xuất 3 vụ gồm: vụ lúa Đông Xuân, đậu phộng vụ Hè Thu và hoa màu ở vụ Mùa.

Trước đây, nông dân sản xuất đậu phộng chủ yếu thuê công lao động, chưa áp dụng cơ giới hoá. Khi tham gia vào mô hình này, ông bắt đầu cơ giới hoá ở khâu gieo hạt, thu hoạch và bứt củ. Máy móc tham gia vào quá trình sản xuất đã giúp ông tiết kiệm được chi phí đầu tư, tăng năng suất lao động. Ông Phi giải thích: “Chẳng hạn với khâu lặt đậu, nếu thuê nhân công tôi phải tốn 25.000 đồng/giạ.

Còn dùng máy bứt củ thì chi phí khoảng 22.000 đồng/giạ mà đậu được lặt sạch hơn, tỷ lệ hư hao, thất thoát cũng thấp”. Ông Phi ước tính, với giá bán khoảng 20.000 đồng/kg, lợi nhuận ông thu về từ trồng đậu phộng khoảng 40 triệu đồng/ha. Còn nếu không có cơ giới hoá, lợi nhuận chỉ khoảng 30 triệu đồng/ha.

Hiện nay, mặc dù mô hình trình diễn này đã kết thúc nhưng thấy được lợi ích của cơ giới hoá, ông Phi và nông dân trong vùng đã tiếp nhận và duy trì trong sản xuất. Máy móc chủ yếu được thuê từ các xã lân cận. Ông Phi chia sẻ, nhu cầu sử dụng nhiều nhưng số lượng máy móc còn hạn chế nên có những lúc không đủ máy để làm, nông dân vẫn phải thuê nhân công lao động cho kịp mùa vụ.

Ông Nguyễn Minh Hải - Chủ tịch Hội Nông dân xã Cầu Khởi cho biết, việc thâm canh tổng hợp, áp dụng cơ giới hoá mang lại hiệu quả cao trong canh tác cây đậu phộng, giải phóng được công lao động. Có cơ giới hoá, nông dân rất phấn khởi bởi năng suất, chất lượng nông sản tăng, mang lại lợi nhuận cao.

Theo Trung tâm Nghiên cứu chuyển giao TBKT nông nghiệp, mô hình hỗ trợ cơ giới hoá khâu gieo trồng bằng máy gieo đậu phộng 5 hàng, khâu thu hoạch, bứt củ. Ngoài ra, mô hình còn áp dụng chương trình quản lý dịch hại tổng hợp IPM trên cây đậu phộng... Bước đầu, nông dân vẫn còn lạ lẫm với máy móc áp dụng trong sản xuất đậu phộng và còn hoài nghi về hiệu quả của máy móc. Tuy nhiên, qua thực tế sản xuất, nông dân rất muốn tiếp cận về các loại máy móc này.

Trong thời gian thực hiện mô hình, thời tiết ít mưa, cây phát triển tốt, ít sâu bệnh hại. Tuy nhiên, cũng do ít mưa nên tình trạng thiếu nước đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình sinh trưởng của cây. Kết quả từ mô hình năm 2018 cho thấy, năng suất thu hoạch đạt trung bình 4,4 tấn/ha. Trong khi đó, canh tác đại trà (sản xuất thủ công) chỉ cho năng suất 3,8 tấn/ha. Với giá bán 26.000 đồng/kg (tại thời điểm thực hiện mô hình), lợi nhuận thu về từ áp dụng cơ giới hoá đạt khoảng 57 triệu đồng/ha, tăng trên 40% so với sản xuất đại trà.

Tuy nhiên, số lượng máy móc hỗ trợ còn khá khiêm tốn nên việc luân chuyển giữa các hộ rất khó khăn- nhất là khi việc gieo hay thu hoạch cần thực hiện nhanh chóng để kịp tiến độ mùa vụ. Một khó khăn khác là cơ giới hoá cần áp dụng trên một diện tích lớn, trong khi diện tích mô hình là 15 ha nhưng số hộ tham gia là 75 hộ thì việc chia nhỏ diện tích cho các hộ đã ảnh hưởng rất lớn đến việc cơ giới hoá.

Trung tâm Nghiên cứu chuyển giao TBKT nông nghiệp cho biết thêm, dự án “Xây dựng mô hình thâm canh tổng hợp, áp dụng cơ giới hoá sản xuất đậu phộng tại các vùng trồng chính” giúp nông dân trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong sản xuất, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, giảm chi phí đầu tư, tăng lợi nhuận. Bên cạnh đó, dự án đáp ứng một phần nhu cầu cơ giới hoá cho nông dân trồng đậu phộng tỉnh Tây Ninh trong giai đoạn hiện nay. Năm 2019, mô hình tiếp tục được triển khai thực hiện tại xã Thạnh Đức, huyện Gò Dầu. Hiện nay, nông dân đang xuống giống bằng máy gieo hạt, dự kiến trong tháng 7.2019 sẽ hoàn tất trên toàn diện tích 15 ha.

Trúc Ly

Nông dân cần cẩn trọng, tránh ‘sa lầy’ với... sachi

Nguồn tin: Báo Đắk Nông

Sachi là cây trồng mới xuất hiện ở Việt Nam, mấy năm trước, được nông dân ở các tỉnh phía Bắc trồng. Những năm gần đây, nông dân các tỉnh Tây Nguyên, trong đó có Đắk Nông đang trồng nhiều. Tuy nhiên, nông dân cần cẩn trọng với cây trồng mới này vì đến khi thu hoạch sản phẩm khó bán.

Bỏ bê không thu hoạch

Tháng 8/2018, gia đình bà Nguyễn Thị Bốn, ở thôn 8, xã Đắk Búk So (Tuy Đức) vượt 200 km lên Đắk Lắk mua 3.000 cây giống sachi với giá 4.000 đồng/cây về trồng xen trong vườn cao su, tương đương 1,5 ha, với hy vọng sẽ giúp gia đình phát triển kinh tế. Thế nhưng, sau 1 năm trồng, cây sachi đã cho thu hoạch nhưng lại đang làm cho gia đình bà thất vọng.

Bà Nguyễn Thị Bốn, ở thôn 8, xã Đắk Búk So (Tuy Đức) cho biết mặc dù tận dụng cây cao su để làm trụ cho sachi leo nhưng chi phí đầu tư gần 100 triệu đồng/ha

Bà Bốn chia sẻ: "Tôi xem trên internet thấy người ta bảo sachi là cây trồng mới và cho thu nhập cao, lên đến 150.000 đồng/kg quả khô. Cây sachi trồng không phải phun thuốc sâu, nhiều trái nhưng hiện tại giá quá rẻ nên không muốn chăm, không muốn hái, vì hái về bán rẻ không đủ tiền công. Hiện gia đình còn hơn 1 tấn quả trữ từ đầu năm đến nay chưa bán vì họ trả rẻ. Mới đây, một công ty ở Đắk Mil cũng xuống chốt giá nhưng trừ tiền đầu tư thì cũng hết nên bây giờ gia đình tôi không hái".

Cách đây 1 năm, ông Phạm Văn Khang, ở thôn 8, xã Đắk Búk So được Hội Nông dân tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ khảo sát, triển khai trồng thử nghiệm 1 ha sachi, nguồn giống từ Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. Nhân tiện, ông Khang mua giống trồng thêm 3 ha. Vốn là một nông dân sản xuất giỏi, nhận thấy sự bất ổn của cây sachi, ông Khang sớm bỏ 2 ha, mặc dù trước đó đã đầu tư hàng chục triệu đồng tiền giống, phân bón và thuê công chăm sóc. Với ông Khang, việc sớm bỏ, không chăm sóc 2 ha sachi là để không “lún sâu” vào thiệt hại.

Ông Khang cho biết: "Năm vừa rồi gia đình phải bỏ không chăm sóc 2 ha sachi trồng ở xã Trường Xuân (Đắk Song). Diện tích này tôi trồng trong mùa khô, cây chậm phát triển do thiếu nước. Tôi theo dõi và trao đổi kinh nghiệm với những nông dân trồng sachi thì thấy cây trồng này đòi hỏi lượng nước tưới phải nhiều, gấp 2-3 lần so với tưới cho cà phê. Vì chưa tin tưởng vào cây sachi nên tôi trồng xen cùng với cây sầu riêng. Thế nhưng, trong khi sầu riêng phát triển rất nhanh thì sachi lại không lên nổi. Mùa khô, sachi cần lượng nước nhiều, 2-3 ngày phải tưới một lần, tưới như tưới rau. Việc thu hoạch phải hái lai rai, rất mất công vì sachi không ra trái đồng loạt, mặc dù quả chính để 1 tháng mới hái cũng được nhưng rất mất thời gian".

Hiện nay, gia đình ông Khang chỉ còn lại 2 ha sachi được trồng tại Tuy Đức, trong đó có 1 ha do Hội Nông dân tỉnh chọn trồng thử nghiệm và đều phát triển tốt vì chủ động được nước tưới. Theo tính toán của ông Khang và những hộ trồng sachi, từ khi mua giống đến thu hoạch tổng chi phí hết khoảng 100 triệu đồng/ha, nếu không tận dụng vườn cao su thì còn tốn thêm vài chục triệu đồng làm trụ để cây bám. Ông Khang cũng cho biết, thời điểm ông trồng, sachi có giá 120.000 đồng/kg quả khô, nhưng hiện nay nông dân bán ra thị trường chỉ với giá 10.000 đồng/kg quả khô. Nếu tách vỏ thì sachi có giá 20.000 đồng/kg, còn không bỏ công thì đành bỏ mặc vườn cây, không thu hoạch vì giá cả quá thấp.

Sachi được Hội Nông dân tỉnh triển khai trồng thí điểm tại vườn của ông Phạm Văn Khang ở xã Đắk Búk So (Tuy Đức) phát triển tốt

Diện tích vẫn tăng nhanh

Theo thống kê chưa đầy đủ của Hội Nông dân tỉnh, đầu mùa khô vừa qua nông dân đã trồng khoảng 120 ha cây sachi. Một số công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã dự kiến trong mùa mưa năm nay sẽ mở rộng diện tích và đến nay có thể đã tăng lên khoảng 1.000 ha sachi. Sachi được người dân trồng chủ yếu tại các huyện Tuy Đức, Cư Jút, Đắk Song, Đắk Mil, Krông Nô.

Trong khi những nông dân từng trồng sachi nhưng thấy không có hiệu quả kinh tế nên bỏ mặc, thậm chí chặt bỏ để chuyển sang những cây trồng khác thì mới đây, Hợp tác xã Nông nghiệp Nam Thịnh, thôn 7, xã Nam Bình (Đắk Song) cho biết có kế hoạch liên kết với một công ty trên địa bàn huyện Đắk Mil phát triển cây sachi.

Theo ông Lê Công Sinh, Giám đốc Hợp tác xã Nam Thịnh, giai đoạn 2018-2020, HTX có kế hoạch liên kết trồng 300 ha sachi. Hiện nay, HTX đã hợp đồng với các hộ dân trồng 100 ha sachi, trong đó 10 ha trồng từ năm 2018 bắt đầu cho thu hoạch, còn lại đa số diện tích trồng trong năm nay.

Ông Sinh chia sẻ: Sachi trồng 6 tháng thì ra trái, 9 tháng cho thu hoạch và kéo dài 15 năm. Sau khi làm việc, thỏa thuận hợp đồng, HTX vận động bà con trồng theo quy trình của công ty và được bao tiêu sản phẩm trong vòng 15 năm. Công ty này sẽ thu mua hạt ở mức thấp nhất 50.000 đồng/kg khô và thu mua lá để làm trà. Từ đầu năm đến nay, HTX mới bán cho công ty này khoảng 1 tấn hạt khô với giá 35.000 đồng/kg. Bây giờ, mỗi hộ trồng 1 ha sachi đã nhận của công ty này 20 triệu đồng gồm phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, tổng cộng lên đến 2 tỷ đồng. Công ty bán mỗi cây giống 4.000 đồng, người dân chỉ trả một nửa, khi nào thu hoạch thì khấu trừ 20%. Công ty hợp đồng với HTX hướng dẫn kỹ thuật và hỗ trợ cây giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật cho nông dân.

Bà Nguyễn Thị Chiến, ở thôn Thuận Hải, xã Thuận Hạnh (Đắk Song) hợp đồng với HTX Nông nghiệp Nam Thịnh vừa trồng 1,5 ha sachi được 4 tháng cho biết: "Nghe nói năm đầu được 1,2 tấn, sang năm thì được 3-4 tấn, giá thì ổn định khoảng 40.000-50.000 đồng/kg quả khô, tôi thấy có lợi thì nên làm. Mình có hợp đồng với HTX thì mới dám làm, đất trước đây trồng hoa màu, giờ chuyển sang trồng sachi vì nghe thấy ngon hơn”.

Một phần diện tích sachi của ông Phạm Văn Khang ở xã Đắk Búk So (Tuy Đức) bị chết vì thiếu nước tưới

Chưa có đầu ra chắc chắn

Ông Hồ Gấm, Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh cho biết: "Hạt sachi có thể làm lương thực, bánh, kẹo, dầu ăn, mĩ phẩm và lá làm trà, vỏ và thân ủ làm phân bón… Tuy nhiên, sachi là cây trồng mới của Việt Nam nên hệ thống nghiên cứu về nó chưa được nhiều. Đặc điểm của cây sachi trồng ở các địa phương cũng chưa được các cơ quan chức năng, cơ quan chuyên môn nghiên cứu đầy đủ. Đặc điểm bên ngoài nhìn thấy thì cây sachi có vẻ dễ trồng, không khó. Thế nhưng, hầu hết nông dân chưa biết gì về kỹ thuật, vì chưa được ai tập huấn, có chăng chỉ một vài doanh nghiệp nhỏ tập huấn theo hướng sử dụng các sản phẩm của họ. Mấy năm trước, cây sachi được các doanh nghiệp đưa vào trồng ở các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk… và hầu hết bị thất bại do sau đó các doanh nghiệp không thu mua. Họ nói một đường làm một nẻo, cứ vun vào để cho nông dân trồng, trồng rồi không có đầu ra, chủ yếu là để mua giống, mua phân bón của họ”.

Thực tế, theo tính toán của những hộ dân ở Tuy Đức đã trồng sachi, đầu tư trong 1 năm hết khoảng 100 triệu đồng/ha, đó là gia đình đã tận dụng cọc, trụ hồ tiêu bị chết, máy móc phục vụ sản xuất sẵn có. Ông Phạm Văn Khang, ở thôn 8, xã Đắk Búk So cho rằng, nếu người dân liên kết với các công ty mua cây giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, dây làm giàn… thì không khéo còn lỗ nặng so với tự mua. Nếu bà con mua hạt sachi với giá 120.000 đồng/kg và về tự ươm giống thì chỉ mất khoảng 1.000 đồng/cây. Trong khi nông dân sản xuất theo hợp đồng với công ty thì mua 1 cây giống với giá từ 4.000-6.000 đồng là quá đắt. 1 kg hạt sachi có tới 200 hạt và nếu 1 ha trồng tới 2.000 cây thì chỉ bán giống thôi các công ty cũng đã quá lời.

Ông Hồ Gấm cho biết: “Các doanh nghiệp bây giờ vẫn chơi kiểu không công bằng đối với nông dân. Phân bón, thuốc, giống của họ không có người kiểm định, không ai định giá. Tôi ví dụ, 1 kg phân bón thực chất giá chỉ 2.000 đồng nhưng doanh nghiệp tính 4.000 đồng và họ thu về 2.000 đồng trước, cho nông dân nợ 2.000 đồng thì cũng đã có lời. Mục đích của công ty, doanh nghiệp chủ yếu bán phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và cây giống, rồi sau đó họ tìm lý do nông dân không sản xuất đúng quy trình để không mua sản phẩm. Thực tế, một số doanh nghiệp cố tình “thổi” quy mô, năng lực của mình để nông dân trồng các loại cây trồng theo mục đích trục lợi của họ và sau đó để mặc nông dân "tự bơi"".

Chỉ mới thử nghiệm

Cũng theo ông Hồ Gấm, trong các năm 2017 và 2018, nhiều doanh nghiệp, công ty đến địa bàn các huyện để chèo kéo nông dân trồng cây sachi và vận động Hội Nông dân tỉnh hợp tác, vận động nông dân trồng, nhất là ở huyện Tuy Đức. Thấy “nóng” như thế nên Hội Nông dân tỉnh đề xuất Sở Khoa học-Công nghệ xây dựng đề án trồng 1 ha sachi trên đất của nông dân để thử nghiệm. Giống của Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam cung cấp và trồng theo quy trình của viện. Mô hình được triển khai trồng tại đất của gia đình ông Khang cho thấy sinh trưởng khá nhưng chưa dám khuyến khích phát triển vì thiếu doanh nghiệp có đủ năng lực để hợp tác, liên kết sản xuất. Vì vậy, nếu nông dân biết được có doanh nghiệp, công ty, HTX nào muốn vận động trồng sachi thì nên báo cáo với các cơ quan chức năng, cơ quan chuyên môn và các cấp hội nông dân để kiểm tra năng lực thực tế, từ đó có giải pháp hỗ trợ nên trồng hay không.

Bài, ảnh: Thanh Nga

Khẩn trương phòng trừ sâu keo mùa thu gây hại trên cây ngô

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Chỉ mới xuất hiện mấy tháng nay nhưng sâu keo mùa thu đã lây lan khá nhanh trên địa bàn Đắk Lắk. Với đặc tính cắn phá rất khỏe, lại phát triển nhanh, loại sâu này khiến nông dân rất lo lắng.

Ẩn họa nguy hiểm

Theo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, sâu keo mùa thu là loại sâu hại mới xâm nhập vào Việt Nam từ trước tháng 4-2019. Tại Đắk Lắk, loại sâu này được phát hiện đầu tiên vào tháng 5-2019 tại huyện Lắk, với khoảng 400 ha bị phá hại. Sau đó lan ra các huyện Ea H'leo, Krông Bông, Ea Súp, M’Đrắk, Ea Kar, Buôn Đôn, TP. Buôn Ma Thuột với mật độ phân bố khoảng 8 - 12 con/m2... Tính đến ngày 16-7-2019, cây ngô vụ hè thu đã bị sâu keo mùa thu gây hại diện rộng, diện tích nhiễm trên 3.017 ha; mật độ phổ biến 1 - 20 con/m2, xuất hiện tại hầu hết diện tích trồng ngô trên toàn tỉnh.

Đơn cử, tại huyện Krông Bông, đến nay đã có 600 ha ngô bị sâu keo mùa thu gây hại, trong đó có 310 ha nhiễm nặng (từ 8 - 10 con/m2). Từ hai xã được phát hiện đầu tiên vào cuối tháng 5-2019 là Hòa Lễ (15 ha), Khuê Ngọc Điền (45 ha), với tỷ lệ hại trung bình, thì đến giữa tháng 7-2019, loại sâu này đã gây hại cho cây ngô trên địa bàn 5 xã nữa là Hòa Sơn, Hòa Phong, Cư Pui, Cư Đrăm, Yang Mao. Đặc biệt, ở xã Hòa Sơn, có khoảng 60 ha ngô bị sâu keo mùa thu gây hại nặng, với khoảng 80 - 90% số cây bị hại.

Cán bộ Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật phối hợp với Phòng NN-PTNT huyện Krông Bông kiểm tra tình hình sâu keo mùa thu gây hại trên địa bàn.

Theo Phòng NN-PTNT huyện Krông Bông, tổng diện tích ngô đã gieo trồng trong vụ hè thu 2019 là 5.096 ha. Hiện nay, trà ngô sớm đang ở giai đoạn trổ cờ đến phun râu; trà muộn đang trong giai đoạn phát triển thân lá. Thực tế ghi nhận tại các ruộng ngô được kiểm tra cho thấy, các trà ngô muộn bị sâu keo mùa thu gây hại nặng hơn các trà ngô sớm, lên đến 80 - 90%.

Trong khi đó, trà ngô sớm mặc dù được người dân xử lý phun thuốc, cây ngô đã dần hồi phục và đang trổ cờ, phun râu nhưng vẫn thấy triệu chứng của sâu keo mùa thu đang tấn công đục vào cờ ngô khiến một số cây ngô đã không trổ, thoát cờ được. Hiện Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đang tích cực rà soát, thống kê và hướng dẫn nông dân các biện pháp phun diệt trừ. Trạm cũng đã tổ chức được 2 lớp tập huấn về các biện pháp phòng trừ sâu keo mùa thu cho hai xã là Hòa Lễ và Khuê Ngọc Điền; các xã còn lại Trạm chưa thể triển khai tập huấn được do thiếu kinh phí.

Tại huyện Ea H’leo cũng đã phát hiện 327/9.885 ha ngô bị sâu keo mùa thu gây hại. Mặc dù Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật huyện cũng đã hướng dẫn nông dân sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để diệt trừ hoặc nhổ bỏ, đốt, vùi diện tích ngô bị sâu gây hại nặng để tiêu hủy nguồn bệnh, tránh lây lan nhưng nhiều hộ dân vẫn chưa tuân thủ đầy đủ và đúng theo quy trình kỹ thuật khiến sâu keo mùa thu lây lan nhanh khi gặp điều kiện thuận lợi.

Chủ động phòng trừ ngay từ đầu

Hiện diện tích cây ngô vụ hè thu năm 2019 trên địa bàn tỉnh là 54.334 ha, tập trung ở một số huyện như: Krông Bông 5.096 ha, Krông Pắc 6.294 ha, Cư M’gar 4.250 ha, Ea H’leo 9.880 ha... Theo dự báo của Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, trong thời gian tới, thời tiết nắng mưa đan xen sẽ thuận lợi cho sâu keo mùa thu phát sinh, phát triển có thể gây hại mạnh đối với trà ngô muộn từ khi mới gieo cho đến 7 - 8 lá, do đó các địa phương không được lơ là, chủ quan trước loài sâu hại mới này. Bởi theo thông tin từ Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN-PTNT), tính đến nay, cả nước có gần 15.000 ha ngô nhiễm sâu keo mùa thu, trong đó có gần 1.300 ha bị nhiễm nặng. Hai khu vực có diện tích nhiễm lớn nhất là Bắc Bộ và Nam Trung Bộ - Tây Nguyên, chiếm trên 94% tổng diện tích. Diện tích, mức độ thiệt hại tiếp tục gia tăng và còn có thể lây lan sang những vụ mùa tiếp theo. Đáng lo ngại hơn, không chỉ gây hại trên cây ngô, sâu keo mùa thu còn nguy hiểm với nhiều loại cây trồng khác nên cần được quan tâm đặc biệt về công tác phòng trừ.

Một ruộng ngô trên địa bàn huyện Krông Bông bị sâu keo mùa thu gây hại.

Trước tình trạng cấp bách trên, ngay từ khi phát hiện sâu keo mùa thu gây hại cây ngô trên địa bàn tỉnh, Sở NN-PTNT đã ban hành các văn bản hướng dẫn cách nhận biết về đặc điểm sâu keo mùa thu; triệu chứng gây hại để người nông dân chủ động phòng trừ, đồng thời phổ biến Quy trình kỹ thuật phòng, chống sâu keo mùa thu của Cục Bảo vệ thực vật đã ban hành. Hiện tại, Cục Bảo vệ thực vật đã lựa chọn tạm thời 4 hoạt chất thuốc bảo vệ thực vật là Bacillus thuringiensis, Spinetoram, Indoxacarb, Lufenuron để phòng trừ sâu keo mùa thu.

Theo đó, các Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật lồng ghép nội dung trên vào các lớp tập huấn về kỹ thuật trồng trọt và phương pháp sử dụng thuốc bảo vệ thực vật an toàn, hiệu quả trên địa bàn; phối hợp với UBND các xã, thị trấn kiểm tra những diện tích canh tác ngô đã phát hiện sâu keo mùa thu, kết hợp với hướng dẫn nhân dân trực tiếp trên đồng ruộng về đặc điểm gây hại và biện pháp phòng trừ sâu keo mùa thu.

Trong thời gian tới, các địa phương thực hiện nghiêm Chỉ thị số 4962/CT-BNN-BVTV, ngày 15-7-2019 của Bộ NN-PTNT về tăng cường công tác phòng, chống sâu keo mùa thu hại ngô; tiếp tục điều tra, thống kê, cập nhật số liệu và theo dõi diễn biến của sâu keo mùa thu; khoanh vùng, nắm chắc diễn biến, diện tích giống ngô bị nhiễm; hướng dẫn nông dân chủ động phòng trừ sâu bằng các biện pháp như: ngắt ổ trứng đem tiêu hủy, bẫy đèn, bẫy bả chua ngọt, bẫy pheromone để diệt sâu trưởng thành; phun thuốc bảo vệ thực vật nơi có mật độ cao khi ngô ở giai đoạn 5 - 7 lá; hướng dẫn nông dân thay thế các giống ngô dễ nhiễm bệnh bằng các giống kháng sâu bệnh tốt hơn...

Theo Phòng NN-PTNT huyện Krông Bông, hiện nay việc hướng dẫn nông dân diệt trừ sâu keo mùa thu đúng cách đang rất cấp bách vì đây là đối tượng dịch hại mới, bà con nông dân chưa biết cách phòng trừ, có những trà ngô đã được bà con nông dân phun từ 2 - 3 lần nhưng vẫn không có hiệu quả. Do đó, cấp trên cần sớm quan tâm, bố trí kinh phí để huyện tổ chức kịp thời các lớp tập huấn, giúp nông dân có kiến thức để phòng trừ sâu keo mùa thu hiệu quả hơn.

Minh Thuận

Ninh Thuận: Nông dân Nhơn Hải trồng hành tím trúng mùa, được giá cao

Nguồn tin: Báo Ninh Thuận

Nông dân xã Nhơn Hải (Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận) phấn khởi thu hoạch hành tím vụ hè - thu năm 2019 vừa trúng mùa, được giá. Đây là cây trồng chủ lực của địa phương, nhờ đó góp phần tăng thu nhập, ổn định, đời sống cho các nông hộ.

Bà Phạm Thị Chín, ở thôn Mỹ Tường 2, đã có kinh nghiệm hơn 30 năm trồng hành, tỏi phấn khởi cho biết: Vụ hè - thu năm nay, hầu hết nông dân trồng hành tím của xã Nhơn Hải đều vui mừng vì được trúng mùa, giá cao nhất từ trước đến nay. Đây là loại hành củ chất lượng cao, giòn, thơm nên được nhiều người trong nước tin dùng. Hiện tại, gia đình bà Chín đầu tư trồng 1,5 sào hành tím, chủ yếu sử dụng giống hành tím tại địa phương (với giá 70 ngàn đồng/kg), trồng khoảng 2 tháng thu hoạch, ước đạt sản lượng hơn 2 tấn/sào. Với giá bán tại vườn hiện nay dao động từ 48-50 ngàn đồng/kg, cao gấp đôi so với cùng kỳ năm 2018. Sau khi trừ chi phí đầu tư khoảng 60 triệu đồng, gia đình bà Chín lãi gần 100 triệu đồng.

Nông dân thôn Phước Nhơn (xã Nhơn Hải) thu hoạch hành tím đạt sản lượng cao.

Đồng chí Trương Trọng Duy, Trưởng phòng Nông nghiệp huyện Ninh Hải cho biết, trong 6 tháng đầu năm 2019, huyện Ninh Hải xuống giống 1.700 ha hành, tỏi, rau, đậu, trong đó có 475 ha hành tím, tập trung sản xuất chủ yếu ở các xã Nhơn Hải, Thanh Hải. Nhờ thời tiết thuận lợi và sự cần cù, tích cực trong lao động sản xuất, sử dụng hệ thống tưới nước tiết kiệm của người dân nên sản lượng ước đạt 9.138 tấn hành. Trong thời gian tới, ngành Nông nghiệp huyện sẽ tiếp tục hỗ trợ nông dân, theo dõi tình hình sản xuất vụ hè - thu; phối hợp cùng các ngành chức năng và địa phương triển khai thực hiện tốt việc phòng, chống bệnh trên cây trồng; khuyến cáo nông dân địa phương trồng hành tổ chức lại sản xuất cho hợp lý, phù hợp với nhu cầu thị trường, để tránh cung vượt cầu, tư thương ép giá.

Văn Nỷ

Lục Nam (Bắc Giang) vui mùa na chín

Nguồn tin: Báo Bắc Giang

Hiện nay, na Lục Nam, tỉnh Bắc Giang đang cho thu hoạch. Khác với những năm trước, giờ đây na đang được điều chỉnh rải vụ, có lịch thu hái theo từng ngày mà không tập trung vào cùng thời điểm. Nhờ vậy, người trồng na có lợi nhuận lớn, không bị ép giá.

Thu nhập cao, cuộc sống khấm khá

Năm nay sản lượng na Lục Nam ước đạt hơn 14 nghìn tấn trên diện tích hơn 1,7 nghìn ha. Khảo sát tại xã Huyền Sơn, vùng trọng điểm na của huyện vào một ngày cuối tháng 7 cho thấy, na tiêu thụ thuận lợi, giá cao, bà con phấn khởi đón mùa quả mới. Ngay trung tâm xã có một dãy ô tô tải hạng nhẹ đỗ chờ “ăn” hàng. Ước tính, Huyền Sơn cung cấp cho thị trường khoảng 20 tấn na mỗi ngày.

Một điểm thu mua na tại xã Huyền Sơn (Lục Nam).

Riêng thôn Khuyên có 4 điểm cân nông sản, khoảng chục thương nhân gom na ở mỗi điểm. Điểm cân nhà ông Nguyễn Văn Tuy có hàng chục lao động đang phân loại, gói, xếp na vào thùng xốp. Ông Tuy cho biết, bà con mang na đến điểm cân từ 6 giờ, đến trước 8 giờ sáng là bán hết. Tại đây, mỗi ngày thu mua khoảng 3-5 tấn na.

Đang đôn đốc người làm thuê đóng hàng, chị Phạm Thị Hằng, thương nhân đến từ Hà Nội vui vẻ nói: “Tôi mang na về bán ở khu vực gần sân bay Nội Bài. Để có hàng đẹp, tôi thường đi từ rất sớm. Đã nhiều năm trong nghề, tôi thấy na Lục Nam chất lượng rất tốt, chúng tôi lấy hàng ở đây được nhiều ngày vì vụ na thu hoạch kéo dài hơn so với trước”.

Đơn vị chuyên môn của huyện Lục Nam đang phối hợp với cơ quan chức năng hoàn thiện các thủ tục xây dựng chỉ dẫn địa lý “Lục Nam” cho quả na dai của huyện. Dự kiến, chỉ dẫn địa lý được công bố vào tháng 8 năm nay.

Xác định na là cây trồng cho thu nhập chính, giúp tăng hiệu quả kinh tế, bà con xã Huyền Sơn tiếp tục mở rộng diện tích. Năm nay, toàn xã có 150 ha na, tăng 20 ha so với năm trước. Với hơn một ha na, vụ này hộ ông Phương Minh Hiến, thôn Khuyên dự kiến thu khoảng 400 triệu đồng.

Từ đầu vụ đến nay, ông Hiến đã bán chừng 2 tấn quả, giá từ 37-45 nghìn đồng/kg. Tương tự, hộ ông Trần Văn Hòa, ông Lưu Văn Khiển ở thôn Văn Giang cũng thu về hàng trăm triệu đồng từ những vườn na.

Tại xã Đông Phú (Lục Nam) có hơn 100 ha na, tập trung tại thôn Yên Bắc và Phong Quang. Giá na tại đây dao động từ 30-45 nghìn đồng/kg (tùy loại). Đứng trên gác thượng của một tòa nhà phóng tầm mắt, Đông Phú hiện hữu là một vùng quê trù phú. Đường bê tông phẳng phiu uốn lượn quanh vườn quả xanh ngắt. Nhiều ngôi nhà lợp ngói, mái tôn đỏ, xanh khiến cho bức tranh quê thêm sống động. Cây na đã mang lại cuộc sống ấm no cho người dân sở tại.

Sản phẩm an toàn, bền cây

So với một số cây ăn quả khác na Lục Nam vẫn được mùa dù thời tiết bất thuận. Điểm đặc biệt, sản phẩm không thu hoạch dồn vào cùng một thời điểm mà rải vụ, tránh bị thương lái ép giá. Bà con chủ động được thời điểm na chín theo từng ngày, thu hoạch kéo dài từ nay đến tháng 11 Âm lịch thay vì chỉ 20 ngày như trước đây. Cuối năm, na bán tại vườn bình quân 60-70 nghìn đồng/kg, tính ra một thúng na tương đương cả tạ thóc.

Ông Bùi Văn Quang, Giám đốc HTX Na dai Lục Nam chia sẻ, giờ đây người dân trong xã làm chủ kỹ thuật về thụ phấn nhân tạo, điều chỉnh thời điểm na ra quả. Na chủ yếu ra quả từ thân, cành chính, quả đủ dinh dưỡng, vị ngọt đậm và to hơn. Với việc thành lập được HTX, các thành viên trao đổi kinh nghiệm, thống nhất không “bắt” quả trùng nhau.

Để dễ hình dung, ông Quang dẫn khách đi thăm vườn. Cả vườn na rộng lớn là những cây ngang tầm với, dễ hái quả. Nhiều quả nằm gọn tại cành, đoạn thân từ gốc lên ngọn hoặc cành chính đều nhú mầm xanh. Chỉ vào một đốt mầm, ông Quang bảo: “Những đốt này chỉ sau một tháng nữa sẽ bật chồi dài, cho hoa, đậu quả”. Cầm theo chiếc kéo, chốc chốc, ông Quang lại cắt một cành lộc mập mạp bởi biết cành đó chỉ nuôi lá, không trổ bông.

Người trồng na Lục Nam cũng tích cực áp dụng biện pháp chăm sóc an toàn, sản phẩm bảo đảm vệ sinh thực phẩm, giúp na bền cây. Na là cây trồng khó tính, nếu không chăm sóc tốt thì chỉ khai thác được 1-2 vụ là tàn. Thực tế, ở nhiều hộ, na đã bị bệnh, chết hàng loạt phải phá bỏ.

Rút kinh nghiệm, các nhà vườn chú trọng bón phân hữu cơ, chế phẩm sinh học giúp cây khỏe, tăng khả năng chống chịu sâu bệnh. Đây cũng là cách mà người trồng na tự bảo vệ sức khỏe cho mình vì ít phải dùng đến phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật.

Lục Nam có nhiều lợi thế về phát triển cây ăn quả, trong đó na dai là sản phẩm chủ lực của địa phương, luôn được huyện quan tâm, hỗ trợ. Hiện đơn vị chuyên môn của huyện đang phối hợp với cơ quan chức năng hoàn thiện các thủ tục xây dựng chỉ dẫn địa lý “Lục Nam” cho quả na dai của huyện. Dự kiến việc xây dựng chỉ dẫn địa lý được công bố vào tháng 8 năm nay.

Trường Sơn

Ninh Phước (Ninh Thuận): Hỗ trợ nông dân phát triển trồng táo, nâng cao thu nhập

Nguồn tin: Báo Ninh Thuận

Trong những năm qua, huyện Ninh Phước (tỉnh Ninh Thuận) tập trung vận động nông dân mạnh dạn đầu tư, mở rộng diện tích cây táo, góp phần đem lại thu nhập ổn định cho các hộ trên địa bàn.

Theo đánh giá của UBND huyện Ninh Phước, mặc dù táo không phải là cây trồng mới, có thời điểm người trồng phải đối mặt với nhiều khó khăn do giá cả lên xuống thất thường. Tuy vậy, qua thực tế sản xuất, táo vẫn được xem là cây trồng thế mạnh trên địa bàn. Đồng chí Đàng Năng Tom, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện, cho biết: Nghề trồng táo đang có sự phát triển mạnh ở một số xã trong huyện, đa số nông hộ đều nắm vững kỹ thuật trồng cũng như chăm sóc, ưu điểm của cây trồng này phù hợp với điều kiện khí hậu, đất đai trên địa bàn. Toàn huyện hiện có khoảng 721 ha táo, sản lượng hằng năm đạt trên 28.400 tấn. Nhằm tạo điều kiện cho người dân yên tâm sản xuất, ngoài việc xây dựng kế hoạch mở rộng diện tích trồng, huyện cũng tăng cường hỗ trợ về mặt kỹ thuật và tìm đầu ra cho sản phẩm táo sau khi thu hoạch.

Thu nhập ổn định từ cây táo, giúp gia đình bà Phạm Thị Chín có cuộc sống ổn định.

Xã Phước Hậu không chỉ được biết đến là vùng trọng điểm trồng lúa của huyện, tuy nhiên, trong những năm qua, cây táo dần xuất hiện và thay thế hiệu quả cho một số cây trồng kém năng suất, với diện tích hiện có gần 136 ha. Qua tìm hiểu ở một số hộ trồng táo tại địa phương, đa số đều nhận định, cây táo dễ trồng, chỉ đầu tư một lần và có thể thu nhập trong nhiều năm. Bà Phạm Thị Chín, ở thôn Trường Thọ, chia sẻ: Năng suất táo bình quân mỗi vụ đạt từ 2,5-3 tấn/sào, giá bán từ 8-10 ngàn đồng/kg, sau khi trừ chi phí hộ trồng thu lãi khoảng 20 triệu đồng. Ngoài ra, để tránh lãng phí đất, gia đình còn trồng xen canh rau màu dưới gốc táo, giúp tăng thêm thu nhập và hạn chế cỏ dại. Hoạt động tích cực của ngành chức năng, địa phương trong việc chuyển giao khoa học - kỹ thuật, giúp hộ trồng táo giảm đáng kể thiệt hại trong sản xuất; trong đó, phải kể đến phương pháp trùm lưới bao quanh giàn táo đã được nông dân áp dụng đại trà, qua đó hạn chế hiện tượng rụng quả, tiết kiệm đáng kể lượng thuốc bảo vệ thực vật. Mặt khác, nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ngày càng cao của thị trường, từ nguồn kinh phí phát triển sản xuất thông qua các chương trình, dự án, huyện Ninh Phước hỗ trợ bà con canh tác theo quy trình VietGAP, mô hình được xem là hướng đi phù hợp trong việc “sạch hóa” mặt hàng nông sản, mở ra triển vọng mới trong sản xuất táo ở địa phương; nếu như ban đầu chỉ với 2,5 ha trồng thử nghiệm thì đến nay đã nhân rộng lên trên 30 ha. Anh Hồ Văn Thơm, ở thôn Ninh Quý 1, xã Phước Sơn, chia sẻ: Gia đình tôi có có 2,5 sào đất trồng táo theo mô hình VietGAP, mặc dù thực hiện theo quy trình này đòi hỏi nhiều công chăm sóc, ghi chép cụ thể đối với từng thời điểm bón phân, tưới nước. Tuy nhiên, táo sau khi thu hoạch được người tiêu dùng ưu tiên lựa chọn, giá bán cũng cao hơn so với sản xuất thông thường nhờ vào chất lượng cao.

Hướng tới nâng tầm thương hiệu cho sản phẩm táo, ngành Nông nghiệp huyện Ninh Phước xác định bên cạnh ổn định về quy mô sản xuất, thì tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nông dân lựa chọn các giống táo mới có năng suất và chất lượng đưa vào canh tác, thay thế dần các giống cũ đã thoái hóa. Đồng thời, triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ nông dân hướng tới mục tiêu sản xuất tập trung gắn áp dụng khoa học - kỹ thuật trên diện rộng, nhằm nâng cao thu nhập cho bà con, góp phần giảm nghèo bền vững.

Hồng Lâm

Hiệu quả thâm canh nhãn VietGAP

Nguồn tin: Nông Nghiệp VN

Niên vụ sản xuất 2018-2019, Trung tâm Khuyến nông Hưng Yên đã phối hợp với các địa phương trên địa bàn trình diễn thành công nhiều mô hình thâm canh nhãn theo hướng VietGAP.

Nhãn VietGAP luôn được các thương lái săn đón tìm mua tại vườn.

Tổng diện tích đưa vào trình diễn gồm 130ha nhãn các loại, tập trung chủ yếu ở các xã Nhật Tân (huyện Tiên Lữ), Vĩnh Xá (huyện Kim Động), Hàm Tử (huyện Khoái Châu), Minh Tân (huyện Phù Cừ) và Hồng Nam (thành phố Hưng Yên). Hiện các mô hình đã cho thu hoạch quả, sản lượng ước đạt 1.800 tấn, thời vụ thu hoạch sẽ kéo dài tới đầu tháng 10.

Thống kê sơ bộ tại các mô hình cho thấy: Năng suất trung bình của các trà nhãn đạt khoảng 14 tấn quả/ha, cao hơn đối chứng (ngoài mô hình) từ 4-6 tấn/ha, trong đó trà nhãn chín sớm đạt 8-8,5 tấn/ha, trà nhãn chín chính vụ và trà nhãn chín muộn đạt 17 tấn/ha.

Hiện trà nhãn chín sớm đã thu hoạch cơ bản, giá bán trung bình 48.000-50.000 đồng/kg tại vườn (cùng kỳ năm trước 30.000-35.000 đồng/kg), cá biệt trên giống nhãn đường phèn đã bán được 70.000-80.000 đồng/kg. Dự báo vào mùa thu quả rộ, giá nhãn xuất qua thương lái sẽ dao động từ 25.000-30.000 đồng/kg (tùy địa phương).

Nhà vườn Nguyễn Văn Chiến (chủ hộ tham gia mô hình) hồ hởi khoe: "Trong khi khá nhiều vườn nhãn bên ngoài không ra quả hoặc ít quả, thì vườn nhãn của tôi vẫn khá sai quả, sản lượng ước đạt trên 24 tấn, trong đó phần diện tích nhãn sớm đã thu hoạch xong, sản lượng gần 2 tấn, trị giá ngót 10 triệu đồng, số nhãn chín chính vụ cũng đã được thương lái đặt cọc bao tiêu toàn bộ".

Anh Nguyễn Quang Quí ở thôn Cao Đoài, xã Nhật Tân (Tiên Lữ) cho biết, nhãn VietGAP không thể bán giá cao hơn so với sản phẩm cùng loại ngoài chợ, vì người tiêu dùng rất khó phân biệt nhãn sạch và nhãn không sạch. Để bán được nhãn với giá cao hơn phải xuất khẩu hoặc đưa sản phẩm vào chuỗi các siêu thị nông sản sạch trong nước thông qua các HTX hoặc tổ hợp tác sản xuất.

“Tuy không bán được giá cao hơn sản phẩm cùng loại, nhưng nhãn VietGAP lại luôn được các thương lái săn đón tìm mua tại vườn. Theo đó chủ vườn sẽ đỡ công mang nhãn ra ngồi chợ mất ngày mất buổi, lại tránh được hao hụt do mất nước và cân lẻ”, anh Quí chia sẻ.

Được biết, trong quá trình triển khai xây dựng mô hình, Trung tâm Khuyến nông Hưng Yên còn kết hợp xúc tiến thành lập mới được 3 HTX và 7 tổ hợp tác sản xuất cây ăn quả VietGAP, trong đó trọng tâm là cây nhãn. Nhờ vậy đã giúp các nhà vườn sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn.

Một mô hình sản xuất nhãn VietGAP.

Ông Nguyễn Văn Thế, Giám đốc HTX nhãn Miền Thiết (xã Hàm Tử, Khoái Châu) cho hay: "Nhờ thành lập HTX, các nhà nông tham gia mô hình VietGAP trên cây nhãn, đã mua được phân bón trả chậm từ Nhà máy Đạm Phú Mỹ, được nhà máy hỗ trợ tập huấn kỹ thuật bón phân hợp lý trên các đối tượng cây trồng nói chung, cây nhãn nói riêng. Mới đây HTX còn ký được biên bản ghi nhớ xuất khẩu nhãn chín muộn sang thị trường Trung Quốc".

Đến nay các loại nhãn quả sản xuất trong mô hình đều đã được Trung tâm Chất lượng NLTS vùng I Hải Phòng, cấp chứng nhận đạt yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm. Đây không chỉ là tin vui giúp các nhà nông tiêu thụ nhãn quả tốt hơn, mà còn là dấu nét ghi nhận sự nỗ lực của những người làm khuyến nông trên cây nhãn suốt năm qua.

Đạt được các kết quả ấn tượng như trên là do, ngay sau kết thúc mùa thu hoạch nhãn năm 2018, Trung tâm Khuyến nông Hưng Yên đã tiến hành qui hoạch mô hình, đánh giá chất lượng đất canh tác, chất lượng nguồn nước tưới, tuổi của cây trồng, sản lượng quả vừa lấy đi trên cây, kết hợp theo dõi sát mọi biến động của thời tiết, thủy văn khu vực... làm cơ sở để xây dựng công thức bón phân cân đối cho nhãn và điều khiển cho nhãn ra hoa đậu quả theo ý muốn. Đồng thời hướng dẫn các chủ hộ ghi nhật ký làm vườn và xây dựng qui chế giám sát nội bộ quá trình thực hành nông nghiệp tốt trên cây nhãn...

Bằng các giải pháp kỹ thuật và tổ chức thực hiện chi tiết cụ thể nói trên, mô hình VietGAP trên cây nhãn đã đạt được mục tiêu đề ra ban đầu, góp phần cùng các địa phương ổn định sản xuất, đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn.

“Kế hoạch cho các năm tới, sẽ tiếp tục nhân rộng các mô hình VietGAP trên cây nhãn. Trình diễn GlobalGAP trên những cây ăn quả thế mạnh của tỉnh như nhãn và các cây có múi”, lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông Hưng Yên cho hay.

NGUYỄN HẢI TIẾN

riển vọng mô hình nuôi heo rừng lai ở Ia Pa

Nguồn tin: Báo Gia Lai

Từ nguồn vốn hỗ trợ của Dự án Giảm nghèo khu vực Tây Nguyên, xã Ia Ma Rơn (huyện Ia Pa, Gia Lai) đã thành lập nhóm chung sở thích nuôi heo rừng lai sinh sản với 12 thành viên. Sau hơn 1 năm triển khai, mô hình bước đầu mang lại hiệu quả, mở ra hướng đi mới trong phát triển chăn nuôi trên địa bàn.

Bà Hoàng Thị Sầm (thôn Hoa Sen) cho hay: Cuối năm 2017, gia đình bà được cấp 2 con heo cái và 1 con heo đực giống để tham gia nhóm chung sở thích nuôi heo rừng lai sinh sản do Dự án Giảm nghèo khu vực Tây Nguyên hỗ trợ. Sau hơn 1 năm nuôi với hình thức thả rông kết hợp nhốt chuồng cho ăn thêm cám và phụ phẩm nông nghiệp, bà đã xuất bán 2 lứa heo giống với giá 120.000 đồng/kg, thu về hơn 20 triệu đồng. Nhờ số tiền này, gia đình bà đã có thêm điều kiện mở rộng chuồng trại chăn nuôi và thuê đất trồng ớt, sửa chữa nhà ở.

Mô hình nuôi heo rừng lai sinh sản của gia đình bà Hoàng Thị Sầm (thôn Hoa Sen, xã Ia Ma Rơn). Ảnh: H.Đ

Tương tự, chị Đặng Thị Hưng (cùng thôn) cũng tham gia nhóm chung sở thích nuôi heo rừng lai sinh sản do Dự án Giảm nghèo khu vực Tây Nguyên hỗ trợ. Sau khi được tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật và hỗ trợ con giống từ Dự án, chị Hưng đã chăm sóc 3 con heo rừng lai phát triển tốt. Đến nay, đàn heo giống này đã đẻ được 2 lứa. Chị Hưng phấn khởi nói: “Nhà tôi mới xuất bán một lứa heo con được khoảng 12 triệu đồng. Tôi dùng số tiền bán heo để làm chuồng bò và bếp, kho đựng thức ăn. Sắp tới, tôi sẽ đầu tư để nhân rộng đàn heo của gia đình”.

Theo ông Đàm Văn Chiểu-Trưởng nhóm chung sở thích nuôi heo rừng lai sinh sản xã Ia Ma Rơn: Giống heo rừng lai có sức đề kháng cao, thích nghi với môi trường tự nhiên. Trung bình mỗi năm, 1 con heo nái đẻ 2 lứa, mỗi lứa 6-8 con. Giá heo rừng lai giống ổn định ở mức 120.000 đồng đến 160.000 đồng/kg. Như vậy, 1 con heo giống 10 kg đã có giá hơn 1 triệu đồng, nếu nuôi thêm 3 hoặc 4 tháng, heo có thể đạt trọng lượng 30-40 kg đối với heo nái, 50-70 kg đối với heo đực. So sánh giá trị kinh tế thì 20 kg heo rừng lai trị giá bằng 50 kg heo địa phương bán cùng thời điểm. Đặc biệt, thịt heo rừng lai được người tiêu dùng ưa chuộng, kể cả nuôi heo thịt thương phẩm hay nuôi heo nái để bán heo con cũng đều mang lại hiệu quả cao.

“Nhờ sự hỗ trợ từ Dự án Giảm nghèo khu vực Tây Nguyên, bà con được cấp giống heo rừng lai để lập nhóm chăn nuôi. Chúng tôi thường xuyên gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm, kỹ thuật chăn nuôi heo rừng lai. Nhờ vậy, đàn heo của các hộ gia đình đều phát triển tốt, bước đầu mang lại thu nhập cao hơn so với nuôi giống heo trắng lâu nay”-ông Chiểu cho biết.

HIỀN ĐỨC

Thái Nguyên: Thẩm định điều kiện 20 mô hình chăn nuôi gà trên nền đệm lót sinh học

Nguồn tin: Báo Thái Nguyên

Nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi, đồng thời tăng khả năng kháng bệnh của đàn vật nuôi, hiện nay Trung tâm Dịch vụ và nông nghiệp T.P Sông Công (tỉnh Thái Nguyên) đang lập danh sách và thẩm định điều kiện để triển khai 20 mô hình chăn nuôi gà trên nền đệm lót sinh học vào tháng 8 tới.

Theo đó, điều kiện để các hộ tham gia mô hình là chuồng chăn nuôi phải đảm bảo vệ sinh, số lượng gà phải đạt trên 100 con trở lên. Khi tham gia mô hình, các hộ được hỗ trợ 5 triệu đồng/mô hình và được hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi gà trên nền đệm lót sinh học.

Trước đó, năm 2017-2018, T.P Sông Công đã triển khai thực hiện 25 mô hình chăn nuôi (lợn, gà, vịt) trên nền đệm lót sinh học. Đây là hình thức nuôi nhốt gia súc, gia cầm trên nền đệm lót được làm từ những nguyên liệu như: trấu, mùn cưa, rơm, rạ… trộn với men vi sinh, có tác dụng phân hủy phân, nước tiểu của vật nuôi, giảm mùi hôi của chuồng nuôi, không gây ô nhiễm môi trường, giảm nhân công vệ sinh chuồng…

Vi Vân

Nuôi heo sạch bằng cám thảo dược

Nguồn tin: Nông Nghiệp VN

Bằng việc tận dụng các phế phẩm nông nghiệp kết hợp với dung dịch thảo dược, mô hình chăn nuôi heo sạch tại Quảng Ngãi đã đem lại hiệu quả thiết thực.

Không chỉ sản phẩm xuất ra được thị trường ưa chuộng, giá bán cao mà mô hình còn góp phần bảo vệ môi trường.

Heo nuôi bằng thảo dược sinh trưởng tốt, ít dịch bệnh nên giảm được nhiều chi phí đầu vào.

Đầu năm 2019, Hội Nông dân tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Hội Nông dân huyện Nghĩa Hành triển khai hỗ trợ cho hợp tác xã (HTX) chăn nuôi Tân Hòa Phú (xã Hành Tín Tây) triển khai mô hình chăn nuôi heo sạch bằng thảo dược.

Mô hình được thực hiện với quy mô 72 con heo có trọng lượng bình quân từ 12 – 16kg/con trong đó HTX được hỗ trợ 100% con giống và 30% thức ăn thảo dược đậm đặc.

Đây là mô hình được thực hiện theo hộ anh Tạ Hùng Đậu (TX Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc). Mô hình đã nghiên cứu và thử nghiệm thành công bằng việc sử dụng những nông sản sẵn có ở địa phương được phối trộn với cám thảo dược để nuôi heo thịt theo quy mô nông hộ, được nhà nước bảo hộ độc quyền.

Quá trình chăn nuôi từ lúc thả heo đến lúc xuất bán thực hiện với tiêu chí 3 không: Không sử dụng thức ăn cám công nghiệp, không sử dụng thuốc kháng sinh, không sử dụng các chất kích thích tăng trưởng. Toàn bộ thức ăn của heo đều bằng nguồn thức ăn tự nhiên như cám gạo, bột bắp, bột mì và cám thảo được được pha trộn theo tỷ lệ 3:1.

Anh Lê Quang Trung, Giám đốc HTX Tân Hòa Phú cho biết, nuôi heo bằng phương pháp này sử dụng con giống địa phương và các phế phẩm từ nông nghiệp nên chi phí đầu vào rất ít.

Heo nuôi sinh trưởng tốt, ít xảy ra dịch bệnh nên không tốn thuốc thú y, đảm bảo tiêu chí không sử dụng thuốc kháng sinh. Trong quá trình nuôi chủ yếu chỉ sử dụng các loại cây thảo dược tại địa phương để trị các bệnh đơn giản như nhiễm nước, bỏ ăn, tiêu chảy…

Thức ăn của heo chỉ sử dụng các sản phẩm tự nhiên cùng với cám thảo dược theo tỷ lệ 3:1.

Cũng theo anh Trung, để tăng thêm hiệu quả của mô hình thì khi làm chuồng nuôi nên xây dựng nền chuồng bằng gạch men. Bởi với nền chuồng như thế thì có thể hạn chế được hoạt động của heo, ít tiêu hao năng lượng. Ngoài ra, khi heo tiết mồ hôi thì mùi thảo dược sẽ không bị hấp thụ vào nền chuồng mà quay ngược trở lại con heo, tạo mùi thơm đặc trưng của thịt heo so với sản phẩm heo thịt thông thường.

Đến nay, qua 4 tháng nuôi, heo đạt trọng lượng bình quân 80kg/con, tăng 60kg/con so với lúc đầu nuôi. So với nuôi bằng cám công nghiệp, thì heo được nuôi bằng thức ăn thảo dược tăng trưởng chậm hơn, trọng lượng ít hơn khoảng 40kg/con trong cùng 1 thời gian chăm sóc. Tuy nhiên, mô hình này lại đưa ra thị trường sản phẩm thịt sạch có chất lượng thơm ngon, màu sắc tươi đẹp bắt mắt, giá bán cao hơn.

“Mô hình không chỉ thúc đẩy chăn nuôi tại địa phương, nâng cao đời sống và thu nhập mà còn hướng đến sức khỏe của người tiêu dùng. Heo nuôi bằng thảo dược được người tiêu dùng đánh giá cao.

Hiện nay, sản lượng đàn heo của HTX đạt 4.800kg heo hơi. Với giá bán bình quân 42.000 đồng/kg heo hơi, cao hơn từ 10.000 - 12.000 đồng/kg heo hơi so với giá thị trường, mô hình thu về 240 triệu đồng, sau khi trừ chi phí còn lại 60 triệu”, ông Trung cho biết.

Thấy được hiệu quả mà mô hình mang lại, HTX Tân Hòa Phú đã tổ chức nhân rộng ra cho 16 xã viên của HTX và cam kết với tỉnh sẽ cung cấp ra thị trường khoảng 300 con heo sạch trong dịp Tết Nguyên đán sắp tới. Đây cũng là động lực cho nền kinh tế tại địa phương phát triển và cũng cho các xã viên cũng như người dân tham gia liên kết có cơ hội tiếp cận với nền chăn nuôi bền vững, sản phẩm nông nghiệp sạch.

Sau 4 tháng, heo nuôi bằng thảo được đạt trọng lượng bình quân 80kg/con, giá bán cao hơn thị trường từ 10.000 – 12.000 đồng/kg heo hơi.

Ông Từ Văn Khánh, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Nghĩa Hành cho biết: "Để nhân rộng mô hình chúng tôi đã đầu tư hỗ trợ thêm cho HTX. Bên cạnh đó, sắp tới Hội Nông dân huyện sẽ tổ chức hội nghị để đánh giá kết quả đề án vừa rồi cho các hội viên nông dân có tâm đắc với chăn nuôi trên toàn huyện nắm bắt được thông tin cũng như điều kiện tổ chức sản xuất để phát triển mô hình rộng rãi hơn nữa”.

LÊ KHÁNH – KIM SƠ

Thoát nghèo nhờ nuôi thỏ

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Nhờ chịu khó học hỏi và thành công với mô hình nuôi thỏ, nên đến nay gia đình ông Trần Ngọc Dư ở thôn Trại Phong, xã Bảo Thuận (Di Linh, tỉnh Lâm Đồng) đã có thu nhập ổn định và vươn lên thoát khỏi cuộc sống nghèo khó.

Gia đình ông Trần Ngọc Dư đã khá lên nhờ nuôi thỏ. Ảnh: L.Phương

Tâm sự với chúng tôi, trước đây, kinh tế của gia đình ông Trần Ngọc Dư chủ yếu dựa vào vài sào cà phê, nuôi gà thả vườn và đi làm thuê, nhưng đời sống của gia đình ông vẫn luẩn quẩn với cảnh nghèo khó. Nghe lời soeur Tú chia sẻ về định hướng thoát nghèo, năm 2014, ông Trần Ngọc Dư đã tìm mua 3 con thỏ giống về nuôi thử nghiệm. “Trong quá trình nuôi, tôi nhận thấy thỏ là con vật dễ nuôi, kỹ thuật nuôi khá đơn giản, chi phí đầu tư và nguồn thức ăn thấp, tập tính sinh trưởng nhanh, thị trường tiêu thụ ổn định, nên hiệu quả kinh tế mang lại cũng khá cao… Vì vậy, gia đình tôi đã quyết định đầu tư mở rộng chuồng trại để phát triển nuôi thỏ theo mô hình trang trại” - ông Trần Ngọc Dư phấn khởi.

Khu vực chăn nuôi được chủ nhân thiết kế từ các gian chuồng cho đến việc thu gom, xử lý chất thải được thực hiện một cách bài bản và khá khoa học, nên chuồng nuôi sạch sẽ, không gây ô nhiễm đến môi trường xung quanh. Để thuận lợi trong việc quản lý, theo dõi và chăm sóc, ngoài khu vực dành riêng cho thỏ giống hiện có, ông Dư còn chia các khu dành riêng cho từng loại thỏ như: thỏ con sau khi tách mẹ, thỏ thương phẩm và thỏ hậu bị. Song song với việc mở rộng chuồng trại, để đảm bảo nguồn thức ăn cho thỏ, thời gian qua ông Dư đã mạnh dạn phá bỏ khoảng 4 sào cà phê kém hiệu quả để trồng cỏ sả, cỏ voi, cây vông và trồng xoài giống Thái Lan.

Ông Trần Ngọc Dư cho biết: “Thức ăn cho thỏ phổ biến nhất là lá vông. Ngoài ra, cần cho thỏ ăn bổ sung thêm cám công nghiệp, cỏ sả, cỏ voi và một số loại cỏ dại có sẵn trong tự nhiên. Mức tiêu thụ cám của thỏ ít, chỉ tốn từ 300 - 500 đồng/con/ngày”.

Để đàn thỏ luôn khỏe mạnh, ngoài làm tốt công tác vệ sinh chuồng trại, xử lý chất thải, vấn đề phòng bệnh cho đàn thỏ cũng được ông Dư chú trọng. Do thường xuyên chủ động áp dụng quy trình phòng bệnh, thỏ giống (thỏ bố, mẹ) phải được tiêm vắc xin định kỳ 6 tháng/lần, chủ yếu tiêm phòng vắc-xin xuất huyết thỏ…, nên đàn thỏ không xảy ra dịch bệnh.

Sau 5 năm gây dựng, đến nay mô hình trang trại thỏ của ông Trần Ngọc Dư phát triển rất tốt với khoảng 20 con thỏ đực giống, 150 thỏ cái sinh sản và luôn duy trì tổng đàn thỏ ở mức từ 700 - 1.000 thỏ con/tháng.

”Với tập tính sinh trưởng nhanh, trung bình mỗi năm thỏ đẻ 6 lứa, mỗi lứa khoảng 8 con. Sau 3 tháng nuôi, thỏ đạt trọng lượng từ 2,5 - 3 kg/con là có thể xuất bán. Bình quân mỗi năm xuất bán ra thị trường 4 lần, mỗi lần khoảng 100 con thỏ thương phẩm, với giá dao động 75.000 - 80.000 đồng/kg đã mang về lợi nhuận cho gia đình ông trên 80 triệu đồng/năm” - ông Trần Ngọc Dư chia sẻ.

Ngoài cung cấp thỏ thương phẩm cho thị trường, gia đình ông Trần Ngọc Dư còn cung cấp thỏ giống cho bà con trong vùng và nhiều hộ chăn nuôi thỏ trên địa bàn huyện Di Linh và Bảo Lộc.

“Hiện UBND xã Bảo Thuận đã đặt tôi làm chuồng, đồng thời cung cấp con giống để nhân rộng mô hình đến 15 hộ đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn xã cùng nuôi” - ông Trần Ngọc Dư cho hay.

Trong thời gian nuôi thỏ, ông Dư nhận thấy với lượng phân thỏ thải ra khá lớn, ngoài dùng bón cho cỏ, xoài, ông còn trộn với các phụ phẩm nông nghiệp, vỏ cà phê, ủ xử lý với nấm men Trichoderma rồi bán cho các nông hộ trồng trọt có nhu cầu, với ước tính thu được khoảng 30 triệu đồng/năm.

Hiện ông Dư tận dụng chất thải của thỏ để thử nghiệm nuôi trùn quế. Dự tính trong thời gian tới, gia đình ông Dư sẽ chuyển đổi số diện tích cà phê còn lại để trồng cỏ nuôi bò, trồng sầu riêng. Bởi theo ông Trần Ngọc Dư, phân bò rất phù hợp cho việc nuôi trùn quế, khi thành công ông sẽ tiếp tục đầu tư nuôi cá trê…, giúp đa dạng và nâng cao nguồn thu nhập cho gia đình theo mô hình vườn - ao - chuồng.

LAM PHƯƠNG

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop