Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 12 tháng 10 năm 2021

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 12 tháng 10 năm 2021

 

Hiệu quả từ chuyển đổi đất lúa sang cây trồng khác

Nguồn tin: Báo Nhân Dân

Trồng bưởi mang lại hiệu quả kinh tế cho gia đình anh Lê Thành Thái, xã Phú Hữu, huyện Long Phú (Sóc Trăng).

Việc chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang cây trồng khác ở khu vực Nam Bộ đã và đang phát huy được kết quả tích cực, góp nâng cao giá trị sản xuất và thu nhập cho nhân dân. Tuy nhiên, ở một số nơi việc chuyển đổi còn mang tính tự phát, thiếu sự liên kết... dẫn đến đầu ra chưa ổn định.

Là vùng trồng lúa trọng điểm của tỉnh nhưng do ảnh hưởng biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn nên huyện Long Phú (Sóc Trăng) đã chủ động thực hiện chuyển đổi gần 340 ha từ đất trồng lúa kém hiệu quả sang cây trồng khác như: bưởi da xanh, cam, quýt, nhãn, rau màu có giá trị kinh tế cao. Trong đó, cây bưởi được bà con chọn làm cây chủ lực với 122 ha.

Năm 2017, anh Lê Thành Thái, xã Phú Hữu, huyện Long Phú chuyển hơn 3 ha trồng lúa kém hiệu quả sang trồng bưởi da xanh. Để cây phát triển tốt, anh Thái đào ao chứa nước ngọt và áp dụng hệ thống tưới thông minh nên vườn bưởi của gia đình gần như “miễn dịch” với xâm nhập mặn. Đến nay, vườn bưởi của anh Thái cho thu hoạch với sản lượng khá cao và chất lượng đạt chuẩn, thu nhập tăng gấp 5 lần so với trồng lúa trước đây.

Do vùng đất không phù hợp với cây lúa, ông Võ Ngọc Phong, xã Châu Khánh, huyện Long Phú chuyển sang trồng cam sành và bưởi. Ban đầu, ông Phong mua 100 cây bưởi da xanh về trồng nhằm cải thiện thu nhập. Qua thời gian chăm sóc, cây phát triển tốt và cho năng suất khá cao, từ đó gia đình ông tiếp tục mở rộng diện tích thêm 4.000 m2 sang trồng loại cây này và 7.000 m2 trồng cây cam sành.

Hiện tại, vườn cây ăn quả của gia đình ông Phong đang cho năng suất cao, mỗi vụ thu hoạch thương lái đến tận vườn để mua. Mặc dù năm nay giá cam giảm so với trước, nhưng do sản lượng cao nên thu nhập bưởi và cam của gia đình đạt 500 triệu đồng/năm.

Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Sóc Trăng Huỳnh Ngọc Nhã cho biết, để khai thác, phát huy tiềm năng diện tích cây ăn quả thích ứng với biến đổi khí hậu, tỉnh đã quy hoạch sản xuất phù hợp điều kiện tự nhiên của từng vùng nhằm tạo ra số lượng hàng hóa lớn tập trung, thuận lợi cho việc liên kết tiêu thụ sau thu hoạch. Với diện tích trồng cây ăn quả khoảng 32.000 ha, Sóc Trăng là một trong những tỉnh có vùng nguyên liệu phục vụ chế biến, xuất khẩu lớn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) Nguyễn Như Cường cho biết, năm 2021, toàn vùng Nam Bộ thực hiện chuyển đổi khoảng 77.328 ha đất lúa sang trồng cây hằng năm, cây lâu năm và nuôi trồng thủy sản, trong đó vùng Đông Nam Bộ là 6.401 ha, vùng đồng bằng sông Cửu Long 70.927 ha. Trong đó, diện tích chuyển đổi sang trồng cây hằng năm là hơn 51 nghìn ha, diện tích chuyển đổi sang trồng cây lâu năm hơn 14,7 nghìn ha và chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản (tôm - lúa; cá - lúa) hơn 11,4 nghìn ha.

Qua đánh giá, việc chuyển đổi trên đất lúa sang cây trồng khác giúp sử dụng nước tiết kiệm và mang lại lợi nhuận cao hơn trồng lúa; hệ số sử dụng đất tăng lên từ 1,5 đến 2,2 lần tùy điều kiện của từng vùng.

Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Như Cường, hiện nay việc chuyển đổi đất lúa ở khu vực Nam Bộ còn mang tính tự phát, một số nơi chưa phù hợp với kế hoạch chung. Mặt khác, một số cây trồng đưa vào chuyển đổi có lợi thế cạnh tranh kém, đầu ra chưa ổn định do quy mô sản xuất nhỏ lẻ, gây khó khăn cho việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào canh tác, kiểm soát chất lượng. Bên cạnh đó, việc chuyển đổi còn thiếu liên kết với doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm, chưa bảo đảm khâu tiêu thụ mang tính bền vững.

Ở một số địa phương, chính sách khuyến khích chuyển đổi cây trồng trên đất lúa chưa được thực hiện mạnh mẽ. Hơn nữa, một số nơi chưa tính toán chi tiết và phân tích đầy đủ giá trị sản xuất trồng trọt nên việc khuyến cáo, tổ chức chuyển đổi chưa đạt hiệu quả cao; một số vùng chưa hoàn thiện hệ thống thủy lợi, nhất là đê bao, cống bọng, để phục vụ cho vùng sản xuất rau màu có diện tích lớn.

Cục Trồng trọt cho rằng, để khắc phục tình trạng này thời gian tới các địa phương khu vực Nam Bộ cần tăng cường tuyên truyền, vận động và phổ biến rộng rãi về mục đích, ý nghĩa, hiệu quả của việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa kém hiệu quả sang cây trồng khác để thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay.

Đồng thời, lựa chọn giống có năng suất và chất lượng cao, phù hợp với điều kiện của từng tiểu vùng sinh thái, giống có khả năng chống chịu được sâu bệnh tốt; tổ chức tập huấn, hướng dẫn quy trình kỹ thuật từng loại cây trồng chuyển đổi cho các hộ dân ứng dụng nhằm tăng hiệu quả sản xuất. Lồng ghép các chương trình, dự án để thực hiện các mô hình trình diễn hiệu quả nhằm giúp các hộ dân học hỏi áp dụng; kết nối và kêu gọi các doanh nghiệp tham gia liên kết sản xuất, cung ứng giống tốt và bao tiêu sản phẩm ổn định cho bà con nông dân.

Bài, ảnh: BẢO HÂN và NGUYỄN PHONG

Tiềm năng phế phẩm nông nghiệp

Nguồn tin:  Báo Sóc Trăng

Sóc Trăng là một trong những tỉnh chuyên về sản xuất nông nghiệp nên có nguồn phụ phẩm từ ngành nông nghiệp hàng năm khá lớn và nguồn phụ phẩm từ rơm rạ, chất thải trong chăn nuôi, kể cả trong nuôi trồng thủy sản đã được người dân tận dụng trong việc sản xuất nông nghiệp. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học, công nghệ, phụ phẩm từ ngành nông nghiệp đã được sử dụng rộng rãi hơn vào các mục đích khác nhau, góp phần tăng thu nhập cho các đối tác sản xuất, chế biến trong ngành.

Theo thống kê của ngành Nông nghiệp tỉnh, diện tích trồng lúa của tỉnh hàng năm trên 325.000ha, sản lượng lúa trên 2 triệu tấn/năm nên lượng phụ phẩm thải ra khoảng 2 triệu tấn rơm rạ/năm và số lượng rơm rạ được người dân tận dụng làm nguyên liệu trồng nấm, ủ phân bón hữu cơ, làm chất đốt, làm thức ăn chăn nuôi… khoảng 47%. Ngoài ra còn có lượng lớn các phụ phẩm trong lĩnh vực trồng trọt của các loại cây ăn trái, rau màu, nguồn phụ phẩm này, người dân ít tận dụng phục vụ cho việc cung ứng lại sản xuất.

Rơm là một trong những phụ phẩm nông nghiệp được sử dụng nhiều vào việc tái sản xuất nông nghiệp. Ảnh: THÚY LIỄU

Riêng ngành thủy sản thì hàng năm, sản lượng trong lĩnh vực nuôi trồng và khai thác thủy sản tương ứng từ 300.000 - 330.000 tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng 250.000 - 260.000 tấn, sản lượng khai thác 60.000 - 70.000 tấn. Theo đó, phụ phẩm trong nuôi trồng bao gồm vỏ đầu tôm, xương đầu cá, tỷ lệ phụ phẩm được tính theo tỷ lệ 6.4 - 7.0 và phụ phẩm trong khai thác gồm cá phân. Về tận dụng vỏ đầu tôm, trên địa bàn tỉnh có 1 công ty thu mua vỏ đầu tôm để sản xuất Chitin cho công ty tại Cà Mau xuất đi Trung Quốc (tỷ lệ 30kg vỏ được 1kg thành phẩm) và sản lượng thu mua vỏ đầu tôm của công ty khoảng 60 - 80 tấn/tháng. Lượng còn lại, các nhà máy chế biến ký hợp đồng thu gom phụ phẩm với các công ty khác ngoài tỉnh như: Cà Mau, Hậu Giang với giá khoảng 1.000 - 1.300 đồng/kg phụ phẩm và số phụ phẩm còn lại tiếp tục sử dụng làm thức ăn trong chăn nuôi gà, vịt. Còn xương đầu cá và cá phân được sử dụng làm thức ăn cho chăn nuôi hoặc sử dụng tái chế bột cá, bán cho các lái thu mua trong và ngoài tỉnh.

Bên cạnh đó, tỉnh có đàn bò sữa, bò thịt lớn nên số lượng chất thải do đàn bò thải ra hàng ngàn tấn/năm, nguồn này được người dân tận dụng làm chất đốt, phân bón hữu cơ, nuôi trùn quế… Tận dụng nguồn phụ phẩm từ trồng trọt, ngành nông nghiệp cũng đã triển khai các mô hình trong việc sử dụng thân bắp ủ chua để làm thức ăn cho bò, giúp đàn bò sữa kéo dài thời gian cho sữa và giúp bò béo hơn, đặc biệt là thân bắp ủ mềm hơn, bò sẽ ăn hết thân cây ủ. Với lượng phân thải của bò, nhiều hộ nuôi triển khai mô hình nuôi trùn quế hay dùng làm chất đốt, góp phần giảm chi phí mua chất đốt sử dụng tại hộ, tăng thu nhập khi bán trùn quế làm thức ăn cho các loài thủy sản, giúp người nuôi giảm chi phí mua thức ăn công nghiệp. Đặc biệt, việc tận dụng nguồn phụ phẩm trong trồng trọt, chăn nuôi góp phần trong việc giảm thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường sáng - xanh - sạch - đẹp tại khu vực nông thôn, góp phần đạt tiêu chí môi trường, trong 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới tại các địa phương.

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Tấn Phương cho biết: “Nhằm tận dụng nguồn phụ phẩm trong nông nghiệp hiệu quả, bảo vệ môi trường và giảm chi phí sản xuất, chế biến, ngành nông nghiệp đã tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức người dân trong thu gom, xử lý và tái sử dụng các phụ phẩm. Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp đã triển khai các mô hình tận dụng phụ phẩm để làm thức ăn chăn nuôi hay nuôi trùn quế, đem lại thu nhập tốt tại hộ. Cùng với đó, ngành nông nghiệp khuyến cáo hộ dân sử dụng các loại máy cuốn rơm để thu gom rơm và tận dụng nguồn rơm, rạ cho chăn nuôi, ủ phân bón hữu cơ cung cấp cho cây trồng. Đối với nguồn phụ phẩm trong chăn nuôi, ngành khuyến cáo hộ dân tận dụng ủ phân hữu cơ dùng bón cho cây trồng, xây dựng hầm biogas làm chất đốt cũng như khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi, sử dụng phụ phẩm từ sản phẩm thủy sản làm nguyên liệu…”.

THÚY LIỄU

Mô hình giúp nông dân Khmer nâng cao thu nhập

Nguồn tin:  Báo Sóc Trăng

Nhiều năm nay, nông dân Khmer ở vùng nông thôn trong tỉnh Sóc Trăng mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất, chăn nuôi hiệu quả, góp phần nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống.

Khi được hỗ trợ vốn vay ưa đãi của ngân hàng chính sách xã hội, anh Thạch Hoàng Đẹp ở xã Thạnh Phú, huyện Mỹ Xuyên chọn mô hình trồng màu để cải thiện cuộc sống. Hiện nay, việc trồng màu đã giúp anh thoát nghèo, vươn lên khá giả. Anh Đẹp nói: “Lập gia đình ra riêng, tôi được cha mẹ cho 1,5 đất rẫy, Nhà nước hỗ trợ căn nhà và cho vay 30 triệu đồng. Có vốn, có nhà ở, vợ chồng tôi tập trung trồng màu như: bắp cải, khổ qua, cải bông… có thu nhập quanh năm. Nhờ chăm sóc kỹ, chọn cây trồng phù hợp với thời vụ nên cây màu luôn trúng mùa, bán được giá, lợi nhuận khá cao. Hiện nay, cuộc sống khá lên, tôi cất lại nhà tường khang trang, thuê được 3,5 công đất trồng lúa và 1 công đất rẫy để trồng màu”.

Mô hình trồng ớt ở xã Thạnh Phú, huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng) đem lại thu nhập ổn định (ảnh chụp trước khi xảy ra dịch Covid-19). Ảnh: ĐA LIN

Ông Trà Chươl, xã Trường Khánh, huyện Long Phú thì chọn mô hình nuôi bò thịt để làm giàu cho gia đình. Từ 2 con bò ban đầu, ông Chươl đã nuôi suốt 3 năm để nhân số lượng đàn bò. Từ năm thứ 4 trở lên, ông bán từ 2 con bò/năm để lo cho cuộc sống. Ông Chươl nói: “Khi nuôi bò, tôi đã tính toán rất kỹ, trong vòng 3 năm là số lượng bò đẻ nhiều, từ năm thứ 4 trở đi là số lượng bò bán liên tục. Bình quân một năm, tôi bán từ 2 đến 3 con bò, với giá từ 10 đến 20 triệu đồng/con để lo cuộc sống. Nhờ nuôi bò thịt mà cuộc sống tôi đã khá lên, cất được nhà ở khang trang, chuộc lại 5 công đất ruộng cầm cố”. Theo ông Chươl, nuôi bò thịt không khó, chỉ cần vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, có đủ cỏ, rơm cho bò ăn là đàn bò phát triển tốt. Hiện nay, ông Chươl còn nuôi bò Pháp, vì bò Pháp nuôi mau lớn, bán được giá cao. Đặc biệt, khi 8 người con lập gia đình, ông chia một đứa 2 con bò thịt để làm vốn. Nhờ vậy, hiện nay, 8 người con của ông đều có cuộc sống khá giả từ nuôi bò thịt.

Là tỉnh có đông đồng bào dân tộc Khmer với trên 30% dân số của tỉnh, Sóc Trăng đã đầu tư nhiều chính sách đặc thù dành cho hộ đồng bào dân tộc Khmer, nhất là chính sách đầu tư hỗ trợ vốn, giống để phát triển sản xuất. Bên cạnh việc trồng lúa chất lượng cao, mô hình nuôi bò sữa, bò thịt, nuôi gà, trồng màu… được xem là hiệu quả nhất, giúp nhiều hộ Khmer thoát nghèo bền vững và làm giàu chính đáng.

ĐA LIN

Cho thanh long leo giàn - hướng canh tác mới tăng lợi nhuận

Nguồn tin: Báo Hòa Bình

Là nông dân tiên phong thay đổi phương pháp canh tác thanh long bằng việc bỏ trụ bê tông, cho cây leo giàn, mô hình trồng thanh long ruột đỏ của gia đình anh Phí Đình Thịnh, khu Đồng Tâm, thị trấn Ba Hàng Đồi (Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình) vẫn cho hiệu quả kinh tế cao.

Mô hình trồng thanh long trên giàn của gia đình anh Phí Đình Thịnh, khu Đồng Tâm, thị trấn Ba Hàng Đồi (Lạc Thủy) cho năng suất cao hơn từ 1,2 - 1,5 lần so với cách trồng sử dụng trụ bê tông.

Gia đình anh Thịnh là một trong những hộ thành viên trồng thanh long của HTX dịch vụ nông nghiệp Thanh Hà, luôn mong muốn quy trình canh tác tạo ra sản phẩm sạch, bắt kịp xu thế nông nghiệp hiện đại, tiết kiệm và cho lợi nhuận cao hơn. Vì vậy, anh giành nhiều thời gian đi thăm quan mô hình ở một số tỉnh, thành phố, tham khảo tài liệu qua nhiều kênh, tìm hiểu kỹ thuật để áp dụng tại trang trại của mình. Từ tháng 4/2020, anh bắt đầu xây dựng lại mô hình trồng thanh long leo giàn trên diện tích 1 ha. Tận dụng những trụ bê tông cũ, anh dựng giàn hình chữ T chạy dài hết mỗi luống cây, thanh long mọc leo trên giàn thay vì chỉ leo trên các trụ bê tông. Nếu trồng thanh long theo phương pháp truyền thống bằng trụ bê tông, mỗi trụ cách nhau tới 3 m thì với mô hình kiểu mới này, mỗi gốc chỉ cách nhau 0,4 m, vừa tiết kiệm diện tích đất lại giảm công chăm sóc. Anh đầu tư lắp đặt hệ thống tưới thông minh để đảm bảo toàn bộ diện tích cây trồng được cung cấp đủ nước. Bên cạnh đó, diện tích đất giữa các giàn thanh long được trồng thêm cỏ lạc tạo thảm thực vật, nhờ đó đất tăng độ xốp giúp cây sinh trưởng tốt hơn.

Anh Thịnh chia sẻ: Để tạo ra nông sản sạch, gia đình áp dụng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, chỉ sử dụng phân hữu cơ, tăng cường các biện pháp phòng ngừa như vệ sinh vườn, tỉa cành. Phương pháp trồng thanh long trên giàn chữ T giúp chăm sóc theo hàng dễ dàng, lắp béc tưới phun tự động thuận lợi. Khi chăm sóc hay thu hoạch chỉ cần đi thẳng giữa các hàng, không cần đi quanh gốc. Đặc biệt, tính ưu việt của thanh long leo giàn là có thể áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất (sử dụng máy bón phân hữu cơ, phun thuốc, cắt cỏ...) để hạn chế nhân công lao động. Ngoài ra còn có thể trồng xen canh loại cây trồng khác như rau màu trên diện tích giữa các giàn thanh long.

Dù chỉ mới triển khai hơn 1 năm nhưng mô hình thanh long ruột đỏ leo giàn đã cho thấy hiệu quả rõ rệt. Trên cùng một diện tích, trồng thanh long trên giàn chữ T cho năng suất cao hơn từ 1,2 - 1,5 lần so với cách trồng truyền thống. Cũng nhờ có thảm thực vật bên dưới gốc mà cây cho quả rất ngọt, được người tiêu dùng ưa chuộng. Thanh long thu hoạch đến đâu có khách hàng mua hết đến đó. Từ đầu vụ đến nay, gia đình anh Thịnh thu trên 5 tấn thanh long ruột đỏ, dự kiến hết vụ sẽ thu được 10 tấn. Với giá bán hiện tại dao động từ 10.000 - 15.000 đồng/kg, ước tính năm nay gia đình anh thu về khoảng 120 triệu đồng.

Đồng chí Hoàng Đình Chính, Phó trưởng Phòng NN&PTNT huyện Lạc Thủy cho biết: Trên địa bàn thị trấn Ba Hàng Đồi có 40 hộ trồng thanh long ruột đỏ với tổng diện tích 26 ha. Gia đình anh Thịnh là hộ đầu tiên của thị trấn và của huyện áp dụng kỹ thuật trồng thanh long trên giàn chữ T, đây là kỹ thuật trồng mới nhất hiện nay. Theo tính toán, mặc dù chi phí ban đầu cho việc làm giàn cao hơn so với làm trụ bê tông, nhưng có thể đánh giá mô hình cho năng suất, hiệu quả kinh tế cao hơn bởi tiết kiệm được nhân công lao động, mỗi năm cho thu hoạch 4 - 5 lứa. Cuối năm 2020, cùng với các hộ thành viên của HTX dịch vụ nông nghiệp Thanh Hà, sản phẩm thanh long ruột đỏ của gia đình anh Thịnh được công nhận là sản phẩm OCOP 3 sao cấp tỉnh.

Thu Hằng

Tuyên Quang: Hàm Yên chuẩn bị phương án thu hoạch và tiêu thụ cam

Nguồn tin: Báo Tuyên Quang

Trong bối cảnh dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp, khó lường, ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm, UBND huyện Hàm Yên (tỉnh Tuyên Quang) đã xây dựng phương án tiêu thụ cam cho người dân, bảo đảm không để cam tồn đọng.

Gia đình chị Lý Thị Quế, thôn Làng Báu, xã Minh Khương đang thu hoạch vườn cam Vinh 400 gốc với giá bán tại vườn 5.500 đồng/kg. Chị Quế cho biết, năm nay thời tiết cực đoan mưa to, nắng gắt nên sản lượng cam của gia đình giảm 1/3 so với năm 2020, giá bán cũng thấp hơn từ 2 - 3 nghìn đồng/kg. Năm nay, gia đình chị không có lãi từ bán cam quả mà chỉ đủ tiền chi phí, chăm bón. Hy vọng năm sau, tình hình dịch Covid-19 được kiểm soát, giá cam cao hơn để bù đắp chi phí đầu tư cho vườn cam.

Vườn cam sành của anh Nguyễn Bảo Anh, thành viên HTX nông sản sạch Minh Khương chăm sóc theo hướng hữu cơ.

Xã Minh Khương có 458 ha cam, trong đó trên 200 ha cam sành, trên 100 ha cam V2, cam Vinh đang cho thu hoạch. Niên vụ 2021 - 2022, sản lượng khoảng 5.500 tấn. Đồng chí Nguyễn Văn Đạt, Phó Chủ tịch UBND xã Minh Khương cho biết: Cây cam là nguồn thu nhập chính của người dân trong xã, vì thế việc tiêu thụ cam được UBND xã đặc biệt quan tâm. Xã đã xây dựng kế hoạch chăm sóc, thu hoạch và tiêu thụ cam, không để cam tồn đọng. Trước đó, UBND xã tuyên truyền, vận động người dân chăm sóc cam đúng quy trình kỹ thuật, chuyển đổi 8 ha cam sành sang chăm sóc theo hướng hữu cơ, 20 ha chăm sóc theo hướng VietGAP để đảm bảo thương hiệu và chất lượng cam đã được xây dựng những năm qua. Đồng thời, thành lập Hợp tác xã nông sản sạch Minh Khương, tổ hợp tác cam sành để liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.

Anh Nguyễn Bảo Anh, thành viên Hợp tác xã nông sản sạch Minh Khương phấn khởi nói, vào hợp tác xã anh được chia sẻ kinh nghiệm chăm sóc cam tốt hơn. Tới đây, việc tiêu thụ cam sẽ thuận lợi hơn khi hợp tác xã đã có tem truy xuất nguồn gốc. Hơn 1,5 ha cam sành của gia đình đang vào độ đẩy ngọt, khoảng hơn 1 tháng nữa bắt đầu cho thu hoạch. Hy vọng sẽ tiêu thụ được với giá cao hơn.

Bảo đảm tiêu thụ 80.000 tấn cam, ổn định về giá và giữ vững thương hiệu cam sành Hàm Yên trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, UBND huyện đã và đang tích cực liên hệ, phối hợp với các ngành xây dựng phương án tiêu thụ cam cụ thể cho từng thời điểm dịch bệnh Covid-19. Theo đó có 2 phương án được xây dựng gồm: Tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, một số tỉnh, thành phố phải thực hiện giãn cách xã hội và phương án cả nước thực hiện giãn cách toàn xã hội. Cả hai phương án huyện đều phấn đấu tiêu thụ nội tỉnh đạt từ 20 đến 25% sản lượng; tiêu thụ ngoại tỉnh vẫn là chủ yếu chiếm từ 75 đến 80% sản lượng. Trong đó, tiêu thụ ngoại tỉnh dựa vào các thương lái mua tại vườn, tại huyện cung cấp cho các chợ đầu mối tại các tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc...

Bên cạnh các kênh bán hàng truyền thống, UBND huyện Hàm Yên phối hợp với Sở Công Thương đưa vào hệ thống các các siêu thị, các sàn thương mại điện tử như Vỏ Sò, Postmart, dự kiến khoảng 10.000 tấn và tiêu thụ trên các kênh khác.

Người dân xã Minh Khương thu hoạch cam Vinh đầu vụ năm 2021.

Đồng chí Đỗ Văn Hòa, Phó Chủ tịch UBND huyện Hàm Yên cho biết: Thực hiện phương án trên, huyện đã phân công rõ trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị liên quan trong việc đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, tiêu thụ sản phẩm cam trong điều kiện ảnh hưởng của dịch Covid-19. UBND huyện sẽ tiếp tục theo dõi sát diễn biến dịch bệnh và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch Covid-19 và chỉ đạo của tỉnh để cập nhật, điều chỉnh kế hoạch xúc tiến tiêu thụ sản phẩm cam của huyện diễn ra hiệu quả, đảm bảo an toàn phòng chống dịch bệnh. Đồng thời, chủ động kết nối với Sở Công Thương, Trung tâm xúc tiến đầu tư các tỉnh, thành phố hỗ trợ tiêu thụ cam; tạo điều kiện thuận lợi cho các thương nhân đến Hàm Yên khảo sát kết nối tiêu thụ cam cho người dân; đảm bảo các quy định về phòng chống dịch bệnh khi tổ chức thu hái, thu gom sản phẩm cam.

Huyện tiếp tục tăng cường chỉ đạo tuyên truyền, vận động các cấp, các ngành và người dân trên địa bàn huyện, người tiêu dùng trong tỉnh ưu tiên lựa chọn sử dụng, chung tay hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm cam; tiếp tục phối hợp với Sở Công Thương hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã kết nối tiêu thụ sản phẩm cam với các Tập đoàn phân phối, sở hữu các hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện ích như: Big C, Lan Chi, Vinmart&Vinmart+, Fivimart và Citimart; kết nối tiêu thụ trên các Sàn Thương mại điện tử như: Sen đỏ, Vỏ sò, PostMart...

Cùng với đó, huyện chỉ đạo các xã, thị trấn, Công ty cổ phần Cam sành Hàm Yên, các hợp tác xã, tổ hợp tác, rà soát về số lượng, phân loại và chia sản lượng cần tiêu thụ để có giải pháp cân đối nhu cầu tiêu thụ nội tỉnh, số lượng tiêu thụ ngoại tỉnh theo từng đợt thu hoạch để phối hợp, kết nối với các cơ quan, đơn vị tổ chức hỗ trợ tiêu thụ. Các ngành chức năng hướng dẫn người dân thu hoạch cam đúng kỹ thuật để tránh dập, hư hỏng, bảo quản tốt chất lượng, bảo vệ thương hiệu cam sành Hàm Yên.

Với giải pháp cụ thể, phương án tiêu thụ chi tiết, huyện Hàm Yên phấn đấu cơ bản tiêu thụ hết sản lượng cam niên vụ 2021 - 2022. Cam Hàm Yên đã được người tiêu dùng bình chọn là một trong 50 trái cây đặc sản Việt Nam, lọt tốp 10 thương hiệu - nhãn hiệu nổi tiếng; được Cục sở hữu trí tuệ cấp chỉ dẫn địa lý sản phẩm “Cam sành Hàm Yên”, đây là lợi thế để cam Hàm Yên gia tăng sức cạnh tranh trên đường “đua” sàn thương mại điện tử trong và ngoài nước.

Bài, ảnh: Trang Tâm

Thái Nguyên: Khôi nhung bén rễ nơi đại ngàn

Nguồn tin: Báo Thái Nguyên

Đại diện Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Võ Nhai chia sẻ kỹ thuật trồng cây khôi nhung với người dân xã Sảng Mộc.

Sau hơn 1 năm thí điểm tái sinh dưới tán rừng Sảng Mộc (tỉnh Thái Nguyên), cây khôi nhung đã bước đầu đem lại nguồn lợi cho người dân với thu nhập vài chục triệu đồng/ha. Vốn là cây mọc tự nhiên phổ biến tại địa phương, việc cây khôi nhung được tái sinh theo hướng sản xuất không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn giúp khôi phục môi trường sinh thái rừng bản địa.

Khôi nhung, tên thường gọi là lá khôi, cơm nguội rừng, động lực, đơn tướng quân, là loại cây dược liệu quý, dùng để chữa các bệnh dạ dày, tá tràng và một số bệnh về đường hô hấp. Loại cây dược liệu này ưa bóng mát, độ ẩm cao nên thường mọc dưới tán rừng nhiệt đới. Trước kia, loại cây này mọc tự nhiên, phổ biến dưới tán rừng Sảng Mộc nhưng do khai thác tự do nên đã cạn kiệt.

Tháng 8-2020, Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Võ Nhai đã phối hợp với UBND xã Sảng Mộc triển khai mô hình trồng 8.000 cây khôi nhung trên diện tích khoảng 2ha dưới tán rừng với sự tham gia của 3 hộ dân ở các xóm Phú Cốc và Bản Chương. Tham gia mô hình, các hộ dân được hỗ trợ về cây giống và kỹ thuật trồng, chăm sóc. Theo đánh giá, khôi nhung là loại cây có giá trị kinh tế cao, trồng một lần sẽ cho thu hoạch trong khoảng 15 năm.

Với mật độ từ 6.000-10.000 cây/ha, khôi nhung sau 1-2 năm có thể cho thu hoạch từ 3-5 tạ lá khô mỗi năm, thu về lợi nhuận từ 50-80 triệu đồng. Ông Phạm Xuân Thái, Giám đốc Trung tâm dịch vụ nông nghiệp huyện Võ Nhai cho biết: Việc tận dụng diện tích dưới tán rừng để trồng khôi nhung không làm ảnh hưởng đến cây rừng hiện có mà còn làm phong phú hệ thực vật đồng thời tạo nguồn thu nhập cho người dân.

Còn ông Nông Quý Dương, Bí thư Đảng ủy xã Sảng Mộc - một trong những người đưa ý tưởng phục hồi cây khôi nhung - cho rằng, việc tận dụng diện tích dưới tán rừng để trồng loại cây này sẽ giúp bảo tồn cây dược liệu quý, tạo nguồn nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh. Đồng thời, đây có thể là mô hình giúp người dân thoát nghèo bởi chi phí đầu tư phù hợp, thời gian sinh trưởng ngắn và không mất nhiều công chăm sóc.

Sau hơn 1 năm triển khai, đến nay, diện tích trồng khôi nhung của 3 hộ dân tham gia mô hình đều đã cho thu hoạch những lứa đầu tiên với lợi nhuận đạt khoảng 20 triệu đồng/ha. Anh Nông Thanh Oai, xóm Bản Chương, là 1 trong 3 hộ tham gia mô hình này. Trên nền diện tích 0,8ha rừng nguyên sinh của gia đình, anh Oai trồng 5.000 cây khôi nhung và đến đầu năm 2021, diện tích này đã được thu hoạch lá lứa đầu tiên. Dự kiến đến hết năm 2021, anh Oai có thể thu hoạch 5 vụ lá và đạt tổng lợi nhuận gần 20 triệu đồng.

Anh Oai chia sẻ: Gia đình tôi có khoảng 7ha đất rừng sản xuất, đa phần là rừng nguyên sinh và rừng cây lâu năm. Chúng tôi muốn giữ lại toàn bộ cây rừng lâu năm để làm môi trường sinh thái, chỉ khai thác khi thật cần thiết nên trồng cây khôi nhung rất phù hợp với điều kiện của gia đình.

Toàn xã Sảng Mộc có trên 8.700ha đất lâm nghiệp có rừng, trong đó có hơn 3.100ha rừng đặc dụng, gần 2.600ha rừng phòng hộ và trên 3 nghìn ha rừng sản xuất. Ông Mai Duy Yến, Phó Chủ tịch UBND xã thông tin: Suốt quá trình triển khai, UBND xã đặc biệt quan tâm, đồng hành cùng bà con và chúng tôi nhận định đây là mô hình thành công. Và với thế mạnh về rừng, Sảng Mộc hoàn toàn có thể nhân rộng mô hình trồng cây khôi nhung để tận dụng diện tích đất dưới các tán rừng, giúp bà con phát triển kinh tế mà không phải phát hay phá rừng. Tới đây, chúng tôi sẽ nghiên cứu, tìm hướng phù hợp để tuyên truyền bà con cùng nhân rộng mô hình có giá trị này.

Hoàng Hà

Làm giàu nhờ chuyển đổi cây trồng hợp lý

Nguồn tin: Báo Gia Lai

Thay vì độc canh cây mía, ông Trần Văn Luyện (làng Sơ Rơn, xã Chư Krêy, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai) đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi. Hướng đi này đã mang lại thu nhập cho gia đình ông hơn 300 triệu đồng/năm.

Gia đình ông Luyện có hơn 8 ha đất chuyên trồng mía. Do cây mía không mang lại hiệu quả nên ông quyết định chuyển đổi một phần diện tích sang cây trồng khác. Năm 2011, ông mua 300 cây mắc ca về trồng trên diện tích hơn 1 ha. Trong vườn mắc ca, ông trồng xen bưởi, cam và dừa. Ngoài ra, tận dụng những khoảnh đất trống, ông trồng cỏ nuôi bò, nuôi nai lấy nhung. Trò chuyện với chúng tôi, ông Luyện cho hay: “Cây mắc ca, cây ăn quả sau khi trồng khoảng 3-4 năm bắt đầu cho thu hoạch. Vì thế, trong thời gian cây chưa tạo tán, tôi trồng cỏ nuôi bò, nuôi nai tạo thêm nguồn thu nhập cho gia đình”.

Theo ông Luyện, cây mắc ca phù hợp với điều kiện thời tiết, thổ nhưỡng nên sinh trưởng, phát triển tốt. Tuy nhiên, đến thời kỳ thu hoạch thì cây ra hoa, đậu quả kém. Vụ đầu tiên, ông Luyện chỉ thu được hơn 20 kg hạt. Tình trạng này tiếp tục diễn ra ở vụ kế tiếp. Không nỡ phá bỏ, ông lên mạng internet tìm hiểu và nghiên cứu kỹ thuật ghép cành nhằm giúp cây mắc ca cho năng suất cao hơn. “Đối với những cây không ra quả, tôi cắt hết cành rồi đưa giống mắc ca QN1 ghép vào gốc. Đặc điểm giống này là chịu hạn tốt, ít sâu bệnh, quả to. Nhờ vậy mà vườn mắc ca đạt năng suất, chất lượng không thua kém nơi khác. Vừa rồi, tôi thu hoạch hơn 1,8 tấn hạt, bán với giá 80.000 đồng/kg hạt tươi-ông Luyện cho biết”.

Ông Trần Văn Luyện (làng Sơ Rơn, xã Chư Krêy, huyện Kông Chro) trồng xen bưởi, cam, dừa và nuôi bò, nuôi nai lấy nhung trong vườn mắc ca cho thu nhập cao. Ảnh: Ngọc Minh

Không dừng lại ở đó, năm 2018, ông Luyện đầu tư vườn ươm cây mắc ca giống. Hàng năm, ông bán khoảng 2.000 cây giống cho người dân với giá 45-60 ngàn đồng/cây tùy thời điểm. Nhờ nguồn thu từ vườn ươm, ông Luyện có vốn để chuyển đổi cây trồng. Năm 2019, ông đã chuyển đổi 4 ha đất trồng mía sang trồng cây bạch đàn. Niên vụ 2018-2019, ông cũng mạnh dạn chuyển 3 ha mía giống cũ sang giống mới. Ông Luyện phấn khởi nói: “Tổng thu nhập của gia đình tăng lên gấp 3 lần so với khi độc canh cây mía. Chưa tính cây bạch đàn thì thu nhập của gia đình được hơn 300 triệu đồng/năm, sau khi trừ chi phí”. Theo ông Luyện, thời gian tới, ông sẽ thu mua hạt mắc ca của người dân. Đồng thời, ông cũng sẽ đầu tư mua sắm máy sấy công suất lớn để chế biến các loại sản phẩm từ hạt mắc ca. Ngoài ra, ông sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm trồng, chăm sóc cây mắc ca cho những ai có nhu cầu.

Ông Trần Văn Luyện (làng Sơ Rơn, xã Chư Krêy, huyện Kông Chro) hong khô hạt mắc ca chuẩn bị sấy, đóng gói bán. Ảnh: Ngọc Minh

Ông Hoàng Xuân Biễn (thôn 9, xã Yang Trung, huyện Kông Chro) chia sẻ: “Thấy mô hình trồng cây mắc ca của ông Luyện mang lại hiệu quả cao, giữa năm 2020, tôi mua hơn 100 cây giống về trồng. Bên cạnh cung cấp giống chất lượng, ông Luyện còn tận tình hướng dẫn, chia sẻ kinh nghiệm. Sắp tới, tôi mua thêm 100 cây mắc ca để trồng xen trong vườn na của gia đình”.

Ông Khương Đình Huy-Chủ tịch UBND xã Chư Krêy-cho biết: “Từ mô hình của gia đình ông Luyện, đến nay, bà con nông dân trong xã đã trồng hơn 4 ha mắc ca. Chúng tôi đang làm hồ sơ, thủ tục đăng ký sản phẩm OCOP đối với sản phẩm từ cây mắc ca. Cùng với đó, xã sẽ tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng mở lớp hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc cây trồng nói chung và cây mắc ca nói riêng cho bà con nông dân trong xã”.

NGỌC MINH

Giá ớt giảm mạnh

Nguồn tin: Báo Đồng Tháp

Cách nay 1 tháng, giá ớt ở mức 40.000 - 41.000 đồng/kg nhưng hiện chỉ còn 18.000 đồng/kg. Giá giảm khiến nông dân trồng ớt tại huyện Thanh Bình (tỉnh Đồng Tháp) lo lắng cho những vụ mùa sản xuất.

Ông Nguyễn Văn Tài ngụ ấp Nhứt, xã An Phong, huyện Thanh Bình cho biết, thời gian qua, ớt tại địa phương chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaysia... Tuy nhiên, do tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp khiến nhiều đơn đặt hàng xuất khẩu phải tạm ngừng, đây là nguyên nhân khiến giá ớt giảm mạnh. Bên cạnh đó, nông dân trồng ớt cũng gặp khó khăn khi giá vật tư nông nghiệp tăng mạnh khiến chi phí đầu tư sản xuất tăng cao.

Trang Huỳnh

Nguồn cung đang dư thừa, nhưng có thể thiếu trong dịp Tết

Nguồn tin: Lao Động

Ngành NNPTNT đang đẩy mạnh sản xuất để đảm bảo nguồn cung dịp Tết Nguyên đán. Ảnh: CN

Hiện tại nguồn cung đang dư thừa "ảo", có thể đẩy tình trạng sản xuất, chăn nuôi chậm lại, khiến nguồn cung thịt gia súc, gia cầm và thủy sản thiếu hụt cuối năm.

Ùn ứ nông sản cục bộ hiện tại là "dư thừa ảo"

Trao đổi với PV Lao Động chiều 6.10, ông Nguyễn Văn Trọng – Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết: Hiện nay “cầu” tiêu dùng đối với mặt hàng thịt gia súc, gia cầm giảm rất nhiều, đặc biệt là đối với thịt lợn và thịt gia cầm.

Tại các thành phố lớn, lượng người lao động rời thành phố rất lớn kéo cầu tiêu dùng tại địa phương giảm rất mạnh. Bên cạnh đó, các nhà hàng, quán bình dân, trường học, bếp ăn tập thể chưa hoạt động bình thường trở lại cũng tác động đến việc tiêu thụ sản phẩm.

“Thực chất là sản xuất vẫn bình thường nhưng nhu cầu giảm nên vật nuôi ứ đọng trong chuồng. Nguồn cung ứ đọng do sức mua giảm, thực ra đây là dư thừa “ảo” - ông Nguyễn Văn Trọng nói.

Phân tích về vấn đề này, ông Nguyễn Văn Trọng cho rằng, nếu sức mua vẫn ổn định như trước dịch, khi hệ thống khách sạn, nhà hàng, quán cơm bình dân, bếp ăn tập thể vẫn hoạt động thì mới là thiếu hụt thực. Còn hiện nay, nhu cầu giảm thì ùn ứ nông sản hiện tại chỉ là cục bộ.

Không chủ quan với nguy cơ thiếu nông sản dịp Tết

Theo Thứ trưởng Bộ NNPTNT Phùng Đức Tiến, thủy sản là lĩnh vực chịu ảnh hưởng mạnh của dịch COVID-19, sản lượng khai thác và nuôi trồng quý 3 giảm 5,2%. Tính chung 9 tháng, tổng sản lượng thủy sản đạt gần 6,38 triệu tấn, giảm 0,2% so với cùng kỳ năm 2020.

Nguyên liệu đầu vào tăng đẩy giá thức ăn chăn nuôi tăng cao, logistics không thuận lợi, thiếu nguồn vốn… là những yếu tố tiêu cực khiến người chăn nuôi không hào hứng với việc tái đàn, nuôi thả, không chỉ trong lĩnh vực thủy sản, mà còn ở ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm.

Mặc dù tăng trưởng chăn nuôi lợn 9 tháng qua tăng trưởng 5%, nhưng giá lợn hơi, gia cầm, đặc biệt là giá gà công nghiệp lông trắng “lao dốc”, sức mua giảm mạnh, sản phẩm ứ đọng trong chuồng trại, khiến người chăn nuôi không thu hồi được vốn, việc sản xuất, kinh doanh rất khó khăn, có thể khiến nguồn cung nông sản bị giảm sút.

Ông Nguyễn Văn Trọng cho biết, về nguồn cung thịt gia cầm thì không đáng ngại, bởi thời gian chăn nuôi ngắn, có thể khôi phục lại đàn và sau 35-42 ngày đã có sản phẩm. Nhưng chăn nuôi lợn phải cần từ 6 tháng.

“Vấn đề là hiện nay lợn tồn đọng trong chuồng chưa bán được, vốn đang đọng lại ở đó. Điều kiện chuồng trại, cơ sở vật chất cũng giới hạn chỉ nuôi được số lượng con như vậy, nếu chưa xuất lứa cũ đi thì không thể nuôi lứa mới. Hiện nay, lợn hơi đang được “bán tháo” với giá thấp, nhưng nghịch lý là giá thấp như vậy thì người chăn nuôi “ngại” tái đàn dẫn đến việc thiếu hụt cục bộ trong thời gian tới” – ông Nguyễn Văn Trọng nói.

Trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 phức tạp hiện nay, dịch bệnh trên người và động vật trên cạn (dịch tả lợn Châu Phi) đang diễn biến phức tạp, thì phòng chống dịch, sản xuất an toàn để tăng trưởng bền vững là giải pháp căn cơ nhất. Do đó, cần đẩy mạnh chăn nuôi an toàn sinh học.

Để người chăn nuôi có lãi, cần tận dụng tối đa nguồn phụ phẩm, nguyên liệu thức ăn tại chỗ. Với gia cầm có thể tận dụng thóc gạo; trâu, bò, dê, cừu thì tận dụng phụ phẩm của trồng trọt như rơm, rạ, rau, cỏ, ở vùng đất kém hiệu quả có thể chuyển sang trồng ngô sinh khối…, để giảm áp lực sử dụng thức ăn chăn nuôi tổng hợp. 90% nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nhập từ nước ngoài, giá nguyên liệu đầu vào đã tăng từ 16-36% đẩy giá thành chăn nuôi tăng cao, nếu sử dụng nguồn thức ăn sẵn có, sẽ giảm được giá thành sản xuất.

“Tốt nhất phải thực hiện được chuỗi tuần hoàn trong nông nghiệp, đầu vào của trồng trọt là đầu ra của chăn nuôi và ngược lại. Nguyên liệu từ trồng trọt là rơm, rạ, cỏ, rau xanh, ngô sinh khối là thức ăn chăn nuôi. Ngoài ra, có thể sử dụng thêm các phụ phẩm từ trái cây, thủy sản từ ngành chế biến để phục vụ cho chăn nuôi, mỗi thứ kết hợp một chút sẽ góp phần giảm giá thành” – ông Nguyễn Văn Trọng nói.

VŨ LONG

Anh Sang ‘mát tay’ chăn nuôi

Nguồn tin: Báo Bình Định

Anh Nguyễn Ngọc Sang ở thôn Tùng Chánh, xã Cát Hiệp, huyện Phù Cát (tỉnh Bình Định) là một điển hình về tinh thần vượt khó, vươn lên làm giàu, tích cực đóng góp trong phong trào xây dựng nông thôn mới.

Trước đây kinh tế gia đình anh Nguyễn Ngọc Sang gặp nhiều khó khăn. Năm 2002, sau nhiều lần tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng về KHKT trong sản xuất, chăn nuôi, anh Sang nhận thấy gia đình có vùng đất phù hợp để phát triển chăn nuôi và trồng trọt nên mạnh dạn đầu tư xây dựng chuồng trại chăn nuôi heo sinh sản, heo thịt và gà tập trung; đồng thời cải tạo khoảng hơn 3 ha vườn tạp để chuyển sang trồng điều. Trang trại chăn nuôi của anh Sang hoạt động theo quy trình nuôi khép kín và ứng dụng nhiều tiến bộ KHKT vào chăn nuôi, thực hiện an toàn phòng dịch.

Anh Sang nuôi gà ta theo hình thức nuôi nhốt kết hợp thả rông ở vườn điều. Sau một thời gian nuôi thử, anh nâng dần quy mô nuôi lên. Đến nay, trại chăn nuôi của anh có thể xuất chuồng mỗi lứa khoảng 3.000 con (3 lứa/năm). Tương tự anh nuôi 450 con heo thịt /lứa (3 lứa/ năm) và 130 con heo nái để chủ động con giống. Ngoài ra, anh còn nuôi 500 vịt lai. Anh Sang cho biết, tổng thu nhập mỗi năm của gia đình từ chăn nuôi và trồng trọt khoảng hơn 5 tỷ đồng; tạo việc làm thường xuyên cho 8 lao động, với mức thu nhập bình quân từ 8 - 12 triệu đồng/ người/tháng.

Với những nỗ lực, phấn đấu trong các phong trào thi đua lao động sản xuất, xây dựng nông thôn mới, từ năm 2016 đến nay, anh Sang liên tục được công nhận là hội viên nông dân xuất sắc; được UBND tỉnh, Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam tặng nhiều bằng khen; được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen về thành tích trong lao động sản xuất năm 2019.

LƯƠNG NGỌC TẤN

Huyện vùng biên tìm hướng đi mới trong chăn nuôi

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Huyện Ea Súp (tỉnh Đắk Lắk) có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi trên địa bàn huyện vẫn còn nhỏ lẻ, tự phát.

Mô hình chăn nuôi tổng hợp của gia đình anh Nguyễn Tấn Tuấn (thôn 5) là một trong những trang trại chăn nuôi có quy mô lớn nhất tại xã Cư Mlan.

Với diện tích 1,8 ha, trang trại của anh hiện có 1.600 con vịt đẻ trứng, 5.000 vịt thịt, 12 con trâu, bò và 4 sào ao thả cá. Trang trại được hình thành từ nhiều năm nay, nhưng đến nay anh vẫn chăn nuôi theo hình thức bán công nghiệp, kỹ thuật chăm sóc chủ yếu dựa theo kinh nghiệm nên không tránh được rủi ro.

Bên cạnh đó, giao thông cách trở và không có đơn vị liên kết bao tiêu sản phẩm khiến thị trường tiêu thụ bấp bênh, sản phẩm làm ra có giá bán thấp hơn nơi khác do phải chịu thêm chi phí vận chuyển. Theo anh Tuấn, đây cũng là tình trạng chung của các trang trại chăn nuôi trên địa bàn huyện, bởi đa phần đều có quy mô nhỏ, không có vốn đầu tư và thiếu các doanh nghiệp liên kết với người dân để chăn nuôi gia công theo quy trình công nghiệp.

Lợi nhuận từ việc tiêu thụ trứng vịt của gia đình anh Nguyễn Tấn Tuấn bị ảnh hưởng do phải chịu thêm chi phí vận chuyển.

Huyện Ea Súp có diện tích tự nhiên 176.531 ha, trong đó có 148.542 ha đất nông nghiệp (chiếm hơn 84% tổng diện tích). Đây là điều kiện thuận lợi để địa phương phát triển ngành chăn nuôi, nhất là chăn nuôi theo hướng trang trại. Tuy nhiên, phát triển chăn nuôi tại địa phương vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Cụ thể, huyện Ea Súp hiện có tổng đàn gia súc khoảng 60.000 con, đàn gia cầm 350.000 con. Toàn huyện hiện có 38 trang trại chăn nuôi, tổng số vốn đầu tư hơn 18 tỷ đồng.

Theo kế hoạch của UBND huyện Ea Súp, từ nay đến năm 2025, địa phương sẽ từng bước đưa các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ trong khu dân cư gây ô nhiễm môi trường vào vùng quy hoạch chăn nuôi; đồng thời, kêu gọi doanh nghiệp xây dựng cơ sở giết mổ, nhà máy chế biến thịt gia súc, gia cầm.

Chất lượng đàn gia súc, gia cầm chưa cao, chủ yếu vẫn là chăn nuôi nhỏ lẻ theo hình thức hộ gia đình để tận dụng nguồn thức ăn từ phụ phẩm nông nghiệp. Do đó, khả năng ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào chăn nuôi còn yếu; công tác phòng, chống dịch bệnh còn hạn chế; mạng lưới thú y cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ phòng, chống dịch bệnh chăn nuôi. Bên cạnh đó, một số chủ trang trại và một số hộ chăn nuôi chưa thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường.

Nhằm tạo hướng đi mới trong phát triển kinh tế địa phương, huyện Ea Súp xác định nhiệm vụ trọng tâm là đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu vật nuôi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, coi chăn nuôi là khâu đột phá trong sản xuất nông nghiệp. Vì thế, Đảng bộ huyện đã có Nghị quyết về phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng trang trại tập trung ứng dụng công nghệ cao giai đoạn 2021 – 2025. Theo đó, địa phương phấn đấu đến năm 2025, tỷ trọng ngành chăn nuôi trong giá trị sản xuất nông nghiệp chiếm khoảng 20 - 25%, đàn heo đạt khoảng 100.000 - 150.000 con, đàn trâu 10.000 - 12.000 con, đàn bò 26.000 - 28.000 con, đàn gia cầm khoảng 400.000 - 450.000 con.

Mô hình chăn nuôi bò gia trại của một hộ dân xã Ia Rvê, huyện Ea Súp.

Trưởng Phòng NN-PTNT huyện Ea Súp Nguyễn Bá Bân cho biết, thời gian tới, địa phương sẽ tăng cường áp dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, phát triển trang trại chăn nuôi hàng hóa tập trung theo phương thức công nghiệp để xây dựng các vùng sản xuất an toàn, bảo đảm cung cấp sản phẩm sạch cho thị trường; khuyến khích thu hút đầu tư xây dựng nhà máy chế biến thức ăn gia súc, gia cầm trên địa bàn để tận dụng, phát huy nguồn nguyên liệu sẵn có phục vụ chăn nuôi.

Cùng với đó, huyện sẽ phát triển các mô hình nông nghiệp tuần hoàn từ việc thu gom, sử dụng các phế phụ phẩm nông nghiệp sẵn có trong trồng trọt để làm thức ăn chăn nuôi và làm nguyên liệu sản xuất đệm lót sinh học, cung cấp cho hộ chăn nuôi sử dụng trong xử lý môi trường; sau đó, thu gom, xử lý để sản xuất phân hữu cơ phục vụ sản xuất nông nghiệp, góp phần bảo vệ môi trường và an toàn thực phẩm.

Theo Bí thư Huyện ủy Ea Súp Nguyễn Thiên Văn, trên địa bàn huyện đã có một số doanh nghiệp đến khảo sát, lập dự án đầu tư phát triển trang trại chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao. Địa phương sẽ tạo điều kiện thuận lợi, không để doanh nghiệp, nhà đầu tư đi lại nhiều lần, ảnh hưởng đến tiến độ hoàn thành hồ sơ, thủ tục đầu tư dự án.

Mới đây, huyện cũng đã kiến nghị UBND tỉnh cho phép lập thủ tục về lựa chọn nhà đầu tư cần thực hiện song song với hoàn thiện đề án sử dụng đất, nhằm rút ngắn thời gian làm thủ tục đầu tư cho doanh nghiệp, đặc biệt là các dự án chăn nuôi heo công nghệ cao.

Minh Chi

Hiếu Giang tổng hợp

 

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop