Lào Cai: Quýt ngọt trong sinh kế tại Mường Khương
Nguồn tin: Báo Lào Cai
Nhờ cây quýt, nhiều hộ dân tộc thiểu số ở thị trấn Mường Khương (Mường Khương, Lào Cai) đã thoát nghèo. Loại cây đặc sản “xứ Mường” còn góp phần thu hút khách du lịch đến với địa phương mỗi dịp vào mùa thu hoạch.
Cuối thu, khi ánh nắng vàng trải khắp nương đồi, sườn núi, người trồng quýt ở các thôn Lao Chải, Sa Pả, Chúng Chải A, Chúng Chải B... (thị trấn Mường Khương) lại bước vào vụ thu hoạch rộ.
Bén rễ vùng “đất thép” Mường Khương khoảng 10 năm nay, cây quýt đã trở thành trái ngọt của bao nhà khi góp phần không nhỏ vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo tại địa phương.
Dẫn chúng tôi vào vườn quýt rộng mênh mông, cây nào cũng trĩu quả đang ngả sắc vàng đón nắng, chị Chấu Thị Thu ở thôn Chúng Chải B, thị trấn Mường Khương tâm sự: Cây quýt sen cho hiệu quả kinh tế cao nên bà con chú ý chăm chút từng cây như những đứa con của mình. Nhờ cây quýt, chúng tôi đã có của ăn, của để, không phải lo từng bữa cơm như trước nữa.
Theo chị Thu, vườn quýt của gia đình được trồng theo phương pháp hữu cơ chuẩn VietGAP, không có thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật. Tuy nhiên, để áp dụng quy trình sản xuất quýt theo tiêu chuẩn VietGAP, vào những thời điểm quan trọng của mùa quýt, gia đình chị phải sử dụng các kỹ thuật cắt tỉa cành, làm cỏ, chăm sóc quả tỉ mỉ cũng như luôn thực hiện nghiêm quy trình sản xuất nhằm bảo vệ thương hiệu quýt sạch Mường Khương. Hiện tại, vườn nhà chị Thu có 2.000 cây quýt. Năm nay quýt chín sớm, được giá, dao động từ 20.000 - 25.000 đồng/kg.
Cây quýt không chỉ mang lại giá trị kinh tế cho người trồng mà còn góp phần quảng bá du lịch thị trấn Mường Khương. Mỗi mùa quýt chín, thị trấn Mường Khương lại nhộn nhịp hơn bởi lượng khách đến tham quan và thu hái quýt tại vườn. Nắm thời cơ, nhiều hộ trồng quýt đã cho khách tham quan và thu hái, mua quýt tại vườn. Đây cũng là dịch vụ thu hút khách mỗi khi quýt vào vụ và giải tỏa nỗi băn khoăn về nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm so với quýt bày bán tại chợ.
Vườn quýt sạch La Sủi ở thôn Lao Chải, thị trấn Mường Khương của chị Lồ Dìn Sủi là một trong những vườn nổi bật trong việc kết hợp giữa phát triển quýt gắn với du lịch. Vườn nhà chị Sủi có 8.000 cây quýt, từ năm 2013, chị đã kết hợp mô hình trồng quýt gắn với du lịch. Theo chị Sủi, đây không chỉ là cách gia tăng giá trị cho trái quýt Mường Khương, tăng thu nhập cho gia đình mà còn là hình thức quảng bá du lịch Mường Khương. Ðến nay, vườn quýt sạch La Sủi đã đón hàng chục nghìn lượt khách. Ðây cũng là hướng đi đang được một số hộ ở địa phương áp dụng.
Vào mỗi vụ quýt, gia đình thường đón khách đến tham quan và mua quýt tại vườn. Việc làm này giúp khách ngoài việc tìm hiểu kỹ thuật trồng, chăm sóc quýt, họ còn được chụp ảnh, mua được đúng quýt Mường Khương.
Chị Lồ Dìn Sủi, thôn Lao Chải, thị trấn Mường Khương
Suốt nhiều năm qua, quýt Mường Khương đã khẳng định chất lượng, uy tín trên thị trường, được người tiêu dùng lựa chọn. Đến nay, thị trấn Mường Khương đã có hơn 261,8 ha quýt, tại 10 thôn với 350 hộ trồng. Đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng núi cao này đã phát huy được lợi thế khí hậu, đất đai để xây dựng được vùng hàng hóa chất lượng cao, được thị trường chấp nhận, góp phần xây dựng thương hiệu và phát triển du lịch tại địa phương.
Lê Nam
Sản xuất thanh long ứng dụng công nghệ cao: Hướng đi đúng đắn
Nguồn tin: Báo Long An
Trước những biến động bất lợi của thị trường, việc tiêu thụ thanh long liên tục gặp khó, không ít nông dân phải lao đao do không tìm được đầu ra cho trái thanh long. Trong khi đó, các hợp tác xã (HTX), nông dân ứng dụng công nghệ cao (ƯDCNC) vào sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP,... và ký kết hợp đồng bao tiêu với doanh nghiệp vẫn duy trì được lợi nhuận ổn định. Điều này cho thấy, việc ƯDCNC vào sản xuất thanh long là hướng đi đúng đắn, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân.
Mang lại hiệu quả
Thanh long là một trong những loại cây chủ lực của tỉnh Long An và là 1 trong 4 loại cây trồng được tỉnh chọn ƯDCNC để phát triển sản xuất. Thông tin từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện toàn tỉnh có trên 8.930ha thanh long, đạt 92,1% kế hoạch, bằng 107,19% so cùng kỳ.
Diện tích cho trái khoảng 7.346,3ha, tập trung chủ yếu ở huyện Châu Thành, Tân Trụ, Bến Lức và TP.Tân An. Năng suất đạt 274 tạ/ha, sản lượng đạt 262.826 tấn. Tính đến tháng 7/2023, toàn tỉnh có trên 4.945ha thanh long ƯDCNC, đạt 82,42% kế hoạch đến năm 2025.
Các hợp tác xã sản xuất thanh long trên địa bàn tỉnh tham quan, học tập kinh nghiệm tại Hợp tác xã Long Hội (huyện Châu Thành)
Thời gian qua, ngành Nông nghiệp tỉnh tập trung chỉ đạo các chi cục trực thuộc, các địa phương xây dựng những mô hình điểm, mô hình nhân rộng và duy trì. Trong đó, nội dung triển khai tập trung vào hỗ trợ, hướng dẫn sử dụng phân bón hữu cơ, sản phẩm sinh học cải tạo đất, sản phẩm sinh học đối kháng nấm bệnh, ứng dụng khoa học - kỹ thuật trong sản xuất (hệ thống tưới tiên tiến, đèn led) và các thiết bị phục vụ sản xuất (bút đo pH, bút đo độ mặn), hướng dẫn quy trình sản xuất thanh long theo hướng GAP, hữu cơ,...; đồng thời, tập trung các giải pháp quản lý sử dụng chỉ dẫn địa lý thanh long Châu Thành Long An.
Mô hình trồng thanh long ƯDCNC của HTX Long Hội (xã An Lục Long, huyện Châu Thành) là một trong những mô hình tiêu biểu về ƯDCNC vào sản xuất thanh long của tỉnh. Việc áp dụng những tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất thanh long bước đầu đã làm thay đổi tập quán canh tác của người dân, phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Giám đốc HTX Long Hội - Trương Minh Trung cho biết: “Hiện tại, tôi ứng dụng hệ thống tưới tiết kiệm để giảm công lao động và giá thành, tăng hiệu quả kinh tế so với sản xuất truyền thống. Toàn HTX có trên 50ha thanh long với trên 60 thành viên, sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn VietGAP và được Công ty TNHH MTV The Fruit Republic Cần Thơ bao tiêu với giá ổn định, cao hơn thị trường từ 5.000-7.000 đồng/kg. Trung bình mỗi năm, thành viên HTX thu lợi nhuận khoảng 300 triệu đồng/ha”.
Năm 2014, gia đình ông Nguyễn Văn Toàn (xã Phú Ngãi Trị, huyện Châu Thành) chuyển 2,2ha lúa sang trồng thanh long ruột đỏ. Thời điểm đó, nhu cầu thanh long ruột đỏ của thị trường cao, có giá bán tốt, thường cao hơn nhiều lần so với thanh long ruột trắng. Nông dân vì vậy mà ồ ạt chuyển sang cây trồng này. Theo ông Toàn, ban đầu, ông không có ý định chuyển sang trồng thanh long. Tuy nhiên, tất cả ruộng xung quanh ruộng nhà ông đều chuyển sang trồng thanh long, máy móc sản xuất lúa không thể vào ruộng được nên bắt buộc ông cũng phải chuyển sang trồng loại cây này.
Khoảng 5 năm đầu, ông Toàn chưa nghĩ đến việc ƯDCNC vào sản xuất. Thấy những ruộng xung quanh trồng thế nào, ông trồng theo như thế. Giữa ruộng, ông đào ao nước. Ngày 2 buổi, cả gia đình 4 người kéo đường ống bơm nước tưới cho cả vườn thanh long 2,2ha. Trung bình, mỗi ngày gia đình ông dành hơn 3 giờ để tưới nước.
Vài năm gần đây, nhu cầu thị trường giảm, thanh long ruột đỏ rớt giá, thậm chí không có thương lái thu mua. Nhiều nông dân đã chặt bỏ thanh long để chuyển sang trồng loại cây khác. Để giúp nông dân ổn định sản xuất, nhất là sau ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, ngành Nông nghiệp tỉnh đã tổ chức nhiều buổi hội thảo, tập huấn, hướng dẫn nông dân ƯDCNC vào sản xuất. Đặc biệt, từ năm 2021, tỉnh thông qua Nghị quyết về Phát triển nông nghiệp ƯDCNC gắn với tái cơ cấu ngành Nông nghiệp giai đoạn 2021-2025. Thanh Long tiếp tục là 1 trong 4 loại cây trồng được tỉnh chọn để phát triển nông nghiệp ƯDCNC.
Ông Toàn và nhiều nông dân sản xuất theo kiểu truyền thống bắt đầu tìm tòi, tham gia các lớp tập huấn về sản xuất ƯDCNC, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP,... để bám trụ với cây thanh long. “Tôi vay vốn từ Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Châu Thành để đầu tư đèn cao áp thay cho đèn chữ U, đèn dây tóc và lắp hệ thống tưới nước tự động. Nhờ hệ thống này, tôi chỉ mất khoảng 20-25 phút mỗi ngày để tưới thanh long” - ông Toàn cho biết.
Bên cạnh đó, ông mạnh dạn chuyển đổi từ phương thức sản xuất truyền thống sang sản xuất theo tiêu chuẩn GlobalGAP dưới sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện. “Khi tham gia sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn GlobalGAP, tôi không còn sử dụng phân gà tươi để bón và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hợp lý hơn trong quản lý dịch bệnh, làm quen với việc ghi chép nhật ký sản xuất, tiết kiệm điện và lượng nước sử dụng,... Trung bình mỗi năm, tôi có lợi nhuận từ 250-300 triệu đồng/ha” - ông Toàn chia sẻ.
Hướng đến phát triển bền vững
Khi tham gia sản xuất thanh long ƯDCNC, nông dân được hỗ trợ, hướng dẫn thực hiện nhiều mô hình thiết thực, hiệu quả giúp việc sản xuất trở nên an toàn và bền vững hơn. Cụ thể như mô hình tưới nước tiên tiến, ủ phân bón hữu cơ, thu gom bao bì, chai thuốc bảo vệ thực vật đã qua sử dụng, sản xuất thanh long đạt chứng nhận VietGAP, GlobalGAP,…
Thông tin từ Chi cục Trồng trọt, Bảo vệ thực vật và Quản lý chất lượng nông sản tỉnh, đến nay, đã có 236 mã số vùng trồng được cấp để thanh long xuất sang các thị trường trên thế giới. Hiện tại, Chi cục tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói cho các loại cây trồng nhằm giúp người tiêu dùng có thể dễ dàng truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Qua đó, nâng cao uy tín, thương hiệu, đưa trái thanh long tiếp cận những thị trường khó tính trên thế giới.
Chủ tịch Hiệp hội Thanh long tỉnh - Nguyễn Quốc Trịnh cho hay: “Hiện nay, nhu cầu của thế giới về thanh long vẫn còn rất lớn. Tuy nhiên, ngoài yếu tố đẹp, bắt mắt thì các thị trường xuất khẩu và người tiêu dùng còn quan tâm đến vấn đề sạch, an toàn vệ sinh thực phẩm. Do đó, nông dân cần thay đổi tập quán sản xuất, tập trung xây dựng mã số vùng trồng, chú trọng sản xuất sạch theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, đặc biệt là chú ý đến các quy định, yêu cầu từ thị trường xuất khẩu để có đầu ra ổn định”.
Theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Nguyễn Chí Thiện, để tháo gỡ khó khăn cho người trồng thanh long và giúp cây trồng này phát triển bền vững, giải pháp hiện nay là đẩy mạnh xuất khẩu chính ngạch. Trong đó, tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP; chuyển giao các giải pháp kỹ thuật để giảm giá thành trong thời điểm giá vật tư tăng cao; đồng thời, xử lý trái vụ và vận động nông dân tham gia vào các HTX để thực hiện tốt liên kết tiêu thụ.
“Thời gian tới, Sở tiếp tục phối hợp các sở, ngành liên quan và các địa phương tăng cường công tác vận động, tuyên truyền đến người dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ,... triển khai đồng bộ từ khâu sản xuất đến cơ sở đóng gói, sơ chế, bảo quản để chủ động phục vụ xuất khẩu. Song song đó, Sở phối hợp nghiên cứu, phát triển giống thanh long mới thay thế giống bị thoái hóa để đa dạng sản phẩm và nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế của cây thanh long; đẩy mạnh công tác chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và nhân rộng các mô hình sản xuất hiệu quả” - ông Nguyễn Chí Thiện thông tin./.
Bùi Tùng
Huyện Cai Lậy (Tiền Giang): Nhà vườn phấn khởi thu hoạch sầu riêng
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang
Hiện nay, nhà vườn ở huyện Cai Lậy (Tiền Giang) rất phấn khởi vì sầu riêng thu hoạch bán được giá cao.
Nhà vườn thu hoạch sầu riêng.
Theo ghi nhận, không khí thu mua, vận chuyển sầu riêng ở các nhà vườn, các cơ sở thu mua sầu riêng ở huyện Cai Lậy (Tiền Giang) nhộn nhịp hẳn lên. Thương lái thu mua sầu riêng cho biết, hiện sầu riêng Ri6 có giá 115.000 đồng/kg, sầu riêng Mongthong có giá 140.000 đồng/kg. Theo nhà vườn ở huyện Cai Lậy, nhờ mạnh dạn áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào trong sản xuất nên năm nay sản lượng đạt khá cao khoảng 3 tấn/công, sau khi trừ chi phí nhà vườn thu lợi nhuận khoảng 300 triệu đồng. Với mức giá này đã góp phần mang lại thu nhập cao cho nhà vườn, tỷ lệ thuận với việc nâng cao đời sống cho người dân tại địa phương.
Được biết, thời gian qua, huyện Cai Lậy đã thường xuyên đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhà vườn thu hoạch sầu riêng đúng độ chín, đảm bảo chất lượng, đồng thời tuân thủ các quy định về chất lượng sầu riêng xuất khẩu, nhằm nâng cao uy tín của sản phẩm sầu riêng trên thị trường quốc tế.
Hồng Linh
Giá khóm Cầu Đúc giảm khoảng 3.000 đồng/trái
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Những ngày gần đây, giá bán khóm Cầu Đúc giảm nhẹ nên nhiều hộ dân có diện tích trồng khóm đang vào vụ thu hoạch trên địa bàn huyện Long Mỹ (tỉnh Hậu Giang) lo lắng bởi giảm đi nguồn lợi nhuận.
Nông dân trồng khóm ở huyện Long Mỹ bán khóm lúc này có giá 10.000 đồng/trái.
Anh Hai Tuấn, ở ấp 6, xã Vĩnh Viễn A, huyện Long Mỹ, cho biết: “Gia đình tôi trồng khóm cũng đã mấy năm nay. Mới tháng trước, tôi còn bán được đợt khóm chín với giá 13.000 đồng/trái (loại 1) thì nay thương lái vào tận rẫy chỉ mua với giá 10.000 đồng/trái, khóm loại 1 trái từ 1kg trở lên, khóm loại 2 thì hai trái kể 1, mức giá này đang giảm khoảng 3.000 đồng/trái so với tháng trước. Với giá bán này thì người trồng khóm giảm lợi nhuận rất nhiều do mức đầu tư vụ này khá cao”.
Nguyên nhân giá bán giảm được nhiều người dân trồng khóm cho biết là do mưa nhiều, cũng như vào mùa này nhiều diện tích khóm đã đến kỳ thu hoạch.
MAI THANH
Giá củ sắn, củ cải trắng xuống thấp, người trồng gặp khó
Nguồn tin: Báo Đồng Khởi
Xã Bảo Thuận, huyện Ba Tri (tỉnh Bến Tre) từ lâu đã có thế mạnh về trồng củ cải trắng, củ sắn. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, giá cả của 2 loại rau màu đặc trưng này đang xuống thấp, khiến cho đời sống kinh tế của người dân gặp rất nhiều khó khăn.
Thu hoạch củ sắn tại xã Bảo Thuận, huyện Ba Tri.
Theo báo cáo của UBND xã Bảo Thuận, hiện nay, xã có khoảng 117ha đất canh tác củ cải trắng, củ sắn, trong đó có 30ha trồng củ cải trắng và 87ha trồng củ sắn. Đây là 2 loại rau màu có giá trị kinh tế cao, mang lại thu nhập ổn định cho người dân. Tuy nhiên, từ đầu năm 2023 đến nay, giá cả của 2 loại này liên tục giảm sút, chỉ dao động từ 3.000 - 4.500 đồng/kg, thấp hơn nhiều so với mức giá trung bình từ 8.000 - 10.000 đồng/kg trong những năm trước.
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng giá cả xuống thấp là do thị trường tiêu thụ rau màu bị bão hòa, trong khi nguồn cung vẫn dồi dào. Theo Phó chủ tịch UBND xã Bảo Thuận Lê Văn Tuấn, do nhu cầu tiêu thụ củ cải trắng và sắn trong nước không cao, còn xuất khẩu gặp nhiều khó khăn do các quy định về chất lượng và an toàn thực phẩm. Điều này khiến cho người trồng khó bán được hàng, phải chấp nhận bán với giá rẻ hoặc để cho củ nứt nẻ trên đồng.
Để giải quyết khó khăn cho người dân, UBND xã Bảo Thuận đã có nhiều biện pháp hỗ trợ, như tìm kiếm các đối tác tiêu thụ, hỗ trợ vận chuyển, hay tạo điều kiện cho người dân chuyển đổi sang trồng các loại cây khác có giá trị kinh tế cao hơn. Ngoài ra, xã cũng đã tổ chức các buổi tập huấn, hướng dẫn người dân áp dụng các biện pháp phòng trừ sâu bệnh, tăng năng suất và chất lượng rau màu.
Tuy nhiên, những giải pháp hỗ trợ người trồng rau màu hiện nay chỉ là nhằm giảm bớt khó khăn, chưa thể khắc phục gốc rễ của vấn đề. Để nâng cao đời sống người dân xã Bảo Thuận, không thể thiếu sự quan tâm và hỗ trợ của các cấp chính quyền, các ngành chức năng và các tổ chức xã hội. Người dân nơi đây cần được hưởng những chính sách ưu đãi, hỗ trợ vốn, giảm thuế, miễn giảm lãi suất tốt hơn. Đồng thời phải xây dựng thêm nhiều kênh tiêu thụ ổn định, bảo đảm giá cả hợp lý cho người sản xuất. Ngoài ra, người nông dân cần được tham gia những chương trình khuyến nông, tuyên truyền, nâng cao nhận thức và kỹ năng về việc trồng rau màu theo tiêu chuẩn VietGAP, hướng đến xuất khẩu.
Ông Trần Văn Lắm, 58 tuổi, là một nông dân trồng củ cải trắng tại ấp Thạnh Hải, xã Bảo Thuận cho biết: “Tôi trồng củ cải trắng đã hơn 10 năm nay, đây là nguồn thu nhập chính của gia đình. Nhưng từ đầu năm 2023 đến nay, giá củ cải trắng rớt thảm hại. Tôi phải bỏ ra nhiều tiền cho phân bón, thuốc trừ sâu, công nhân thu hoạch, vận chuyển... nên không có lãi, thậm chí lỗ vốn. Tôi rất mong chính quyền và các cơ quan chức năng sớm có những giải pháp hỗ trợ cho người trồng củ cải trắng, giúp chúng tôi bán được hàng với giá cao hơn, hỗ trợ chúng tôi thêm về những kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm”.
Cách nhà ông Lắm không xa là hộ ông Dương Văn Tiền, 64 tuổi, là một nông dân trồng củ sắn. Ông Tiền cho biết: “Tôi trồng củ sắn cũng đã hơn 12 năm, đây là loại rau màu có giá trị kinh tế khá cao. Nhưng gần đây, do thị trường xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, giá củ sắn giảm sút. Tôi phải đầu tư nhiều vào việc chăm sóc, đảm bảo chất lượng và an toàn thực phẩm, để đáp ứng yêu cầu của thị trường xuất khẩu. Tôi rất mong có thêm những kênh tiêu thụ ổn định cho củ sắn, đặc biệt là thị trường trong nước, để tôi có thể bán được hàng với giá tốt hơn”.
Hy vọng rằng, trong thời gian tới, những khó khăn và vướng mắc về giá sắn, củ cải trắng của người dân xã Bảo Thuận sẽ sớm được giải quyết để họ có thể phát huy thế mạnh của mình, nâng cao đời sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Bài, ảnh: Bảo Duy
Trồng màu mùa nước nổi cho hiệu quả kinh tế cao
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Năm nay, nước lũ về không nhiều, nhưng nhiều hộ dân trong tỉnh Hậu Giang cũng có nhiều cách linh hoạt sản xuất trong mùa lũ để nâng cao thu nhập, trong đó có mô hình trồng màu trong mùa nước nổi.
Ông Lâm bên rẫy dưa leo cho năng suất cao được trồng trong mùa nước nổi.
Anh Nguyễn Văn Thanh, ở ấp 2, xã Xà Phiên, huyện Long Mỹ, trong mùa nước nổi này thay vì trồng lúa Thu đông như hàng năm thì anh chuyển sang trồng dưa leo. Hiện dưa leo đã cho trái thu hoạch khoảng nửa tháng nay, trung bình mỗi ngày bẻ từ 150-200kg, thương lái vào tận rẫy cân với giá 6.000 đồng/kg. Anh Thanh cho biết do đây là vụ trồng đầu tiên nên dây dưa bị chết nhiều, chưa có nhiều kinh nghiệm trong đào rãnh thoát nước cũng như cách chăm sóc. Nhưng tính ra 2 công dưa trồng đợt này thì lợi nhuận cũng không dưới 20 triệu đồng sau khi trừ chi phí.
Còn ông Sáu Thăng, ở ấp 7, xã Vĩnh Thuận Tây, huyện Vị Thủy, trồng 8 công ấu Đài Loan đã cho thu hoạch gần 2 tháng nay, năng suất hơn 1 tấn/công. Trung bình mỗi ngày thu hoạch khoảng 150kg bán lẻ dọc theo Đường tỉnh 931 với giá 15.000 đồng/kg. Đây là vụ trồng đầu tiên của gia đình, chi phí đầu tư không quá 4 triệu đồng/công. Theo tính toán thì lợi nhuận mang về không dưới 10 triệu đồng/công.
Ông Thăng cho biết: “Trồng ấu không tốn nhiều chi phí nhưng tốn thời gian thu hoạch củ ấu hàng ngày. Đây là loại cây trồng không lo nước ngập như các cây khác, nhưng chỉ lo phần sâu bệnh, ốc ăn cây con lúc còn nhỏ. Thấy làm hiệu quả, tới đây gia đình dự tính sẽ mở rộng thêm diện tích và tính tới trồng mùa nghịch, cũng như nhân giống ấu để bán”.
Trong khi đó, ông Nguyễn Văn Lâm, ở ấp 3, xã Vĩnh Thuận Tây, huyện Vị Thủy, trồng 5 công dưa leo, cao điểm thu hoạch lên tới 700-800kg/ngày, giá bán từ 8.000-10.000 đồng/kg, tùy thời điểm. Ông Lâm cho biết: “Trồng dưa leo thì nặng công chăm sóc và chi cũng cao hơn trồng lúa. Trong thời điểm thu hoạch dưa như hiện nay thì 3 ngày phải bón phân 1 lần để dây dưa phát triển, đủ sức cung cho trái. Trung bình một năm gia đình trồng 3 vụ, nhưng trong vụ này thì nặng thêm chi phí phần bơm nước. Từ trồng đến kết thúc vụ khoảng 2,5 tháng. Nếu giá dưa leo như hiện nay thì cho lợi nhuận khoảng 20 triệu đồng/công”.
Theo ông Lâm, sau khi trồng thì có thương lái đến đặt hàng, chờ ngày thu hoạch là đến cân, lấy tiền. Theo kinh nghiệm mấy vụ vừa qua thì trồng màu mùa nước nổi này có lợi nhuận cao hơn các mùa khác. Tuy nhiên, để trồng được rau màu trong mùa lũ thì ông Lâm cũng đã làm bờ bao chắc chắn và sẵn sàng máy bơm túc trực khi có nước dâng cao và mưa lớn. Bên cạnh dưa leo thì ông Lâm còn trồng thêm bí đao và một số loại rau màu khác để nâng cao thu nhập, đặc biệt là xen kẽ giữa các vụ để thu hoạch không bị gián đoạn.
Theo kế hoạch của ngành nông nghiệp tỉnh thì trong năm 2023 này sẽ tăng thêm 2.000ha rau màu. Nên từ đó mà nhiều tháng qua, ngành nông nghiệp các địa phương trong tỉnh đã hướng dẫn người dân tận dụng diện tích đất vườn còn trống, cũng như chuyển đổi đất trồng kém hiệu quả và diện tích không đáp ứng đủ điều kiện sản xuất vụ Thu đông sang trồng rau màu để phục vụ nhu cầu của thị trường và đảm bảo diện tích gieo trồng đạt khoảng 27.500ha, tăng 2.000ha so với kế hoạch năm. Tính đến cuối tháng 10 thì cây rau màu các loại toàn tỉnh đã xuống giống được 28.926ha, đạt 105,2% kế hoạch. Trong đó, cây rau đậu là 26.351ha, cây bắp là 2.135ha và cây có chất bột là 440ha. Thu hoạch từ đầu năm đến nay được 26.109ha, chủ yếu là cây rau đậu các loại và bắp 1.965ha.
Bên cạnh khuyến cáo nông dân mở rộng diện tích thì ngành nông nghiệp tỉnh cũng hỗ trợ xây dựng mô hình trồng rau màu như hỗ trợ về giống, vật tư; đồng thời tuyên truyền, tập huấn kỹ thuật để nông dân trồng đạt hiệu quả kinh tế cao, trong đó có rau màu trong mùa lũ.
Bài, ảnh: H.TÂM
Khởi nghiệp với mô hình trồng rau thủy canh trụ đứng
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Với mong muốn tạo ra sản phẩm nông nghiệp sạch, đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng, chị Nguyễn Gia Hoàng Diễm ở khu vực Thạnh Lợi, phường Phú Thứ, quận Cái Răng (TP. Cần Thơ) đã mạnh dạn khởi nghiệp với mô hình trồng rau thủy canh trụ đứng trong nhà kính. Với sự nhạy bén trong kinh doanh và ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất, mô hình của chị Diễm đã mang lại hiệu quả cao.
Mô hình trồng rau thủy canh trụ đứng trong nhà kính của chị Diễm bước đầu mang lại hiệu quả, thu nhập ổn định.
Trước đó, xuất phát từ nhu cầu trồng rau sạch phục vụ cho gia đình, chị Diễm mua 2 trụ rau thủy canh về trồng cải xà lách, cải xanh theo phương pháp thủy canh. Sau 6 tuần trồng, rau phát triển xanh tốt, thu hoạch được gần 10kg cải. Cải trồng theo phương pháp thủy canh có màu sắc đẹp và khi ăn có độ giòn, thơm ngon, có giá trị dinh dưỡng cao và tốt cho sức khỏe. Chị Diễm nhận thấy mô hình trồng rau thủy canh là hướng đi hiệu quả, chị đã tự mày mò học hỏi trên báo, đài và internet về trồng rau thủy canh. Sau khi đã cơ bản nắm vững kiến thức, chị Diễm bàn với gia đình khởi nghiệp với mô hình trồng rau thủy canh trụ đứng trong nhà kính.
Tận dụng diện tích 250m2 đất của gia đình, tháng 5-2023, chị Diễm đầu tư trên 450 triệu đồng làm nhà kính, hệ thống giàn tưới tự động, máy lọc nước, quạt gió, hệ thống phun sương… để trồng 250 trụ rau thủy canh. Sau khi hoàn thiện hệ thống, tháng 6-2023, chị Diễm và gia đình tiến hành trồng rau thủy canh trụ đứng. Các giống rau chị Diễm chọn trồng chủ yếu là xà lách các loại, cải bó xôi, cải thìa, cải ngọt, cải xanh… Chị Diễm cho biết: “Hiện tại, tôi chia làm 5 khu trồng rau thủy canh trụ đứng để cung cấp ra thị trường. Sau khi thu hoạch khu nào xong là vệ sinh các trụ và tiến hành trồng lại. Trung bình, mỗi tháng tôi thu hoạch được khoảng 150kg cải các loại, tùy vào số lượng trồng, thu nhập từ 5-8 triệu đồng/tháng”.
Hướng dẫn chúng tôi tham khu vực trồng rau thủy canh, chị Diễm, cho biết: “Trồng rau thủy canh từ khi ươm hạt giống đến thu hoạch khoảng 40-45 ngày. Trong quá trình chăm sóc, phải theo dõi, tỉa lá già, lá úa và quan sát sự phát triển của cải để điều chỉnh dinh dưỡng cho phù hợp”. Để nâng cao chất lượng, chị Diễm không ngừng tìm tòi, học hỏi, ứng dụng kỹ thuật mới trong sản xuất, đồng thời tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất rau an toàn. Nguồn nước để sử dụng là nước máy sạch, sau đó được hòa dinh dưỡng theo công thức phù hợp rồi tự động dẫn tới các trụ trồng. Nước được thu hồi, đưa trở lại bơm tổng để lọc và quay lại chu trình tưới. Toàn bộ quy trình sản xuất, thông số dinh dưỡng được tự động hóa, bảo đảm điều kiện sinh trưởng tốt nhất cho cây trồng.
Ưu điểm của việc trồng rau thủy canh trụ đứng trong nhà kính sẽ không chiếm diện tích lớn, người trồng điều tiết được nhiệt độ, khắc phục được dịch bệnh, không có sâu hại, không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật nên các loại rau cải đạt năng suất cao, chất lượng đảm bảo. Hiện tại, chị Diễm xây dựng thương hiệu Farm Gia Ngọc, chuyên cung cấp rau sạch thủy canh để cung cấp cho thị trường. Sắp tới, chị Diễm tiếp tục xây dựng và quảng bá sản phẩm, đưa sản phẩm rau sạch thủy canh vào các siêu thị và các gian hàng rau sạch trên địa bàn thành phố để phục vụ cho người tiêu dùng.
Bài, ảnh: T.T
Lâm Hà (Lâm Đồng): Khuyến cáo người dân không thu hái trái cà phê xanh
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Để tập trung thu hoạch cà phê niên vụ 2023 – 2024, huyện Lâm Hà (Lâm Đồng) khuyến cáo bà con chỉ tiến hành thu hoạch những quả đúng tầm chín, không thu hái trái xanh, trái non và thu hái đúng kỹ thuật,… để đảm bảo chất lượng cũng như sản lượng.
Cơ quan chức năng khuyến cáo người dân thu hái cà phê đảm bảo trái chín trên 90%, không thu hái cà phê xanh, non
Niên vụ cà phê 2023-2024 huyện Lâm Hà có khoảng 39.236 ha cà phê, sản lượng cà phê trên địa bàn huyện ước đạt 136.675 tấn cà phê nhân. Qua phản ánh của một số doanh nghiệp thu mua, chế biến cà phê trên địa bàn huyện cho thấy việc nông dân đã thu hái quả xanh bán cho các cơ sở sơ chế còn diễn ra nhiều, làm ảnh hưởng đến chất lượng cà phê nhân.
Để nâng cao năng suất, chất lượng, tiếp tục duy trì và xây dựng thương hiệu cà phê của huyện nhằm phát triển bền vững diện tích cây trồng chủ lực của địa phương, UBND huyện yêu cầu Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đôn đốc, hướng dẫn Trung tâm Nông nghiệp, UBND các xã, thị trấn cử cán bộ theo dõi tình hình sản xuất, thu hoạch theo từng địa bàn, kịp thời nắm bắt những vấn đề khó khăn, vướng mắc để tham mưu, đề xuất hỗ trợ.
Kiểm tra giám sát chặt chẽ việc thu mua cà phê quả tươi của các cơ sở thu mua, chế biến cà phê, nếu phát hiện có thu mua cà phê quả xanh vượt tỷ lệ quy định thì đề xuất xử lý triệt để, coi đây là hành vi gián tiếp làm thiệt hại đến sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, hướng dẫn nông dân áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật từ khâu thu hoạch, sơ chế, bảo quản, chăm sóc vườn, phòng trừ dịch hại theo đúng quy trình kỹ thuật, đồng thời hướng dẫn kỹ thuật thu hái và bảo quản cà phê đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật.
UBND các xã, thị trấn cần tăng cường công tác chỉ đạo lực lượng cơ động, các tổ dân phòng, vận động nhân dân hình thành các tổ tự quản bảo vệ vườn cà phê trong mùa thu hoạch, giúp nhân dân an tâm quản lý, chăm sóc cà phê đến khi quả chín; tuyên truyền sâu rộng tới các thôn, tổ dân phố và nhân dân trên địa bàn không thu hái cà phê quả xanh.
Thông báo tới các cơ sở thu mua, chế biến cà phê trên địa bàn thực hiện thu mua cà phê đảm bảo tỷ lệ quả chín (trên 90% đối với phương pháp chế biến ướt, trên 80% đối với phương pháp chế biến khô), tuyệt đối không được thu mua cà phê quả xanh, tỷ lệ tạp chất, sâu bệnh hại cao.
Cụ thể, đối với thu hoạch cà phê tại Lâm Hà, thời vụ thu hoạch cà phê phụ thuộc vùng sinh thái (địa hình, thổ nhưỡng, thời tiết và khí hậu), giống và chăm sóc của người dân. Người dân chỉ tiến hành thu hoạch những quả đúng tầm chin, không thu hái trái xanh, trái non và thu hái đúng kỹ thuật (không tuốt, vặn cành, làm gãy cành); thu hoạch nhiều lần trong một vụ để thu hết quả chín, phải ngừng thu hái trước và sau khi hoa nở 3-5 ngày. Cà phê quả tươi thu hái đảm bảo Tiêu chuẩn Quốc gia (TCVN 9278:2012) như sau:
Quả cà phê áp dụng phương pháp chế biến ướt, các chỉ tiêu và tỷ lệ: quả chín ≥ 90%; quả khô, quả chùm, quả xanh ≤ 9%; quả lép <3%; tạp chất và quả xanh non <1%; quả thối, mốc <1%. Đợt thu hoạch cuối vụ cũng phải đạt tỷ lệ quả chín trên 85%, tỷ lệ tạp chất và quả xanh non không quá 1,0% và không chiếm quá 10% tổng sản lượng toàn vụ.
Quả cà phê áp dụng phương pháp chế biến khô, các chỉ tiêu và tỷ lệ: quả chín ≥ 80%; quả khô, quả chùm, quả xanh < 15%; quả lép <5%; tạp chất và quả xanh non <2%; quả thổi, mốc <1%. Đợt thu hoạch cuối vụ cũng phải đạt tỷ lệ quả chín trên 75%, tỷ lệ tạp chất và quả xanh non không quá 2,0% và không chiếm quá 10% tổng sản lượng toàn vụ.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng bà con bắt đầu thu hoạch cà phê rải rác ở một số nơi nhưng tầm khoảng 10 ngày nữa người dân mới bắt đầu chính thức vào thu chính vụ, kéo dài khoảng 2 tới 2,5 tháng. Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, diện tích cà phê toàn tỉnh năm 2023 là 175.708 ha, trong đó, diện tích kinh doanh là 163.520,8 ha với năng suất dự kiến 32,8 tạ/ha và sản lượng theo kế hoạch trên 535.000 tấn nhân xô.
Tới ngày 8/11, giá cà phê ghi nhận đạt mức giá 58.200 – 58.300 đồng/kg. Đây là mức giá cao nhất trong khoảng 10 năm trở lại đây khiến người dân rất phấn khởi, hy vọng vào một mùa cà phê bội thu.
CHÍNH THÀNH
Hành trình khởi nghiệp từ thất bại
Nguồn tin: Báo Long An
Từ vùng đất hoang, nhiễm phèn nặng, cỏ mọc um tùm, vậy mà, sau 30 năm, ông Võ Quan Huy (hay còn gọi Huy Long An, Út Huy hoặc Huy chuối) đã cải tạo vùng đất “chết” biên giới Mỹ Bình, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An thành vùng trồng chuối bạt ngàn với một màu xanh trù phú.
Ông Võ Quan Huy trải qua nhiều lần thất bại mới đi đến thành công như hôm nay
“Hồi sinh” vùng đất “chết”
Tôi thường nghe nhiều người kể về câu chuyện đưa chuối xuất ngoại cùng với tư duy sản xuất, kinh doanh “không giống ai” và chưa bao giờ sợ thất bại của ông Út Huy. Cảm thấy ngưỡng mộ, tôi liên hệ ông để tìm hiểu thực hư về các câu chuyện được nghe, nhất là muốn lan tỏa tinh thần vượt khó của ông đến với cộng đồng. Thế nhưng, sau nhiều lần liên hệ, tôi vẫn chưa có duyên gặp được ông. May mắn trong một lần đi công tác, tôi được đồng nghiệp kết nối với ông Út Huy. Và, câu chuyện khai hoang, khởi nghiệp của ông dần hiện lên qua từng lời kể.
Ông Út Huy nói: “Tôi sinh năm 1955 tại xã Hiệp Hòa, huyện Đức Hòa, là con út trong gia đình có 9 anh chị em nên thường được mọi người gọi là Út Huy. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, tôi phải vào đời mưu sinh sớm. Để có được thành quả đáng tự hào như hôm nay, tôi trải qua nhiều lần thất bại, khởi nghiệp lại không biết bao nhiêu lần. Dù vậy, tôi chưa bao giờ bỏ cuộc bởi trồng không được cây này thì trồng cây khác, nuôi không được con này thì nuôi con khác, chỉ cần nơi nào có nông dân giỏi, nhà khoa học giỏi, trường giỏi, nơi đó có Út Huy đến tìm hiểu, học hỏi. Có lẽ nhiều người biết đến tôi vì tôi nói thiệt, làm thiệt, nhất là rất “lì đòn” trong lĩnh vực nông nghiệp”.
Nói rồi, ông Huy cười hào sảng và dẫn chúng tôi đi thăm vườn chuối bạt ngàn với một màu xanh trù phú. Tôi thắc mắc vì sao ông chọn mảnh đất biên giới Mỹ Bình, huyện Đức Huệ để khởi nghiệp bởi nơi đây từng được mệnh danh là vùng đất “chết” mà ai đến cũng “bỏ của chạy lấy người”? Nghe tôi hỏi vậy, ông Huy vừa cười, vừa nói: “Khi mới gặp tôi lần đầu, ai cũng hỏi câu này. Song với tôi, đi đâu cũng không bằng quê hương của mình. Do đó, năm 1994, sau khi dành dụm được một số vốn, tôi quay về Long An và thuê 240ha đất để trồng mía. Năm đầu tiên, mía chết sạch vì đất phèn nhưng tôi không bỏ cuộc, bỏ đất mà nghiên cứu kỹ thuật canh tác, thổ nhưỡng để áp dụng vào trồng trọt. Tôi nạo vét kênh, mương, chiều dài 20km để dẫn nước thau chua, rửa phèn với quyết tâm cải tạo thành công vùng đất “chết” Mỹ Bình”.
Chính sự cần cù, chịu khó vốn có của “con nhà nông” cùng tinh thần ham học hỏi, ông Huy chinh phục được vùng đất “chết”. Năng suất mía ngày càng đạt chất lượng lẫn sản lượng. Tuy nhiên, những năm sau, giá mía giảm mạnh, ông Huy quyết định “dứt tình” với cây mía, chuyển sang trồng ớt, xoài, dưa hấu, nuôi bò,... Tổng cộng, người nông dân này từng trải qua trên 20 lần thay đổi cây trồng, vật nuôi. Và cứ mỗi lần thay đổi là một lần khởi nghiệp mới, một biệt danh mới của ông Huy lại ra đời nhưng có lẽ, Huy chuối là biệt danh được nhiều người biết đến nhất bởi chính ông đã “chắp cánh” cho chuối xuất ngoại.
Phải có đam mê, nhiệt huyết và tư duy
Sau khi tham quan vườn chuối, ông Huy dẫn chúng tôi đến nhà máy sơ chế để tìm hiểu về quy trình vận chuyển, vệ sinh, đóng gói để đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Nơi đây có hàng chục công nhân đang làm việc, không khí lao động tất bật.
Khi được hỏi thăm về mức lương, chế độ ưu đãi, thời gian làm việc, anh Nguyễn Văn Đến (quê Hậu Giang) bộc bạch: “Làm ở đây, chuyện cơm nước, nhà cửa chú Út Huy lo hết. Công nhân làm bao nhiêu dư bấy nhiêu, ai làm giỏi thì thu nhập 8 triệu đồng/tháng. Tết, công ty có lợi nhuận nhiều thì thưởng thêm cho công nhân. Riêng tôi làm quản lý, thu nhập bình quân 12 triệu đồng/tháng. Dịp Tết Nguyên đán năm 2022, tôi được công ty thưởng 20 triệu đồng. Điều này kích thích tinh thần làm việc của anh em công nhân. Chưa bao giờ tôi nghĩ làm nông nghiệp mà có thu nhập cao đến như vậy!”.
Tiếp lời anh Đến, anh Đinh Công Chứ (quê Cần Thơ) nói: “Chú Út Huy thương anh em công nhân lắm, nhất là những công nhân siêng năng, cần cù làm việc. Chú Út còn tạo điều kiện cho công nhân có trình độ đi học nâng cao chuyên môn như kế toán, nông nghiệp để quay về phục vụ công ty. Hôm trước, nghe chú Út Huy thông báo sẽ tạo điều kiện cho anh em công nhân góp vốn theo dạng cổ phẩn để cùng nhau nỗ lực, phát triển công ty và cùng làm giàu, chúng tôi ai cũng phấn khởi”.
Đứng đằng xa, nghe công nhân nhận xét về mình, ông Huy cười: “Sao không kể những lần chú la rầy tụi bây? Nhiều đứa chú thấy thương, tạo điều kiện cho đi học để lên làm quản lý mà không chịu. Nhiều lúc chú không biết tụi bây đang nghĩ gì. Làm nông nghiệp, tụi bây cần phải có đam mê, tư duy và nhiệt huyết. Có 3 yếu tố này, chúng ta mới chịu thương, chịu khó, mày mò, cầu tiến để đi đến thành công”.
Tạm chia tay ông Huy, chúng tôi ra về khi trời vừa sập tối. Chỉ gần 1 ngày được tiếp xúc với ông Huy và tận mắt chứng kiến sự đổi thay ở vùng đất Mỹ Bình, chúng tôi càng khẳng định câu chuyện khai hoang, lập nghiệp từ hai bàn tay trắng của Huy Long An là minh chứng cho nông dân cần cù, chịu khó, quyết tâm làm giàu ngay trên mảnh đất quê hương. Và ông chính là nguồn cảm hứng cho thế hệ trẻ khởi nghiệp dù từng thất bại./.
Lê Ngọc
Chủ động ứng phó với hạn mặn đến sớm để không ảnh hưởng sản xuất nông nghiệp
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Theo Trung tâm dự báo Khí tượng thủy văn Quốc gia, mùa mưa năm nay sẽ kết thúc sớm vào giữa tháng 11. Kèm theo đó là hạn, mặn xuất hiện vào tháng 12, sớm hơn trung bình nhiều năm 1 tháng. Hiện, các địa phương khẩn trương ứng phó không để ảnh hưởng sản xuất…
Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé phát huy tốt điều tiết nguồn nước mặn, lợ và ngọt cho 384.000ha đất tự nhiên ở Kiên Giang, Hậu Giang, Cà Mau và Bạc Liêu...
Sản xuất sớm, tránh thiệt hại
Mấy ngày nay, vợ chồng anh Lâm Văn Hiệp, ngụ xã Thạnh Lộc, huyện Giồng Riềng (tỉnh Kiên Giang) đã vệ sinh xong 25 công ruộng và sẵn sàng gieo sạ lúa đông xuân 2023-2024 khi nước lũ bắt đầu rút. Anh nói, năm nay lúa được giá cao, trong đó vụ thu đông vừa rồi bà con bán tới 8.200-9.000 đồng/kg, cao kỷ lục từ trước đến nay nên nhà nào cũng phấn khởi vì thu lời nhiều. “Lúa được giá và dễ tiêu thụ do đó nông dân quan tâm đầu tư hơn. Vì vậy, khi nghe chính quyền địa phương thông báo vụ đông xuân sẽ xuống giống sớm vào giữa tháng 11 nhằm né hạn, mặn và đảm bảo năng suất cao thì bà con đồng tình ngay”, anh bộc bạch.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tỉnh Kiên Giang, vụ đông xuân tới sẽ sản xuất 281.000ha, sản lượng ước đạt hơn 2,3 triệu tấn (cao nhất cả nước); do địa bàn của tỉnh có nhiều vùng khác nhau (như ngập lũ không sâu, ngập lũ sâu - nước rút chậm, vùng ven biển…) nên việc sản xuất được tính toán hợp lý vừa để né hạn mặn, vừa né rầy nâu và phải đạt hiệu quả cao. Cụ thể, tỉnh sẽ áp dụng đồng bộ cơ giới hóa trong sản xuất nhằm rút ngắn thời gian gieo sạ; đồng thời triển khai các giải pháp thủy lợi phòng chống hạn mặn, phục vụ sản xuất nông nghiệp và dân sinh mùa khô vào cuối năm 2023, đầu năm 2024...
Chỉ chúng tôi cánh đồng lúa rộng khoảng 1.000ha, ông Nguyễn Văn Ðời, Giám đốc Hợp tác xã (HTX) Dịch vụ nông nghiệp Bình Thành (huyện Lấp Vò, tỉnh Ðồng Tháp) cho hay, những năm qua HTX tích cực đầu tư máy móc, trạm bơm… Do đó, giữa tháng 11-2023, chúng tôi sẽ bơm nước toàn bộ cánh đồng và gieo sạ đồng loạt chỉ 2-3 ngày là xong hết. Ngoài việc chủ động sản xuất sớm để tránh hạn hán có thể làm ảnh hưởng, thì hầu hết bà con xã viên đều chọn giống lúa đạt tiêu chuẩn xuất khẩu và liên kết với doanh nghiệp tiêu thụ. Chúng tôi chủ động thích ứng với diễn biến bất thường của thời tiết để có thể đạt mục tiêu “trúng mùa - trúng giá”.
Là địa phương thường xuyên chịu tác động của hạn, mặn về sớm khiến hàng chục ngàn héc-ta lúa và cây ăn trái bị ảnh hưởng nặng mỗi khi tới mùa khô. Tuy nhiên, năm nay tỉnh Tiền Giang đã chủ động nhiều giải pháp thích ứng phù hợp. Theo đó, trong 44.760ha lúa đông xuân sẽ được xuống giống đồng loạt từ đầu tháng 11 đến cuối tháng 12. Tỉnh khuyến cáo nông dân đẩy mạnh sử dụng giống lúa thơm và lúa chất lượng cao, có khả năng chịu hạn, mặn tốt. Bên cạnh đó, chuyển đổi gần 830ha lúa ở nơi thiếu nước tưới sang trồng các loại cây khác phù hợp hơn. Ngành Nông nghiệp cũng sẽ tập huấn cho người dân các biện pháp chăm sóc cây trồng vào mùa hạn, mặn; khuyến cáo tăng cường sử dụng phân hữu cơ, trung vi lượng để tăng khả năng chống chịu của cây trồng; áp dụng biện pháp tưới nước tiết kiệm vào mùa khô…
Giải pháp “đường dài” căn cơ
Theo nhận định của Trung tâm dự báo Khí tượng thủy văn Quốc gia, tháng 10 và tháng 11-2023, tổng lượng mưa trong vùng ở mức thấp từ 10-20% so trung bình nhiều năm; trong khi tổng lượng dòng chảy từ thượng lưu sông Mekong về hạ lưu ÐBSCL năm nay cũng thấp 10-20%. El Nino có khả năng kéo dài cho đến những tháng đầu năm 2024 với xác suất khoảng từ 80-90%. Dự báo xâm nhập mặn mùa khô năm 2023-2024 sẽ xuất hiện sớm và sâu hơn, một số thời điểm tương đương năm 2015-2016 và năm 2019-2020.
Lãnh đạo Sở NN&PTNT tỉnh Tiền Giang cho hay, đang kiểm tra các công trình ngăn mặn, củng cố hệ thống đê bao, đắp thêm các đập ngăn mặn, trữ ngọt; phối hợp với tỉnh Long An vận hành công trình kiểm soát mặn triệt để từ hướng sông Vàm Cỏ Tây. Ngoài ra, nhiều kỹ sư và công nhân của Ban Quản lý đầu tư và xây dựng thủy lợi 10 (Bộ NN&PTNT) đang đẩy nhanh tiến độ thi công cống Nguyễn Tấn Thành - dự án ngăn mặn và điều tiết nguồn nước quan trọng, với kinh phí đầu tư khoảng 500 tỉ đồng, đây là công trình căn cơ, lâu dài. Dự kiến cống này sẽ lắp đặt cửa vận hành tạm thời vào tháng 2-2024 để ngăn mặn, trữ ngọt nhằm đảm bảo nguồn nước sinh hoạt, sản xuất cho người dân 2 tỉnh Tiền Giang và Long An.
Sở NN&PTNT tỉnh Kiên Giang đã chỉ đạo Chi cục Thủy lợi chủ động vận hành sớm 55 cống ven biển Rạch Giá - Kiên Lương và ven sông Cái Bé, cùng 35 cống của dự án thủy lợi Ô Môn - Xà No, 17 cống ở vùng U Minh Thượng; đồng thời chủ động đắp 37 đập đất ở các nơi chưa hoàn thiện cống ngăn mặn thuộc các huyện An Biên, An Minh và Giang Thành nhằm kiểm soát tốt nguồn nước, phục vụ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và nước sinh hoạt cho người dân. Phối hợp với Bộ NN&PTNT đánh giá tác động và hiệu quả ban đầu của hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé (vốn đầu tư 3.300 tỉ đồng, được khánh thành tháng 3-2022 nhằm điều tiết nguồn nước mặn, lợ và ngọt cho 384.000ha đất tự nhiên ở Kiên Giang, Hậu Giang, Cà Mau và Bạc Liêu).
Kết quả vận hành cống Cái Lớn - Cái Bé đã giúp các mô hình sản xuất trước đó vẫn ổn định và phát huy hiệu quả so với sản xuất độc canh; trong đó một số mô hình tiêu biểu đã mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn từ 6,8 triệu đồng đến 71 triệu đồng/ha so với sản xuất thông thường. Theo Bộ NN&PTNT, trước diễn biến thời tiết cực đoan và hạn, mặn ngày càng phức tạp thì chính các công trình thủy lợi trọng điểm của vùng như cống Cái Lớn - Cái Bé đã phát huy tác dụng rất tốt trong chuyển đổi tư duy sản xuất, thích ứng biến đổi khí hậu…
Cần thấy rằng, trong mùa khô năm 2015-2016, có 10 tỉnh, thành ở ÐBSCL phải công bố thiên tai do hạn, mặn gây ra với tổng mức thiệt hại tới 7.900 tỉ đồng. Ðến mùa khô năm 2019-2020, dù hạn, mặn được nhận định phức tạp, nhưng nhờ dự báo sớm nên các địa phương triển khai tốt nhiều giải pháp chủ động phòng chống, vì vậy chỉ có 58.400ha lúa thiệt hại, bằng 14% so năm 2015-2016; diện tích cây ăn trái bị thiệt hại và số hộ dân thiếu nước sinh hoạt cũng giảm nhiều so với năm 2015-2016. “Cùng với các công trình thủy lợi mới đầu tư được đưa vào khai thác, cộng với chủ động ứng phó sớm, bố trí sản xuất hợp lý… sẽ là cơ sở để các địa phương an tâm trong ứng phó với hạn, mặn tới đây”, Bộ NN&PTNT - nhận định.
Theo ông Nguyễn Ngọc Hè, Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ, một trong những cái mới của năm nay là TP Cần Thơ cơ bản hoàn thiện các công trình phòng chống hạn, mặn nên rất an tâm. Từ đó, sẽ chủ động sản xuất sớm hoặc thích ứng một cách phù hợp. Ngoài ra, TP Cần Thơ tiếp tục phát huy mô hình liên kết nhằm ổn định từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Hiện trong từng vụ sẽ thực hiện 140 mô hình cánh đồng lớn, với diện tích 36.075ha, khoảng 23.232 hộ tham gia. Cánh đồng lớn được doanh nghiệp bao tiêu với giá cao hơn thị trường từ 50-150 đồng/kg; từ đó giúp lợi nhuận tăng thêm 1,2-2,8 triệu đồng/ha. Ngoài ra, các huyện còn xây dựng vùng sản xuất cây ăn trái chủ lực và hình thành các sản phẩm đặc trưng có thương hiệu với 11.880ha, sản lượng trên 135.000 tấn mỗi năm. Những cách làm mới này sẽ giúp ngành Nông nghiệp dễ dàng trong ứng phó với thời tiết cực đoan, bảo vệ sản xuất tốt hơn và là hướng đi bền vững của nông nghiệp hiện đại…
Bài, ảnh: PHƯỚC BÌNH
Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
Nguồn tin: Báo Bình Phước
Với sức trẻ năng động, thích tìm tòi, học hỏi cách làm kinh tế từ nhiều nguồn, anh Hoàng Văn Thắng, Phó Bí thư Đoàn xã Phước Sơn, huyện Bù Đăng (tỉnh Bình Phước) đã thực hiện mô hình chăn nuôi mới - nuôi vịt xiêm trên sàn lưới, phù hợp điều kiện địa phương và đem lại hiệu quả kinh tế cao. Mô hình có tiềm năng nhân rộng cho nhiều hộ dân để phát triển kinh tế gia đình.
SÁNG TẠO TRONG LÀM KINH TẾ
Mỗi sáng sớm, anh Hoàng Văn Thắng thường nấu từng nồi thức ăn và phân chia ra từng sàn lưới cho đàn vịt. Anh Thắng đã tìm hiểu và gắn bó với mô hình nuôi vịt xiêm trên sàn lưới dưới tán cây gần 3 năm nay.
Từng nuôi vịt theo cách truyền thống như chăn thả trực tiếp trên nền đất hay hồ nước, qua theo dõi anh nhận thấy cách nuôi này không đạt hiệu quả vì đàn vịt thường xuyên bị bệnh, không kiểm soát được do vịt chăn thả tự do lây bệnh cho nhau, tỷ lệ hao hụt cao. Mặt khác, môi trường chăn nuôi và xung quanh thường xuyên bị ô nhiễm, hôi thối do phân vịt thải trực tiếp ra vườn, không có lối thoát nước. Từ đó, anh đã tìm hiểu những mô hình nuôi vịt trên sàn lưới từ mạng xã hội và sáng tạo ra hình thức chăn nuôi mới theo cách của riêng mình.
Ông Phan Hồng Vinh, Chủ tịch Hội Nông dân xã Phước Sơn (bìa trái) tham quan mô hình nuôi vịt xiêm trên sàn lưới của anh Thắng
Anh tận dụng diện tích khoảng 2 ha điều xen cà phê của gia đình làm sàn lưới dưới tán cây vừa tạo nhiệt độ phù hợp cho đàn vịt vừa tận dụng chất thải chăn nuôi để ủ phân bón hữu cơ cho cây trồng. Phương pháp này tạo ra lợi ích kép cho chăn nuôi và trồng trọt, tăng hiệu quả kinh tế.
Anh Thắng cho biết: Từ ý tưởng trên mạng và tham khảo các mô hình tương tự đã thành công, tôi suy nghĩ và lựa chọn hình thức, quy mô phù hợp điều kiện của gia đình cũng như khí hậu ở địa phương. Những mô hình lớn, họ nuôi từ 1.000-2.000 con vịt trên một sàn. Vì không có nhân công cũng như đặc thù xen kẽ từng sàn lưới dưới tán điều nên tôi làm mỗi sàn nuôi từ 80-100 con vịt. Bên cạnh đó, tôi cũng tìm hiểu và nghiên cứu cách chế biến thức ăn riêng cho đàn vịt để đảm bảo thịt thơm ngon như nuôi thả vườn. Đó là thức ăn bán công nghiệp, một nửa cám viên, một nửa từ bột có nguồn gốc từ bắp, đậu và phải được nấu chín. Tỷ lệ các loại cám, bột do tôi cân chỉnh phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đàn vịt. Nuôi vịt xiêm trên sàn lưới rất sạch sẽ, không gây ô nhiễm môi trường và thức ăn được nấu chín cũng giúp giảm thiểu các loại dịch bệnh trên đàn, từ đó mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với phương pháp nuôi truyền thống.
CÓ Ý CHÍ, Ở ĐÂU CŨNG THÀNH CÔNG
Nhiều người cho rằng, thanh niên vùng sâu, vùng xa thiệt thòi khi không có môi trường thuận lợi để phát triển, song nếu biết tận dụng lợi thế công nghệ thông tin, tiềm năng, thế mạnh địa phương, chịu khó tìm tòi, học hỏi mô hình kinh tế phù hợp thì dù ở đâu, thanh niên cũng có thể vươn lên phát triển kinh tế.
Với mô hình nuôi vịt xiêm trên sàn lưới, trung bình anh Thắng nuôi từ 3-4 lứa/năm. Sau mỗi lứa xuất bán, anh vệ sinh sàn lưới và không gian phía dưới sàn sạch sẽ; khoảng 15 ngày thì nuôi lứa mới. Việc chăm sóc kỹ đã giúp loại trừ các mầm bệnh trên đàn vịt. Đồng thời, tranh thủ thời gian anh còn chăm sóc được vườn điều, cà phê của gia đình.
Anh Thắng chia sẻ: Quy mô hiện nay của mô hình khoảng 3.000 con/năm. Hiệu quả kinh tế mang lại khoảng 60 triệu đồng/1.000 con. Thời gian tới, tôi dự kiến mở rộng diện tích sàn lưới với quy mô 6.000 con/năm.
Mỗi mô hình sản xuất, chăn nuôi, ngoài vốn, kỹ thuật chăm sóc, điều quan trọng nữa là đầu ra cho sản phẩm. Nắm bắt từ sớm, anh Thắng không chỉ chủ động về nguồn giống, thức ăn, kỹ thuật chăn nuôi, việc kết nối tạo đầu ra cũng có đầu mối ổn định. “Tôi có những mối ở Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh nên đúng định kỳ xuất lứa vịt xiêm, họ về bắt một lần là hết đàn. Khi nhu cầu thị trường những nơi đó giảm, tôi lại tự ra chợ giao cho các tiểu thương ở địa phương” - anh Thắng cho hay.
Trong thời buổi khó khăn, việc tìm ra mô hình kinh tế phù hợp, mang lại hiệu quả như của hộ anh Thắng được đánh giá cao. Ông Phan Hồng Vinh, Chủ tịch Hội Nông dân xã Phước Sơn cho biết: Mô hình nuôi vịt xiêm trên lưới đã khắc phục hầu hết các nhược điểm của phương pháp chăn nuôi truyền thống. Thực tế mô hình chăn nuôi trên sàn lưới, dưới tán cây của thanh niên Hoàng Văn Thắng đã mang lại hiệu quả cao. Thời gian tới, Hội Nông dân sẽ phối hợp Đoàn thanh niên xã triển khai nhân rộng mô hình này đến các hộ dân có nhu cầu để cải thiện kinh tế gia đình.
Ngọc Bích
Chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học: Giảm chi phí, tăng lợi nhuận
Nguồn tin: Báo Long An
Hiện nay, chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học được xem là giải pháp hiệu quả để hạn chế thấp nhất các loại dịch bệnh trên gia súc, gia cầm, góp phần bảo vệ đàn vật nuôi, tăng lợi nhuận cho người chăn nuôi.
Chị Trần Mỹ Thanh (xã Đức Tân, huyện Tân Trụ) có thu nhập ổn định từ nuôi gà thịt theo hướng an toàn sinh học
Mặc dù giá thức ăn công nghiệp tăng, dịch bệnh tiềm ẩn nhưng gần 15 năm qua, chị Trần Mỹ Thanh (xã Đức Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An) vẫn duy trì mô hình Nuôi gà thịt. Trung bình 3,5 tháng, khi gà đạt trọng lượng từ 2,2-2,7kg/con là có thể xuất chuồng, thương lái đến tận nơi thu mua, giá dao động từ 55.000-60.000 đồng/kg. Sau khi trừ tất cả chi phí, chị Thanh có lợi nhuận trên 35 triệu đồng/đợt.
Để đạt hiệu quả kinh tế, chị Thanh áp dụng chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học. Khu chăn nuôi được chia làm 2 chuồng cách xa nhau. Chuồng thứ nhất để nhập con giống về, giữ ấm và tiêm đầy đủ các loại vắc-xin phòng bệnh. Sau 40 ngày, gà sẽ được đưa sang chuồng thứ 2. Chuồng thứ 2 được ngăn thành 2 vách để tách biệt giữa gà trống, gà mái. Xung quanh chuồng gà được bao bọc bởi nhiều tấm lưới nhằm ngăn không cho các loại động vật khác vào. Nước uống cho gà được sử dụng qua hệ thống lọc, tuyệt đối không cho uống nước mưa. Ngoài thức ăn công nghiệp, chị còn tận dụng thêm các loại rau để bổ sung chất xơ cho gà.
Chị Thanh cho biết: “Hàng ngày vào buổi sáng, tôi dọn vệ sinh chuồng trại, rửa tất cả đồ đựng nước, thức ăn cho gà. Sau khi xuất chuồng, tôi rải vôi, phun thuốc để diệt hết mầm bệnh, sau đó mới tái đàn. Quan trọng nhất trong nuôi gà là tiêm vắc-xin phòng bệnh đầy đủ và thường xuyên vệ sinh, sát khuẩn chuồng trại. Nhờ nuôi gà hiệu quả, tôi vừa có thêm thu nhập, vừa có thời gian chăm sóc gia đình, chất lượng cuộc sống ngày càng nâng lên”.
Xác định chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học là giải pháp để bảo vệ đàn vật nuôi, năm 2023, xã Hướng Thọ Phú, TP.Tân An phối hợp Trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân tỉnh tổ chức 1 lớp dạy nghề thú y trên gia súc cho nông dân, thời gian dưới 3 tháng với trên 30 học viên tham gia.
Ông Châu Công Hạnh (ấp Bình Cang 1, xã Bình Thạnh, huyện Thủ Thừa) là một trong những nông dân tham gia lớp học này. Khi được tiếp cận kiến thức, ông Hạnh biết cách vệ sinh chuồng trại, các loại thuốc dùng cho gia súc. Ông Hạnh bộc bạch: “Trước đây, tôi chủ yếu nuôi bò theo kinh nghiệm, người này chỉ người kia. Khi tham gia lớp học, tôi biết được lợi ích của vệ sinh chuồng trại thường xuyên, quy trình phòng bệnh cho gia súc, cơ chế phát sinh một số bệnh thường gặp trên gia súc, công dụng của các loại thuốc thú y thông thường, các kỹ năng xử lý và phòng, chống bệnh trên gia súc,... Tôi sẽ áp dụng kiến thức đã học vào nuôi bò”.
Theo bác sĩ thú y Bùi Quốc Hưng (chuyên viên Trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân tỉnh), hiện nay, người chăn nuôi chưa biết cách chọn con giống, phối giống chất lượng. Từ đó, bò nuôi không lớn, không đạt trọng lượng nên bán giá thấp, lợi nhuận giảm. Khi lớp dạy nghề thú y trên gia súc được tổ chức tại xã Hướng Thọ Phú, anh Bùi Quốc Hưng chú trọng chia sẻ về lợi ích của việc chọn giống tốt, chất lượng và kỹ thuật nuôi theo hướng an toàn sinh học.
Bác sĩ thú y Bùi Quốc Hưng cho biết: “Để tạo hứng thú cho học viên, các nội dung trong chương trình học phù hợp thực tế, trong đó, chú trọng dạy thực hành nhiều hơn lý thuyết. Trong lớp học này, tôi tập trung nói về cách chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học như hạn chế người lạ vào chuồng, giữ gìn vệ sinh chuồng trại, chọn con giống rõ nguồn gốc,…”.
Trước tình hình giá thức ăn gia súc, gia cầm tăng nhưng đầu ra gia súc, gia cầm không ổn định, phụ thuộc hoàn toàn vào thương lái thì chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học là giải pháp hiệu quả để duy trì đàn vật nuôi, góp phần giảm chi phí, tăng thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống./.
Lê Ngọc
Xã Tú Lý (Hòa Bình): Nuôi dê cỏ bán chăn thả - hướng phát triển kinh tế hiệu quả
Nguồn tin: Báo Hòa Bình
Trong điều kiện hàng hóa, sản phẩm nông nghiệp tiêu thụ chậm, xuống giá, nhưng với dê cỏ trên thị trường vẫn giữ giá và luôn trong tình trạng không có để bán. Đây là hướng phát triển kinh tế của những hộ nuôi dê cỏ ở xã Tú Lý (Đà Bắc, Hòa Bình).
Chị Đỗ Thị Loan, xóm Hào Tân, xã Tú Lý (Đà Bắc) chăm sóc đàn dê của gia đình.
Mới khoảng 7h, chị Đỗ Thị Loan ở xóm Hào Tân, xã Tú Lý đã chở một xe cỏ về nhà. Chị cho biết: Tôi tranh thủ đi từ 6h ra đồng cắt cỏ, mất khoảng 20 phút cho vào máy thái là đàn dê có thức ăn cả buổi sáng. Buổi chiều sẽ chăn thả dê ở khu rừng sau nhà. Từ trước đến nay, giống dê cỏ luôn được thị trường ưa chuộng. Thời gian gần đây, mặc dù nhiều loại gia súc, gia cầm xuống giá nhưng thịt dê hơi vẫn có giá 150 nghìn đồng/kg, lúc khan hiếm tăng lên 170 nghìn đồng/kg. Giống dê này dễ nuôi, khỏe mạnh, ít bệnh tật và đẻ tốt. Nhưng để nuôi bắt buộc phải nuôi theo hình thức thả đồi hoặc bán chăn thả. Khi được chăn thả, dê khỏe mạnh, không phải bổ sung nhiều thức ăn.
Gần nhà chị Loan là nhà anh Đặng Văn Nam. Trước đây gia đình anh Nam đầu tư nuôi lợn nhưng do giá cám cao, đầu ra bấp bênh, thấy nuôi dê cỏ hiệu quả, phù hợp điều kiện địa phương nên anh chuyển sang chăn nuôi dê. Mới đầu anh nuôi 2 cặp dê, sau 1 năm chăn nuôi thấy thuận lợi anh tiếp tục nhân đàn cho hiệu quả kinh tế cao. Đến nay, đàn dê của gia đình anh có 50 con, trong đó có 16 dê nái. Dê nái sinh sản 2 lứa/năm, mỗi lứa từ 1 - 3 con. Mỗi năm gia đình anh xuất bán 70 con dê thương phẩm, trọng lượng từ 25 - 30kg/con, giá bán 150.000 đồng/kg. Anh Nam cho biết: Gia đình tôi chọn giống dê cỏ để chăn nuôi vì phù hợp với đồng cỏ địa phương. Giống dê này chất lượng thịt ngon, đầu ra thuận lợi. Hình thức nuôi chủ yếu là chăn thả, cho ăn thêm cỏ, ngô.
Anh Bùi Xuân Hùng, Trưởng xóm Hào Tân, xã Tú Lý cho biết: Trên địa bàn xóm triển khai nhiều mô hình phát triển kinh tế, trong đó tôi thấy mô hình nuôi dê bán chăn thả cho hiệu quả rõ rệt. Xóm hiện có vài hộ chăn nuôi dê, đầu ra sản phẩm ổn định, dê khỏe, kháng được nhiều bệnh tật. Đây là hướng đi có tiềm năng phát triển kinh tế ở xóm. Chúng tôi động viên, khuyến khích bà con mở rộng mô hình để thoát nghèo.
Trong những năm qua, tận dụng địa hình chăn thả thuận lợi bởi được bao bọc núi đá và đồi, nhiều hộ trên địa bàn xã đầu tư phát triển chăn nuôi dê. Để đảm bảo đầu ra ổn định, xây dựng thương hiệu dê, Hợp tác xã (HTX) chăn nuôi dê huyện Đà Bắc (xã Tú Lý) đã liên kết với HTX ĐTH ở Hà Nội bao tiêu đầu ra cho sản phẩm. Ngoài 15 thành viên HTX còn liên kết với 21 hộ trên địa bàn huyện phát triển chăn nuôi dê. Khi tham gia liên kết các hộ được chuyển giao khoa học kỹ thuật, định hướng phát triển kinh tế.
Chị Cao Thị Ngần, Phó Giám đốc HTX chăn nuôi dê huyện Đà Bắc cho biết: Từ sự quan tâm, tạo điều kiện của các cấp chính quyền, chúng tôi đã liên kết với HTX ĐTH tập huấn kỹ thuật cho hộ chăn nuôi đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm. HTX tiếp tục mở rộng mô hình ở các địa phương trên địa bàn tỉnh, mở hướng xóa đói, giảm nghèo cho bà con.
Việt Lâm
Quảng Ninh: Đảm bảo sản xuất chăn nuôi cuối năm
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Quảng Ninh
Những tháng cuối năm cũng là thời điểm nguy cơ cao bùng phát dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm. Để kiểm soát dịch bệnh, bảo vệ đàn vật nuôi, ngành Nông nghiệp tập trung triển khai các giải pháp về chăn nuôi an toàn sinh học, nâng cao năng lực sản xuất và kiểm soát chất lượng con giống, phòng chống dịch bệnh.
Mô hình chăn nuôi lợn Móng Cái theo hướng an toàn, hữu cơ của nông dân xã Quảng Nghĩa (TP Móng Cái). Ảnh: Dương Trường
Trong 9 tháng năm 2023, hoạt động sản xuất chăn nuôi nhìn chung thuận lợi, các dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trên gia súc, gia cầm, như: Lở mồm long móng, tụ huyết trùng, viêm da nổi cục… được kiểm soát tốt, không phát sinh ổ dịch. Các bệnh cúm gia cầm, dịch tả lợn châu Phi xuất hiện lẻ tẻ tại các địa phương Đầm Hà, Móng Cái, Uông Bí, Vân Đồn (Quảng Ninh) được khống chế kịp thời, không lây lan rộng.
Chính quyền địa phương và các ngành chức năng đã tích cực vận động người dân khử trùng, tiêu độc chuồng trại, cơ sở giết mổ và đảm bảo môi trường chăn nuôi. Để ngăn ngừa dịch bệnh trên gia súc, gia cầm lây lan, các ngành chức năng đặc biệt chú ý đến công tác kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật. Hầu hết các huyện, thị xã, thành phố đã mua sắm đủ loại vắc-xin năm 2023 và triển khai tiêm phòng cho gia súc, gia cầm; tăng cường vệ sinh tiêu trùng, khử độc... Qua đó, đã góp phần đưa chăn nuôi trên địa bàn Quảng Ninh ngày càng phát triển ổn định. Tổng đàn gia súc, gia cầm đến nay tăng nhẹ so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, đàn trâu trên 25.800 con, đàn bò gần 30.300 con, đàn lợn gần 272.00 con, đàn gia cầm đạt 5,2 triệu con. Tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng các loại ước đạt trên 71.556 tấn.
Tuy nhiên, thực tế việc phát triển quy mô về tổng đàn đối với đàn bò, đàn lợn trên địa bàn tỉnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, việc phát triển đàn bò ở Công ty TNHH Phú Lâm giảm 32,7% so với cùng kỳ năm 2022, hiện có 7.074 con. Nguyên nhân do giá nhập bò thịt, giá thức ăn tăng cao, lãi suất vốn vay ngân hàng tăng và một số nguyên nhân chủ quan khác. Vì vậy, Công ty mới nhập 2.561 con, dự kiến trong quý IV/2023 nhập thêm khoảng 3.000 con.
Đối với việc phát triển đàn lợn, hiện giá thịt lợn hơi trên thị trường ở mức 56.000-58.000 đồng/kg, giá thức ăn chăn nuôi của một số công ty giảm 10% so với giai đoạn cao điểm năm 2022. Chăn nuôi lợn hiện nay đang theo xu hướng chuyển từ chăn nuôi nhỏ lẻ (nông hộ) sang chăn nuôi trang trại, hoặc tổ chức liên kết hình thành HTX, THT (liên kết ngang), liên kết giữa các khâu và liên kết theo chuỗi khép kín (liên kết dọc) trong đó doanh nghiệp là trung tâm. Trong khi đó, các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, không kiểm soát được an toàn dịch bệnh và chi phí sản xuất nên hiệu quả không cao, nhiều hộ thua lỗ nên đã hạn chế đầu tư hoặc dừng hẳn không nuôi. Hiện nay số lượng hộ chăn nuôi lợn giảm mạnh (trên 5.000 hộ). Số lượng tổng đàn giảm do các cơ sở chuyển đổi phương thức sản xuất, điều chỉnh kế hoạch sản xuất, bên cạnh đó các dự án chăn nuôi đang triển khai chậm.
Bà Chu Thị Thu Thủy, Phó Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y (Sở NN&PTNT), cho biết: Để đảm bảo đạt các chỉ tiêu chăn nuôi năm 2023, Chi cục Chăn nuôi và Thú y tiếp tục tham mưu Sở NN&PTNT, UBND tỉnh xây dựng và thực hiện hiệu quả cơ chế chính sách ngành Nông nghiệp; phối hợp với các địa phương thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về chăn nuôi, thú y, quản lý giống vật nuôi, môi trường trong chăn nuôi; sử dụng thuốc thú y và thức ăn chăn nuôi. Cùng với đó, tổ chức thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh trên đàn vật nuôi vào các tháng cuối năm để bảo vệ đàn vật nuôi.
Chi cục tiếp tục chủ động theo dõi, nắm bắt biến động của thị trường, tình hình sản xuất chăn nuôi; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các địa phương thực hiện tốt các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học, xử lý môi trường đảm bảo an toàn trong chăn nuôi trên địa bàn toàn tỉnh. Đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát dịch bệnh từ cơ sở; xây dựng cơ sở an toàn dịch bệnh; rà soát, đánh giá điều kiện vệ sinh thú y cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm quy mô nhỏ.
Thời điểm cuối năm, thường xuyên xuất hiện các đợt lạnh tăng cường, ngành Nông nghiệp chủ động theo dõi sát tình hình thời tiết để có các biện pháp phòng, chống vật nuôi kịp thời, đặc biệt khi có rét đậm, rét hại. Trước mùa rét, Chi cục phối hợp chặt chẽ với các địa phương tuyên truyền, hướng dẫn người dân thực hiện các biện pháp chống rét cho đàn gia súc, gia cầm. Trong đó, tập trung cải tạo, che chắn chuồng trại để đảm bảo kín gió, tránh mưa tạt, giữ nền chuồng luôn khô ráo sạch sẽ; sử dụng bóng điện hay đốt lửa sưởi cho vật nuôi trong chuồng bằng trấu, mùn cưa, than củi... Bên cạnh đó, các hộ chăn nuôi tăng cường chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng trâu, bò già yếu; gia súc non cần có chế độ nuôi dưỡng phù hợp để phòng chống đói rét và dịch bệnh. Bà con cần thường xuyên theo dõi bản tin dự báo thời tiết để có kế hoạch chăn thả gia súc, gia cầm hợp lý. Hạn chế việc chăn thả gia súc, gia cầm khi nhiệt độ ngoài trời dưới 15 độ C.
Những ngày rét đậm, rét hại dưới 12 độ C thì không chăn thả mà nhốt vật nuôi trong chuồng. Sử dụng bóng điện sợi đốt, bóng hồng ngoại hoặc đốt củi để sưởi. Bà con cần chú ý khi đốt lửa sưởi phải có đường ống dẫn khói thải ra ngoài chuồng, tránh hiện tượng ngạt, ngộ độc vật nuôi và vị trí đốt tránh xa chất độn chuồng, bạt che để phòng bén lửa gây cháy. Đối với đàn trâu, bò nên mặc áo ấm bằng bao tải gai, bao tải dứa, chăn, áo cũ… để chống rét.
Dương Hà
Hiếu Giang tổng hợp