Nông dân Lào Cai thu gần 100 tỷ đồng từ cây ăn quả ôn đới
Nguồn tin: Báo Lào Cai
Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trên địa bàn tỉnh Lào Cai hiện có hơn 3.500 ha cây ăn quả ôn đới; trong đó, diện tích trồng mận là 1.730 ha; lê 1.258 ha; đào là 295 ha và 288 ha các cây ăn quả khác.
Cây ăn quả ôn đới trên địa bàn tỉnh phần lớn vẫn trong giai đoạn kiến thiết, chỉ có trên 1.000 ha đang cho thu hoạch, chiếm hơn 30% tổng diện tích.
Nông dân Mường Khương thu hoạch lê.
Thời gian cho thu hoạch các loại cây ăn quả ôn đới cơ bản kết thúc trong tháng 7, tổng sản lượng hơn 3.000 tấn, giá trị ước gần 100 tỷ đồng. Cụ thể, thu từ quả đào khoảng 15 tỷ đồng; mận Tam hoa trên 60 tỷ đồng; mận Tả Van và lê trên 20 tỷ đồng...
Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, các loại quả ôn đới trên địa bàn tỉnh gặp khó khăn trong tiêu thụ, giá bán giảm so với những năm trước. Ngành nông nghiệp đã phối hợp với các cơ quan có liên quan và các địa phương kết nối tiêu thụ cho các loại quả ôn đới nói riêng và nông sản an toàn nói chung. Các sản phẩm của Lào Cai được tiêu thụ qua nhiều kênh như: Chợ đầu mối các tỉnh lân cận, chuỗi cửa hàng bán lẻ, các siêu thị lớn và các sàn thương mại điện tử. Nhìn chung, các sản phẩm đều được kết nối, tiêu thụ ổn định.
Thúy Phượng
Chợ Lách (Bến Tre): Sản lượng trái cây ước đạt 35 ngàn tấn
Nguồn tin: Báo Đồng Khởi
Cây giống ở xã Vĩnh Thành chuẩn bị đưa ra thị trường bằng hình thức kinh doanh online.
Trong 6 tháng đầu năm 2021, mặn có xâm nhập đến địa bàn huyện Chợ Lách (tỉnh Bến Tre), nhưng diễn biến thấp hơn so với cùng kỳ năm 2020. Huyện đã hoàn thành 7 đập tạm ngăn mặn, cống ngăn mặn Kênh Lộ ở xã Phú Sơn; tiếp tục thi công xây dựng cống Bình Sơn, xã Sơn Định và nâng cấp đê bao Bưng Trích, xã Hưng Khánh Trung B; triển khai thi công cống Thới Định, xã Hòa Nghĩa - thị trấn Chợ Lách. Huyện đang chuẩn bị khởi công cống Cây Da, xã Vĩnh Thành; cống Bù Cua, xã Vĩnh Thành - Hưng Khánh Trung B; cống Chan Chán, xã Sơn Định.
Qua kiểm tra công tác ứng phó hạn mặn tại các xã: Phú Sơn, Tân Thiềng, Hòa Nghĩa, Long Thới, Vĩnh Hòa..., công tác phòng chống hạn mặn đã được các cấp quan tâm thực hiện và sự hưởng ứng tích cực của người dân, nhất là các mô hình trữ nước trong dân hiện nay được nhân rộng. Đặc biệt, mô hình hồ trữ nước bằng mũ lót, với trên 500 hồ có thể tích trên 500m3.
Huyện xây dựng kế hoạch nâng cấp chuỗi giá trị cây giống. Theo đó, chọn lọc và xây dựng lý lịch các cây ăn quả đầu dòng, hỗ trợ nông dân xây dựng nâng cấp chuỗi bông giấy, triển khai xây dựng Đề án phát triển sản xuất cây giống và hoa kiểng huyện Chợ Lách thành “Trung tâm Giống cây trồng và hoa kiểng quy mô quốc gia”. Triển khai xây dựng mô hình sầu riêng hữu cơ tại xã Sơn Định. Tập trung thực hiện các biện pháp phòng trừ sâu đầu đen hại dừa.
Chủ tịch UBND huyện Chợ Lách Trần Văn Đém cho biết: “Tình hình sản xuất cây giống, cây ăn trái ổn định. Sản lượng trái cây ước đạt 35 ngàn tấn, tăng 55,56% so với cùng kỳ. Sản xuất cây giống các loại đạt 20 triệu cây, đạt 116,3% so kế hoạch. Sản lượng hoa kiểng tiêu thụ trên 8 triệu sản phẩm, đạt 66,6% so với kế hoạch. Các sản phẩm tập trung phục vụ trong dịp Tết Nguyên đán Tân Sửu năm 2021 chủ yếu là: mai vàng, tắc, bông giấy, bonsai, hoa nở các loại.
Tin, ảnh: Hoàng Vũ
Hiệu quả mô hình trồng chanh không hạt
Nguồn tin: Báo Ninh Thuận
Thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng thích ứng với biến đổi khí hậu của UBND tỉnh Ninh Thuận, thời gian qua, các địa phương trên địa bàn tỉnh triển khai nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao. Trong đó, mô hình trồng chanh không hạt tại xã Lương Sơn (Ninh Sơn) đã mang lại hiệu quả kinh tế, cải thiện thu nhập và nâng cao đời sống cho hộ trồng.
Đến thăm Nông trại Ngọc Hiển tại thôn Tân Lập 2, xã Lương Sơn, chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng về quy mô diện tích cũng như trình độ thâm canh của chủ nông trại. Tiếp chúng tôi, anh Dương Đình Hiển, chủ trang trại phấn khởi: Để có được thành quả như ngày hôm nay, hai vợ chồng anh đã trải qua nhiều thất bại với nhiều loại cây trồng nhưng hiệu quả không cao. Thất bại nhưng không nản, anh Hiển đã đi học hỏi kinh nghiệm nhiều nơi về kỹ thuật trồng và chăm sóc cây chanh, đến thời điểm hiện tại sự cố gắng, nỗ lực của anh đã thu được thành quả tích cực.
Anh Dương Đình Hiển chăm sóc vườn chanh không hạt.
Qua trò chuyện được biết, năm 2017, sau khi học hỏi kinh nghiệm và nắm vững quy trình kỹ thuật trồng, chăm sóc cây chanh, anh Hiển nhận thấy vùng đất Lương Sơn rất phù hợp để thực hiện ước mơ của mình nên đã cùng vợ quyết thuê đất lập nông trại. Với kinh nghiệm và kiến thức được học anh đã thực hiện mô hình một cách bài bản, bằng cách quy hoạch vùng trồng, cây được trồng theo luống, theo hàng với mật độ 4.000 cây/ha và được phân lô để tiện chăm sóc cũng như dễ đưa cơ giới hóa vào quá trình canh tác, sản xuất. Bên cạnh đó, việc thâm canh cây chanh cũng được thực hiện theo hướng Plogap với các loại phân thuốc mà doanh nghiệp thu mua chỉ định.
Trên diện tích 30 ha, sau hơn 2 năm trồng chanh đến nay đã bắt đầu cho thu hoạch. Anh Hiển cho biết thêm: Mỗi ha chanh anh đầu tư khoảng 200 triệu đồng, theo đúng quy trình cây chanh sẽ cho thu hoạch sản lượng cao khi đủ trên 3 năm tuổi. Hiện nay, cây chanh chỉ cho thu hoạch 60% so với khi đủ tuổi nên cứ cách 2 tuần sẽ có 30 nhân công thu hái, mỗi đợt cho sản lượng trên 30 tấn. Theo tính toán, 1 ha chanh sẽ cho thu nhập trên 400 triệu đồng/năm, sau 2 năm canh tác anh đã có thể thu hồi vốn đầu tư ban đầu và bắt đầu làm giàu từ loại cây trồng này.
Qua tìm hiểu, để tiêu thụ sản lượng lớn chanh qua mỗi lần thu hoạch, anh Hiển đã ký hợp đồng với Công ty TNHH MTV The Fruit Republic Cần Thơ thu mua sản phẩm để xuất khẩu sang Hà Lan nên đầu ra và giá cả luôn ổn định. Anh Hiển cho biết: Sắp tới anh sẽ tiến hành thành lập hợp tác xã, đồng thời liên kết với nông dân trên địa bàn chuyển đổi diện tích các loại cây trồng kém hiệu quả sang trồng chanh nhằm cải thiện thu nhập cho bà con.
Ông Dương Đăng Minh, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Ninh Sơn cho biết: Mô hình trồng chanh không hạt của Nông trại Ngọc Hiển mang lại hiệu quả kinh tế cao, phòng đã cử cán bộ chuyên môn trực tiếp tham quan, tìm hiểu về mô hình. Sắp tới, phòng đề nghị ngành chức năng hỗ trợ chủ nông trại hoàn thiện các thủ tục cần thiết để đăng ký nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm chanh không hạt của nông trại; đồng thời, tiến hành tuyên truyền, vận động nông dân chuyển đổi các diện tích cây trồng hiệu quả sang trồng chanh không hạt để nông dân ổn định sản xuất phát triển kinh tế hộ gia đình.
Thanh Thịnh
Bình Định: Vùng sản xuất rau tập trung, rau an toàn trong tỉnh: Làm giàu danh mục cây trồng
Nguồn tin: Báo Bình Định
Nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, đa dạng giống cây trồng cho các vùng sản xuất rau tập trung, rau an toàn của tỉnh Bình Định, ngành Nông nghiệp tiếp tục chú trọng nghiên cứu, khảo nghiệm giống cây trồng mới ở các địa phương.
Theo kế hoạch phát triển nông nghiệp công nghệ cao gắn với xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2020 - 2025, tỉnh dự kiến duy trì, mở rộng và phát triển 8 vùng sản xuất rau an toàn tập trung ở Vĩnh Thạnh, Tây Sơn, An Nhơn, Tuy Phước, Phù Cát, Phù Mỹ, Hoài Ân, Hoài Nhơn. Các vùng trồng rau an toàn được đầu tư về kỹ thuật, công nghệ trong sản xuất, trồng nhiều giống rau mới, tăng hiệu quả, gắn với xúc tiến thương mại để quảng bá và đưa rau an toàn Bình Định nhãn hiệu Lá Lành vào hệ thống siêu thị trong và ngoài tỉnh.
Ông Huỳnh Việt Hùng, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh (bên trái), kiểm tra thực tế mô hình khảo nghiệm giống đậu xanh tại xã Vĩnh Sơn. Ảnh: NGUYỄN CƯỜNG
Ông Huỳnh Việt Hùng, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh, cho biết: Trên cơ sở chương trình phát triển vùng rau tập trung, rau an toàn của địa phương, Trung tâm phối hợp với các HTXNN, các nhóm cùng sở thích sản xuất rau tập trung, rau an toàn trên địa bàn tỉnh tổ chức khảo nghiệm một số giống rau, đậu, dưa… mới để đa dạng hóa giống cây trồng; phù hợp với việc luân phiên, xen canh để cải tạo đất; có thêm nhiều lựa chọn trong sản xuất, chủ động xây dựng kế hoạch sản xuất phù hợp, giảm tình trạng cung vượt cầu khiến nông sản mất giá.
Hiện vùng trồng rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP ở Vĩnh Sơn (huyện Vĩnh Thạnh) tập trung vào các giống rau ôn đới như cải thảo, bắp sú, su hào, cà rốt... Trung tâm Khuyến nông tỉnh vừa triển khai khảo nghiệm các giống đậu xanh ĐX06, ĐX10, ĐX 21, ĐX 22 và ĐX 208 trên diện tích 1.000 m2 tại vùng trồng rau an toàn Vĩnh Sơn, nhằm đánh giá mức độ thích hợp, khả năng phát triển và năng suất, để trồng luân phiên với các vụ rau ở địa phương này.
Hộ ông Đặng Văn Khánh (xã Vĩnh Sơn) được chọn thí điểm trồng các giống đậu xanh mới, việc thử nghiệm bước đầu khá thuận lợi, các luống đậu đang lên xanh. “Ngành Nông nghiệp hỗ trợ giống, vật tư và hướng dẫn kỹ thuật canh tác. Định kỳ hằng tuần, hằng tháng có cán bộ kỹ thuật nông nghiệp của tỉnh, huyện lên kiểm tra thực tế để hướng dẫn”, ông Khánh cho biết.
HTXNN Phước Hiệp (xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước) đang đầu tư thử nghiệm trồng mới một số giống dưa. Ông Nguyễn Văn Tám, Phó Giám đốc HTX, cho biết: HTX hiện có 10 nhóm cùng sở thích sản xuất rau an toàn đạt tiêu chuẩn VietGAP nhãn hiệu Lá Lành cung ứng cho thị trường trong tỉnh. Quy mô sản xuất rau an toàn khoảng 10 ha, danh mục rau chưa phong phú. Vụ rau mới năm nay, HTX nghiên cứu chọn hỗ trợ trồng thí điểm giống dưa lê với quy mô diện tích 7.000 m2/2 hộ. Hiện có 1 hộ bắt đầu thu hoạch, năng suất và sản lượng tương đối ổn định. Bên cạnh đó, HTX tiếp tục tham khảo, nhờ tư vấn từ các đơn vị chuyên môn để nghiên cứu trồng thêm dưa kim hoàng hậu, dưa lưới, dưa hấu... thời gian tới.
Ruộng dưa lê của hộ ông Trịnh Văn Cường ở thôn Lục Lễ, xã Phước Hiệp (huyện Tuy Phước). Ảnh: THU DỊU
Hộ ông Trịnh Văn Cường (thôn Lục Lễ, xã Phước Hiệp) sau vụ ớt thất thu đã chuyển qua trồng thử nghiệm dưa lê theo hướng an toàn. Trên cánh đồng 4.500 m2, ông Cường chia nhỏ diện tích xuống giống luân phiên, đến nay 1.000 m2 xuống giống đầu tiên bắt đầu cho thu hoạch, diện tích còn lại được kéo giãn thời gian xuống giống để vừa chăm sóc, vừa điều chỉnh. “Lượt thứ 2 xuống giống, cây phát triển tốt hơn lượt đầu, quy trình chăm sóc hoàn thiện hơn do sâu bệnh giảm, cây sinh trưởng tốt, ra hoa đều...”, ông Cường chia sẻ.
Theo ông Quách Văn Cầu, Giám đốc HTXNN Thuận Nghĩa (thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn), thời gian qua, để đa dạng giống rau, cây trồng cho vùng trồng rau an toàn tập trung ở Thuận Nghĩa, HTX cử cán bộ kỹ thuật đi tham quan một số mô hình, nhà vườn ở các tỉnh phía Nam để trồng thử giống măng tây, cùng một số giống rau khác, nếu thành công sẽ tiếp tục nhân rộng.
THU DỊU
Ứng dụng chế phẩm sinh học phòng trừ bệnh trên cây tiêu
Nguồn tin: Báo Bình Phước
Hơn 5 năm trở lại đây, Bình Phước đã có hàng ngàn héc ta hồ tiêu bị chết nhanh, chết chậm, thiệt hại hàng trăm tỷ đồng. Nguyên nhân được xác định là do biến đổi khí hậu, giá tiêu sụt giảm, thu không đủ tái đầu tư nên nông dân đã bỏ bê, không chăm sóc khiến cây kém phát triển, sâu bệnh tấn công, tiêu chết hàng loạt... Làm gì để cứu cây tiêu, để nông dân có thể “sống khỏe” nhờ cây tiêu là bài toán đặt ra cho các ngành chức năng về những giải pháp, phương cách trồng, chăm sóc và điều trị bệnh tiên tiến, hiệu quả nhất. Và ứng dụng chế phẩm sinh học là một giải pháp như thế.
Tìm giải pháp cứu cây tiêu
Để giúp người dân cứu vãn tình trạng hồ tiêu bị bệnh chết nhanh, chết chậm, Hội đồng Khoa học và công nghệ (KH&CN) tỉnh đã liên tục đặt hàng các viện nghiên cứu, trường đại học chuyên ngành… tìm giải pháp. Năm 2019, đề tài “Nghiên cứu ứng dụng các biện pháp sinh học phòng trừ bệnh chết nhanh, chết chậm trên tiêu đen tại tỉnh Bình Phước” do thạc sĩ Thân Quốc An Hạ, Viện Khoa học vật liệu ứng dụng (Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam) làm chủ nhiệm đề tài đã được Hội đồng KH&CN Bình Phước lựa chọn thực hiện trên địa bàn tỉnh. Thời gian thực hiện từ tháng 10-2019 đến 4-2022.
Nhóm nghiên cứu kiểm tra vườn tiêu bị bệnh chết chậm tại huyện Bù Đốp
Theo khảo sát của thạc sĩ Thân Quốc An Hạ, giai đoạn 2015-2019, diện tích hồ tiêu của Bình Phước tăng gấp 3 lần nhưng giá trị lại thấp gấp 4 lần so với trước. 2 năm trở lại đây, tình trạng này cũng không khá hơn. Nguyên nhân do bệnh chết nhanh, chết chậm trên cây tiêu đáng báo động và có nguy cơ lây lan nhanh. Để phòng trừ và ngăn ngừa dịch bệnh này, rất nhiều nông dân đã tự ý sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hóa học dẫn đến làm suy thoái, ô nhiễm nguồn đất, nước nhưng hiệu quả quản lý dịch hại và kinh tế không cao. Trước tình hình đó, nhóm thực hiện đề tài đã nghiên cứu thành công 2 chế phẩm sinh học trị bệnh cho cây tiêu từ cây neem và cây thuốc cá, tạm gọi là chế phẩm VL1 và VL2. Những chế phẩm này có thể pha loãng với nước phun trực tiếp lên cây hoặc tưới xung quanh gốc, cũng có thể ủ với phân hữu cơ để bón cho cây... Sau khi đánh giá hiệu lực loại bỏ các bệnh trên cây tiêu ở phòng thí nghiệm, nhóm nghiên cứu đem thử nghiệm thực địa và lựa chọn mô hình để ứng dụng.
Thử nghiệm với chế phẩm sinh học
Gia đình ông Nguyễn Trung Kiên ở thôn Tân Bình, xã Tân Tiến, huyện Bù Đốp có 2.500 nọc tiêu, mỗi năm thu gần 8 tấn. Trồng tiêu 15 năm, ông Kiên cũng có nhiều kinh nghiệm trong chăm sóc, phòng bệnh cho hồ tiêu. Song riêng bệnh chết nhanh, chết chậm thì ông vẫn chịu thua. Ông Kiên cho biết, cây tiêu rất khó tính lại phụ thuộc nhiều vào thời tiết, khí hậu và cách chăm sóc. Dù chăm sóc khá kỹ nhưng mỗi năm vườn tiêu nhà ông cũng có khoảng 2% trụ bị bệnh chết chậm.
Đầu năm 2021, ông Kiên được nhóm nghiên cứu của Viện Khoa học vật liệu ứng dụng chọn thực hiện mô hình thí điểm phòng bệnh chết chậm trên cây tiêu. Sau khi dùng chế phẩm sinh học, cây tiêu nhà ông Kiên bắt đầu rụng hết lá vàng, lá bệnh và mọc chồi non... Theo chu kỳ sinh trưởng của cây tiêu, vào mùa mưa, cây bắt đầu đâm chồi, nảy lộc và ra bông chuẩn bị cho vụ mùa mới. Do vậy, nhóm nghiên cứu đề xuất biện pháp rửa vườn sau thu hoạch, trước mùa mưa. Đây là giải pháp rất quan trọng. Những nấm bệnh, vi sinh vật có hại ẩn sâu trong lá, trong thân bị rửa trôi, cây rụng lá già, đâm chồi, ra lá mới.
Bệnh chết nhanh, chết chậm trên cây tiêu cũng là nỗi lo của gia đình ông Phan Viết Bình ở ấp 8, xã Lộc An, huyện Lộc Ninh. Ông Bình cho biết, gia đình có 5 ha tiêu nhưng chỉ còn khoảng 8.000 nọc, tiêu cứ giảm dần do bệnh chết nhanh, chết chậm.
Theo khảo sát của Viện Khoa học vật liệu ứng dụng, vườn tiêu nhà ông Bình có khoảng 17% diện tích bị nhiễm bệnh, nhiều khả năng suy cây nếu không có giải pháp phòng trị bệnh kịp thời. Để cứu lấy diện tích tiêu này, ông Bình đã nhận thực hiện mô hình chăm sóc ứng dụng các biện pháp sinh học phòng trừ bệnh chết nhanh, chết chậm trên cây tiêu với diện tích 1ha đang cho thu hoạch. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành đánh số để tiện cho việc kiểm soát cây. Những diện tích còn lại gia đình ông vẫn chăm sóc theo cách truyền thống.
Ông Bình cho biết, mấy tháng nay sau khi thu hoạch xong, ông làm theo hướng dẫn của nhóm nghiên cứu từ chăm sóc, phòng bệnh đến ủ phân bón cho cây. Ông mong đây sẽ là chế phẩm tốt để giúp vườn tiêu sớm phục hồi.
Hướng đến nền nông nghiệp an toàn
Theo đánh giá bước đầu của tiến sĩ Phạm Hữu Thiện, Phó chủ tịch Hội đồng khoa học, Viện Khoa học vật liệu ứng dụng, sản phẩm của nhóm nghiên cứu có rất nhiều ưu việt, biết kết hợp giữa dòng sản phẩm từ nông nghiệp với các hợp chất từ thiên nhiên phối trộn với nhau để nâng cao giá trị. Sản phẩm này rất thân thiện với môi trường, không ảnh hưởng sức khỏe người sử dụng, bước đầu cho hiệu quả tốt.
PGS.TS Thái Văn Nam, Phó viện trưởng Viện Khoa học ứng dụng, Trường đại học công nghệ TP. Hồ Chí Minh: Tôi đánh giá rất cao đề tài này. Đặc biệt là sự nhiệt tình triển khai vào thực tế của nhóm. Tôi hy vọng đề tài sẽ thành công, triển khai rộng rãi và là một trong những giải pháp hiệu quả trong phòng ngừa, trị bệnh chết nhanh, chết chậm trên cây tiêu.
Bệnh chết nhanh, chết chậm trên cây tiêu hiện vẫn chưa có thuốc đặc trị mà chỉ phòng là chính. Do vậy, nếu đề tài ứng dụng các chế phẩm sinh học của nhóm nghiên cứu thành công sẽ cứu được hàng ngàn héc ta hồ tiêu của nông dân đang có nguy cơ bị bệnh. Đây cũng là một trong những biện pháp sinh học, khi được ứng dụng sẽ góp phần tạo ra sản phẩm sạch, chất lượng, hướng đến nền nông nghiệp an toàn, tăng giá trị và lợi nhuận cho xã hội.
“Trong giai đoạn tiếp theo, nhóm nghiên cứu tiếp tục theo dõi, đánh giá sản phẩm và hiệu quả sản xuất của các mô hình. Đồng thời có những đề xuất, kiến nghị, đưa ra các giải pháp phát triển hồ tiêu bền vững trên địa bàn tỉnh Bình Phước” - tiến sĩ Phạm Hữu Thiện cho biết.
Hiền Lương
Macca - sản phẩm nông nghiệp đặc hữu trên vùng núi đá Lai Châu
Nguồn tin: VOV
Tỉnh lai Châu đến nay đã có hàng nghìn ha cây macca, sản phẩm macca ở địa phương được đánh giá có vị thơm riêng biệt, nhiều tinh chất và đang trở thành sản phẩm nông nghiệp đặc hữu trên thị trường.
Cây macca phù hợp với địa hình đồi núi dốc, năm 2014, gia đình ông Trần Đức Văn, ở tổ 15, phường Tân Phong, thành phố Lai Châu đã mạnh dạn mua giống cây này về trồng thử trên mảnh nương gần nhà. Sau một thời gian trồng, chăm sóc, thấy cây macca sinh trưởng, phát triển tốt, phù hợp với đất dốc, gia đình ông tiếp tục mua thêm cây giống về trồng. Đến nay, gia đình ông đã sở hữu vườn macca hơn 2.000 cây, trong đó, hơn 1.500 cây đã cho thu hoạch.
Ông Văn chia sẻ, macca là loại cây ưa hạn, dễ trồng và không đòi hỏi cao về kĩ thuật chăm sóc, nhất là rất hợp với đất dốc núi đá. Sau khi trồng, mỗi năm chỉ cần bón phân NPK hai lần vào đầu năm và cuối năm là cây sẽ phát triển tốt, cho nhiều quả. Đặc biệt, việc thường xuyên làm cỏ, tỉa cành, tạo tán sẽ giúp cây phát triển tốt và cho quả sai hơn.
“Cây ăn quả trồng trên đất có độ chênh sẽ cho hiệu quả tốt hơn, vì nó không bị trũng nước. Cây macca rất phù hợp với đất dốc ở Lai Châu. Nếu so với tất cả các cây ăn quả khác thì cây macca cho hiệu quả hàng đầu. Diện tích nhà tôi có khoảng 6ha, với hoảng 2.000 cây. Trồng loạt đầu cách đây 7 năm, lúc ấy gia đình tôi vẫn e ngại đầu ra, thế nhưng bây giờ thì lúc nào cũng thiếu, gia đình không còn phải lo đầu ra cho sản phẩm nữa” ông Văn nói.
Gia đình ông Trần Đức Văn, ở Tổ 15, phường Tân Phong, thành phố Lai Châu hiện có hơn 2.000 cây macca.
Theo kinh nghiệm của gia đình ông Văn, cây macca trồng bằng cây ghép sẽ phát triển và hạn chế được nhiều sâu bệnh hơn so với cây trồng hạt. Sau 3 năm trồng, cây sẽ cho lứa quả bói và cũng từ đó sản lượng tăng theo hàng năm. Cây từ 5 năm tuổi trở đi, mỗi cây sẽ cho sản lượng quả ổn định từ 30 - 50kg/năm; với những cây phát triển tốt có thể cho thu hoạch gần 1 tạ quả.
“Cây phát triển tốt, có hiệu quả thường thì bây giờ phải cho thu hoạch gần 1 tạ quả, còn cây phát triển bình thường thì cũng vài chục cân. Giá bán xanh là 70.000 - 80.000 đồng/kg, còn hạt sấy là bán 350.000 đồng/kg. Giá trị kinh tế của cây macca đến nay vẫn là hiệu quả nhất. Hiện hạt macca đang được làm sữa hoặc sao sấy; còn sau này mà có nhiều phát triển hơn nữa có thể chế biến mỹ phẩm, dầu ăn...” - ông Văn cho biết thêm.
Theo nghiên cứu, các nhà khoa học nhận định hạt macca có nhiều dưỡng chất tốt cho sức khỏe con người; chứa nhiều hợp chất chống oxy hóa cũng như các nguyên tố khoáng vi lượng cần thiết cho sự trao đổi chất, giúp đốt cháy chất béo và kiểm soát sự thèm ăn. Đặc biệt, hạt macca ở Lai Châu được sử dụng trong sản xuất bánh, chế biến sữa... Hiện, sản phẩm macca ở địa phương đang được các thương lái tìm đến tận vườn để mua với số lượng lớn.
Đặc biệt hạt macca trồng trên vùng núi đá dốc ở Lai Châu có hàm lượng khoáng vi lượng tốt và chất dinh dưỡng cao, tốt cho sức khỏe con người.
Ông Bùi Thanh Hải, một thương lái đến từ tỉnh Vĩnh Phúc cho biết: “Hạt macca bây giờ thị trường vẫn còn khan hiếm và được người dân tìm mua nhiều, lượng cung không đủ cầu. Hàm lượng của hạt macca có chất dinh dưỡng cao, nên một số các nhà máy sữa người ta cũng muốn lên để hợp tác sản xuất sữa macca. Sản phẩm hạt macca mang về dưới đồng bằng hiện nay chưa có nhà máy lớn để sản xuất; nên một số hộ trồng đã đầu tư máy sấy macca để đóng bao bì bán trên thị trường”.
Được đưa vào trồng thử nghiệm trên đồi núi đá dốc bắt đầu từ năm 2011, đến nay, cây macca đã phát triển ở khắp các huyện, thành phố ở tỉnh Lai Châu, với tổng diện tích trên 3.000ha; trong đó đã có trên 500ha cây cho thu hoạch. Không chỉ phủ xanh các vùng đất cằn cỗi, macca hiện đã, đang trở thành cây công nghiệp chủ lực, cho sản phẩm đặc hữu, giúp đồng bào các dân tộc thiểu số ở Lai Châu phát triển kinh tế, từng bước giảm nghèo bền vững./.
Khắc Kiên/VOV-Tây Bắc
Chuỗi liên kết nông sản: ‘Chìa khóa’ giúp nông dân vượt dịch
Nguồn tin: Báo Phú Yên
Nông dân sẽ bớt khó khăn hơn khi sản phẩm được bao tiêu thông qua chuỗi liên kết. Ảnh: MINH DUYÊN
Dịch COVID-19 khiến đầu ra tiêu thụ nông sản của người dân gặp khó. Nhưng ở nhiều nơi trên địa bàn tỉnh Phú Yên, bà con vẫn yên tâm sản xuất vì đã được bao tiêu thông qua chuỗi liên kết.
Bức tranh hai sắc màu
Về phường Hòa Xuân Tây (TX Đông Hòa), nông dân ở đây đang nhấp nhổm vì cây đậu phộng chuẩn bị vào vụ thu hoạch rộ mà không thấy thương lái thu mua. Nguyên nhân do dịch COVID-19. Theo ông Dương Quang Nhơn, một người dân ở đây, gia đình ông có 7 sào đậu phộng. Mọi năm vào thời gian này, thương lái đã đặt trước từng ruộng, tới ngày thu hoạch gọi là họ đến ngay và thanh toán luôn. Năm nay đã thu hoạch mà chưa bán được cho ai, gọi mối quen họ cũng không tới. “Gần tháng nay, tôi chỉ biết bán lẻ cho bà con quanh xóm 5kg, 10kg về ăn dần”, ông Nhơn nói.
Ông Huỳnh Văn Bảo, Giám đốc HTX Dịch vụ nông nghiệp tổng hợp Hòa Xuân Tây 1, cho biết: Đậu phộng là cây chuyển đổi của địa phương. Hiện nay, toàn phường có khoảng 100 hộ trồng 29ha đậu phộng, nhiều nhất trong 3 năm qua. Năm trước, bà con chỉ trồng từ 17-19ha. Vụ đông xuân vừa rồi, bà con còn bán được trung bình 15.000 đồng/kg, cuối vụ được 22.000 đồng/kg. Vụ hè thu này, chật vật lắm người dân mới bán được 13.000 đồng/kg có thể lấy được vốn, nhưng thương lái không mua. Theo tôi, phải tới khi dịch bệnh được kiểm soát, giao thương bình thường trở lại thì tình hình mới bớt khó khăn.
Cũng là cây đậu phộng, nhưng ở xã Xuân Phước (huyện Đồng Xuân) khác hẳn. Người trồng ở đây không lo đầu ra vì đã được HTX thu mua hết. Bà Bùi Thị Lanh vui vẻ nói: Trồng bao nhiêu HTX cũng thu mua hết để làm nguyên liệu ép dầu đậu phộng đóng chai. Tôi vừa bán được cho HTX vừa mua được dầu ăn về dùng. Gần 2 tháng nay dịch COVID-19 bùng phát, cứ tưởng HTX đình trệ sản xuất vì tiêu thụ kém thì bà con thu hoạch bán cho ai, nhưng HTX cam kết thu mua hết nên rất yên tâm.
Ông Nguyễn Dư, Giám đốc HTX Sản xuất kinh doanh dịch vụ nông nghiệp Xuân Phước, khẳng định: Bà con trồng đậu phộng ở các địa phương khác lo không tiêu thụ được vì dịch bệnh, còn ở Xuân Phước, người trồng yên tâm vì đã có HTX thu mua. Hiện nay, vùng nguyên liệu của HTX gần 30ha, mỗi năm sản xuất hơn 2.000 lít dầu.
Tăng kênh tiêu thụ nhờ có chuỗi
Cũng theo ông Nguyễn Dư, những năm trước, HTX không tự tin về vấn đề trên, nhưng từ năm 2020 khi sản phẩm dầu đậu phộng Xuân Phước được công nhận sản phẩm làng nghề OCOP và được hạng 3 sao cấp tỉnh thì HTX đủ năng lực khẳng định. Điều này đồng nghĩa với quy trình sản xuất, chế biến đã được hiện đại hóa bằng dây chuyền khép kín. Sản phẩm có nhãn hiệu độc quyền, mã vạch hàng hóa… và được quảng bá, xúc tiến thương mại. Thông qua các hội chợ thương mại trong và ngoài tỉnh, cái tên dầu đậu phộng Xuân Phước được nhiều người tiêu dùng biết đến, vượt qua phạm vi xã.
“Nhiều năm trước nông dân trồng đậu phộng ở xã cũng luôn gặp cảnh được mùa mất giá, hay thiên tai, dịch bệnh thương lái không thu mua là không biết tiêu thụ thế nào. Nghĩ lại, do thời gian trước phụ thuộc vào một mối nên bế tắc, giờ “rộng cửa” có thể chào hàng với siêu thị, các doanh nghiệp thực phẩm hoặc bán qua các kênh thương mại điện tử…”, ông Dư bày tỏ.
Với kinh nghiệm nhiều năm tiêu thụ lúa giống và gạo, ông Trần Tấn Khoa, Giám đốc HTX Nông nghiệp An Nghiệp (huyện Tuy An), chia sẻ: Hoàn thiện chuỗi liên kết nông sản đồng nghĩa với quy trình sản xuất, chế biến đủ điều kiện đảm bảo chất lượng sản phẩm. Cùng với đó, mẫu mã sản phẩm được đăng ký độc quyền, có mã vạch, xuất xứ hàng hóa… đã tạo lòng tin cho khách hàng khi sử dụng. Đối tác tiêu thụ nhờ đó cũng mở rộng từ chợ xã, chợ huyện tới nhà hàng, siêu thị, trung tâm thương mại. Hơn hết, HTX chủ động tìm đối tác tiêu thụ với nhiều hợp đồng lớn hơn. Khi ấy, diện tích sản xuất của bà con chính là vùng nguyên liệu cho HTX nên việc bao tiêu nông sản nằm trong tầm tay. Hiện nay, Nhà nước và chính quyền các cấp đang tạo điều kiện để các HTX xây dựng chuỗi liên kết nông sản, trong đó có hỗ trợ máy móc, làm mã vạch, mẫu mã bao bì và cả xúc tiến thương mại. Vì vậy, các HTX nên tận dụng tối đa ưu đãi này để xây dựng chuỗi giá trị cho nông sản truyền thống địa phương, vừa giúp bà con ổn định sản xuất trong mọi điều kiện vừa giúp đơn vị phát triển.
Theo ông Nguyễn Đức Thắng, Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn, trong nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, tỉnh định hướng phát triển sản phẩm theo chuỗi nhằm tạo ra sản phẩm chủ lực, có chất lượng giá trị kinh tế cao. Trong năm qua, nhiều cá nhân, HTX được hỗ trợ thiết bị, máy móc giúp nâng cao năng lực sản xuất, chế biến, bảo quản, từng bước hoàn thiện chuỗi để sản phẩm đạt OCOP sao. Đây là con đường hiệu quả để sản xuất nông nghiệp phát triển bền vững.
MINH DUYÊN
Nuôi chim bồ câu Pháp có thu nhập khá
Nguồn tin: Báo Bình Định
Nhờ nắm được kỹ thuật nuôi chim bồ câu Pháp từ người thân, gần một năm qua, ông Nguyễn Văn Hạnh (58 tuổi, ở thôn 4, xã Bình Nghi, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) tranh thủ lúc nông nhàn để nuôi chim. Ông Hạnh đầu tư làm chuồng nuôi chim trên diện tích khoảng 100 m2 trong khuôn viên vườn nhà. “Ban đầu, tôi mua 40 cặp chim giống về thả nuôi thành công. Chuẩn bị kỹ lưỡng chuồng nuôi và thời gian gầy đàn nhanh là điều kiện thuận lợi cho tôi tăng đàn. Chim ra ràng lúc 28 - 30 ngày tuổi, đạt 700 g/con thì xuất chuồng. Chim bố, mẹ nuôi đạt 6 - 8 tháng thì ghép đôi sinh sản. Qua xuất bán, đến nay còn hơn 600 con gồm cả chim bố mẹ và chim con. Hiện tôi đã thu lãi hơn 40 triệu đồng”, ông Hạnh chia sẻ.
Ông Nguyễn Văn Hạnh chọn chim bồ câu giống cung cấp cho khách hàng. Ảnh: ĐÀO MINH TRUNG
Theo ông Lê Đình Quang, Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Tây Sơn, mô hình nuôi chim bồ câu Pháp của ông Nguyễn Văn Hạnh thành công nhờ nắm được kỹ thuật nuôi, uy tín trong việc cung cấp con giống chất lượng cao và biết rõ nhu cầu thị trường. Nhiều người ở trong và ngoài địa phương đến mua bồ câu giống được ông Hạnh hướng dẫn kỹ lưỡng để sau đó nuôi hiệu quả. Trong số này, có ông Nguyễn Đình Thuận (thôn 4, xã Bình Nghi) hai tháng trước đã liên hệ ông Hạnh đặt mua 24 cặp chim bồ câu giống (giá bình quân 200 nghìn đồng/cặp) về nuôi. “Tôi nuôi theo kỹ thuật ông Hạnh hướng dẫn, đến nay nhiều cặp chim đã đẻ trứng, hy vọng đàn chim phát triển, cho hiệu quả kinh tế”, ông Thuận cho biết.
ĐÀO MINH TRUNG
Chàng trai trẻ đam mê nuôi ong lấy mật
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Say mê với con ong đã giúp anh Trần Nìm, ở ấp 5, xã Xà Phiên, huyện Long Mỹ (tỉnh Hậu Giang), thành công với mô hình nuôi ong lấy mật gắn với phát triển rừng, vườn cây ăn trái, đã mang lại hiệu quả kinh kế cho nhiều hộ dân, góp phần bảo vệ môi trường sống hiện nay.
Anh Nìm kiểm tra các thùng ong lấy mật tại vườn nhà.
Anh Trần Nìm phấn khởi cho biết: “Trước đây, tôi là thợ sửa xe, nhưng tôi có người bạn từng làm nghề nuôi ong, cũng nhờ được bạn chỉ dẫn kỹ thuật nuôi, cộng với tự học hỏi thêm nên tôi nuôi thử. Lúc đầu, tôi cũng gặp khó khăn, nhưng vẫn quyết tâm theo nghề nuôi ong lấy mật nên cũng thành công. Nghề này không chỉ đem lại hiệu quả kinh tế cho gia đình tôi, nhiều hộ dân khác mà còn góp phần cải tạo được một phần đất trồng cây kém hiệu quả, phát triển thêm diện tích trồng rừng và bảo vệ môi trường”.
Theo anh Nìm, Hậu Giang có khí hậu nhiệt đới gió mùa quanh năm, rất thuận lợi cho những loại cây, bông hoa tươi tốt, đây là điều kiện thích hợp cho các loài ong sinh sống lấy mật. Từ năm 2018, gia đình anh đã tận dụng điều kiện đó mà thực hiện mô hình nuôi ong. Thành công từ việc nuôi ong lấy mật, tạo đàn ong ngoài môi trường tự nhiên, đến năm 2019 anh đã tham gia chương trình OCOP và sản phẩm được bình chọn đạt chuẩn 3 sao.
Nhờ những điều kiện thuận lợi trên, từ năm 2018-2019, gia đình anh Nìm đã đầu tư 300 triệu đồng, tạo được hơn 200 thùng nuôi ong. Mỗi tháng thu về 300 lít mật, sau khi trừ các khoản chi phí còn thu về 60 triệu đồng/tháng và sau 6 tháng đã thu hồi được vốn đầu tư. Theo anh Nìm, mật ong được lấy chủ yếu vào những tháng mùa nắng để có chất lượng ngon, còn những tháng mưa chủ yếu gây đàn là chính. Cứ mỗi thùng ong giống có giá 2 triệu đồng, một tháng đem lại ít nhất 1 lít mật, với giá bán hiện nay là 400.000 đồng/lít. Ngoài sản phẩm mật ong, anh Nìm còn có sản phẩm mật ong nguyên sáp nguyên chất và đây là sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, thường được dùng để làm thuốc.
Nuôi ong lấy mật được xem là mô hình phù hợp với nhiều gia đình do chi phí đầu tư thấp, vì thức ăn của ong chủ yếu là từ các loài hoa có sẵn trong thiên nhiên. Từ hiệu quả mô hình của gia đình anh Nìm, nhiều hộ dân ở các tỉnh, thành lân cận, đặc biệt là người dân ở trên địa bàn huyện Long Mỹ và Vị Thủy đã học hỏi và chọn mô hình này để phát triển kinh tế hộ. Từ việc nuôi ong lấy mật, những hộ nuôi ong đã cải tạo được vườn tạp sang những loại cây dừa và phát triển diện tích trồng rừng. Việc làm này không chỉ đem lại thu nhập kép cho người dân nuôi ong mà còn góp phần chung tay phát triển rừng và bảo vệ môi trường. Từ hiệu quả thiết thực mang lại, mô hình đã được lọt vào vòng chung kết Cuộc thi khởi nghiệp lần thứ 2, năm 2021 vừa qua của tỉnh.
Theo anh Nìm, hiện nay mật ong từ hoa tràm là loại mật có giá bán cao nhất so với các loại mật khác. Từ đó, mô hình cũng chọn cây tràm là loại cây để phát triển trồng trong mô hình nuôi ong lấy mật. Cây tràm là loại cây rất phù hợp với vùng đất ở Hậu Giang, đặc biệt chịu phèn tốt hơn cây trồng khác. So với các loại cây trồng để tạo hoa cho ong lấy mật thì cây tràm ít chịu tác động bởi các chất hóa học do quá trình canh tác, sản xuất. Nhờ đó, đem lại nguồn mật thật tinh khiết, sạch và an toàn, mang tính thiên nhiên, người dân sử dụng sẽ tốt hơn. Đến nay, từ mô hình nuôi ong lấy mật đã giúp người nuôi gây ra được 20ha cây dừa và cây tràm.
Đến nay, anh Nìm đã phát triển được 4 tổ hợp tác nuôi ong lấy mật, với 40 thành viên tham gia, có 320 thùng nuôi ong. Bình quân mỗi thành viên nuôi từ 6 thùng ong trở lên. Sau khi trừ chi phí, mỗi thành viên có thêm thu nhập từ việc nuôi ong lấy mật là 2 triệu đồng mỗi tháng.
Trong 6 tháng đầu năm 2021, anh Nìm đã bán thêm được 150 thùng ong giống ở các tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long, thu về 300 triệu đồng, trừ tất cả các chi phí đầu tư cũng còn lợi nhuận gần 200 triệu đồng. Hiện nay, sản phẩm sáp ong nguyên chất được anh Nìm đăng ký sản phẩm OCOP, để cung cấp cho khách hàng sử dụng an toàn, chất lượng, đáp ứng các điều kiện theo quy định.
Bài, ảnh: T.XOÀN
Chăm sóc bò trong thời gian dịch COVID-19
Nguồn tin: Báo Phú Yên
Nông dân xã Hòa Bình 1 (huyện Tây Hòa) nuôi nhốt bò lai. Ảnh: LÊ TRÂM
Thời gian qua, nông dân từ đồng bằng đến miền núi vừa triển khai các biện pháp khẩn cấp phòng, chống dịch COVID-19, vừa cố gắng duy trì sản xuất, chăn nuôi. Đặc biệt, việc nuôi bò lai nhốt chuồng đang được thực hiện tốt.
Chọn cách nuôi phù hợp
Nhà ông Trần Văn Minh ở xã Hòa Kiến (TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên) nuôi nhốt 2 con bò lai. Để đảm bảo nguồn thức ăn xanh và giàu dinh dưỡng cho bò, ông Minh đã dành hơn 1.000m2 đất trước nhà để trồng cỏ voi. Ngoài ra, ông còn cho bò ăn thêm tinh bột từ cám bắp, thức ăn công nghiệp để cung cấp chất dinh dưỡng, giúp bò tăng trưởng nhanh. Nhờ trước đây ông Minh tham gia các lớp tập huấn vỗ béo bò lai, rồi về áp dụng đúng yêu cầu kỹ thuật nên bò lai nuôi nhốt của gia đình ông sinh trưởng và phát triển tốt.
Ông Minh chia sẻ: Tôi mua 2 con bê lai với giá 22 triệu đồng/con về nuôi vỗ béo bằng cách cho ăn cháo. Sau hơn 3 tháng nuôi, hiện một con bò thương lái trả 27 triệu đồng. Nuôi bò lai tiêm phòng đầy đủ, cho ăn no là bò mau lớn.
Còn ông Bùi Văn Tiến ở xã Sơn Định (huyện Sơn Hòa) cho hay: Vừa qua, tôi bán con bò đực được 28 triệu đồng, lãi 6 triệu đồng sau 4 tháng mua giống về nuôi. Trong chuồng tôi còn cặp bò nuôi 3 tháng. Theo ông Tiến, ưu điểm của các giống bò lai có tầm vóc cao to hơn rất nhiều so với giống bò cỏ ở địa phương vì dễ nuôi, dễ chăm sóc, lớn nhanh, ăn to, tốc độ tăng trọng nhanh, chất lượng thịt thơm ngon và có giá trị kinh tế cao. Để đàn bò phát triển và cho hiệu quả kinh tế cao, ngoài việc chọn lựa được con giống tốt, bò cũng không được quá già, có bộ khung to để đạt được tốc độ tăng trọng nhanh.
“Người chăn nuôi cần chú trọng tiêm vắc xin phòng bệnh định kỳ cho đàn bò, đặc biệt là vắc xin phòng bệnh viêm da nổi cục, lở mồm long móng. Thường xuyên vệ sinh chuồng nuôi đảm bảo luôn sạch sẽ, thoáng đãng vào mùa hè để bò phát triển tốt và có chế độ dinh dưỡng hợp lý, kết hợp cho bò ăn cỏ rơm với thức ăn tính theo tỉ lệ trọng lượng cơ thể và giai đoạn sinh trưởng của từng con bò”, ông Tiến nói.
Trữ rơm khô nuôi bò
Tại huyện Tuy An, người nuôi bò ở các xã miền núi An Xuân, An Lĩnh đang gặp khó bởi cỏ trồng khô héo do trời nắng nóng, thức ăn cho bò khan hiếm. Người dân nơi đây phải gọi điện cho người thân hỗ trợ nguồn rơm khô làm thức ăn cho bò trong thời gian giãn cách xã hội, phòng chống dịch. Chị Mạnh Thị Trang ở xã An Lĩnh cho biết cỏ voi gặp nắng héo, hết thức ăn cho bò, tôi gọi điện thoại cho ba ruột ở xã Xuân Quang 3 (huyện Đồng Xuân), nơi đã được gỡ bỏ giãn cách xã hội theo Chỉ thị 15 của Thủ tướng Chính phủ, chở xuống mấy cuộn rơm. Mấy hôm nay, tôi nấu cháo cho bò ăn, tối cho ăn xen rơm khô thúc bò mau mập. “Bò lai nếu nuôi đúng sức, cỡ 2 tháng nữa tôi có thể bán với giá 40 triệu đồng”, chị Trang nói.
Thôn Suối Cối 2 (xã Xuân Quang 1) có đồng bào Ê Đê, Chăm H’roi sinh sống, đời sống kinh tế chủ yếu dựa vào trồng sắn, mía và chăn nuôi bò. Ông Ma Lênh ở thôn này chia sẻ: Nghe thông tin giãn cách xã hội phòng chống dịch COVID-19, tôi không tụ tập hay đến chỗ đông người. Hàng ngày, tôi ra suối tưới nước cho cỏ rồi cắt cỏ cho bò ăn.
Bò nuôi nhốt nên tháng rồi nghe tin dịch bệnh COVID-19 bùng phát các nơi, tôi xuống xã Xuân Phước mua 1 sào rơm khô trữ làm thức ăn cho bò, chỗ quen biết nên người ta vừa bán vừa hỗ trợ. Hiện nay ở vùng miền núi nuôi bò lai, ngoài cho ăn cỏ, rơm khô, nhà nào cũng nấu cháo nuôi bò. Gia đình tôi có 3 con bò lai, con nào con nấy đều bung đùi đổ thịt. Mỗi con nằm giá 30 triệu đồng.
Ông Nguyễn Hữu Từ, Chủ tịch UBND huyện Đồng Xuân, cho biết: UBND huyện chỉ đạo các xã, thị trấn trong huyện, vừa chống dịch vừa phải duy trì và đảm bảo sản xuất ổn định đời sống nhân dân. Đối với vùng miền núi, địa phương chú trọng khâu sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi phát triển đàn bò, nâng cao tỉ lệ bò lai.
Theo Sở NN-PTNT, ngành Nông nghiệp khuyến khích các địa phương phát triển chăn nuôi theo hướng tập trung. Đối với các xã miền núi, kết hợp trồng cỏ nuôi bò; trong đó chú trọng phát triển đàn bò lai, nâng trọng lượng xuất chuồng, vận động nhân dân chăn nuôi tập trung theo hướng công nghiệp, bán công nghiệp, đồng thời kiểm soát dịch bệnh.
Ông Đào Lý Nhĩ, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT: Hiện nay, toàn tỉnh có khoảng 200.000 con bò, tỉ lệ bò lai chiếm trên 74%. Nuôi bò lai thu nhập cao, nhiều hộ nhờ chăn nuôi thoát nghèo, có cuộc sống ổn định, vì vậy tỉ lệ bò lai của các địa phương không ngừng tăng lên qua mỗi năm. Nông dân vừa chăn nuôi bò, vừa phòng chống dịch COVID-19, thực hiện khuyến cáo 5K của Bộ Y tế.
MẠNH LÊ TRÂM
Hiếu Giang tổng hợp