Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 21 tháng 11 năm 2022

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 21 tháng 11 năm 2022

 

Cần rải vụ các loại trái cây có sản lượng lớn

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

 

Theo Cục Trồng trọt, với các sản phẩm trái cây chủ lực như thanh long, xoài, mít, bưởi, cam, sầu riêng, nhãn, chôm chôm… cần rải vụ một cách linh hoạt và phù hợp với tình hình thực tế.

Cùng với nắm sát sản lượng, chất lượng cây ăn trái, đẩy mạnh đánh giá cấp mã số vùng trồng, cần kết nối các doanh nghiệp tiêu thụ cũng như tăng cường bảo quản, chế biến trái cây nhằm nâng cao giá trị gia tăng, sức cạnh tranh.

Ước tính trong năm 2022 sản lượng trái cây tại khu vực ĐBSCL đạt hơn 4,1 triệu tấn và trong quý I/2023 có hơn 1 triệu tấn.

Ông Lê Thanh Tùng - Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt cho biết: Dự báo việc sản xuất và tiêu thụ trái cây vùng ĐBSCL thời gian tới sẽ còn nhiều khó khăn.

Cụ thể, yêu cầu chất lượng, truy xuất nguồn gốc của các thị trường xuất khẩu, đặc biệt thị trường Trung Quốc có thể làm chậm tiến độ, gây ùn ứ tại cửa khẩu, ảnh hưởng đến tiêu thụ trong nước.

Bên cạnh đó, tình hình lũ và xâm nhập mặn có thể ảnh hưởng đến sản xuất một số vùng cây ăn trái chưa có đê bao khép kín.

TRÀ MY

 

Thu tiền tỷ từ dừa Indonesia

Nguồn tin: Báo Bình Phước

 

“Dừa Indonesia có ưu điểm vượt trội là rất sai trái, có buồng lên tới 20 trái và mỗi cây trưởng thành cùng lúc có thể nuôi 7-8 buồng, mỗi buồng cách nhau 20 ngày. Dừa này vỏ mềm và mỏng, do vậy nhẹ hơn các loại dừa khác và rất nhiều nước, lại ngọt thanh nên uống một lần sẽ không thể quên được vị của nó” - anh Tô Tấn Lập ở khu phố 2, phường Thành Tâm, thị xã Chơn Thành giới thiệu về vườn dừa 2,5 ha của gia đình.

PHÁT TRIỂN CÂY DỪA TRÊN ĐẤT BÌNH PHƯỚC

Sinh ra và lớn lên ở miền Tây nên anh Tô Tấn Lập luôn nung nấu ý tưởng phát triển kinh tế từ cây dừa trên đất Bình Phước, phần vì khá hiểu đặc tính của loại cây này, phần vì nơi đây chưa có nhiều diện tích trồng dừa. Trong lần thăm bạn ở quê, anh Lập được giới thiệu về mô hình trồng dừa Indonesia có nhiều ưu điểm nổi trội nên quyết định phát triển loại dừa này.

 

 

Anh Tô Tấn Lập (bìa phải) hài lòng vì vườn dừa cho thu nhập 2 tỷ đồng/năm

Năm 2015, anh đặt mua 1.000 cây dừa Indonesia về trồng trên 2,5 ha. Thời điểm đó, cây giống còn hiếm, giá cao với 125 ngàn đồng/cây. Toàn bộ vốn đầu tư cây giống, làm đất, đào rãnh thoát nước và hệ thống ống tưới gần 200 triệu đồng. Anh Lập cho biết, ở Bình Phước cũng như miền Đông Nam Bộ, chăm sóc dừa vất vả hơn so với miền Tây do nắng nhiều, đất ít phù sa. Vì vậy, khi trồng dừa phải có hệ thống tưới ngay để cây nhanh bén rễ. Khi cây còn non, bộ rễ nhỏ chưa phát triển để hút nước được thì càng phải cung cấp đủ nước, đủ độ ẩm. Đất trồng dừa cũng phải thoáng, xốp nên người trồng cần đào rãnh thoát nước, tránh ngập úng.

“Đặc biệt, muốn dừa nhiều nước và ngọt thì nước tưới phải đảm bảo độ pH. Qua kiểm tra tôi thấy, nước ở vùng này có độ pH chưa đạt chuẩn. Do đó, trong vườn tôi múc 2 ao nhỏ. Mùa nắng, tôi hòa vôi bột xuống ao, kiểm tra khi độ pH đạt 6.5 thì mới tưới cho vườn dừa. Mùa mưa, tuy không cần tưới, song nước dừa sẽ nhạt, người trồng có thể tăng cường thêm kali để nước dừa ngọt hơn và hạn chế sâu, bệnh. Cây dừa cũng có nhiều nấm bệnh tấn công, nhất là bọ cánh cứng, đuông dừa. Người trồng có thể diệt nấm bệnh và côn trùng có hại bằng các loại thuốc sinh học bán phổ biến ngoài thị trường hoặc có thể dùng viên long não. Mùa mưa, chỉ cần bỏ vào ngọn 2-3 viên long não sẽ trị được đuông dừa” - anh Lập chia sẻ thêm.

ĐẾM TRÁI… THU TIỀN

Mặc dù vốn đầu tư ban đầu khá cao, tuy nhiên sau 18 tháng trồng thì dừa Indonesia cho thu hoạch. Thân cây chỉ cao khoảng 2,5-3m nên việc chăm sóc, hái trái khá dễ dàng. Nếu như những loại dừa truyền thống thân cao, ít trái, trái to, vỏ dày, cứng và nặng, ảnh hưởng tới sức sống của cây thì dừa Indonesia trái nhỏ, vỏ mỏng, đạt khoảng 0,5 lít nước/trái. Do vậy, dù nhiều buồng phát triển cùng lúc nhưng cây vẫn đủ sức chịu được, không bị đổ gãy.

Vì có chất lượng vượt trội nên dừa của gia đình anh Lập thường xuyên có khách tới mua. Đa số người tiêu dùng và thương lái vào tận vườn mua, tự kiểm tra, lựa chọn và tự chặt. Chủ vườn chỉ đếm trái tính tiền. Mùa nắng, dừa bán giá cao hơn mùa mưa, lượng tiêu thụ nhanh hơn. Vườn dừa của hộ anh Lập đang ở năm thứ 7, bình quân mỗi tháng thu khoảng 26.000 trái, giá bán sỉ trung bình 8.000 đồng/trái. Mùa mưa, lượng tiêu thụ chậm, giá bán giảm chỉ còn 6.000 đồng/trái. Điều đặc biệt là cây dừa cho thu hoạch quanh năm, vì vậy bình quân thu nhập từ 2,5 ha dừa của gia đình khoảng 2 tỷ đồng/năm.

Anh Tô Tấn Lập, khu phố 2, phường Thành Tâm, thị xã Chơn Thành: Giống dừa Indonesia có vòng đời khá lâu, tùy chế độ chăm sóc có thể đến 30 năm. Chăm sóc tốt, cây cho nhiều buồng và tuổi đời càng lâu. Tuy nhiên, giống dừa này rất khó ươm, tôi đã nhiều lần ươm giống nhưng tỷ lệ đạt rất thấp, rất khó. Do vậy, muốn trồng thì phải đặt hàng mới có và giá cây giống khá cao.

“Vườn dừa Indonesia của hộ anh Lập là mô hình đầu tiên trên địa bàn thị xã có năng suất và chất lượng tốt. Trồng dừa Indonesia có lợi thế vượt trội, ít rủi ro sâu bệnh, chế độ chăm sóc không quá vất vả như sầu riêng hay các loại cây trồng khó tính khác. Mặc dù vốn đầu tư ban đầu lớn nhưng nhanh cho thu hoạch và thu hoạch quanh năm. Chúng tôi đang giới thiệu mô hình này để bà con có thể áp dụng tại vườn nhà. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là chúng tôi định hướng hội viên phải có tư duy làm kinh tế nông nghiệp, chịu khó nghiên cứu thị trường, xác định đúng hướng để đầu tư, tránh tình trạng trồng - chặt, chặt - trồng gây thiệt hại kinh tế” - bà Nguyễn Thị Hậu, Chủ tịch Hội Nông dân thị xã Chơn Thành cho biết.

Quang Minh

 

Mở rộng diện tích trồng cây vú sữa tím xuất khẩu

Nguồn tin: Báo Sóc Trăng

 

Trái vú sữa tím của tỉnh Sóc Trăng không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn ở cả một số thị trường trên thế giới. Loại trái cây đặc sản này đầu tiên được xuất khẩu sang thị trường Mỹ vào năm 2018. Phát huy những thành quả đạt được, người dân một số địa phương trên địa bàn huyện Kế Sách (Sóc Trăng) đang mở rộng diện tích trồng cây vú sữa tím, đặc biệt là giống vú sữa tím tứ quý (cho trái quanh năm) nhằm đảm bảo sản lượng cung cấp cho thị trường trong nước và phục vụ xuất khẩu.

 

 

Ông Nguyễn Văn Thắng (bìa trái), xã Trinh Phú, huyện Kế Sách (Sóc Trăng) bên vườn vú sữa tím của gia đình đang vào giai đoạn bao trái. Ảnh: THÚY LIỄU

Để tìm hiểu thực tế việc nhà vườn mở rộng diện tích trồng cây vú sữa tím, chúng tôi đến tham quan vườn vú sữa của ông Nguyễn Văn Thắng, xã Trinh Phú, huyện Kế Sách, đúng lúc ông Thắng đang ngoài vườn bao trái vú sữa, nhằm bảo vệ trái không bị sinh vật gây hại tấn công. Ông Nguyễn Văn Thắng bộc bạch: “Tôi trồng 1ha vú sữa tím, tính đến nay vú sữa đã 8 năm tuổi, sản lượng trái thu về ước 20 tấn/năm, trừ hết các khoản chi phí cho lợi nhuận trên 200 triệu đồng/năm. Nếu so với các loại cây trồng khác thì trong những năm gần đây, trái vú sữa tím đem lại giá trị kinh tế tốt hơn, bởi nhà vườn áp dụng sản xuất trái theo quy trình VietGAP, giảm chi phí sản xuất và trái vú sữa “sạch” được doanh nghiệp thu mua xuất khẩu, nâng cao giá trị trái vú sữa, tăng thu nhập cho nhà vườn”.

Cũng là hộ dân canh tác vú sữa tím nhưng ông Trần Hữu Thắng, xã Nhơn Mỹ, huyện Kế Sách chọn trồng cây vú sữa tím tứ quý. Hiện tại, diện tích vườn vú sữa tím 0,5ha của ông Thắng đã có 0,2ha đang giai đoạn cho trái, sản lượng trái thu về khoảng 14 tấn/năm, trừ chi phí lợi nhuận hơn 200 triệu đồng/năm. Ông Hữu Thắng chia sẻ: “Tôi trồng cây vú sữa tím tứ quý, bởi đây là loại cây cho trái quanh năm, đảm bảo nguồn thu nhập thường xuyên tại gia đình. Cùng với đó, trái vú sữa tím có nhiều đặc tính tốt như: trái không còn mủ khi chín, trái vú sữa có kích cỡ lớn, màu sắc đẹp và cây chống chịu độ mặn trong ngưỡng 3‰. Dự kiến hơn 1 năm nữa, vườn vú sữa 0,5ha của gia đình tôi sẽ cho trái đồng loạt, khi đó thu nhập từ vườn cây sẽ tăng lên gấp nhiều lần so với thời điểm hiện tại”.

Cách vườn vú sữa tím tứ quý của ông Hữu Thắng không xa là vườn vú sữa tím tứ quý của anh Trần Anh Văn, xã Nhơn Mỹ. Ông Anh Văn có vườn vú sữa tím tứ quý 1,6ha, đã cho trái hơn 2 năm qua. Ông Anh Văn chia sẻ: “Tôi chọn trồng vú sữa tím tứ quý, bởi đây là loại cây dễ trồng, nhẹ công chăm sóc, trái có giá trị kinh tế cao, cây cho trái quanh năm. Toàn bộ diện tích vườn trồng vú sữa tím trước đây là vườn nhãn tiêu da bò kém hiệu quả, tôi mạnh dạn cải tạo lại trồng vú sữa tím. Hiện tại, vườn cây vú sữa tím cho sản lượng trái ước 40 tấn/năm, được doanh nghiệp bao tiêu đầu ra, với giá 30.000 - 40.000 đồng/kg (tùy vào thời điểm thuận mùa và nghịch mùa). Sản lượng trái vú sữa như trên đem về thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm. Tôi dự định sẽ tiếp tục đầu tư mua thêm 2ha đất mở rộng diện tích trồng vú sữa tím tứ quý trong thời gian tới, nhằm cung ứng trái vú sữa tím phục vụ thị trường xuất khẩu”.

Thông tin cùng chúng tôi, ông Trần Anh Nhân - Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và Du lịch cộng đồng Mỹ Phước, xã Nhơn Mỹ cho biết: “Hợp tác xã có diện tích trồng vú sữa tím tứ quý hơn 30ha, trong đó có hơn 10ha đang cho trái và đã được cấp mã vùng trồng. Theo đó, trái vú sữa tím của hợp tác xã được doanh nghiệp ký kết hợp đồng thu mua quanh năm, với số lượng cung cấp từ 5 tấn - 10 tấn/tuần. Hiện tại, hợp tác xã đang tiếp tục mở rộng thêm thành viên tham gia vào hợp tác xã, nhằm tăng diện tích vú sữa trong hợp tác xã cũng như tăng sản lượng trái vú sữa cung ứng trên thị trường. Bên cạnh đó, thành viên trong hợp tác xã đang tiếp tục mở rộng diện tích trồng vú sữa tím, hứa hẹn thời gian tới sẽ hình thành vùng trồng vú sữa tím tứ quý lớn, cùng phương thức canh tác đáp ứng tốt thị trường xuất khẩu”.

Đồng chí Nguyễn Thành Phước - Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Sóc Trăng cho biết: “Diện tích vú sữa trên địa bàn tỉnh hơn 1.900ha, tập trung chủ yếu trên địa bàn huyện Kế Sách, với nhiều giống vú sữa, như: vú sữa lò rèn, vú sữa bơ hồng, vú sữa tím tứ quý… Với tiềm năng, lợi thế trong việc sản xuất trái vú sữa, đặc biệt là trái vú sữa tím xuất khẩu, bà con cần áp dụng kỹ thuật canh tác rải vụ cho trái vú sữa theo sự hướng dẫn của ngành chuyên môn. Vú sữa tím tứ quý là cây trồng quý vì cho trái quanh năm (một số giống vú sữa khác chỉ cho trái trong một khoảng thời gian), đáp ứng tốt thị trường trong nước và xuất khẩu. Vì vậy, bà con nông dân cần phát triển trồng vú sữa tím tứ quý, bởi đây là sản phẩm trái cây tiềm năng, phục vụ tốt cho thị trường xuất khẩu”.

THÚY LIỄU

 

Bắc Kạn: Ngày hội cam, quýt và giới thiệu sản phẩm OCOP huyện Bạch Thông

Nguồn tin: Báo Bắc Kạn

 

Từ ngày 25 - 27/11, tại xã Quang Thuận, huyện Bạch Thông (Bắc Kạn) sẽ tổ chức sự kiện “Ngày hội cam, quýt và giới thiệu sản phẩm OCOP, gắn với các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch” năm 2022.

 

 

Cam, quýt Quang Thuận đang độ chín rộ hứa hẹn đem lại trải nghiệm thú vị cho khách tham quan.

Nhiều hoạt động hấp dẫn sẽ được tổ chức như: Khai mạc sự kiện; trưng bày, quảng bá, giới thiệu các sản phẩm nông nghiệp, ẩm thực của địa phương; hoạt động thể thao, biểu diễn nghệ thuật; du lịch trải nghiệm, du lịch cộng đồng tại thôn Phiêng An; trải nghiệm vườn cam, quýt tại thôn Nà Vài...

Sự kiện được tổ chức nhằm quảng bá, giới thiệu các sản phẩm nông nghiệp, ẩm thực của địa phương, đặc biệt là cam, quýt; khuyến khích, thúc đẩy người dân, doanh nghiệp, HTX tham gia thực hiện Chương trình “Mỗi xã, phường một sản phẩm” (OCOP), phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa gắn với du lịch./.

Xuân Nghiệp

 

Chuẩn bị mùa bưởi Tết

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

 

 

Nhiều nhà vườn kỳ vọng vào giá bưởi để có Tết ấm hơn.

Để chuẩn bị nguồn cung bưởi Năm Roi cho thị trường dịp Tết Nguyên đán 2023, vào thời điểm này, nhiều nhà vườn trồng bưởi tại xã Mỹ Hòa (TX Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long) đang tất bật chăm sóc bưởi để đưa ra thị trường những trái bưởi đẹp, chất lượng. Tuy nhiên, năm nay do ảnh hưởng của nhiều yếu tố, lượng bưởi dịp Tết giảm nhiều.

Sản lượng giảm 20 - 30%

Nhiều nhà vườn trồng bưởi Năm Roi tại xã Mỹ Hòa cho hay, do ảnh hưởng của dịch bệnh, giá cả nên gần đây thị trường tiêu thụ bưởi có chững lại. Sản lượng bưởi hiện tại không được nhiều như cùng kỳ mọi năm.

Do đó, không ít nhà vườn đã chủ động thay đổi phương pháp canh tác và chăm sóc bưởi, rải vụ, chọn thời điểm thu hoạch trái phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của thị trường để hạn chế rủi ro, chứ không tập trung dồn vào thị trường Tết. Nhìn chung, năng suất bưởi dịp Tết năm nay giảm trung bình từ 20 - 30%.

Có 14 công bưởi trồng hơn 20 năm, chú Nguyễn Thành Lam (xã Mỹ Hòa), cho hay: Năm nay năng suất bưởi giảm nhiều. Những năm trước 14 công có thể cho sản lượng 20 tấn nhưng năm nay chỉ ước khoảng 1 tấn/công.

Nguyên nhân là do bưởi lâu năm, già cỗi, lại thêm giá phân bón, vật tư nông nghiệp tăng 60 - 70% nên không dám mạnh tay rải phân như trước khiến bưởi không đạt năng suất. Chỉ vào hàng bưởi đang cho trái, chú Lam cho hay: “Lứa bưởi này tầm khoảng 25 Tết là thu hoạch.

Năm nay, mưa bão rồi nắng gắt nên bưởi bị xào lá, héo da, trái rụng nhiều nên tỷ lệ đạt không cao, ước năng suất giảm khoảng 30% so với những năm trước”.

Nhiều nhà vườn trồng bưởi Năm Roi tại đây cũng cho biết: Thời tiết thay đổi khiến bưởi khó chăm sóc và xử lý trái hơn mọi năm. Bên cạnh đó, một số vườn già cỗi, bị ảnh hưởng các đợt hạn mặn, triều cường nên năng suất giảm.

Cũng có 5 công bưởi đang xử lý cho trái, chú Phan Quốc Sĩ (xã Mỹ Hòa), cho hay: Vụ Tết này năng suất chỉ khoảng 500 kg/công. Những năm trước thời tiết thuận lợi thì năng suất có thể trên 1 tấn/công. Do mưa thất thường nên làm bông không đạt, chỉ đậu trái khoảng 40%.

Bên cạnh đó, giá cao nhà vườn giảm lượng phân bón. Trước đây, 1 công bưởi rải khoảng 50kg phân nhưng hiện nay chỉ rải chừng 25 kg/công. Không chỉ vậy các chi phí khác như nhân công, thuốc, cũng tăng vọt.

Theo UBND xã Mỹ Hòa, hiện xã có 1.228ha trồng bưởi, trong đó có hơn 1.000ha đang cho trái. Diện tích bưởi cho trái đạt sản lượng 35 tấn/ha/năm chiếm 80,51%.

Diện tích trồng bưởi Năm Roi ở xã tiếp tục có xu hướng giảm do chưa tìm được giải pháp khắc phục hiện tượng vàng lá trên cây bưởi và ảnh hưởng của việc thu hồi diện tích trồng bưởi để thực hiện các dự án, công trình của Trung ương, tỉnh, thị xã.

Bên cạnh đó, một số gia đình đang cải tạo lại, trồng mới và xen thêm một vài loại cây trái khác như: mít, sầu riêng, mận, chuối...

Ông Nguyễn Văn Mạnh - Phó Chủ tịch UBND xã Mỹ Hòa cho hay: Xã có 10/10 ấp có diện tích trồng bưởi. Sản lượng bưởi phục vụ thị trường Tết năm nay giảm hơn so với những năm trước khoảng 20 - 30%.

Một phần do ảnh hưởng của giá cả, dịch bệnh, giá vật tư nông nghiệp tăng cao, thời tiết thay đổi thất thường nên nhà vườn không tập trung vào vụ Tết như trước mà rải vụ quanh năm.

Kỳ vọng thị trường Tết

 

 

Nhà vườn chăm sóc bưởi để cung ứng thị trường dịp Tết

Với sản lượng bưởi Tết năm nay dự báo giảm, nhà vườn đang tập trung chăm sóc, dưỡng trái để tạo mẫu mã đẹp, có chất lượng cung cấp ra thị trường với hy vọng sẽ có vụ mùa giá tốt để vui Xuân, đón Tết.

Chú Lam cho hay, chi phí sản xuất 1 công bưởi khoảng 15 - 20 triệu đồng, thêm chi phí xử lý trái đòi hỏi kỹ thuật cao hơn, do đó giá bưởi Tết phải ở mức trên 20.000 đ/kg, nhà vườn mới có lời.

Chú Sĩ cũng chia sẻ: Tuy vụ này năng suất bưởi giảm nhưng cũng cố gắng dưỡng cây, tỉa những trái không đạt tiêu chuẩn, chăm sóc cho trái có màu đẹp, chất lượng. Trái ít nhưng đẹp thì sẽ có giá cao hơn.

Theo ông Nguyễn Văn Mạnh, thời gian qua, thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp, các bộ phận chuyên môn phối hợp các ngành chức năng và các công ty tổ chức tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật cho người dân áp dụng, để nâng cao chất lượng trái bưởi, cải thiện hiện tượng vàng lá trên cây bưởi Năm Roi, giúp người dân có nhiều kinh nghiệm trong việc cải tạo và trồng lại mới.

Xã cũng tiếp tục duy trì 50ha bưởi được Viện Cây ăn quả Miền Nam hỗ trợ xây dựng theo chương trình VietGAP với 58 hộ tham gia. Vận động người dân chăm sóc, áp dụng biện pháp kỹ thuật để nâng cao chất lượng, mẫu mã bưởi để cung ứng cho thị trường dịp Tết.

Mặc dù gặp nhiều khó khăn, trở ngại vì dịch bệnh, nhưng các nhà vườn chuyên trồng bưởi Năm Roi ở Mỹ Hòa vẫn kỳ vọng vào thị trường Tết. Mong muốn đưa ra thị trường những trái bưởi đẹp, bắt mắt, vừa giúp tô điểm cho ngày xuân, vừa giúp nhà vườn có nguồn thu nhập cho gia đình.

Ông Nguyễn Văn Liêm - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp - PTNT

Đối với bưởi chưng Tết thì bưởi phải đẹp, không có thẹo hoặc không bị sũng nước, trầy. Nếu bị sâu đục trái làm sần sùi hay nhện đỏ gây hại cũng làm trái xấu đi. Do đó, tốt nhất nhà vườn nên tiến hành bao trái, hoặc xử lý, diệt côn trùng ngay từ khi sâu bệnh vừa chớm xuất hiện. Nhất là đến giai đoạn thu hoạch gần Tết nhà vườn cần xử lý các loại nấm bệnh, có thể làm cho màu vỏ trái cây bị sần, bị đen. Nếu nhà vườn xử lý tốt thì trái khi thu hoạch sẽ có màu vàng đẹp, bán được giá hơn.

Bài, ảnh: THẢO LY

 

Thái Nguyên: Nâng cao kỹ thuật sản xuất chè hữu cơ gắn với du lịch cộng đồng

Nguồn tin: Báo Thái Nguyên

 

Với mục tiêu tạo ra sản phẩm chè chất lượng cao, gia tăng hiệu quả kinh tế, đặc biệt là bảo đảm sức khỏe cho người sản xuất và người tiêu dùng, tăng thu nhập cho người làm chè từ hoạt động trải nghiệm, du lịch, ngày 15-11, Liên minh HTX tỉnh đã tổ chức tập huấn kỹ thuật sản xuất chè hữu cơ gắn với du lịch cộng đồng cho các thành viên HTX chè Trung du Tân Cương (TP. Thái Nguyên).

 

 

HTX chè Trung du Tân Cương thu hút đông đảo du khách đến tham quan, trải nghiệm.

Tại lớp tập huấn, trên 40 thành viên và người lao động của HTX đã được giảng viên giới thiệu về tầm quan trọng của việc sản xuất chè theo hướng hữu cơ; kỹ thuật trồng, chăm sóc, thu hái sản phẩm chè đạt tiêu chuẩn hữu cơ; kinh nghiệm trong phát triển sản phẩm gắn với du lịch cộng đồng; nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX…

Được biết, thời gian qua, HTX chè Trung du Tân Cương là một trong số ít đơn vị tích cực bảo tồn, phát triển giống chè Trung du. Hiện nay, HTX có vùng nguyên liệu rộng trên 20ha, trong đó chè Trung du chiếm trên 50% diện tích. Bên cạnh việc chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm chè, HTX còn quan tâm phát triển du lịch cộng đồng, thu hút đông đảo du khách đến tham quan, trải nghiệm.

Từ đầu năm đến nay, Liên minh HTX tỉnh liên tục tổ chức các lớp tập huấn nâng cao kỹ thuật sao sấy chè, kỹ năng xúc tiến thương mại điện tử, kỹ năng đánh giá chất lượng sản phẩm cho các HTX chè ở TP. Thái Nguyên, các huyện Định Hóa, Phú Lương… Qua đó góp phần hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh cho các HTX.

Thu Huyền

 

Sản xuất chanh không hạt theo tiêu chuẩn GAP gắn kết bao tiêu có lợi nhuận tăng thêm gần 20 triệu đồng/ha

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

 

Trung tâm Khuyến nông và Dịch vụ nông nghiệp Hậu Giang cho biết, mô hình “sản xuất chanh không hạt theo tiêu chuẩn VietGAP gắn với liên kết chuỗi nâng cao giá trị sản phẩm” được thực hiện tại một số địa phương trong tỉnh với diện tích chứng nhận VietGAP và đạt GlobalGAP là 29,4ha. Song song với thực hiện để đạt các tiêu chuẩn an toàn thì sản phẩm của mô hình phải truy nguyên được nguồn gốc để đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.

 

 

Chanh không hạt trồng theo tiêu chuẩn VietGAP và GlobalGAP trong tỉnh được liên kết bao tiêu và đã xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới.

Ngoài thực hiện đúng hồ sơ truy xuất nguồn gốc theo quy định trong quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP và GlobalGAP thì những nông hộ tham gia mô hình còn được Trung tâm Khuyến nông và Dịch vụ nông nghiệp hỗ trợ nông dân miễn phí ghi nhật ký điện tử trên website nongsanhaugiang.com.vn để thuận tiện trong truy xuất nguồn gốc. Mô hình cũng đã gắn với doanh nghiệp là Hợp tác xã Trái cây sinh học OCOP, ở huyện Châu Thành bao tiêu sản phẩm cho nông dân để xuất khẩu. Qua đó, sản phẩm chanh không hạt được bao tiêu toàn bộ để doanh nghiệp xuất khẩu với giá bao tiêu cao hơn thị trường 1.000 đồng/kg và giá trị lợi nhuận tăng thêm gần 20 triệu đồng/ha.

Tin, ảnh: H.TÂM

 

Ðắk Nông và mục tiêu phát triển trên 13.000 ha mắc ca

Nguồn tin: Ðắk Nông

 

UBND tỉnh Đắk Nông vừa ban hành Kế hoạch phát triển mắc ca giai đoạn 2022-2025. Kế hoạch đặt mục tiêu mở rộng diện tích, phát triển vùng nguyên liệu gắn với chế biến sâu, xây dựng thương hiệu cho cây mắc ca.

Theo ông Phạm Tuấn Anh, Giám đốc Sở NN - PTNT, phát triển mắc ca là hoạt động đã được UBND tỉnh, ngành Nông nghiệp chủ trì phối hợp với các sở, ngành, các viện khoa học, hiệp hội mắc ca, các doanh nghiệp thực hiện từ nhiều năm nay.

Cụ thể, UBND tỉnh Đắk Nông đã ký kết hợp tác với Hiệp hội mắc ca Việt Nam để phát triển 8.000 ha mắc ca giai đoạn 2021 - 2025. Trong đó, hai bên hợp tác trồng thuần khoảng 3.000 ha; trồng xen 5.000 ha mắc ca.

Việc phát triển mắc ca dựa trên tình hình quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Cây mắc ca bước đầu được tỉnh đánh giá phù hợp với địa phương, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Tuy nhiên, qua thực tiễn sản xuất mắc ca thời gian qua, tỉnh vẫn cần có sự nghiên cứu, đánh giá thêm nhằm bảo đảm hiệu quả lâu dài cả về sản lượng, chất lượng sản phẩm.

 

 

Mắc ca được đánh giá phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng nhiều vùng ở Đắk Nông

Tỉnh phấn đấu đến năm 2025, có ít nhất 1 vườn cây mắc ca đầu dòng tại Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tỉnh Đắk Nông (Gia Nghĩa) hoặc Công ty mắc ca Nữ Hoàng (Tuy Đức). Vườn cây đầu dòng nhằm cung ứng cây giống cho người dân trên địa bàn tỉnh.

Về phát triển diện tích, cùng với xen canh, tỉnh chú trọng từng bước hình thành các vùng sản xuất mắc ca tập trung, gắn với nhà máy chế biến, tiêu thụ sản phẩm, nhất là đối với địa bàn các huyện Tuy Đức, Đắk Glong…

Địa phương đề ra nhiều nhiệm vụ trọng tâm về cơ chế, chính sách, khoa học công nghệ, tổ chức sản xuất, hợp tác phát triển, nguồn vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh mắc ca.

Tỉnh sẽ gắn vai trò trách nhiệm của các sở, ngành, địa phương và đơn vị liên quan trong phát triển mắc ca. Trong đó, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chủ trương của Nhà nước, đề án về phát triển mắc ca đến năm 2025 phải bảo đảm đồng bộ, phù hợp với thực tiễn.

Đắk Nông thúc đẩy phát triển cây mắc ca theo hướng bền vững, đem lại hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường trên địa bàn tỉnh. Nhất là đối với các huyện có điều kiện phù hợp như Tuy Đức, Đắk Glong.

Hiện nay, Đắk Nông đang có gần 3.000 ha mắc ca được trồng tập trung chủ yếu tại huyện Tuy Đức (gần 2.000 ha), Đắk Song và Đắk Glong. Trong số này, nhiều diện tích mắc ca đã cho thu hoạch, đạt hiệu quả kinh tế cao.

Bà Phạm Thị Phượng, Phó Chủ tịch UBND huyện Tuy Đức cho biết, diện tích mắc ca của huyện chiếm khoảng 65% diện tích mắc ca của toàn tỉnh. Cây mắc ca phù hợp với thổ nhưỡng địa phương, đem lại thu nhập khá, ổn định cho người dân.

Mắc ca là cây lâm nghiệp, rất thích hợp để trồng xen canh, trồng thuần, góp phần tăng độ che phủ rừng. Việc tỉnh quy hoạch Tuy Đức thành vùng phát triển mắc ca tập trung là rất phù hợp.

Đây là cơ sở để địa phương, người dân, doanh nghiệp yên tâm đầu tư mắc ca. Huyện sẽ có các bước đi chắc chắn hơn, coi đây là cây trồng chủ lực để bà con xóa đói, giảm nghèo, làm giàu bền vững.

Theo Sở NN - PTNT, sản phẩm hạt mắc ca hiện nay đã được nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư vào chế biến, xây dựng nhãn hiệu. Nhiều sản phẩm mắc ca đã đạt chứng nhận OCOP, sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu.

Tỉnh đang tập trung hỗ trợ các cơ sở đầu tư cho công nghệ, máy móc nhằm nâng cao giá trị sản phẩm; hình thành vùng nguyên liệu mắc ca có đăng ký mã vùng trồng; hướng tới thị trường xuất khẩu.

Theo kế hoạch, diện tích trồng mắc ca trên địa bàn tỉnh Ðắk Nông đến năm 2025 khoảng 6.506 ha; dự kiến đến năm 2030 đạt khoảng 10.923 ha; đến năm 2050 đạt khoảng 13.105 ha.

Hồng Thoan

 

Khả quan vụ lúa - tôm

Nguồn tin: Báo Cà Mau

 

Vụ lúa - tôm năm 2022, huyện Thới Bình (tỉnh Cà Mau) xuống giống trên 18.500 ha, tập trung nhiều ở các xã: Trí Lực, Biển Bạch Ðông, Tân Bằng, Biển Bạch và xã Thới Bình. Lúa và tôm đang phát triển tốt, bà con kỳ vọng vụ mùa bội thu.

Xã Biển Bạch Ðông có 4.160 ha trồng lúa kết hợp nuôi tôm càng xanh, trong đó khoảng 1.200 ha giống ST24 và ST25; diện tích còn lại là OM2517, Một bụi đỏ và F lai. Ðây là các giống lúa có đặc tính phù hợp cho vùng sản xuất tôm - lúa, chịu được độ mặn cao, cứng cây, thời gian sinh trưởng ngắn, ít nhiễm sâu bệnh, không tốn nhiều công chăm sóc, năng suất khá cao; đặc biệt gạo thơm, ngon, dẻo, phù hợp với thị trường nội địa và xuất khẩu. Mỗi hộ trồng từ 1-3 ha lúa và thả 10.000-50.000 con tôm càng giống. Hiện lúa đang phát triển tốt, tôm lớn nhanh, đạt đầu con; dự kiến mỗi héc-ta cuối vụ thu từ 7-8 tấn lúa và khoảng 600-700 kg tôm càng xanh.

Ông Nguyễn Văn Lượng, ấp Nguyễn Tòng, xã Biển Bạch Ðông, chia sẻ: “Gần tới mùa thu hoạch, thấy trà lúa - tôm phát triển tốt, rất mừng. Hy vọng vụ lúa - tôm này có giá để có điều kiện trang trải cuối năm”. Cùng ấp, ông Nguyễn Văn Quân cho hay: “Năm nay tôi chọn gieo giống ST25, lúa đang phát triển tốt, bụi lớn, trổ đều. Cầu mong trúng mùa để có thu nhập dịp cuối năm”.

Với điều kiện thời tiết thuận lợi như hiện nay, người dân rất kỳ vọng vào vụ thu hoạch lúa - tôm cuối năm sẽ bội thu. Bà con nhận định, vụ lúa năm nay có khả năng đạt năng suất cao hơn 1-2 tấn/ha so với năm trước; tôm càng thì năng suất tăng gấp đôi do người dân nuôi cải tiến.

Ông Nguyễn Phi Thoàng, Phó chủ tịch UBND xã Biển Bạch Ðông, cho biết: “Hiện nay các trà lúa, nhất là giống ST24, ST25 ước đạt từ 7-8 tấn/ha, bù lại thất thu hồi đầu năm do ảnh hưởng dịch bệnh, tôm sú không đạt hiệu quả cao”.

Có thể nói, những năm gần đây mô hình sản xuất lúa - tôm trên địa bàn huyện Thới Bình ngày càng phát triển, là mô hình thích ứng với biến đổi khí hậu và góp phần cải thiện thu nhập cho nông hộ. Do đó, huyện đẩy mạnh đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, trong đó có mô hình lúa - tôm. Hiện huyện có gần 565 ha được cấp chứng nhận ASC - chứng nhận quốc tế đầu tiên trên mô hình lúa - tôm ở Cà Mau và trong cả nước, mở ra triển vọng mới cho ngành nông nghiệp huyện.

 

 

Ông Hồng Lý, ấp Nguyễn Huế, xã Tân Bằng, kiểm tra tôm nuôi trong ruộng lúa.

Ông Lý Minh Vững, Chủ tịch UBND huyện Thới Bình, cho biết: “Ðịnh hướng từ nay đến năm 2025, huyện phấn đấu có ít nhất 5.000 ha sản xuất theo quy trình lúa hữu cơ, trong đó có 1.800 ha có chứng nhận, còn lại 90% diện tích lúa trên đất tôm sản xuất theo quy trình lúa sạch. Ðối với con tôm, có 2 loại tôm sú và tôm càng xanh, phấn đấu 90% tôm sản xuất theo quy trình tôm sạch, tôm an toàn”.

Thời gian tới, huyện Thới Bình tiếp tục hợp tác với các doanh nghiệp, các tổ chức phi Chính phủ mở rộng các vùng dự án nuôi tôm - lúa hữu cơ đạt chứng nhận quốc tế, nhằm nâng cao giá trị sản phẩm, tạo điều kiện tăng thu nhập không chỉ cho nông dân một cách ổn định mà còn khẳng định thương hiệu con tôm, cây lúa của huyện Thới Bình trên thị trường thị trường trong và ngoài nước./.

Thuỳ Linh

 

Sản xuất chè Shan tuyết hữu cơ thân thiện với môi trường

Nguồn tin: Báo Hà Giang

 

Hà Giang là địa phương sản xuất chè đứng thứ 3 của cả nước với diện tích đạt trên 20.300 ha, sản lượng trên 91.600 tấn. Với điều kiện tự nhiên, sinh thái thuận lợi, sản phẩm chè của tỉnh nổi tiếng có chất lượng sạch, thơm ngon. Tận dụng những tiềm năng, lợi thế đó, các vùng trồng chè của tỉnh đang đẩy mạnh phát triển sản xuất chè Shan tuyết theo hướng hữu cơ nhằm nâng cao hơn nữa thương hiệu và giá trị chè, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong và ngoài nước. Cây chè Shan tuyết Hà Giang có lịch sử lâu đời, được trồng ở nhiều huyện, thành phố, nhưng tập trung chủ yếu ở các huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần, Bắc Quang, Quang Bình, Vị Xuyên và thành phố Hà Giang. Cây chè Shan tuyết được xác định là 1 trong 5 loại cây trồng chủ lực của tỉnh. Năm 2011, tỉnh bắt đầu thực hiện sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên cây chè Shan tuyết tại xã Cao Bồ (Vị Xuyên) với diện tích khoảng 900 ha. Tính đến nay, diện tích chè được chứng nhận theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ 11.611 ha, chiếm trên 60% tổng diện tích chè toàn tỉnh. Sản phẩm chế biến từ chè Shan tuyết rất đa dạng, có thể chế biến thành sản phẩm chè Phổ Nhĩ và nhiều sản phẩm chè khác có giá trị cao, thị trường tiêu thụ rộng.

Hiện, toàn tỉnh có trên 700 cơ sở chế biến chè các loại. Nhiều sản phẩm chè chế biến sâu, đáp ứng tiêu chuẩn lưu thông hàng hoá của thị trường trong nước và xuất khẩu, đảm bảo chất lượng, bao bì nhãn hiệu, tem truy xuất nguồn gốc. Nhằm thúc đẩy và nâng cao chuỗi giá trị chè, ngoài các chương trình, chính sách khuyến khích phát triển chè, ngành chuyên môn đã và đang triển khai xây dựng, cấp chứng nhận an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn HACCP, ISO 22000 cho 14 cơ sở chế biến chè. Ngoài ra, toàn bộ diện tích chè VietGAP, hữu cơ được đưa vào sử dụng phần mềm, tạo thuận lợi cho công tác quản lý, giám sát chất lượng an toàn thực phẩm cũng như điều hành, phát triển sản xuất.

 

 

Vườn ươm giống chè Shan tuyết của Nhà máy chè Quang Bình.

Trong giai đoạn 2015 - 2020, các địa phương đã thực hiện công tác phân vùng nguyên liệu thông qua việc tổ chức sản xuất chè theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ. Mục đích phân vùng nguyên liệu giữa người sản xuất và người chế biến chè nhằm từng bước nâng cao chất lượng, giá thành sản phẩm, giúp người dân gắn bó với cây chè, ổn định cuộc sống. Theo đánh giá, từ năm 2018 trở lại đây, giá chè búp tươi đều tăng, ở các vùng thấp trung bình đạt từ 10.000 - 12.000 đồng/kg; ở các huyện phía Tây và các xã vùng cao của huyện Bắc Quang, Vị Xuyên, Quang Bình đạt 15.000 - 18.000 đồng/kg, thậm chí có loại đạt 70.000 đồng/kg.

Ông Triệu Tà Hin, Giám đốc Hợp tác xã chế biến chè Phìn Hồ, xã Thông Nguyên, huyện Hoàng Su Phì cho hay: “Nguyên liệu chế biến chè của Hợp tác xã đạt tiêu chuẩn chè Shan tuyết cổ thụ hữu cơ châu Âu tại 2 vùng chè thuộc xã Thông Nguyên và xã Túng Sán. Đi đôi với việc sản xuất, chúng tôi thường xuyên, liên tục tuyên truyền, hướng dẫn các hộ dân vùng trồng chè không dùng phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, giữ cành tán phát triển tạo độ ẩm, sử dụng cây tạo rào chắn quanh gốc cây chè để tích tụ phân bón hữu cơ tự nhiên. Đối với những cây chè di sản được xem là tài sản Quốc gia nên người dân đã hiểu rất rõ về giá trị, luôn nâng cao ý thức bảo vệ, giữ gìn cây chè. Sản phẩm chè Phìn Hồ (Fìn hò trà) đạt OCOP 5 sao cấp Quốc gia, được đánh giá cao về tiêu chuẩn, chất lượng, mang hương vị đặc trưng của vùng chè hữu cơ, thị trường tiêu thụ nội địa chiếm 70% và xuất khẩu chiếm 30%”.

Với lợi thế diện tích chè Shan tuyết cổ thụ lớn trên 100 năm tuổi khoảng 7.000 ha, sinh trưởng tự nhiên, phát triển trong môi trường sạch, nơi có khí hậu mát mẻ quanh năm, hoàn toàn không có tác nhân chăm sóc, đây là nguồn nguyên liệu sản xuất các loại chè đặc sản, xuất khẩu đi các thị trường khó tính như: Đức, Mỹ, Hà Lan, Nhật Bản, Đài Loan. Nhằm bảo tồn nguồn gen quý của chè Shan tuyết Hà Giang, năm 2020, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã công nhận 100 cây chè Shan tuyết đầu dòng tại các vùng trồng chè chính. Đặc biệt, toàn tỉnh có 1.629 cây chè là cây Di sản và là địa phương có số lượng cây chè Shan tuyết cổ thụ được công nhận là cây Di sản Việt Nam nhiều nhất trong cả nước.

Đồng chí Vũ Văn Hiếu, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết: Để đưa cây chè thực sự là cây trồng hàng hóa chủ lực, cây làm giàu trong phát triển kinh tế, phát triển mạnh ở cả 3 khâu sản xuất, chế biến và tiêu thụ. Trên cơ sở định hướng của tỉnh, ngành chuyên môn sẽ phối hợp chặt chẽ với các huyện, thành phố thực hiện các giải pháp áp dụng các quy trình canh tác, đầu tư chăm sóc chè theo chiều sâu, tạo vùng nguyên liệu tập trung chất lượng, an toàn, ứng dụng rộng rãi các tiến bộ kỹ thuật hiện có trong ngành chè để nâng cao năng suất và chất lượng chè. Đồng thời, xây dựng chuỗi giá trị phát triển các sản phẩm chè hữu cơ gắn với bảo vệ môi trường, tạo cảnh quan, phát triển du lịch sinh thái tại địa phương. Cùng với đó, đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu sản phẩm, tích cực tìm kiếm thị trường, ký kết các hợp đồng bao tiêu, tiêu thụ sản phẩm ổn định, lâu dài. Quan tâm bảo tồn, khai thác nguồn gen quý chè Shan tuyết Hà Giang và duy trì phát triển các diện tích Chè Shan tuyết cổ thụ, chè Shan tuyết được công nhận là cây Di sản Việt Nam.

Bài, ảnh: MỘC LAN

 

Thiếu mía nguyên liệu, nhà máy đường điều chỉnh thời gian vào vụ sản xuất

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

 

Lãnh đạo Công ty Cổ phần Mía đường Cần Thơ (Casuco) cho biết, theo lịch thông báo ban đầu của Casuco thì vào ngày 10-11 vừa qua, Nhà máy đường Phụng Hiệp - thuộc Cascuo sẽ chính thức tiếp nhận mía nguyên liệu của người dân và thời gian nhà máy xuống ép mía là ngày 14-11.

 

 

Do nông dân chọn bán mía chục nên nguồn mía nguyên liệu về nhà máy đường đang ít.

Tuy nhiên, hiện tại các ghe tập kết mía về cầu cảng Nhà máy đường Phụng Hiệp rất ít, ước lượng khoảng 400-500 tấn mía; trong khi nhà máy cần sản lượng khoảng 5.000 tấn mới có thể đi vào hoạt động. Do thiếu nguồn mía nguyên liệu nên vào ngày 14-11 Casuco có thông báo về việc tạm hoãn thời gian xuống ép mía tại Nhà máy đường Phụng Hiệp cho đến khi có thông báo mới. Bên cạnh đó, lãnh đạo Casuco cũng khuyến cáo nông dân cần khẩn trương thu hoạch mía, nhất là những diện tích đã bị ngập nước để hạn chế thiệt hại.

Trước thông báo về việc tạm hoãn thời gian xuống ép mía tại Nhà máy đường Phụng Hiệp và chưa có ngày bắt đầu vào vụ ép cụ thể đã tạo tâm lý lo lắng cho các chủ ghe đã chở mía về tới cầu cảng Nhà máy đường Phụng Hiệp. Bởi thời gian nằm chờ kéo dài sẽ tốn thêm nhiều chi phí và ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng mía.

Theo nhận định của một số người trong cuộc thì nguyên nhân Nhà máy đường Phụng Hiệp không có đủ mía nguyên liệu để ép trong lúc này là bởi người dân trên địa bàn tỉnh đã bán hầu hết diện tích mía đã xuống giống với hình thức mía chục (mía dùng làm nước giải khát) với giá từ 1.700-3.200 đồng/kg, đồng thời người trồng mía không phải tốn tiền thuê nhân công thu hoạch và chuyên chở mía, cũng như không lo về tạp chất, chữ đường. Trong khi, Casuco thông báo về mức giá thu mua mía nguyên liệu cho bà con trong lúc này là 1.300 đồng/kg, mía 10 CCS về tới bàn cân nhà máy đường.

Qua ghi nhận của ngành nông nghiệp tỉnh, vụ mía 2021-2022, nông dân trên địa bàn tỉnh xuống giống được gần 3.850ha, tập trung ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy. Đến ngày 14-11, bà con đã thu hoạch được hơn 3.100ha dùng để bán mía chục, với năng suất bình quân đạt từ 100-105 tấn/ha.

HỮU PHƯỚC

 

Bát Xát (Lào Cai): Chủ động chống đói, rét cho đàn gia súc

Nguồn tin: Báo Lào Cai

 

Để chủ động phòng, chống đói, rét cho đàn gia súc trong mùa đông năm nay, huyện Bát Xát (Lào Cai) đã quyết liệt chỉ đạo các ngành chuyên môn, các xã, thị trấn tích cực tuyên truyền, hướng dẫn người dân các biện pháp phòng, chống đói, rét cho đàn gia súc.

Với 4 con trâu và 1 con nghé, mặc dù chưa vào mùa đông nhưng gia đình anh Vàng Thông Páo, thôn Láo Vàng, xã Phìn Ngan đã chủ động dự trữ rơm, trồng cỏ voi và sửa chữa, gia cố lại chuồng nuôi nhốt. Nhớ lại nhiều năm trước đây, gia đình anh cũng như một số hộ trong thôn vẫn thả rông trâu, bò, khi trời rét, gia súc không kịp về nên bị đói, chết rét trong rừng. “Những năm gần đây, được chính quyền xã tuyên truyền, vận động, gia đình tôi đã dự trữ rơm, trồng 400 m2 cỏ voi làm thức ăn cho trâu trong mùa đông, đồng thời gia cố, quây lại chuồng để đàn trâu không bị chết do đói và rét” - anh Páo cho biết.

 

 

Anh Vàng Thông Páo, thôn Láo Vàng, xã Phìn Ngan gia cố chuồng trại nhốt gia súc.

Xã Phìn Ngan hiện có gần 4.000 con gia súc, trong đó có 1.320 con trâu, 60 con ngựa, còn lại là lợn, dê... Để phòng, chống đói, rét trong mùa đông năm nay, xã cử cán bộ đến các thôn tuyên truyền, vận động người dân không thả rông gia súc khi thời tiết dưới 12 độ C. Đồng thời, hướng dẫn bà con cách che bạt chắn gió, gia cố, sửa chữa chuồng trại, chăm sóc, sưởi ấm, phòng, chống dịch bệnh cho đàn gia súc; cách dự trữ thức ăn cho gia súc. Bên cạnh đó, UBND xã chỉ đạo cán bộ thú y đến từng gia đình vận động người dân tiêm phòng đầy đủ các loại vắc-xin cho đàn gia súc.

Ông Vàng Láo Lở, Chủ tịch UBND xã Phìn Ngan cho biết: Xã tuyên truyền, vận động người dân chủ động dự trữ rơm, nhờ đó, 100% hộ có gia súc đã dự trữ thức ăn cho đàn vật nuôi; cả xã có trên 80% hộ có chuồng nuôi nhốt kiên cố.

Với phương châm chủ động phòng, chống đói, rét cho đàn gia súc, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do rét gây ra, ngay từ thời điểm này, huyện Bát Xát đã xây dựng kế hoạch, chỉ đạo các xã, thị trấn cử cán bộ đến từng gia đình tuyên truyền, vận động người dân các biện pháp phòng, chống đói, rét và chủ động nguồn thức ăn cho gia súc. Ông Lê Huy Giang, Phó Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Bát Xát cho biết: Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện đã chỉ đạo các xã đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn người dân các biện pháp phòng, chống rét cho đàn vật nuôi. Đồng thời, đôn đốc việc dự trữ thức ăn cho đàn gia súc như vận động bà con trồng ngô mật độ dầy, ngô vụ đông, ngô sinh khối, cỏ voi để đàn vật nuôi có đủ thức ăn trong những tháng mùa đông.

Lưu Liên

 

Giá lợn hơi thấp, giá thịt lợn cao: Người bán cười, người nuôi khóc

Nguồn tin: Lao Động

 

Giá lợn hơi đã giảm 9.000-10.000 đồng/kg, nhưng giá thịt lợn tại các chợ vẫn ở mức cao. Nghịch lý là trong khi người nuôi lỗ nặng, thì người bán lại lãi dày.

Giá lợn hơi giảm mạnh

Vừa nhanh tay trút thức ăn vào các máng, ông Nguyễn Văn Thành (Công ty Thành Đô Nghệ An) vừa chia sẻ: Chưa bao giờ nguồn cung lợn hơi nhiều như hiện nay. Nguồn cung dồi dào trong khi sức mua giảm khiến giá lợn hơi liên tục lao dốc trong thời gian vừa qua.

“Đàn lợn vẫn được các doanh nghiệp duy trì, dù một số trại nhỏ có đóng chuồng hay giảm đàn thì tổng đàn vẫn đang rất lớn. Các năm trước nguồn cung không nhiều bằng hiện nay vì ta xuất khẩu được sang Campuchia, nhưng hiện nay giá lợn hơi tại Campuchia còn rẻ hơn cả Việt Nam, nên giá lợn hơi liên tục giảm” – ông Nguyễn Văn Thành cho hay.

 

 

Đàn lợn hơi nhà ông Phú đã đến kỳ xuất chuồng nhưng thương lái trả giá rất rẻ. Ảnh: Vũ Long

Ông Nguyễn Phú – chăn nuôi lợn lại Yên Thành (Nghệ An) cũng cho hay, so với 1 tháng trước, giá lợn hơi đã giảm khoảng 9.000-10.000 đồng/kg, sức mua cũng rất chậm vì tiêu thụ ở thị trường nội địa không có biến động tăng, trong khi thị trường thế giới chưa được khơi thông.

Khảo sát của PV Lao Động cho thấy, giá lợn hơi ngày 15.11.2022 bình quân cả nước đã giảm xuống mức 53.900 đồng/kg. Trong đó, giá lợn hơi thấp nhất tại miền Tây: 53.380 đồng/kg; tiếp theo là khu vực miền Đông: 53.570 đồng/kg; miền Bắc: 54.250 đồng/kg và miền Trung: 54.360 đồng/kg.

Trên cả nước, giá lợn hơi thấp nhất tại Kiên Giang: 51.000 đồng/kg; tiếp theo đó là Cần Thơ, Nghệ An, Hà Tĩnh: 52.000 đồng/kg. Các tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Hà Nội, Thanh Hóa, Đắk Lắk: 53.000 đồng/kg. Giá lợn hơi cao nhất tại Thái Bình: 56.000 đồng/kg. Mức giá cao thứ hai là 55.000 đồng/kg tại các tỉnh: Nam Định, Ninh Bình, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Bình Định, Bình Thuận.

Mặc dù mức giá 55.000 đồng hiện nay được cho là cao nhất cả nước, nhưng người chăn nuôi vẫn thua lỗ lớn.

“Hiện nay, chi phí chăn nuôi không thể dưới 60.000 đồng/kg, nhưng giá bán bình quân cả nước chỉ 53.900 đồng/kg, mỗi kilogam lợn hơi bán ra, người chăn nuôi đang lỗ khoảng 6.000 đồng, đồng nghĩa với mỗi con lợn tạ xuất chuồng, người nuôi lỗ khoảng 600.000 đồng” – ông Nguyễn Hanh – chủ trang trại chăn nuôi quy mô 250 lợn nái và 1.000 lợn thịt tại Phúc Lâm (Mỹ Đức, Hà Nội), chia sẻ.

Nghịch lý: Người chăn nuôi thua lỗ, người bán lẻ “lãi dày”

Mặc dù giá lợn hơi liên tục giảm trong 1 tháng qua, nhưng giá thịt lợn tại các chợ dân sinh và tại các siêu thị vẫn ở mức cao. Ngày 15.11.2022, giá thịt lợn tại các chợ dân sinh bán ra ở mức 100.000-140.000 đồng/kg.

Lý giải lý do bán thịt lợn với giá cao, ông Trần Văn Đê – kinh doanh thịt lợn tại ngõ 26 Doãn Kế Thiện (Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội) cho hay: Giá lợn hơi giảm, nhưng giá lợn móc hàm vẫn ở mức rất cao: 83.000 đồng/kg.

“Với giá này mua về bán lẻ, khi pha ra người bán cũng chỉ lãi khoảng 10.000 đồng/kg” – ông Trần Văn Đê nói.

Về vấn đề này, ông Nguyễn Hanh bất bình chia sẻ: “Giá lợn hơi lên thì ngành nông nghiệp yêu cầu giảm để cân đối cung cầu. Đến khi giá lợn rớt thảm hại thì ngành nông nghiệp lặng im để dân tự lo là không làm hết vai trò của mình”.

Các hộ chăn nuôi cũng cho rằng, ngành công thương cũng để giá thịt lợn neo cao trong khi giá lợn hơi giảm mạnh là không hợp lý, cần có sự điều tiết, không để tình trạng người nuôi thì thua lỗ, còn người bán lẻ thì mỗi tháng thu hàng chục triệu tiền lãi từ bán thịt lợn.

Ông Hà Văn Tuấn – chăn nuôi lợn tại Trực Ninh (Nam Định) cũng cho rằng, ngành chăn nuôi và công thương cần khơi thông thị trường xuất khẩu để tránh tình trạng ùn ứ các sản phẩm chăn nuôi trong nước khiến giá sản phẩm “lao dốc” như hiện nay.

“Trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, xuất khẩu mặt hàng chăn nuôi là yếu nhất trong khi đây là ngành hàng phát triển nhất” – ông Hà Văn Tuấn thẳng thắn nói.

Theo Bộ NNPTNT, hiện tổng đàn lợn cả nước đạt khoảng 28,6 triệu con, tăng cao hơn nhiều so với thời điểm trước dịch tả lợn Châu Phi xảy ra.

"Với tổng đàn lợn này, khả năng xuất khẩu không có bởi hiện nay Việt Nam không thể xuất khẩu lợn sang Campuchia và Trung Quốc, thì nguồn cung dư thừa và dự báo giá lợn hơi tiếp tục giảm trong thời gian tới" - ông Nguyễn Văn Thành (Công ty Thành Đô) dự báo.

VŨ LONG

 

Nuôi heo rừng cho thu nhập khá

Nguồn tin: Báo Bạc Liêu

 

Nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường trong tỉnh Bạc Liêu cũng như tìm hướng đi mới phát triển kinh tế gia đình, một số hộ dân ở huyện Hồng Dân đã thử nghiệm mô hình nuôi heo rừng. Bước đầu cho thấy, mô hình chăn nuôi này ít rủi ro và mang lại hiệu quả kinh tế cao.

 

 

Anh Nguyễn Thành Đô chăm sóc đàn heo rừng. Ảnh: C.L

Nhận thấy nhu cầu tiêu thụ thịt heo rừng trên thị trường ngày càng cao nên một số hộ dân ở xã Ninh Quới (huyện Hồng Dân) đã cùng nhau tìm nguồn giống nuôi thử nghiệm. Với đặc tính có sức đề kháng cao với môi trường, hạn chế nhiễm dịch bệnh nên heo rừng khá dễ nuôi. Các hộ nuôi tận dụng rau cỏ sẵn có xung quanh nhà để làm thức ăn chính cho heo. Nhờ đó, vừa giảm được chi phí chăn nuôi, lại tạo được độ ngon tự nhiên cho thịt heo. Mỗi năm, heo mẹ đẻ 2 lứa, mỗi lứa từ 6 - 10 con. Ngoài xuất bán heo thịt, anh Nguyễn Thành Đô (xã Ninh Quới) còn chọn những con heo khỏe mạnh để bán heo giống, cứ thế xoay vòng. Heo con nuôi từ 4 - 6 tháng đạt trọng lượng hơn 20kg là có thể xuất bán. Hiện tại heo rừng của các hộ nuôi chỉ tiêu thụ chủ yếu ở thị trường trong tỉnh, với mức giá từ 100.000 - 120.000 đồng/kg.

Là hộ đầu tiên nuôi thử nghiệm giống heo rừng tại địa phương, anh Nguyễn Thành Đô chia sẻ: “Tôi nhận thấy mô hình nuôi heo dễ áp dụng mà chi phí ban đầu cũng không quá cao, cũng như không cần dành nhiều thời gian chăm sóc. Do bản tính là heo rừng nên gần như mọi loại rau rừng, chuối cây… đều có thể tận dụng cho heo ăn nên người nuôi không tốn kém chi phí thức ăn. Từ khi áp dụng mô hình nuôi heo rừng bán thịt và heo giống, thu nhập của gia đình tôi đã ổn định hơn trước nhiều”.

Với việc tận dụng nguồn thức ăn sẵn có trong tự nhiên, quá trình nuôi không sử dụng thuốc tăng trưởng nên thịt heo giữ được hương vị thơm ngon. Đồng thời, do heo rừng có sức đề kháng tốt, ít nhiễm bệnh, không cần sử dụng các loại thuốc kháng sinh trong quá trình nuôi, đảm bảo an toàn sức khỏe cho người tiêu dùng. Vì vậy, thịt heo rừng hiện được nhiều thực khách ưa chuộng, từ đó tạo được tiềm năng để các hộ chăn nuôi phát triển mô hình nuôi heo rừng.

Thiên Hương

 

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop