Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 25 tháng 11 năm 2022

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 25 tháng 11 năm 2022

 

Trái cây miền Tây sẽ ‘ngọt hơn’

Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng

 

Nhà vườn ĐBSCL đang tranh thủ cơ hội để cải thiện chất lượng trái cây, tạo sự cạnh tranh với trái cây ngoại tại thị trường nội địa. Đồng thời, từng bước áp dụng các quy trình sản xuất nghiêm ngặt để nắm bắt cơ hội xuất khẩu.

 

 

Bưởi da xanh Bến Tre lần đầu tiên được xuất sang thị trường Mỹ. Ảnh: TÍN HUY

Những tuần qua, nhiều nhà vườn tại thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang trúng đậm mùa xoài cát Hòa Lộc, xoài keo. Với 3,2ha xoài, ông Chín Tươi (xã Vĩnh Xương, thị xã Tân Châu) đang thu hoạch xoài keo bán cho thương lái tại vườn với giá từ 8.000-14.000 đồng/kg, lợi nhuận cầm chắc vài trăm triệu đồng. Hàng chục nhà vườn ở xã Vĩnh Xương cũng thu hoạch xoài cát Hòa Lộc bán cho thương lái với giá 30.000 đồng/kg. Năng suất xoài cát Hòa Lộc từ 5-6 tấn/ha, nếu mức giá duy trì như hiện nay, nhiều nhà vườn có lãi đáng kể… Hiện, thị xã Tân Châu có gần 700ha trồng xoài, tập trung ở hai xã biên giới Vĩnh Xương, Phú Lộc…

Không chỉ ở An Giang, nhiều nhà vườn ở Đồng Tháp cũng đang có những bước tiến trong tiếp cận sản xuất xoài gắn với mã số vùng trổng để cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa cũng như xuất khẩu. Hiện Đồng Tháp có gần 42.000ha trồng trái cây thì xoài chiếm 1/3 diện tích với khoảng 14.000ha, trong đó có hơn 300 mã số vùng trồng gắn với gần 6.000ha xoài. Đây cũng là vùng trồng chuyên xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, châu Âu, Trung Quốc… Theo ông Lê Quốc Điền, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Đồng Tháp, mục tiêu phát triển ngành hàng xoài Đồng Tháp vừa tháo gỡ các điểm nghẽn kỹ thuật, vừa thực hiện phát triển theo chuỗi giá trị ngành hàng, gia tăng chế biến sâu, chế biến công nghệ cao nhằm tăng giá trị sản phẩm.

Bên cạnh đó, nhiều nhà vườn ĐBSCL đang tập trung sản xuất theo hướng đạt các chuẩn VietGAP, GlobalGAP để xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc và các thị trường khó tính khác. Mới đây, thông tin bưởi da xanh chuẩn bị xuất khẩu theo đường chính ngạch sang thị trường Mỹ đã mở ra một cơ hội mới cho nhà vườn miền Tây. Bưởi da xanh là loại trái cây có diện tích tăng nhanh trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, hiện có gần 5.000ha. Ngành nông nghiệp Tiền Giang đã hình thành vùng chuyên canh cây ăn trái tập trung với sản lượng lớn, cung cấp cho thị trường. Tại xã Tân Mỹ Chánh, TP Mỹ Tho, đã có hơn 120ha bưởi trồng theo tiêu chuẩn VietGAP và doanh nghiệp bao tiêu toàn bộ sản phẩm. Hiện ngành chức năng địa phương đang khuyến khích người dân chuyển đổi sang trồng bưởi theo tiêu chuẩn VietGAP, công nghệ cao hướng tới xuất khẩu…

Tại Bến Tre, dự kiến cuối tháng 11-2022 sẽ xuất khẩu lô bưởi da xanh đầu tiên sang thị trường Mỹ. Theo bà Nguyễn Thị Hồng Thu, Giám đốc Công ty CP Tập đoàn Xuất nhập khẩu trái cây Chánh Thu (huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre), công ty phải mất 5 năm liên kết, phối hợp với 5 HTX sản xuất bưởi trên địa bàn tỉnh sản xuất theo chuẩn VietGAP. Dự kiến, công ty sẽ xuất khoảng 40 tấn bưởi sang thị trường Mỹ. Như vậy, bưởi da xanh Bến Tre là trái cây đầu tiên của ĐBSCL được xuất sang thị trường Mỹ. Trước đó, các loại trái cây của vùng ĐBSCL như xoài, nhãn, vải, thanh long, chôm chôm và vú sữa cũng được xuất sang những thị trường khó tính ở châu Âu. Theo ông Lâm Văn Lĩnh, Chi Cục phó Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Bến Tre, sự liên kết với nông dân, HTX xây dựng mã vùng trồng là câu chuyện sống còn của doanh nghiệp trong thời gian tới để đáp ứng các hàng rào kỹ thuật qua các tiêu chuẩn chất lượng. Trong đó tiêu chuẩn đầu tiên là thực hành nông nghiệp tốt và có mã vùng trồng rõ ràng để tăng thêm cơ hội xuất khẩu trái cây sang nhiều nước.

Theo Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT), không ít diện tích trái cây ở ĐBSCL tăng thêm là chuyển từ đất lúa kém hiệu quả. Từ đầu năm đến nay, ĐBSCL có 73.530ha đất lúa chuyển đổi sang cây trồng khác, chủ yếu là cây ăn trái. Hiện nay cả nước có khoảng 1,13 triệu ha cây ăn trái, riêng ĐBSCL có 377.700ha, chiếm 1/3 diện tích. Cây ăn trái ở ĐBSCL đa dạng, mùa nào cũng có thu hoạch; trong đó, các đối tượng cây trồng chủ lực như sầu riêng, thanh long, xoài, chôm chôm, nhãn, bưởi, cam, mít, chuối, chanh… được nông dân đẩy mạnh đầu tư sản xuất và đã hình thành một số vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn.

Theo Bộ NN-PTNT, trong 10 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu nhóm nông sản chính đạt trên 18,8 tỷ USD, tăng 7,2%. Có 8 sản phẩm/nhóm sản phẩm đạt giá trị xuất khẩu trên 2 tỷ USD, trong đó riêng nhóm hàng trái cây đạt gần 2,8 tỷ USD.

NHÓM PV

 

Những nông dân không cam chịu khó nghèo

Nguồn tin:  Báo Thái Nguyên

 

Giai đoạn 2019-2022, xã Dân Tiến (Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên) có gần 1.000 lượt gia đình hội viên nông dân đạt tiêu chí sản xuất, kinh doanh giỏi các cấp (37 hộ cấp tỉnh, 73 hộ cấp huyện, còn lại là cấp xã). Ông Đỗ Văn Nhất, Chủ tịch Hội Nông dân xã tâm đắc: Họ là những nông dân không cam chịu khó nghèo, quyết tâm vượt lên chính mình, trở thành những triệu phú ngay trên vùng đất khó.

 

 

Cán bộ, hội viên Hội Nông dân huyện Võ Nhai trao đổi kinh nghiệm chăn nuôi lợn tại mô hình của gia đình bà Lê Thị Thắm, xóm Tân Tiến, xã Dân Tiến.

Nằm ở phía Nam của huyện Võ Nhai, xã vùng cao Dân Tiến có tổng diện tích đất tự nhiên gần 5.500ha. Xã gồm 13 xóm, với hơn 1.600 hộ dân. Nguồn thu nhập chính của người dân trong xã chủ yếu tới từ sản xuất nông nghiệp và dịch vụ nhỏ. Cách đây khaonrg chừng hơn 10 năm, Dân Tiến là xã thuần nông đặc biệt khó khăn. Nguồn thu nhập chính của người dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông - lâm nghiệp, trình độ dân trí không đồng đều, đường sá đi lại khó khăn... Do đó, non nửa số hộ ở xã từng thuộc diện hộ nghèo.

Để phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống, các hộ sản xuất nông nghiệp đã tự nguyện chia sẻ, trao đổi thông tin, kinh nghiệm làm ăn với nhau thông qua việc tham gia Hội Nông dân. Đến nay, 100% xóm có chi hội nông dân, với tổng số hơn 1.000 hội viên, chiếm hơn 81% lao động nông nghiệp trên địa bàn.

Bà Lê Thị Thắm, xóm Tân Tiến, cho biết: Thông qua tham gia các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi, nông dân chúng tôi được xích lại gần nhau hơn. Bởi chúng tôi được gặp gỡ, chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ nhau về vốn đầu tư, giống cây trồng, vật nuôi để cùng phát triển kinh tế gia đình…

Từ 3 năm trở lại đây, gia đình bà Thắm nuôi thường xuyên hơn 200 con gà, vịt/lứa; mỗi lứa hơn 100 con lợn thịt và 15 lợn nái; trồng 350 gốc nhãn, bưởi, thanh long. Bình quân mỗi năm, gia đình bà còn thu 10 tấn ngô hạt, chưa kể đến 10ha đất trồng rừng và cây dược liệu. Tính ra, trừ chi phí đầu tư, gia đình bà Thắm có thu nhập hơn 600 triệu đồng/năm.

Không chỉ bà Thắm, nhiều nông dân ở xã Dân Tiến đã trực tiếp làm thay đổi diện mạo quê hương mình bằng các mô hình kinh tế ổn định, mang lại thu nhập cao. Từ cơ sở, những nông dân làm kinh tế giỏi chủ động chia sẻ, giúp hộ khó khăn cùng vượt lên. Trong thời gian từ năm 2019 đến nay, nông dân xã Dân Tiến đã giúp nhau hàng tỷ đồng thông qua hình thức cho vay vốn, giống cây trồng, vật nuôi không tính lãi. Nhờ đó, nhiều hội viên không phải đi vay tiền bên ngoài với mức lãi suất cao để mua vật tư phân bón, thức ăn chăn nuôi. Ngày giáp vụ không phải bán lúa non ngoài đồng.

Để “tiếp sức” cho hội viên trong phát triển kinh tế, giai đoạn 2019-2022, Hội Nông dân xã Dân Tiến đã chủ động phối hợp với cơ quan chức năng mở 15 lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi cho hơn 1.000 lượt hội viên. Hội phối hợp với Chi nhánh Vật tư nông nghiệp huyện Võ Nhai cung ứng hơn 100 tấn phân bón trả chậm cho hội viên để sản xuất kịp khung thời vụ; nhận ủy thác với Ngân hàng Chính sách xã hội cho 277 lượt hội viên vay, với tổng dư nợ 15,5 tỷ đồng. Hội còn phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT cho 224 lượt hộ vay, với tổng dư nợ gần 25 tỷ đồng. Đặc biệt ở xóm Ba Phiêng, 10 hộ được vay tổng vốn 400 triệu đồng để thực hiện Dự án “Chăn nuôi trâu sinh sản”...

Điều kiện cần và đủ với nông dân là vốn đầu tư, khoa học kỹ thuật được hỗ trợ kịp thời, tạo cho bà con khí thế phấn chấn, tự tin vươn lên. Từ đó, đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế mang lại thu nhập cao ngay trên miền đất khó Dân Tiến. Điển hình ở xóm Làng Mười có mô hình chăn nuôi bò của gia đình ông Dương Văn Liên, thường xuyên nuôi 7 con bò sinh sản trở lên; xóm Ba Phiêng có mô hình chăn nuôi trâu của gia đình ông Địch Văn Dương, nuôi thường xuyên từ 5 con trâu trở lên; xóm Đoàn Kết có mô hình chăn nuôi gia cầm của gia đình ông Lê Văn Khuynh, nuôi thường xuyên 5.000-8.000 con gà trong chuồng… Các mô hình này có thu nhập từ 600 đến 700 triệu đồng/năm đã trừ chi phí.

Do tiền vốn hạn chế, các hộ ông Liên, ông Dương hay ông Khuynh thực hiện chăn nuôi gối vụ, duy trì tổng đàn vật nuôi ở một số lượng nhất định. Ví như hộ ông Khuynh, cứ bán đi 1.000 con gà thương phẩm thì nhập về 1.000 con giống. Bằng cách này, tháng nào các hộ cũng có sản phẩm xuất bán. Nhờ đó, đời sống kinh tế gia đình ổn định, cơ hội vươn lên làm giàu cũng nhiều hơn đối với những nông dân giàu nghị lực...

Phạm Ngọc Chuẩn

 

Đồng Tháp: Đồng hành cùng sự phát triển mô hình hội quán

Nguồn tin:  Báo Đồng Tháp

 

Đến nay, toàn tỉnh Đồng Tháp có 129 hội quán (HQ) với trên 6.600 thành viên. Từ đầu năm đến nay, thành lập mới 14 HQ. Hoạt động của HQ đa dạng các loại hình như: sản xuất cây ăn trái, lúa, rau màu, hoa kiểng, nuôi cá tra, cá lồng bè, lươn thịt, sản xuất khô mắm, kinh doanh đa ngành nghề, du lịch và sản xuất bột...

 

 

Thành viên của Tâm Quê Hội quán (xã Tân Thuận Tây, TP Cao Lãnh) sản xuất phân hữu cơ để tưới xoài. Ảnh: Mỹ Nhân

Thời gian qua, các ngành, các cấp đều quan tâm triển khai thực hiện các nội dung về hỗ trợ phát triển và nâng cao chất lượng HQ trên địa bàn tỉnh. Công tác đào tạo, tập huấn bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ của Ban Chủ nhiệm, thành viên HQ được quan tâm thực hiện.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh chưa có chính sách riêng để hỗ trợ cho các HQ. Tuy nhiên, từ nhu cầu thực tế, các sở, ngành tỉnh phối hợp cùng các địa phương triển khai thực hiện hỗ trợ HQ theo nhiệm vụ, chức năng của đơn vị. Theo đó, hỗ trợ các HQ 30 bộ phân tích nhanh dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên rau quả tươi và 40 máy đo độ pH đất; 8 bộ dụng cụ quan trắc môi trường nước để phục vụ sản xuất...

Đồng thời hỗ trợ, hướng dẫn HQ về điều kiện cấp mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Đến nay, có 12 HQ được cấp mã số vùng trồng với diện tích 419,53ha xuất khẩu trái cây (xoài, mít, nhãn và thanh long) sang thị trường: Trung Quốc, Hoa Kỳ, New Zealand, Hàn Quốc, Singapore. Nhằm phát triển hoạt động HQ, tỉnh còn hỗ trợ các HQ xây dựng, phát triển mô hình du lịch; ứng dụng máy móc, thiết bị tiên tiến vào sản xuất...

Thời gian qua, Tổ tư vấn Kinh tế tập thể cấp tỉnh, huyện thực hiện đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, hỗ trợ thành lập hợp tác xã (HTX) từ mô hình HQ; hướng dẫn, hỗ trợ hoạt động, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho các HTX; hỗ trợ, hướng dẫn việc tổ chức lại sản xuất, ứng dụng các mô hình công nghệ trong sản xuất theo quy chuẩn (an toàn thực phẩm, GAP và hướng hữu cơ...) gắn với mã vùng trồng, truy xuất nguồn gốc. Đến nay, toàn tỉnh có 180 HTX nông nghiệp, trong đó có 30 HTX nông nghiệp được thành lập từ 31 mô hình HQ. Ngoài ra, có 2 HQ tại TP Sa Đéc đã thành lập công ty.

Việc phát triển các HQ có mô hình hay, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất được tỉnh quan tâm. Theo đó, tỉnh thực hiện 3 Đề tài nghiên cứu về mô hình HQ gồm: đề tài “Nghiên cứu xây dựng mô hình Làng thông minh phát triển từ HQ nông dân tại Đồng Tháp”, đề tài “Tổng kết, đánh giá mô hình HQ của tỉnh Đồng Tháp, giai đoạn 2016-2019” và đề tài “Nghiên cứu, xây dựng quy trình sản xuất và sử dụng chế phẩm thảo mộc phòng trị sâu bệnh hại cây trồng tại TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp”. Bên cạnh đó, tuyên truyền về kỹ thuật sản xuất, các mô hình có hiệu quả, các quy định đối với nông sản an toàn; hỗ trợ thực hiện các mô hình hay, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất.

Đồng hành cùng sự phát triển của các HQ, UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ngành tỉnh phối hợp các đơn vị liên quan và địa phương thực hiện các hoạt động về xúc tiến thương mại, thương mại điện tử, hỗ trợ phát triển bao bì, nhãn hiệu cho các sản phẩm hàng hóa của các doanh nghiệp, HTX, HQ trên địa bàn tỉnh. Qua đó, góp phần hỗ trợ các chủ thể nâng cao chất lượng quản trị, duy trì và nâng cao chất lượng sản phẩm, từng bước ứng dụng các giải pháp chuyển đổi số phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, triển khai một số chương trình, hoạt động hỗ trợ trên cơ sở gắn kết vùng nguyên liệu, đáp ứng nhu cầu của thị trường nhằm ươm tạo cho các dự án khởi nghiệp, doanh nghiệp, HTX, HQ tiềm năng phát triển, chuẩn hóa sản phẩm để tham gia có hiệu quả chương trình OCOP.

Theo UBND tỉnh, bên cạnh một số kết quả đạt được, hoạt động của các HQ vẫn còn một số khó khăn, hạn chế. Một số Ban Chủ nhiệm HQ còn thiếu tự tin trong tổ chức, điều hành hoạt động, nội dung sinh hoạt có lúc chưa được phong phú; một số thành viên chưa thật sự gắn bó với HQ. Bên cạnh đó, việc liên kết giữa các HQ với doanh nghiệp trong sản xuất chưa nhiều và ổn định, nhất là việc liên kết trong cung ứng vật tư đầu vào và đầu ra sản phẩm.

Một số HQ chưa hội đủ các điều kiện để ứng dụng khoa học và công nghệ đạt hiệu quả, đặc biệt là trong việc đổi mới, chuyển giao công nghệ, xây dựng và áp dụng các hệ thống quản lý tiên tiến và các công cụ cải tiến năng suất, chất lượng. Mặt khác, tỉnh chưa có chính sách riêng để hỗ trợ HQ, các chính sách hỗ trợ được thực hiện lồng ghép từ các chương trình, dự án được triển khai trên địa bàn tỉnh...

Trước thực tế đó, trong thời gian tới, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo các sở, ngành phối hợp với các địa phương tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ hỗ trợ phát triển HQ. Tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo và bồi dưỡng về quản trị, xây dựng và thực hiện có hiệu quả trong sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, tiếp cận thị trường...

Đồng thời khuyến khích và nhân rộng các HQ có mô hình sản xuất hiệu quả, an toàn gắn với truy xuất nguồn gốc, mã vùng trồng, tham gia chương trình OCOP; tổ chức tham quan học tập kinh nghiệm các mô hình hay, cách làm mới, chuyển giao ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Hỗ trợ, tư vấn cho HQ tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới để nâng cao chất lượng và giá trị của nông sản. Bên cạnh đó, đẩy mạnh các hoạt động liên kết viện, trường với HQ trên địa bàn tỉnh trong đổi mới, chuyển giao công nghệ phục vụ hoạt động khởi nghiệp gắn với đổi mới sáng tạo...

Không dừng lại đó, tỉnh định hướng hỗ trợ tuyên truyền, vận động HQ thành lập HTX khi đủ điều kiện; đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại nhằm quảng bá sản phẩm nông sản của HQ; hỗ trợ liên kết tiêu thụ nông sản, bảo quản, chế biến sản phẩm; xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu hàng hóa. Tiếp tục thực hiện thông tin và phân tích thị trường nông sản về giá cả thị trường nông sản đến các cơ quan, doanh nghiệp, HTX, HQ trên địa bàn tỉnh để kịp thời nắm bắt thông tin nhằm chủ động trong sản xuất, kinh doanh.

Để tiếp cận sâu với thị trường, tỉnh tiếp tục hỗ trợ phát triển bao bì, nhãn hiệu, kết nối tiêu thụ, kinh doanh trên nền tảng số, thực hiện hỗ trợ hộ sản xuất nông nghiệp tham gia sàn thương mại điện tử, thúc đẩy phát triển kinh tế số nông nghiệp, nông thôn và đẩy mạnh phát triển sản phẩm nông nghiệp đặc trưng theo Chương trình OCOP trên địa bàn tỉnh...

Y DU

 

Phòng trừ bệnh trên cây thanh long

Nguồn tin: Báo Long An

 

Do giá thanh long bấp bênh, thời gian qua, một số nông dân trồng thanh long trên địa bàn huyện Châu Thành, tỉnh Long An bỏ vườn, không chăm sóc hoặc chăm sóc rất ít khiến thanh long bị dịch bệnh tấn công.

 

 

Anh Huỳnh Văn Tiết (bìa phải) chăm sóc tốt vườn thanh long

Huyện Châu Thành có 12 xã và thị trấn đều được quy hoạch vùng sản xuất thanh long. Theo thống kê, đến tháng 11/2022, diện tích cây thanh long của huyện còn 7.380ha; diện tích thanh long phá bỏ 1.889ha. Do tình hình tiêu thụ khó khăn, một số nông dân bỏ vườn không chăm sóc nên thanh long nhiễm bệnh nặng.

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Nguyễn Chí Thiện chia sẻ: “Những năm qua, thanh long mang lại giá trị kinh tế lớn cho người trồng. Huyện Châu Thành đạt danh hiệu huyện nông thôn mới cũng có sự đóng góp không nhỏ từ cây thanh long. Tuy nhiên, sau khi Trung Quốc áp dụng chính sách Zero Covid, thắt chặt các cửa khẩu thì tình hình tiêu thụ thanh long của tỉnh nói chung, huyện Châu Thành nói riêng gặp nhiều khó khăn. Có thời điểm, thanh long chỉ có giá 2.000-3.000 đồng/kg, không bù được vốn. Tình trạng này kéo dài hơn 2 năm qua, gây rất nhiều khó khăn trong việc phát triển sản xuất thanh long, nhất là đối với những hộ mới trồng. Những vườn thanh long già cỗi hoặc mới trồng, nhiều nông dân đành phải bỏ vườn”.

Trong tình hình khó khăn chung, anh Huỳnh Văn Tiết (xã Dương Xuân Hội, huyện Châu Thành) chọn cách giảm đầu tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật nhằm tiết kiệm chi phí; đồng thời, có thể duy trì việc chăm sóc vườn đều đặn. Anh Tiết cho hay: “Cây thanh long mà không chăm sóc thì dịch bệnh tấn công ngay. Do đó, dù tốn chi phí cũng phải chăm sóc định kỳ, không nên bỏ vườn. Giờ đây, chỉ hy vọng việc tiêu thụ trái thanh long được tốt hơn, người trồng thanh long mới có động lực chăm sóc vườn”.

Hiện các ngành chức năng tìm giải pháp giúp nông dân tiêu thụ trái thanh long và kêu gọi nông dân tiếp tục giữ vườn. Còn đối với dịch bệnh trên cây thanh long, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp Trung tâm Bảo vệ thực vật phía Nam và Viện Cây ăn quả miền Nam khảo sát, đánh giá tình hình dịch bệnh nhằm đề xuất giải pháp quản lý dịch hại thanh long trong thời gian tới.

Giám đốc Trung tâm Bảo vệ thực vật phía Nam - Đỗ Văn Vấn cho biết: “Tình hình dịch bệnh trên cây thanh long tại huyện Châu Thành khá phổ biến. Đối với các vườn nhiễm bệnh trên 70% thì nên phá bỏ vì chi phí phục hồi cao, thời gian kéo dài. Còn đối với vườn nhiễm bệnh dưới 70% và có độ tuổi 3-4 năm có thể phục hồi trong 6-12 tháng nếu người dân chịu đầu tư chăm sóc. Ngoài ra, chúng tôi khuyến cáo, nông dân nên cắt tỉa nhánh thanh long hàng năm từ 10-15% để vườn thông thoáng, ít mầm bệnh; bón phân hữu cơ cho đất tơi xốp, nuôi nhánh khỏe, rễ tốt; đồng thời, bón phân hóa học phải cân đối, hạn chế sử dụng thuốc hóa học”.

Từ trên 9.000ha, hiện nay, diện tích thanh long tại huyện Châu Thành giảm chỉ còn 7.380ha. Sản lượng từ 271.000 tấn/năm giảm còn 190.000 tấn trong năm 2022. Ông Nguyễn Chí Thiện cho biết: “Ngành Nông nghiệp khuyến khích nông dân phòng trừ sâu, bệnh thật tốt, nhất là đối với những vườn trồng theo hướng VietGAP. Tỉnh có trên 8.000ha thanh long có mã số vùng trồng, trong đó trên 2.000ha có mã số xuất qua các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc,... Đây là điều kiện để chúng ta tiếp tục duy trì diện tích thanh long.

Ngoài ra, các ngành chức năng cũng đang bàn giải pháp tiếp tục củng cố mã số vùng trồng, hình thành chuỗi liên kết, ứng dụng phần mềm quản lý nông nghiệp thông minh,... Đặc biệt, đề xuất các chính sách hỗ trợ về vốn vay để tái đầu tư, phục hồi và trồng mới thanh long. Qua đó, chúng tôi hy vọng nông dân tiếp tục duy trì diện tích trồng thanh long, không nên phá bỏ hoặc không chăm sóc”./.

Kim Ngọc - Thái Bạch

 

Khắc phục hiện tượng vàng lá trên cây bưởi Năm Roi

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

 

Đó là chủ đề hội thảo do Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Sở Nông nghiệp - PTNT) tỉnh Vĩnh Long tổ chức ngày 22/11.

Theo Sở Nông nghiệp - PTNT, trong các giống bưởi được trồng thì bưởi Năm Roi được đánh giá là một trong những sản phẩm đặc sản của ngành nông nghiệp tỉnh. Chỉ riêng TX Bình Minh, có khoảng 2.100ha trồng bưởi Năm Roi. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, theo nhiều nông dân trồng bưởi Năm Roi, hiện tượng đất thoái hóa và cây phát triển kém, vàng lá, năng suất giảm, đã và đang xuất hiện nhiều ở các vườn bưởi.

Từ những thực trạng trên, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đã thực hiện mô hình nhằm phục hồi sức khỏe đất, cải thiện hiện tượng vàng lá trên bưởi Năm Roi. Mô hình thực hiện với diện tích 1ha tại xã Mỹ Hòa, với 5 hộ nông dân tham gia, tuổi cây từ 5 - 25 tuổi. Thời gian thực hiện từ tháng 5 - 11/2022. Kết quả cho thấy, việc bón phân hữu cơ để phục hồi sức khỏe đất nhằm cải thiện hiện tượng vàng lá trên cây bưởi Năm Roi. Mô hình mang lại hiệu quả kinh tế, nâng thu nhập cho người trồng bưởi trước mắt và về lâu dài phân hữu cơ góp phần cải thiện độ pH đất, tăng độ phì nhiêu của đất, giữ đất tơi xốp, làm hệ sinh thái trong đất được ổn định và cân bằng, giúp bộ rễ cây phát triển tốt, khỏe, hạn chế bệnh hại trên cây bưởi.

 

 

Đại biểu tham quan mô hình.

Tại buổi hội thảo các đại biểu cũng đã tham quan mô hình trình diễn, đồng thời triển khai ứng dụng tra cứu MRLs phục vụ xuất khẩu nông sản.

Tin, ảnh: THẢO LY

 

Triển vọng bưởi da xanh

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

 

Những năm qua, bưởi da xanh được xem là một trong các loại trái cây đem lại hiệu quả kinh tế cao ở vùng ĐBSCL, nhờ được tiêu thụ mạnh ở thị trường nội địa và xuất khẩu sang Trung Quốc. Mới đây, Bộ Nông nghiệp Mỹ cho phép xuất khẩu trái bưởi tươi vào thị trường nước này đã mở ra nhiều triển vọng cho bưởi da xanh vươn xa hơn trong thời gian tới.

 

 

Nhà vườn trồng bưởi da xanh ở huyện Long Mỹ an tâm về đầu ra khi liên kết với doanh nghiệp. Ảnh: H.THU

Khẳng định chỗ đứng trên thị trường

Ở vùng ĐBSCL thì Bến Tre là địa phương có diện tích trồng bưởi da xanh nhiều nhất với khoảng 9.000ha, tập trung ở các huyện Mỏ Cày Nam, Châu Thành, Chợ Lách, Giồng Trôm, thành phố Bến Tre…, đây cũng là cây trồng chủ lực của tỉnh. Chị Đặng Thị Phương Ánh, ở xã Quới Sơn, huyện Châu Thành (Bến Tre), bộc bạch: “Sống ở vùng nông thôn, gia đình tôi có 8 công đất chuyên trồng nhãn, dừa, ca cao…, nhưng làm mãi mà không khá được bởi giá cả bấp bênh. Khoảng năm 2005, trong lần tình cờ phát hiện ra giống bưởi da xanh có chất lượng ngon, năng suất cao… nên mạnh dạn chuyển đổi toàn bộ khu vườn sang trồng bưởi da xanh. Sau 3-4 năm chăm sóc, bưởi da xanh bắt đầu cho trái và năng suất tăng dần theo độ lớn của cây, bình quân khoảng 12-14 tấn/ha/năm. Giá bưởi da xanh cũng tăng dần từ 15.000 đồng/kg, rồi 20.000 đồng/kg, có lúc 30.000- 40.000 đồng/kg; thậm chí khi hút hàng từ 50.000 đồng/kg trở lên… Nhờ bưởi da xanh được giá nên 8 công vườn cho thu nhập bình quân khoảng 500 triệu đồng mỗi năm, cao gấp nhiều lần so các loại cây khác. Cũng nhờ trúng bưởi da xanh mấy năm mà gia đình vươn lên khấm khá”.

Tại Sóc Trăng, nhiều hộ ở vùng nông thôn huyện Kế Sách cũng phất lên từ bưởi da xanh. Điển hình như vợ chồng ông Đặng Văn Nám và bà Hồ Thị Bê (xã Kế Thành), có khoảng 3,3ha đất chuyên làm lúa, trồng màu…, nhưng cũng chỉ đủ ăn. Năm 2009, khi nghe tin ở Bến Tre có bưởi da xanh ngon và bán được giá nên vợ chồng lặn lội đi tìm cây giống và học hỏi kinh nghiệm trồng bưởi da xanh. Sau thời gian chăm sóc vườn bưởi cho trái và năng suất tăng dần. Những năm bưởi trúng mùa, trúng giá từ 40.000-60.000 đồng/kg giúp gia đình có nguồn thu khoảng 2,5-3 tỉ đồng/năm; nhờ đó mà xây được biệt thự khang trang và đầu tư mở rộng quy mô sản xuất. Thấy vợ chồng ông Nám trồng bưởi da xanh hiệu quả nên nhiều nông dân ở huyện Kế Sách đến học hỏi làm theo, từ đó hình thành vùng sản xuất bưởi chủ lực của tỉnh.

Tại Hợp tác xã (HTX) nông nghiệp Tiến Nông, ở ấp 2, thị trấn Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang, hiện tại có hàng chục héc-ta bưởi da xanh sản xuất theo quy trình VietGAP và có liên kết tiêu thụ. Lãnh đạo Phòng NN&PTNT huyện Long Mỹ, cho biết bên cạnh việc phát triển về diện tích trồng, chất lượng trái thì vấn đề về tìm thị trường đầu ra ổn định cho trái bưởi bằng việc liên kết với doanh nghiệp đang được đơn vị đặc biệt quan tâm. Thời gian qua, đơn vị cũng đã kết nối doanh nghiệp và người dân để liên kết sản xuất và tiêu thụ để ổn định đầu ra cho trái bưởi của nhà vườn trên địa bàn.

Thật ra, để trái bưởi da xanh có được giá trị như hôm nay thì người có công lớn nhất là Chủ cơ sở kinh doanh trái cây Hương Miền Tây - ông Đàm Văn Hưng (ở tỉnh Bến Tre). Hàng chục năm trước, ông Hưng đi thu mua cam và tình cờ thấy bưởi da xanh trồng rải rác trong các vườn dừa, vườn cam nhưng không ai để ý tới. Thế là ông Hưng lượm những trái bưởi rụng, ăn thử thấy ngon, múi bưởi khô, màu hồng khá đẹp… Ngay lập tức, ông Hưng chuyển sang thu mua bưởi cho bà con, sau đó đưa lên Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội tiêu thụ. Ban đầu nhiều người chê bưởi có vỏ xanh lè, sợ bị chua. Ông Hưng kiên trì tiếp thị và cho mọi người ăn thử, dần dần quen khẩu vị; từ đó bưởi da xanh được tiêu thụ rộng rãi hơn, giá cả cũng tăng lên…

Đa dạng thị trường xuất khẩu

Đến nay, Hương Miền Tây được xem là doanh nghiệp thu mua bưởi da xanh hàng đầu ở khu vực ĐBSCL với hơn 15.000 tấn mỗi năm. Ngoài thị trường tiêu thụ chủ lực là Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh, thành phía Bắc thì bưởi da xanh còn được xuất khẩu sang một số nước châu Âu, châu Á, Australia và Canada; tuy nhiên việc xuất khẩu phần lớn vẫn là thị trường Trung Quốc.

“Thật ra, bưởi da xanh cũng giống như một số loại nông sản khác, mỗi khi thị trường Trung Quốc “ăn hàng mạnh” thì xuất thuận lợi, giá tăng. Còn ngược lại, khi thị trường tỉ dân này giảm nhập khẩu thì giá giảm mạnh và khó bán hơn”, ông Hưng nhìn nhận. Trước thực trạng trên, mấy năm qua bản thân doanh nghiệp Hương Miền Tây và những doanh nghiệp kinh doanh trái cây khác trên cả nước, luôn nỗ lực tìm thêm những thị trường xuất khẩu mới nhằm giảm phụ thuộc vào Trung Quốc.

Giữa tháng 10-2022, Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT) đã chính thức công bố yêu cầu kiểm dịch thực vật trái bưởi tươi xuất khẩu sang Mỹ, sau khi Bộ Nông nghiệp Mỹ cho phép nhập khẩu bưởi tươi của Việt Nam vào thị trường nước này. Theo ông Hoàng Trung, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật, để đưa trái bưởi vào thị trường Mỹ, các cơ quan chức năng của Việt Nam mất khoảng 5 năm đàm phán, làm việc với phía Mỹ, kèm theo những điều kiện rất gian nan. Quy định phía Mỹ, trái bưởi tươi của Việt Nam phải được cấp mã số vùng trồng và cơ sở xử lý phải được đăng ký với Cục Bảo vệ thực vật, cùng Cơ quan kiểm dịch động thực vật của Mỹ (APHIS). Cụ thể, trái bưởi không được nhiễm ruồi, nấm và phải được Cục Bảo vệ thực vật cấp giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật; các lô hàng bưởi tươi phải được xử lý chiếu xạ; được đóng gói tại cơ sở mà Cục Bảo vệ thực vật và APHIS đồng ý... Cũng theo Cục Bảo vệ thực vật, bưởi da xanh và bưởi Năm Roi dự kiến sẽ được xúc tiến đầu tiên để xuất khẩu sang Mỹ trong thời gian tới; đây cũng là 2 giống bưởi được trồng nhiều nhất ở ĐBSCL.

Ông Đàm Văn Hưng, chủ cơ sở kinh doanh trái cây Hương Miền Tây, cho rằng, việc ngành chức năng Mỹ đồng ý cho nhập khẩu bưởi tươi của Việt Nam là tín hiệu tích cực; trong đó bưởi da xanh của ĐBSCL sẽ có cơ hội vươn xa hơn. Từ nay, chúng ta có thể giảm dần phụ thuộc vào một vài thị trường, mà hướng tới sự đa dạng về thị trường xuất khẩu, trong đó có những thị trường lớn với giá trị mang lại cao hơn.

“Tuy nhiên, để trái bưởi chính thức thâm nhập vào thị trường khó tính như Mỹ thì không hề đơn giản, mà đòi hỏi nhiều tiêu chuẩn vô cùng khắt khe. Vì vậy, doanh nghiệp Hương Miền Tây đang đầu tư thêm kho lạnh bảo quản đạt tiêu chuẩn; phối hợp với các hợp tác xã quy hoạch vùng trồng bưởi da xanh chất lượng cao; từ chăm sóc, sử dụng phân thuốc, đến thu hoạch… phải đáp ứng các quy định của phía Mỹ. Hiện tại, doanh nghiệp chúng tôi sẽ thử nghiệm và đăng ký mã số vùng trồng khoảng hơn 50ha để mời các cơ quan chức năng của Mỹ sang kiểm tra, thẩm định trong thời gian tới. Khi nào đạt yêu cầu thì sẽ mở rộng thêm. Doanh nghiệp chúng tôi xác định đây là cơ hội tốt cần phải nắm bắt, nhưng cách làm phải chặt chẽ, từng bước; chất lượng đặt lên hàng đầu, bởi xuất khẩu là lâu dài nên không thể nóng vội được…”, ông Đàm Văn Hưng bộc bạch.

Bà Ngô Tường Vy, Giám đốc Công ty cổ phần xuất nhập khẩu trái cây Chánh Thu (Bến Tre), cũng nhìn nhận: “Mỹ là thị trường lớn, đầy triển vọng cho bưởi da xanh nói riêng và các loại trái cây khác nói chung. Vấn đề là chúng ta phải đảm bảo chất lượng và các tiêu chuẩn mà họ đưa ra. Một khi đáp ứng đầy đủ các yêu cầu thì số lượng xuất khẩu và giá cả không phải là vấn đề quan tâm nữa…”. Hiện, Sở NN&PTNT các tỉnh ĐBSCL tích cực hỗ trợ các hợp tác xã và doanh nghiệp xây dựng vùng nguyên liệu bưởi da xanh chất lượng cao theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, mô hình sản xuất hữu cơ… đáp ứng các quy định, nhằm sẵn sàng đưa trái bưởi da xanh sang Mỹ trong thời gian tới.

Theo Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT), cả nước hiện có khoảng 105.400ha trồng bưởi, sản lượng gần 905.000 tấn với nhiều giống bưởi khác nhau; trong đó vùng ĐBSCL có diện tích bưởi lớn nhất với khoảng 32.000ha, sản lượng khoảng 370.000 tấn (phần nhiều là bưởi da xanh). Dù mấy năm qua bưởi da xanh ở ĐBSCL cho hiệu quả kinh tế khá cao nhưng giá cả không ổn định, lên xuống thất thường theo nhu cầu “ăn hàng” của thị trường Trung Quốc.

Hiện nay, giá bưởi da xanh dao động khoảng 15.000-25.000 đồng/kg (tùy loại); dự báo đến Tết Nguyên đán 2023 tăng lên khoảng 30.000-40.000 đồng/kg… Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu trái cây nhận định, nếu tới đây bưởi da xanh được xuất khẩu sang Mỹ vừa góp phần giảm phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, vừa nâng được giá trị trái bưởi da xanh

H.TÂN - H.THU

 

Bất cập ở vùng mía

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

 

Nếu như mọi năm, vào thời điểm này vùng mía ở huyện Phụng Hiệp (tỉnh Hậu Giang) rất nhộn nhịp nhân công tấp nập và thu hoạch chuyên chở mía. Nhưng năm nay, dù nhà máy đường công bố giá mía thu mua đầu vụ cao hơn 300 đồng/kg, nhưng không khí ở vùng mía năm nay cũng khá trầm lắng.

 

 

Do nông dân bán mía chục nên nguồn mía nguyên liệu về nhà máy đường thời điểm này rất ít. Ảnh: T.TRÚC

Nông dân từ chối bán mía cho nhà máy đường

Canh tác 5 công mía giống Suphen hơn 11 tháng tuổi, mía đã đạt chữ đường thu hoạch, nhưng ông Đào Văn Vởn, ở xã Tân Phước Hưng, huyện Phụng Hiệp, chưa vội thu hoạch mặc dù Công ty Cổ phần Mía đường Cần Thơ (Casuco) công bố giá thu mua đầu vụ ở mức 1.300 đồng/kg mía 10 CCS, cao hơn năm trước 300 đồng/kg so với năm rồi. Thay vào đó, ông Vởn quyết định tiếp tục neo mía để đợi bán mía chục.

Ông Vởn cho biết: “Giống mía này hiện nay thương lái thu mua mía chục ở mức 2.400 đồng/kg, nông dân không tốn chi phí nhân công thu hoạch. Trong khi bán mía cho nhà máy thấp hơn 1.000 đồng/kg so với mía chục, nên nông dân không có lãi. Buộc lòng bà con ở khu vực này chọn bán mía chục, thay vì bán cho nhà máy đường. Bởi lâu lắm rồi mía mới có giá, ai cũng muốn gỡ gạc gạt lại thu nhập sau nhiều năm thua lỗ”.

Năm nay, huyện Phụng Hiệp xuống giống hơn 3.600ha mía, hiện nông dân đã bán mía chục gần 80%. Thậm chí những diện tích đã ký kết, nhận đầu tư của công ty cũng hủy kèo không bán cho nhà máy. Theo thống kê của Casuco, vụ mía 2021-2022 công ty ký hợp đồng đầu tư cho 830 hộ trồng mía ở huyện Phụng Hiệp với tổng diện tích hơn 736ha. Đến nay đã có 363 hộ nhận hợp đồng đầu tư đã bán mía chục cho thương lái với diện tích 262ha, còn lại 473ha nông dân vẫn chưa chịu thu hoạch mía bán cho nhà máy đường.

Như trường hợp của ông Trần Văn Thảo, ở xã Hiệp Hưng, huyện Phụng Hiệp, đầu vụ ông Thảo ký hợp đồng nhận đầu tư của Casuco trên diện tích 4 công mía trồng giống ROC 16. Nhưng khi thấy mía chục có giá, ông Thảo đã chủ động hủy hợp đồng, chấp nhận đóng lãi cho phần chi phí đầu tư của công ty để được bán mía chục. Toàn bộ 4 công mía của ông Thảo bán mía chục được 130 triệu đồng, trừ hết chi phí đầu tư ông lãi gần 80 triệu đồng.

Ông Thảo cho biết: “Sau nhiều năm thua lỗ, năm nay ai còn gắn bó với cây mía thì hầu như đều bán mía chục. Dẫu biết rằng đầu ra của mía chục vẫn còn bấp bênh, không ổn định như mía đường nhưng trước mắt lợi nhuận khá cao nên nông dân đa phần đều làm theo. Hiện nay, mía chục không trồng theo vụ như mía đường, mà được trồng quanh năm nên tháng nào cũng có mía thu hoạch, vì thế nông dân trồng mía có đồng ra đồng vô”.

Do sản lượng mía cung cho nhà máy giảm mạnh nên Casuco phải thông báo điều chỉnh thời gian sản xuất, thay vì vào vụ ép từ ngày 14-11.

Cần có định hướng phát triển lâu dài cho vùng mía

Do giá mía chục năm nay ở mức cao, đầu ra tương đối thuận lợi hơn mọi năm nên nhiều diện tích chuyển đổi trước đây cũng được bà con nông dân cải tạo để trồng mía trở lại. Có gần 10 công chuối trước đây chuyển từ mía, nhưng hiện nay ông Nguyễn Phi Hùng, ở xã Hiệp Hưng, huyện Phụng Hiệp, đang bỏ 5 công chuối để quay lại trồng mía. Theo ông Hùng, hiện nay mía có giá nên muốn quay lại với cây trồng truyền thống này, nếu giá bán ổn định sẽ tiếp tục chuyển thêm 5 công còn lại. Ông Hùng cho biết thêm: “Quay lại với cây mía nhưng cũng còn nhiều nỗi trăn trở nên gia đình chỉ mới chuyển đổi lại 50% diện tích. Giờ trồng thì trồng, nhưng cũng chưa biết bán cho nhà máy đường hay mía chục, tới vụ thu hoạch mới tính. Vì năm nay giá mía chục ở mức cao nhưng chưa biết năm sau thế nào nữa”.

Ông Trần Văn Tuấn, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Phụng Hiệp, cho biết: Năm nay, mía có giá nên nhiều nông hộ đã chủ động quay lại với cây mía. Hiện nay, ngành cũng đang chỉ đạo cho cán bộ kỹ thuật các địa phương tiến hành theo dõi và cập nhật số liệu. Dự báo niên vụ mía 2022-2023 diện tích mía ở huyện Phụng Hiệp sẽ tăng mạnh.

Để phát triển ổn định vùng mía, định hướng của huyện Phụng Hiệp đến năm 2025 sẽ giữ vững vùng nguyên liệu mía từ 3.000-3.500ha, trong đó có khoảng 500ha ở các xã như: Phụng Hiệp, Hiệp Hưng, Tân Phước Hưng được quy hoạch trồng mía chục, số còn lại sẽ sản xuất để cung ứng cho nhà máy.

Để giúp người dân trồng mía an tâm sản xuất lâu dài, Casuco cũng đã triển khai phương án đầu tư sản xuất và tiêu thụ mía nguyên liệu trong 3 vụ mía tới. Theo đó, nông dân sẽ nhận đầu tư giống, phân bón và trả lại sản lượng mía cho nhà máy khi đến vụ thu hoạch. Cách thức thực hiện cũng như vụ mía 2021-2022, nhưng được kéo dài đến 3 năm. Cụ thể, mỗi héc-ta mía nông dân sẽ được đầu tư 38 triệu đồng, bao gồm: mía giống, phân và công chăm sóc. Chính sách này sẽ đảm bảo cho người trồng mía có lãi và nhà máy cũng có sản lượng mía để hoạt động.

Ông Trần Vĩnh Chung, Tổng Giám đốc Casuco, cho biết: Với phương án đầu tư mới của công ty sẽ đảm bảo cho nông dân có lãi, dù giá đường có giảm đi chăng nữa thì giá sàn bảo hiểm của công ty cũng cam kết thu mua cho bà con 1.000 đồng/kg. Ngoài việc đảm bảo về giá cả và đầu ra thì trong quá trình sản xuất, công ty sẽ hỗ trợ nông dân ứng dụng khoa học kỹ thuật vào canh tác làm cho chữ đường bình quân đạt theo yêu cầu. Khi đó mía 10 CCS, lợi nhuận của bà con nông dân phải đạt hơn 15% chi phí sản xuất, đối với mía lưu gốc thì phải đạt được là 30% sau khi trừ chi phí sản xuất, để người dân gắn bó lâu dài với cây mía.

Nông dân chạy theo xu hướng của thị trường để gỡ gạc lại nguồn thu nhập sau nhiều năm lỗ lã với cây mía là điều dễ hiểu. Nhưng hướng đi này lại vô tình đã phá vỡ mối liên kết hàng chục năm nay giữa nông dân và doanh nghiệp. Ngành chức năng cần có những định hướng và cách làm phù hợp để giúp vùng mía Phụng Hiệp phát triển bền vững.

Vụ mía 2021-2022, nông dân trên địa bàn tỉnh xuống giống được 3.842ha, đạt 96,06% kế hoạch, tập trung ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy. Đa phần bà con thu bán mía chục, với giá từ 1.700-3.200 đồng/kg, năng suất bình quân đạt 100 tấn/ha.

T.TRÚC - D.KHÁNH

 

Tận dụng mùa nước nổi phát triển trồng sen dưới ruộng lúa

Nguồn tin: Báo Sóc Trăng

 

Từ tháng 8 (dương lịch) hàng năm trở đi, khi con nước nổi trắng xóa cả cánh đồng, người dân trên địa bàn huyện Mỹ Tú (Sóc Trăng) đưa sen xuống trồng dưới chân ruộng, thu về hàng trăm triệu đồng/vụ trồng sen.

Ghé thăm ruộng sen của bà Trần Thị Biệp, ấp Tân Hòa, xã Long Hưng, huyện Mỹ Tú, đúng lúc bà đang chuẩn bị xuồng đi thu hoạch gương sen. Nhanh tay bẻ từng chiếc gương sen bỏ lên chiếc xuồng nhỏ, bà Trần Thị Biệp bộc bạch: “Nhờ có mùa nước nổi mà thu nhập gia đình tôi tăng lên đáng kể, thông qua việc đưa cây sen trồng dưới chân ruộng lúa. Tính đến nay, tôi đã trồng sen vào mùa nước nổi hơn 5 năm. Diện tích trồng sen của gia đình là 2ha. Sau thu hoạch xong vụ lúa Đông - Xuân, tôi không xuống giống lúa vụ Hè - Thu, chuyển sang trồng sen dưới chân ruộng để thu hoạch gương sen”.

 

 

Bà Trần Thị Biệp, ấp Tân Hòa, xã Long Hưng, huyện Mỹ Tú (Sóc Trăng) trồng 2ha sen lấy gương cho thu nhập 150 - 200 triệu đồng/vụ. Ảnh: THÚY LIỄU

Bà Trần Thị Biệp chia sẻ thêm: “Sen xuống giống tầm 3,5 tháng đã thu hoạch gương và việc hái gương sen kéo dài tầm 4 - 5 tháng. Trong suốt các tháng thu hoạch gương sen, cứ cách 3 ngày sẽ thu hoạch gương 1 lần, mỗi đợt thu hoạch tầm 200kg/2ha, giá bán gương sen dao động từ 16.000 - 30.000 đồng/kg, trừ chi phí lợi nhuận tầm 150 - 200 triệu đồng/2ha. Số tiền trên cao hơn gấp nhiều lần so với trồng lúa”.

Cũng là hộ đưa sen trồng dưới chân ruộng trong mùa nước nổi, ông Cao Văn Bịch, ấp Tân Hòa, xã Long Hưng, huyện Mỹ Tú, cho biết: “Tôi xuống giống sen trồng dưới ruộng lúa là 1ha. Tính đến nay, tôi đã thu hoạch gương sen hơn 3 tháng, cách 2 ngày thu hoạch 1 lần, sản lượng thu về khoảng 100kg/2 ngày (thu hoạch khoảng 4 tháng), ước tính sau mùa vụ thu hoạch gương sen, trừ hết chi phí lợi nhuận thu về 100 triệu đồng. Ngoài trồng sen lấy gương, tôi còn nuôi thêm các loại cá, như: thác lác, sặc rằn, rô phi… trong ruộng sen. Cá nuôi khoảng 6 tháng thu hoạch, đem về số tiền gần 40 triệu đồng. Tôi đang chuẩn bị thu hoạch hết đợt gương sen vào cuối tháng 11/2022 (dương lịch), để xuống lúa vụ Đông - Xuân, đảm bảo theo cơ cấu mùa vụ là 1 vụ trồng sen, 1 vụ trồng lúa”.

Nếu như bà Biệp và ông Bịch trồng sen lấy gương, thì ông Phan Thanh Trí, ấp Tân Hòa C, xã Long Hưng, huyện Mỹ Tú, chọn trồng sen lấy củ. Theo lời ông Trí thì việc trồng sen lấy củ nhẹ công chăm sóc, không tốn nhiều chi phí đầu tư, sen xuống giống trong thời gian 3,5 tháng là thu hoạch củ. Với diện tích trồng sen lấy củ 1,5ha, sản lượng thu về ước 20 tấn, trừ hết các khoản chi phí lợi nhuận thu về hơn 250 triệu đồng/3,5 tháng trồng sen.

Ông Phan Thanh Trí chia sẻ: “Trong mùa nước nổi, đối với vùng đất trũng, cây sen được xem là cây trồng phù hợp trồng trong ruộng lúa, vừa tăng lợi nhuận cho nông dân vừa cải tạo đất lúa. Khi cây sen bị mục, lá trở thành nguồn phân hữu cơ, cung cấp cho cây lúa phát triển tốt, góp phần tăng năng suất lúa”.

Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Mỹ Tú Nguyễn Thanh Điền thông tin: "Mỹ Tú là huyện thuộc vùng trũng của tỉnh Sóc Trăng nên hàng năm, trước khi mùa nước nổi về cũng là thời điểm thu hoạch xong vụ lúa Đông - Xuân. Một số xã vùng trũng trên địa bàn huyện, người dân không xuống giống lúa vụ Hè - Thu (do ảnh hưởng thời tiết bất lợi, mưa nhiều trong tháng 4 đến tháng 9, 10 (dương lịch)) mà chuyển sang việc đưa sen trồng trên nền đất lúa. Đến mùa nước nổi tầm tháng 8 (dương lịch), khi con nước ngập trắng xóa cả cánh đồng thì cũng là lúc người dân đã có sen thu hoạch. Thu hoạch gương sen kéo dài đến cuối tháng 11 (dương lịch) trong năm thì toàn bộ diện tích sen trồng trên ruộng lúa sẽ được dọn bỏ để xuống giống lúa Đông - Xuân".

“Theo thống kê, diện tích trồng sen của huyện đạt gần 150ha, trong đó hơn 50% diện tích trồng sen tập trung tại 2 xã Long Hưng và Mỹ Phước. Theo ước tính 1ha trồng sen lấy gương cho thu nhập bình quân 70 - 80 triệu đồng/vụ, sen lấy củ cho thu nhập tầm 200 triệu đồng/ha. Toàn bộ gương sen, củ sen sau thu hoạch được thương lái đến tận ruộng thu mua. Hiện nay đã có doanh nghiệp dự định liên kết bao tiêu đầu ra cho sản phẩm sen của các địa phương trên địa bàn huyện. Vì vậy, nếu được doanh nghiệp bao tiêu đầu ra, huyện sẽ vận động hộ dân mở rộng thêm diện tích trồng sen hơn 200ha, nhằm tạo sản lượng sen lớn, cung ứng đến doanh nghiệp bao tiêu…” - đồng chí Nguyễn Thanh Điền cho biết thêm.

THÚY LIỄU

 

Trồng chanh thu hoạch lá

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai

 

Hai anh Lê Kim Tiến và Nguyễn Văn Hiệp xã Bàu Cạn (H.Long Thành, tỉnh Đồng Nai) là người tiên phong đưa giống chanh Thái cho thu hoạch lá về vùng đất Đồng Nai. Chỉ sau hơn 2 năm triển khai thực hiện, sản phẩm của loại “cây gia vị” này hiện không chỉ tiêu thụ trong nước mà còn được xuất khẩu ra thế giới và hứa hẹn nhiều triển vọng phát triển.

 

 

Anh Tiến đang kiểm tra khu vườn trồng chanh Thái rộng 5 ha tại ấp 6, xã Bàu Cạn, H.Long Thành

Giống chanh mới hiệu quả kinh tế cao

Mới đây, chúng tôi đã đi tham quan mô hình trồng 1.000 cây chanh Thái trên khu đất rộng 5 ha (nằm trong trang trại rộng gần 30 ha do anh Tiến làm chủ) tại ấp 6, xã Bàu Cạn, H. Long Thành. Nhờ đầu tư bài bản, áp dụng hiệu quả khoa học kỹ thuật tiến bộ vào khâu trồng, chăm sóc nên cây chanh ngày càng phát triển, lá luôn xanh tốt. Hiện vườn chanh đang bắt đầu cho thu hoạch lá ổn định với trung bình khoảng 1 tấn lá/ quý.

Anh Tiến cho hay, trước đây, anh Tiến thường hay đi tham quan du lịch ở các tỉnh miền Tây và có đến một số nơi của vùng đất An Giang (tỉnh An Giang). Tại đây, anh quan sát thấy nhà người dân nào cũng có trồng khoảng từ 2-3 cây chanh Thái. Điều đặc biệt nữa là đa số các món ăn của bà con địa phương đều sử dụng đến lá chanh, trong đó có những món đặc sản như: gà hấp, cá hấp…, mùi hương thơm gia vị lá chanh hòa lẫn món ăn ngon đậm đà, khiến cho nhiều vị khách thập phương thưởng thức rồi cảm thấy lưu luyến, nhớ mãi. “Ý tưởng về mô hình trồng chanh Thái cho thu hoạch lá đã được tôi ấp ủ từ 5 - 6 năm trước, tuy nhiên mình đã không vội triển khai ngay mà muốn dành nhiều thời gian để tìm tòi nghiên cứu kỹ về giống cây mới này”- anh Tiến kể.

Đến đầu năm 2020, anh Tiến gặp lại bạn Nguyễn Văn Hiệp (Giám đốc Công ty TNHH gia vị Việt Hiệp tại Quận 12, TP.HCM) - là một “chuyên gia” có nhiều kinh nghiệm về các loài cây gia vị cũng như giống chanh Thái. Qua trò chuyện, trao đổi thấy hợp ý nhau, hai anh Tiến và Hiệp quyết định hợp tác và cùng triển khai trồng mô hình chanh Thái thu hoạch lá với quy mô lớn đầu tiên ở Đồng Nai.

Anh Hiệp cho hay, anh và anh Tiến đã chọn xã Bàu Cạn (H.Long Thành) để triển khai trồng mô hình chanh Thái vì qua tìm hiểu thấy đặc điểm vùng đất này rất nóng và thích hợp cho các loài cây gia vị, dược liệu, trong đó có chanh Thái. Điểm đặc biệt nữa ở đây là vùng đất thoát nước, giúp cho việc trồng cây gia vị, dược liệu không bị ngập úng, hư hỏng. “Chanh Thái là loài cây không khó tính và rất dễ trồng ở nhiều loại đất, việc đầu tư vào mô hình không cần nhiều công sức. Tuy nhiên, người trồng cần phải tỉ mỉ, thường xuyên quan tâm chăm sóc, đặc biệt là khâu bón phân, tưới nước phải đủ lượng và kịp thời, nhằm giúp cây sinh trưởng phát triển tốt” - anh Hiệp cho hay.

Mở rộng quy mô phát triển

Ngay từ đầu xác định chọn hướng đi bền vững với chiến lược lâu dài, hai anh Tiến và Hiệp đã áp dụng công nghệ hiện đại để làm theo quy trình “nông nghiệp sạch” cho mô hình trồng chanh Thái thu hoạch lá. Nhóm anh đã đầu tư hệ thống tưới tiêu tự động cho vườn cây; tự tạo ra phân bón và thuốc bảo vệ thực vật sinh học để tưới, bón cho cây trồng, chứ không dùng các chất hóa học độc hại. Mục tiêu của các anh là “sản phẩm sạch” làm ra không chỉ tiêu thụ ở trong nước mà còn xuất đi nước ngoài ở những thị trường khó tính của châu Âu, châu Á để họ sản xuất tinh dầu.

“Bên Farm của mình cam kết không sử dụng thuốc hóa học mà chỉ dùng phân bò ủ để bón cây trồng và dùng các loại vi sinh để làm thuốc diệt sâu bệnh, nấm cho cây... Nói chung mình làm mô hình hoàn toàn từ thiên nhiên 100% và sản phẩm làm ra sạch, an toàn” - anh Hiệp chia sẻ.

Nhờ trồng và chăm sóc đúng kỹ thuật, sau hơn 2 năm, vườn chanh của anh Tiến và anh Hiệp trở nên tươi tốt và chính thức cho thu hoạch lá. Anh Tiến chia sẻ, năm đầu tiên, vườn chanh còn nhỏ, người trồng chủ yếu dành thời gian chăm sóc, tỉa cành, tạo tán và tận dụng thu hoạch luôn phần lá đã cắt tỉa, nhưng sản lượng không đáng kể. Đến khi cây được 2 năm tuổi thì thu hoạch lá mới chính thức diễn ra; mỗi quý hái lá một lần với sản lượng khoảng 1 tấn và đến nay đã thu hoạch được 2 tấn lá. “Cây chanh càng lớn về sau thì sản lượng lá càng nhiều, hiệu quả kinh tế lúc đó sẽ cao hơn. Hiện giá lá chanh tươi thu mua tại vườn thường giữ mức ổn định từ 150 - 170 ngàn đồng/kg” - anh Tiến bộc bạch.

Anh Hiệp cho hay, ngoài bán lá chanh Thái tươi, công ty của anh còn sấy khô nguyên lá, thái sợi và xay thành bột để cung cấp ra thị trường. Lá chanh thái tươi chủ yếu cung cấp cho các nhà hàng, quán để sử dụng chế biến các món ăn. Còn lá sấy khô hoặc xay bột cung cấp cho các nhà máy chế biến thực phẩm, gia vị. Các anh đã áp dụng đúng quy trình sản xuất, đảm bảo chất lượng và bắt nhịp xu hướng thị trường, thêm sự hướng đến đa dạng sản phẩm nên khách hàng sử dụng lá chanh Thái ngày càng nhiều hơn. “Công ty chúng tôi không chỉ phân phối lá chanh thái tươi cho thị trường trong nước mà còn xuất khẩu đi những thị trường khó tính như: EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Canada. Hiện một số nước đã có những đơn đặt hàng của bên mình với số lượng khá lớn” - anh Hiệp tâm sự.

Do nhu cầu đặt hàng ngày càng nhiều từ phía các khách hàng xuất khẩu, nhà hàng và nhà máy sản xuất trong nước nên nhóm anh Việt, anh Tiến quyết định mở rộng thêm diện tích trồng chanh Thái. Ngoài trồng ở Đồng Nai, các anh còn triển khai phát triển vùng nguyên liệu ở nhiều tỉnh, thành khác, như: TP.HCM, Bình Dương, Bình Phước, Đắk Nông... nhằm đáp ứng tốt cho nhu cầu thị trường trong tương lai.

“Hướng đi của chúng tôi trong thời gian tới vẫn tiếp tục chú trọng đến chất lượng lá chanh và hướng đến sản phẩm đạt chứng nhận hữu cơ để mang đến niềm tin cho mọi khách hàng, đồng thời tiếp tục nghiên cứu sản xuất ra nhiều loại sản phẩm ứng dụng từ lá chanh cho đa dang, hấp dẫn người tiêu dùng. Đấy là mô hình hiệu quả và phát triển bền vững lâu dài” - anh Tiến bộc bạch.

An Nhân

 

Bảo vệ vùng nguyên liệu sắn trước nguy cơ dịch bệnh

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

 

Cây sắn là một trong 13 cây chủ lực của quốc gia, có kim ngạch xuất khẩu đạt 1,3 - 1,5 tỷ USD, đứng thứ ba trong sản lượng nông nghiệp xuất khẩu của Việt Nam (sau gạo và cà phê). Tuy nhiên, vùng nguyên liệu sắn đang đứng trước nguy cơ bị thu hẹp do các loại bệnh dịch, nhất là bệnh khảm lá sắn, làm ảnh hưởng lớn đến cung ứng nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất.

Nguy cơ thu hẹp vùng nguyên liệu

Diện tích cây sắn của cả nước ổn định từ 500.000 – 530.000 ha; sắn và các sản phẩn từ sắn đóng góp đáng kể trong giá trị các sản phẩm nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Tính riêng 10 tháng năm 2022, xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn đạt gần 2,6 triệu tấn, trị giá đạt hơn 1,1 tỷ USD, tăng 9,7% về lượng và hơn 20% giá trị so với cùng kỳ năm 2021.

Tuy nhiên, bệnh khảm lá sắn gây hại ngày càng tăng và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản lượng các vùng nguyên liệu là thực trạng đáng lo ngại đối với ngành sắn Việt Nam. Riêng trong năm 2022, tính đến nay, bệnh khảm lá xuất hiện ở 19 tỉnh, diện tích nhiễm bệnh trên 70.000 ha, tăng khoảng 2.000 ha so với cùng kỳ năm trước.

 

 

Cán bộ bảo vệ thực vật kiểm tra tình hình bệnh khảm lá sắn trên địa bàn huyện Ea Súp.

Đắk Lắk là tỉnh đứng thứ ba trong cả nước về diện tích sắn (sau Gia Lai và Tây Ninh), với 45.000 ha, sản lượng đạt trên 1 triệu tấn. Trên địa bàn tỉnh, bệnh khảm lá sắn đang phát sinh trên diện rộng, chưa được kiểm soát nên ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất và chất lượng sắn. Đến nay, Đắk Lắk có khoảng 2.500 ha sắn bị nhiễm bệnh ở các địa bàn trọng điểm trồng sắn nguyên liệu, như: Krông Bông, Ea Kar, M’Drắk, Ea Súp, Buôn Đôn.

Theo Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN-PTNT), bệnh khảm lá sắn được phát hiện gây hại vào tháng 5/2017 tại xã Tân Hà (huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh), sau đó lây lan nhanh sang các huyện khác trong tỉnh. Vi rút gây bệnh khảm lá sắn lan truyền qua môi giới truyền bệnh là bọ phấn trắng và qua hom giống nên có nguy cơ lây lan rất nhanh, gây hại nghiêm trọng các vùng trồng sắn ở Việt Nam. Thực tế, ba năm qua, tình hình dịch bệnh khảm lá sắn vẫn chưa được kiểm soát, khống chế hiệu quả. Diện tích bị khảm lá vẫn tăng, số tỉnh trồng sắn bị nhiễm bệnh khảm lá không giảm. Các nhà máy đối diện với nguy cơ tiếp tục thiếu nguyên liệu cho vụ sản xuất 2022 - 2023.

 

Bệnh khảm lá sắn nếu không được giải quyết căn cơ thì các nhà máy sắn của Việt Nam có nguy cơ thiếu nguyên liệu. Do đó, cần tạo ra các giống năng suất cao, kháng được bệnh để phục vụ cho công nghiệp chế biến là nhiệm vụ cấp thiết trong tình hình hiện nay".

Ông Nguyễn Quý Dương,Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN-PTNT)

Ông Nguyễn Quý Dương, Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật cho biết, bệnh lan truyền qua hai con đường chính là hom giống và môi giới truyền bệnh. Hiện việc kiểm soát khâu tiêu hủy nguồn bệnh và công tác kiểm dịch thực vật nội địa không hiệu quả. Việc phun thuốc phòng trừ bọ phấn trắng khó thực hiện do sắn được trồng chủ yếu ở vùng đồi núi, khô hạn, trong khi thời vụ trồng sắn kéo dài, xuống giống liên tục, nguồn bệnh thường xuyên xuất hiện.

Đặc biệt, một số địa phương có diện tích nhiễm bệnh lớn dẫn đến thiếu nguồn hom giống sạch bệnh. Ngay sau khi phát hiện bệnh, Bộ NN-PTNT đã ban hành nhiều văn bản, cử nhiều đoàn cán bộ cùng với các địa phương chỉ đạo quyết liệt công tác phòng, chống dịch bệnh. Hầu hết các địa phương nơi phát hiện có bệnh khảm lá vi rút đã tích cực thực hiện nghiêm túc các biện pháp phòng, chống bệnh. Tuy nhiên, bệnh vẫn tiếp tục bùng phát, lây lan.

Tăng cường giải pháp về giống

Ban Chỉ đạo phòng, chống bệnh khảm lá sắn cho rằng, trong phòng, chống bệnh khảm lá sắn, giống kháng bệnh là "chìa khóa" quan trọng nhất. Hiện Viện Di truyền nông nghiệp đã chọn tạo ra các giống mới kháng bệnh khảm lá sắn, như: HN1, HN36, HN80, HN97, HN3, HN5, nhưng để nhân nhanh các giống này cần phải có sự đồng hành, nỗ lực từ nhiều phía.

Theo Sở NN-PTNT Đắk Lắk, để ứng phó với bệnh khảm lá sắn, ngành nông nghiệp cũng đã tăng cường công tác phòng, chống bệnh thông qua các hoạt động thông tin truyên truyền, khuyến khích người dân sử dụng giống sạch bệnh... Đồng thời, triển khai thực hiện các mô hình, dự án trình diễn sản xuất giống sạch bệnh, thâm canh, quản lý tổng hợp phòng trừ bệnh… Ngành nông nghiệp cũng đã đề xuất các giải pháp phát triển sắn bền vững nhằm xác định những vùng sản xuất sắn ổn định, đặc biệt là các vùng có khả năng ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học vào sản xuất sắn trên địa bàn tỉnh. Bên canh đó, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất sắn, phát triển giống sắn có năng suất, chất lượng cao và khả năng chống chịu với sâu bệnh hại cùng điều kiện thời tiết bất thuận; phối hợp với các cơ quan nghiên cứu đánh giá, chọn lọc và nhân nhanh các giống kháng bệnh khảm lá để phục vụ nhu cầu sản xuất của người dân trên địa bàn tỉnh…

 

 

Bệnh khảm lá sắn đang có nguy cơ bùng phát trên diện rộng.

Theo ông Nguyễn Quý Dương, để đưa nhanh các giống sắn kháng bệnh khảm lá vào sản xuất, cần có sự phối hợp và tận dụng hết các nguồn lực sẵn có ở các viện, trung tâm nghiên cứu và địa phương. Đến nay Viện Di truyền nông nghiệp đã đưa ra 6 giống kháng khảm lá. Trong đó, giống HN3 và HN5 đã được công nhận ở vùng Đông Nam Bộ, 4 giống còn lại đang được đánh giá để được công nhận cho các vùng khác. Tuy nhiên, trong điều kiện giống kháng bệnh đang còn thiếu thì bà con nông dân nên chọn những giống theo khuyến cáo của địa phương. Sau nữa là lựa ra những cây khỏe, không bị bệnh khảm lá sắn (trong cùng một nương/rẫy sắn) để giữ lại làm giống cho vụ sau. Đây là giải pháp tốt nhất để thực hiện phòng, chống bệnh khảm lá sắn hiện nay.

Minh Thuận - Thùy Dung

 

Nuôi chồn nhàn hạ mà hiệu quả kinh tế cao

Nguồn tin: Lao Động

 

Mặc dù mô hình nuôi chồn mới được khởi đầu nhưng thành công của ông Lê Hồng Cường (52 tuổi, trú thôn Vĩnh Phong, xã Hộ Độ, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh) đã khẳng định mang lại hiệu quả kinh tế cao, được nhiều người học hỏi, nhân rộng.

Sau nhiều năm buôn cá, nuôi gà vất vả nhưng lời lãi chẳng được bao nhiêu nên ông Lê Hồng Cường (52 tuổi, trú thôn Vĩnh Phong, xã Hộ Độ, huyện Lộc Hà) quyết định táo bạo với nghề nuôi chồn.

Ông Cường kể, sống ở vùng xã bãi ngang gia đình ông nhiều năm theo nghề buôn cá rồi chăn nuôi lợn, gà nhưng kinh tế gia đình vẫn không mấy khá giả. Bao đêm trằn trọc suy nghĩ phải kiếm nghề gì đó nhẹ nhàng phù hợp với tuổi ngày càng cao mà lại có thu nhập ổn định hơn, ông Cường tự tìm hiểu rồi quyết định thử sức với nghề nuôi chồn thương phẩm.

Bởi ông cho rằng, đây là một nghề mới mẻ, nhu cầu thị trường cao nên đi tiên phong hẳn sẽ thành công.

Giữa năm 2021, sau khi tìm hiểu trên mạng về cách làm chuồng và hoàn thành các thủ tục, giấy phép theo quy định, ông Cường lặn lội vào miền Nam mua 4 cặp chồn giống.

Sau khi nuôi thử ít tháng, nhận thấy chồn dễ nuôi, ăn ít mà nguồn thức ăn dễ kiếm, chủ yếu là cá, chuối chín, đầu gà với bình quân mỗi ngày một con chồn ăn hết từ 3.000 - 4.000 đồng trong khí giá bán cao nên ông Cường đã quyết định đầu tư hơn 300 triệu đồng để xây chuồng quy mô hơn 100 ô và mua thêm chồn giống về nhiều hơn.

Những con chồn lớn đạt trọng lượng từ 6-8kg nhưng ông Cường không bán chồn thịt mà nuôi bán chồn giống. Ảnh: Trần Tuấn.

Từ 8 con chồn giống ban đầu, hiện nay ông Cường đã nhân đàn chồn lên hơn 100 con, trong đó có khoảng 30 con chồn mẹ đã sinh sản.

Theo ông Cường, chồn cái mỗi năm đẻ 2 lứa, mỗi lứa từ 3 - 4 con. Chồn con ông nuôi khoảng 3 tháng là có thể xuất bán chồn giống với giá từ 5 - 6 triệu đồng/con.

Chồn con là chồn cái, sau khoảng 10 tháng nuôi thì trưởng thành đến tuổi sinh sản.

 

 

Chuồng nuôi chồn được làm thép thành những ô kín liền nhau, mỗi ô thường nuôi 1 con. Ảnh: Trần Tuấn.

Sau hơn 1 năm nuôi chồn, dù nhu cầu thị trường về chồn thịt rất lớn với giá 2 triệu đồng/kg nhưng ông Cường không bán chồn thịt do có 5 hộ dân trong xã đặt hàng chồn giống của ông để học tập mô hình nuôi chồn từ ông.

“Giá chồn giống cao nên tôi ưu tiên bán con giống để mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Nhiều nhà hàng đặt hàng để mua chồn về làm thực phẩm bán cho khách nhưng tôi chưa có để cung cấp cho họ. Sau này khi nhu cầu chồn giống giảm tôi sẽ bán chồn thịt cho các nhà hàng” - ông Cường chia sẻ.

Theo ông Cường, dù bỏ vốn 300 triệu đồng nhưng đến nay lợi nhuận từ việc bán chồn đã giúp ông hoàn thành thu hồi vốn đầu tư. Trong khi trong chuồng ông còn sở hữu hơn 100 con chồn có giá trị hàng trăm triệu đồng.

Ông Hoàng Hải Đường - Phó chủ tịch UBND xã Hộ Độ cho rằng mô hình nuôi chồn của gia đình ông Cường dù mới khởi đầu nhưng đã khẳng định mang lại hiệu quả kinh tế cao.

“Từ hiệu quả của mô hình nuôi chồn này, chúng tôi rất ủng hộ bà con trong xã học tập để nhân rộng nhằm mang lại hiệu quả cao cho kinh tế gia đình, từ đó góp phần đưa kinh tế địa phương ngày càng phát triển”, ông Đường nói.

TRẦN TUẤN

 

Bình Dương: Ngành chăn nuôi bảo đảm nguồn cung cho thị trường tết

Nguồn tin: Báo Bình Dương

 

Nhờ diễn biến thời tiết tương đối thuận lợi, dịch bệnh trên đàn vật nuôi được kiểm soát, các cơ sở chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Bình Dương đang tập trung tái đàn vật nuôi để cung cấp cho thị trường trong dịp Tết Nguyên đán Quý Mão 2023.

 

 

Chăn nuôi theo hướng hiện đại, khép kín, an toàn sinh học giúp nâng cao giá trị sản phẩm một cách bền vững. Trong ảnh: Trại gà lạnh của trang trại Lưu Thị Mỹ Hằng (ấp Mương Đào, xã Long Nguyên, huyện Bàu Bàng)

Phát triển ổn định

Từ đầu năm đến nay, mặc dù vẫn còn ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, cũng như các loại dịch bệnh xảy ra trên đàn gia súc, gia cầm, nhưng ngành nông nghiệp Bình Dương vẫn giữ vững được đà tăng trưởng trong lĩnh vực chăn nuôi, bảo đảm nguồn cung thực phẩm an toàn cho thị trường. Theo đại diện trang trại gà lạnh Lưu Thị Mỹ Hằng (ấp Mương Đào, xã Long Nguyên, huyện Bàu Bàng), do dịch Covid-19 khiến việc tiêu thụ gà trong dịp Tết Nguyên đán năm 2021 và 2022 gặp khó khăn, giá thấp, trong khi giá thức ăn tăng cao, khiến không ít người chăn nuôi dè dặt trong việc tái đàn. Tuy nhiên, từ đầu năm nay, dịch bệnh được kiểm soát giúp việc tiêu thụ sản phẩm thuận lợi hơn. Vì vậy, các hộ chăn nuôi yên tâm tái đàn, có thể cung cấp hơn 140.000 con gà với chất lượng cao trong dịp Tết Nguyên đán 2023.

Ðiểm mới là năm nay nhiều hộ chăn nuôi chuyển hướng chăn nuôi an toàn sinh học phục vụ yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm. Theo đánh giá của Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh, mặc dù trong 2 năm qua ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19, nhưng ngành chăn nuôi của tỉnh vẫn phát triển ổn định. Tính đến thời điểm này, tổng đàn heo đạt 706.000 con, tăng hơn 26.000 con so với cùng kỳ; tổng đàn gia cầm đạt gần 13 triệu con, tăng 617.000 con so với cùng kỳ; tổng đàn trâu là gần 5.000 con; tổng đàn bò 25.000 con, tăng 1,71 % so với cùng kỳ. 100% các sản phẩm chăn nuôi từ các trang trại lớn, quy mô công nghiệp đều có hàm lượng công nghệ cao. Các trang trại chăn nuôi heo, gà, trâu bò đều có ứng dụng ít nhất một biện pháp kỹ thuật công nghệ cao hoặc sản phẩm của công nghệ cao trong quá trình sản xuất, sơ chế sản phẩm.

Không chỉ duy trì mức tăng trưởng, các mô hình chăn nuôi theo hướng hiện đại, khép kín, an toàn sinh học, chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm còn được mở rộng, giúp nông dân nâng cao giá trị sản phẩm một cách bền vững, chủ yếu tập trung ở 4 huyện phía bắc (Bàu Bàng, Phú Giáo, Dầu Tiếng và Bắc Tân Uyên). Chăn nuôi gà hiện có 149 trang trại, trong đó có các công ty đầu tư chăn nuôi gà giống, gà đẻ trứng và gà thịt, với tổng đàn 8,3 triệu con. Chăn nuôi vịt thịt hiện có 44 trại với số lượng 517.000 con. Chăn nuôi heo có 253 trang trại với tổng đàn gần 700.000 con. Ngoài ra, mô hình nông nghiệp đô thị cũng phát triển, chủ yếu là nuôi cá cảnh, ba ba, nhím, rắn, kỳ đà, gấu… với 2.870 hộ đầu tư với số lượng 16.000 con các loại.

Theo ông Trần Minh Đức, Trưởng trạm Chăn nuôi Thú y huyện Phú Giáo, trong những năm qua, huyện đã đẩy mạnh phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng an toàn sinh học, an toàn vệ sinh thực phẩm trong các trang trại tập trung, gắn với công tác xử lý chất thải, bảo đảm vệ sinh môi trường. Hiện tại, tình hình dịch bệnh không phát sinh, giá cả ổn định, tạo sự an tâm cho người dân chăn nuôi phát triển đàn. Nhờ vậy, đàn vật nuôi trên địa bàn luôn phát triển ổn định. Tổng đàn heo 260.000 con, tổng đàn gia cầm gần 3 triệu con, số lượng đàn trâu, bò vẫn được người dân duy trì để tạo thêm thu nhập.

Chủ động nguồn cung

Nhờ công tác chủ động phòng, chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm và dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm cơ bản được kiểm soát; đặc biệt nhờ đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, nhất là trong khâu sản xuất con giống, nên chất lượng sản phẩm chăn nuôi ngày càng nâng cao, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Đồng thời, theo nhận định của ngành chức năng, giá thịt heo hơi xuất chuồng có xu hướng tăng trong những tháng cuối năm 2022, góp phần giảm bớt áp lực chi phí đối với các cơ sở chăn nuôi, các hộ yên tâm tái đàn, chuẩn bị nguồn thực phẩm đáp ứng nhu cầu tăng cao dịp cuối năm.

Để duy trì ổn định sản xuất chăn nuôi trên địa bàn tỉnh, ngành nông nghiệp và các địa phương đã tăng cường công tác quản lý; thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Chăn nuôi và các văn bản có liên quan đến người chăn nuôi; đẩy mạnh công tác dự tính, dự báo về thị trường, xác định nhu cầu sản phẩm chăn nuôi trên thị trường để có cảnh báo, điều chỉnh kế hoạch sản xuất phù hợp với yêu cầu của thị trường. Ông Trần Phú Cường, Chi Cục trưởng Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh, cho biết dự kiến đến cuối năm 2022 đàn vật nuôi cơ bản đạt kế hoạch đề ra. Nguồn sản phẩm cơ bản bảo đảm nhu cầu tiêu dùng cho người dân trong tỉnh và xuất bán ra thị trường các tỉnh khác.

Cũng theo ông Cường, hiện nay ngành nông nghiệp đang hướng dẫn người chăn nuôi áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, thức ăn, thực hiện quy trình chăn nuôi an toàn sinh học, bảo đảm an toàn dịch bệnh nhằm hạn chế rủi ro. Đồng thời, ngành nông nghiệp khuyến cáo người chăn nuôi tham gia, mở rộng các chuỗi liên kết trong chăn nuôi nhằm ổn định giá cả và đầu ra cho sản phẩm. Cùng với đó, ngành nông nghiệp tăng cường phối hợp cùng các địa phương để theo dõi tình hình phát triển sản xuất chăn nuôi và dịch bệnh; thực hiện tăng đàn, tái đàn heo trên địa bàn tỉnh để bảo đảm nguồn cung.

Trong bối cảnh tình hình dịch bệnh còn diễn biến phức tạp, Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh đang tích cực phối hợp với các địa phương tổ chức tiêm phòng vắc xin định kỳ cho đàn gia súc, gia cầm; đồng thời phối hợp tổ chức các đợt vệ sinh, khử trùng tiêu độc phòng, chống dịch bệnh.

Ngành nông nghiệp tỉnh chú trọng chuyển dịch cơ cấu đàn vật nuôi theo hướng tăng tỷ trọng trang trại chăn nuôi quy mô lớn cũng như khuyến khích phát triển chăn nuôi theo quy mô công nghiệp, chăn nuôi khép kín, chăn nuôi hữu cơ và ứng dụng công nghệ cao. Tập trung liên kết giữa các khâu trong chuỗi giá trị từ sản xuất giống, thức ăn, đến chế biến để nâng cao năng suất, giảm chi phí sản xuất, tăng hiệu quả và tăng khả năng cạnh tranh với sản phẩm nhập ngoại.

THOẠI PHƯƠNG

 

Nông dân lỗ nặng vì sản phẩm chăn nuôi rớt giá

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai

 

Thời gian gần đây, giá các sản phẩm chăn nuôi bất ngờ giảm sâu, trong đó có nhiều sản phẩm thấp hơn rất nhiều so với giá thành sản xuất khiến người chăn nuôi thua lỗ nặng.

 

 

Trại nuôi vịt tại xã Tân An, H.Vĩnh Cửu

Hơn 2 năm trở lại đây, giá thức ăn chăn nuôi liên tục tăng giá đẩy giá thành chăn nuôi tăng cao. Tuy giá các sản phẩm chăn nuôi đồng loạt giảm nhưng dự báo giá thức ăn chăn nuôi sẽ tiếp tục có đợt tăng mới càng khiến ngành chăn nuôi lao đao.

Giá bán dưới giá thành sản xuất

Từ đầu tháng 11 đến nay, các loại thịt gia cầm bất ngờ rớt giá giảm sâu về mức thấp hơn nhiều so với giá thành sản xuất. Khảo sát tại các trại nuôi gia cầm tư nhân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, giá vịt thịt bán tại trại chỉ còn 34-36 ngàn đồng/kg, tiếp tục giảm hơn 4 ngàn đồng/kg so với tuần trước. Mức giá này thấp hơn 5 ngàn đồng/kg so với giá thành sản xuất. Giá gà lông màu bán tại các trại chăn nuôi tư nhân có giá khoảng 34 ngàn đồng/kg; thấp hơn 8 ngàn đồng/kg với giá thành sản xuất bình quân của các cơ sở nuôi tư nhân.

Vài tuần trở lại đây, giá heo hơi cũng liên tục trồi sụt và hiện đang theo chiều hướng ngày càng hạ nhiệt. Cụ thể, giá heo hơi của các công ty chăn nuôi đang từ mức 58-60 ngàn đồng/kg xuống còn 54-57 ngàn đồng/kg. Giá heo tại các trại chăn nuôi tư nhân, hộ chăn nuôi nhỏ lẻ chỉ còn từ 52 - 54 ngàn đồng/kg. Với mức giá này, chăn nuôi tư nhân, nhất là các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ đang phải gánh lỗ.

Bà Nguyễn Thị Hoa, hộ chăn nuôi gà, vịt tại xã Vĩnh Tân, H.Vĩnh Cửu cho biết, bà vừa xuất lứa gà ta thả vườn với giá gần 50 ngàn đồng/kg, tuy mức giá này không giảm sâu như giá gà lông màu và vịt thịt nhưng gia đình bà cũng hầu như không có lợi nhuận. Nguyên nhân do giá thức ăn chăn nuôi đứng ở mức quá cao và dự báo sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới. “Gia đình tôi chỉ dám nuôi vài trăm con gà cung cấp ra thị trường Tết, nhiều hộ chăn nuôi trong vùng đã treo chuồng vì càng nuôi càng lỗ”- bà Hoa nói.

Cùng nỗi lo, ông Nguyễn Xuân Trường, chủ trại gà tại xã Hưng Lộc, H.Thống Nhất nhận xét, gà thịt, vịt thịt giảm sâu dưới giá thành sản xuất kéo theo giá trứng đến giá gà giống, vịt giống cũng giảm từ 30-35% so với vài tuần trước đó. Người chăn nuôi đang rất căng thẳng vì gánh lỗ. Người chăn nuôi chỉ mong các cơ quan chức năng có giải pháp quản lý giá thức ăn chăn nuôi để người chăn nuôi bớt khó khăn trong đầu tư sản xuất.

Lo thị trường cuối năm vẫn khó

Theo các trại chăn nuôi trên địa bàn tỉnh, các đại lý, doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi đã thông báo giá thức ăn chăn nuôi sắp có đợt tăng mới do ảnh hưởng từ giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trên thế giới sẽ tiếp tục tăng.

Trong khi đó, sức tiêu thụ của thị trường với các sản phẩm chăn nuôi hiện nay rất chậm. Vào thời điểm này mọi năm, thị trường tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi bắt đầu tăng nhiệt khi nhiều doanh nghiệp, cơ sở chế biến vào mùa mua nguồn thịt dự trữ đưa vào chế biến cung cấp cho nhu cầu thị trường cuối năm tăng cao. Nhưng năm nay, đa số các cơ sở, doanh nghiệp chế biến vẫn chưa vào mùa sản xuất.

Bà Nguyễn Thị Kim Chi, chủ Cơ sở Giết mổ gia súc, gia cầm Cẩm Tú tại xã Hố Nai 3 (H.Trảng Bom) so sánh, mọi năm, thời điểm này, nhu cầu tiêu thụ các loại thịt của thị trường bắt đầu tăng lên do vào mùa chế biến. Nhưng hiện nay, nhiều doanh nghiệp, cơ sở chế biến sản phẩm từ thịt vẫn im ắng. Sức tiêu thụ ở cả các chợ truyền thống đến các bếp ăn công nghiệp, bếp ăn tập thể đều giảm mạnh vì nhiều doanh nghiệp sản xuất hiện nay cũng đang sản xuất cầm chừng. Ảnh hưởng khó khăn chung của nền kinh tế, người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu hơn nên sản phẩm thịt đông lạnh nhập khẩu với giá rẻ đang có lợi thế cạnh tranh. Cuối năm, đầu ra cho sản phẩm chăn nuôi khó đạt như kỳ vọng vì tình hình kinh tế vẫn tiếp tục khó khăn, nhiều doanh nghiệp sản xuất đang có kế hoạch cho công nhân nghỉ tết sớm hơn cả tháng so với mọi năm.

Trái chiều với nhiều sản phẩm chăn nuôi heo, gia cầm đang rớt giá, mặt hàng gà công nghiệp liên tục đứng ở mức cao. Hiện giá gà công nghiệp bán tại trại từ 35-36 ngàn đồng/kg, tăng hơn 1 ngàn đồng/kg so với tuần trước. Với mức giá này, người chăn nuôi có lợi nhuận tốt. Hiện đa số các trại gà công nghiệp đều tham gia vào chuỗi liên kết từ chăn nuôi đến tiêu thụ. Trong đó, có một số công ty đang xuất khẩu tốt sản phẩm gà công nghiệp đi các thị trường khó tính.

Phan Anh

 

Phát triển chăn nuôi theo hướng ‘làm ăn lớn’

Nguồn tin: Báo Lào Cai

 

Những năm gần đây, số mô hình chăn nuôi nông hộ quy mô nhỏ lẻ trên địa bàn tỉnh có xu hướng giảm, thay vào đó là sự phát triển nhanh của trang trại chăn nuôi quy mô vừa và lớn. Đây là xu hướng tích cực, góp phần phát triển ngành chăn nuôi theo hướng bền vững.

Năm 2014, bà Phạm Thị Duy, xã Xuân Quang (Bảo Thắng) bắt đầu xây dựng chuồng trại để nuôi gà quy mô khoảng 1.000 con/lứa. Sau một thời gian, nhận thấy những hạn chế của việc chăn nuôi nhỏ lẻ, năm 2019, bà mạnh dạn mở rộng quy mô chăn nuôi lên gần 5.000 con gà/lứa.

Bà Duy chia sẻ: Khi chuyển sang chăn nuôi theo quy mô trang trại, gia đình có thể nhập con giống, thức ăn, thuốc thú y trực tiếp từ các công ty với giá rẻ hơn so với mua tại cửa hàng, đại lý nhỏ lẻ. Hằng năm, tôi được tham gia nhiều lớp tập huấn, hướng dẫn về quy trình chăn nuôi an toàn sinh học. Nhờ đó, tôi có thêm kiến thức phòng, chống dịch bệnh trên đàn vật nuôi và tự tin tăng tổng đàn, nâng cao thu nhập (trung bình mỗi năm, gia đình xuất bán 3 lứa gà, lợi nhuận gần 100 triệu đồng/lứa).

 

 

Bà Duy chăm sóc đàn gia cầm.

Tại thị trấn Nông trường Phong Hải, trang trại nuôi thủy sản của ông Bàn Trọng Nghĩa là một trong những cơ sở có quy mô lớn của địa phương. Trước đây ông Nghĩa chỉ nuôi quy mô nhỏ, chủ yếu phục vụ gia đình, còn dư bán tại chợ gần nhà. Năm 2013, ông quyết định chuyển từ nuôi quảng canh sang thâm canh. Ông đã đầu tư 150 triệu đồng xây bờ ao, lắp đặt hệ thống ống dẫn nước vào - ra, mua 6 máy sục khí, 3 máy bắn cám tự động hẹn giờ cho cá ăn. Với 3 ao nuôi (diện tích mặt nước 6.000 m2), ông nuôi 3 loại cá (trắm, chép, rô phi đơn tính), trung bình thu 8 tấn cá/năm.

Ông Nghĩa cho biết: Khi chuyển sang nuôi cá thâm canh, tôi chủ động ứng dụng công nghệ sinh học xử lý môi trường ao nuôi giúp giảm và kiểm soát được dịch bệnh nên hiệu quả kinh tế tăng 2 - 3 lần so với nuôi thông thường. Hiện nay, sản phẩm cá của gia đình cung ứng cho thị trường trong và ngoài tỉnh qua các thương lái chứ không phải mang cá đi bán như trước.

Không chỉ hộ bà Duy, ông Nghĩa, những năm gần đây, thông qua công tác tuyên truyền, tập huấn kỹ thuật và kiến thức đầu tư phát triển kinh tế, tư duy sản xuất của các hộ chăn nuôi trên địa bàn tỉnh dần thay đổi. Năm 2021 và 9 tháng năm 2022, ngành nông nghiệp đã tổ chức và phối hợp tổ chức hơn 100 hội nghị, lớp tập huấn về các nội dung: Kỹ thuật chăn nuôi an toàn sinh học, phát triển chăn nuôi bền vững gắn với bảo vệ môi trường, sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý chất thải chăn nuôi, tuyên truyền về quy định của pháp luật liên quan đến lĩnh vực chăn nuôi…

 

 

Ông Bàn Trọng Nghĩa đầu tư phát triển thủy sản quy mô trang trại cho hiệu quả kinh tế cao.

Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp phối hợp với các địa phương hỗ trợ, hướng dẫn các hộ làm hồ sơ cấp chứng nhận trang trại chăn nuôi; thực hiện các mô hình chăn nuôi an toàn sinh học. Hiện toàn tỉnh có 379 trang trại chăn nuôi (tăng 36 trang trại so với cuối năm 2021); có 132 trang trại chăn nuôi đạt tiêu chí kinh tế trang trại có giá trị sản xuất đạt từ trên 2 tỷ đồng/năm trở lên (tăng 9 trang trại so với năm 2021), trong đó 10 cơ sở chăn nuôi công nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

Ông Phạm Bá Uyên, Chi cục trưởng chi cục Chăn nuôi và Thú y cho biết: Trước đây, tình trạng các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ xả nước thải ra đường, vứt xác động vật bừa bãi thường xuyên xảy ra tại địa phương. Hiện nay, hầu hết trang trại chăn nuôi trên địa bàn đã đầu tư hệ thống xử lý chất thải, nước thải tiên tiến, tình trạng ô nhiễm môi trường do chăn nuôi giảm khoảng 60%.

Việc chuyển dịch theo xu hướng từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang quy mô trang trại đã đáp ứng đúng định hướng phát triển ngành chăn nuôi của tỉnh, góp phần nâng cao thu nhập cho các hộ chăn nuôi, thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương. Tính đến hết tháng 9/2022, tổng đàn gia súc toàn tỉnh đạt 598.000 con, đàn gia cầm hơn 5 triệu con, sản lượng thịt hơi xuất chuồng 53.600 tấn, sản lượng thủy sản đạt 8.600 tấn. Sản phẩm chăn nuôi đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của tỉnh và có một phần xuất bán ra ngoài tỉnh.

Kim Thoa

 

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop