Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 27 tháng 06 năm 2022

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 27 tháng 06 năm 2022

 

Thu nhập khá từ nhãn hương chi

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Với 2 ha đất nông nghiệp, trước đây gia đình anh Văn Đức Thanh ở thôn Tân Tiến, xã Hòa An (huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk) chủ yếu trồng cà phê song hiệu quả kinh tế không cao.

Cách đây 4 năm, được sự định hướng của chính quyền địa phương và qua tham khảo tìm hiểu, anh Thanh nhận thấy cây nhãn hương chi phù hợp với chất đất và điều kiện khí hậu ở địa phương nên anh bàn với gia đình chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Anh tìm đến một vài mô hình trồng nhãn hương chi cho hiệu quả cao ở huyện Ea Kar để học hỏi kinh nghiệm và mua giống về trồng.

Nhờ cần cù chịu khó, vườn nhãn hương chi sinh trưởng và phát triển tốt. Những ngày đầu, cây nhãn chỉ ra quả theo đúng thời vụ tự nhiên, quả ít, chất lượng chưa cao. Anh Thanh đã tìm hiểu nghiên cứu về đặc tính cây trồng để xử lý cây cho quả trái vụ, chất lượng quả ngọt thanh, được khách hàng rất ưa chuộng. Tại những phần đất trống trong vườn nhãn, anh Thanh còn trồng xen kẽ 100 cây điều, 200 cây chuối tiêu hồng, 300 cây chuối mốc, 8.000 cây dứa mật.

 

 

Anh Văn Đức Thanh kiểm tra nhãn trước khi thu hoạch.

Anh Thanh cho biết, nhãn hương chi là loại cây chịu hạn tốt, sinh trưởng nhanh, dễ chăm sóc và công đầu tư ít so với một số giống như nhãn cùi, nhãn tiêu da bò. Trước khi trồng nên làm sạch cỏ dại và đào hố xung quanh với kích thước khoảng 50 x 50 x 50 cm, cây cách cây 3 m. Trước khi trồng cần bón lót cho đất một lượng phân chuồng hoai mục và Super lân cùng với vôi bột. Sau 3 năm cây bắt đầu cho thu hoạch thì tiến hành cắt tỉa chỉ để lại trung bình mỗi cây từ 25 - 30 cành, mỗi cành chỉ lấy từ 1 - 2 kg quả. Khi bón phân, cần kết hợp sử dụng thêm kali trắng và những loại phân có chứa vi sinh vật có lợi nhằm cung cấp đủ lượng chất dinh dưỡng cần thiết để cây sinh trưởng phát triển tốt.

Nhờ học hỏi và áp dụng đúng kỹ thuật nên vườn nhà anh Thanh mùa nào thức ấy, có thu nhập thường xuyên từ việc bán các loại nông sản. Niên vụ này, gia đình anh thu hoạch được hơn 1,5 tấn nhãn, bán với giá từ 30.000 - 35.000 đồng/kg. Ngoài ra, anh còn chiết cành nhãn giống bán cho bà con trong thôn và các xã lân cận với giá bán 25.000 đồng/cây. Tổng doanh thu từ nhãn và các loại cây trái trong vườn, sau khi trừ chi phí gia đình anh lãi 180 triệu đồng/năm.

Đoàn Dũng

 

Khuyến cáo nhà vườn không trồng dừa lấy nước ồ ạt

Nguồn tin: VOV

Gần đây, do giá cả, đầu ra một số trái cây gặp bấp bênh; phân bón, thuốc bảo vệ thực vật tăng cao nên nhiều nhà vườn tỉnh Tiền Giang ổ ạt chuyển qua trồng cây dừa Xiêm (dừa tươi lấy nước).

Ngành nông nghiệp địa phương khuyến cáo nhà vườn không ồ ạt nhân rộng diện tích cây dừa tươi lấy nước vì “cung sẽ vượt cầu”.

Theo Chi Cục trồng trọt - Bảo vệ thực vật tỉnh Tiền Giang, toàn tỉnh hiện có trên 20.000 ha cây dừa; trong đó các loại dừa lấy nước như: Xiêm xanh, dừa Mã Lai chiếm 60%.

Gần đây, nhiều nhà vườn ở thành phố Mỹ Tho, huyện Chợ Gạo, Gò Công Tây, Châu Thành còn phá bỏ các vườn cây khác để trồng cây dừa lấy nước hoặc trồng xen canh. Theo nhà vườn, dừa lấy nước trồng chi phí thấp, sau 3 năm cho thu hoạch, năng suất cao, giá cả ổn định và tăng cao vào mùa khô. Đặc biệt cây dừa ít bị thiệt hại khi hạn mặn.

 

 

Dừa lấy nước cho năng suất rất cao và mau thu hoạch.

Tuy nhiên, theo ngành nông nghiệp cây dừa lấy nước tuổi thọ không cao và năng suất giảm sau 10 năm cho trái. Hơn nữa, đa số dừa lấy nước chỉ tiêu thụ nội địa, nhất lá dừa Mã Lai hay bị sâu bệnh tấn công, chất lượng nước không cao. Do đó, ngành nông nghiệp khuyến cáo nhà vườn không nên ồ ạt phá bỏ vườn cây khác để trồng dừa vì nguy cơ rớt giá khi “cung vượt cầu”.

Ông Võ Văn Men, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Tiền Giang cho biết: “Bây giờ dân trồng dừa lấy nước nhiều quá nên có tuyên truyền, vận động hạn chế trồng thêm sợ “cung sẽ vượt cầu”. Chúng tôi đã khuyến cáo tại các chương trình hội thảo, ở địa phương cũng có tuyên truyền không chuyển qua trồng dừa nữa, nhưng người dân thích cây nào, thấy cây nào có lợi sẽ trồng”./.

Nhật Trường/VOV-ĐBSCL

 

Bình Phước: Thu nhập cao từ trồng sầu riêng

Nguồn tin: Báo Bình Phước

Được gọi với mỹ danh “nữ hoàng trái cây” vùng nhiệt đới và là loại cây ăn trái cho thu nhập cao, mỗi hécta sầu riêng có thể thu về hơn nửa tỷ đồng/năm. So với các loại cây công nghiệp truyền thống dài ngày như cao su, điều, cà phê… thì hiệu quả kinh tế mà cây sầu riêng mang lại rất cao. Vì vậy, những năm qua, khi giá sản phẩm của các loại cây công nghiệp chủ lực xuống thấp, nhiều nông dân trong tỉnh đã mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang loại cây này.

Bắt đầu trồng mới từ năm 2016, đến nay vườn sầu riêng rộng 1,7 ha của gia đình anh Võ Lê Minh Đức ở thôn 6, xã Đoàn Kết, huyện Bù Đăng (Bình Phước) đã cho thu hoạch. Anh Đức chia sẻ: Sầu riêng trồng năm thứ 6 bắt đầu cho trái bói, nhưng để cây phát triển khỏe mạnh, gia đình đã cắt bỏ toàn bộ trái để dưỡng cây. Tùy theo độ tuổi của từng cây mà để từ 30-50 trái/cây. Đây là năm đầu tiên thu hoạch vụ chính nên gia đình chỉ giữ số lượng trái rất ít để đảm bảo chất lượng tốt nhất.

 

 

Anh Võ Lê Minh Đức cho biết, sầu riêng chăm sóc theo hình thức hữu cơ sẽ cho chất lượng tốt, năng suất cao

Để tiết kiệm công lao động, ngay từ đầu, gia đình anh Đức đã đầu tư hệ thống tưới tự động, chăm sóc theo hướng hữu cơ, dưỡng cỏ giữ ẩm cho cây và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hợp lý nhằm đạt năng suất cao nhất. Theo anh Đức, trồng sầu riêng cần nhiều vốn đầu tư, công chăm sóc nhưng bù lại thu nhập rất cao. Nếu canh tác đúng quy trình kỹ thuật, mỗi cây có thể thu lợi nhuận hàng chục triệu đồng/năm khi vào giai đoạn kinh doanh. Cây sầu riêng càng to, tán càng rộng, năng suất càng cao, bình quân mỗi hécta sầu riêng từ năm thứ 6 trở lên cho thu hoạch khoảng 12-15 tấn trái/vụ, mang lại thu nhập từ 600-750 triệu đồng.

Sầu riêng thu hoạch chính vụ từ tháng 5-7, tùy từng khu vực sẽ có thời gian thu hoạch khác nhau. Tại Bình Phước, vùng trồng sầu riêng ở 2 thị xã Phước Long, Bình Long và huyện Lộc Ninh sẽ thu hoạch sớm hơn so với sầu riêng trồng ở huyện Bù Đăng. Những ngày này, hàng ngàn hộ nông dân trồng sầu riêng trong tỉnh đang bước vào vụ thu hoạch chính. Mặc dù giá có giảm so với thời điểm đầu mùa nhưng hiệu quả kinh tế vẫn cao so với nhiều loại cây trồng khác.

Đồng hành với thanh niên trong khởi nghiệp, lập nghiệp, những năm qua, tổ chức đoàn - hội các cấp trong tỉnh luôn chủ động, sáng tạo và linh hoạt hỗ trợ đoàn viên, hội viên, thanh niên tham gia các lớp chuyển giao khoa học - kỹ thuật, ứng dụng công nghệ cao… cũng như hỗ trợ xây dựng các đề án tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi để phát triển kinh tế gia đình. “Hiện thanh niên xã Đoàn Kết đang nhân rộng các mô hình, như: Trồng lá nhíp dưới tán điều, trồng sầu riêng... Những mô hình này tuy không mới nhưng với sự năng động, nhạy bén của tuổi trẻ trong kỷ nguyên công nghệ số, thanh niên đã tự tìm hiểu kiến thức, áp dụng khoa học - kỹ thuật xây dựng mô hình để phát triển kinh tế” - Bí thư Đoàn xã Đoàn Kết Nguyễn Thị Thu Thủy cho biết.

Ngọc Quế

 

Mở rộng tái canh cà phê ở nhiều địa phương

Nguồn tin: Báo Chính Phủ

Thời gian tới, Bộ NN&PTNT tiếp tục bổ sung, hoàn thiện Quy trình tái canh, đặc biệt là quy trình tái canh cho cà phê chè phù hợp với các địa phương như Sơn La, Điện Biên, Quảng Trị.

 

 

Diện tích tái canh và ghép cải tạo cà phê vùng Tây Nguyên từ năm 2014-2021 đạt trên 107,5% kế hoạch

Ngày 24/6 Bộ NN&PTNT tổ chức Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện Đề án tái canh cà phê giai đoạn 2014 - 2020 và triển khai Đề án giai đoạn 2021 – 2025.

Tại Hội nghị, ông Lê Văn Đức, Phó Cục trưởng Cục trồng trọt (Bộ NN&PTNT) cho biết chương trình tái canh cà phê đã đem lại một số hiệu quả như: trẻ hóa vườn cây cà phê già cỗi, sâu bệnh, năng suất thấp không còn khả năng phục hồi. Năng suất của các vườn tái canh đạt trung bình 2,8 tấn/ha, vượt 0,1 tấn/ha so với mục tiêu.

Diện tích tái canh và ghép cải tạo cà phê vùng Tây Nguyên từ năm 2014-2021 được 129.008,4 ha (đạt trên 107,5% kế hoạch). Tính lũy kế diện tích tái canh và ghép cải tạo cà phê từ năm 2011-2021 được 166.579,2 ha. Hầu hết diện tích cà phê tái canh được trồng bằng giống mới, cây sinh trưởng, phát triển tốt và cho năng suất cao, chất lượng tốt và mang lại hiệu quả kinh tế rất rõ rệt, góp phần vào chương trình phát triển cà phê bền vững.

Đặc biệt, theo ông Đức, hiệu quả thu được lớn nhất chính là sự thay đổi ý thức sản xuất của nhiều hộ nông dân, quy trình tái canh cà phê vối được thực hiện tốt hơn khi phân loại vườn cà phê trước khi trồng tái canh. Sau đó mới ghép cải tạo dựa vào độ tuổi của vườn, mức nhiễm bệnh vàng lá chết cây theo tỷ lệ bệnh, cấp bệnh và năng suất của vườn cà phê để lựa chọn các biện pháp kỹ thuật tái canh phù hợp, rút ngắn thời gian luân canh…

Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Quốc Doanh cho biết, đề án tái canh đã đem lại hiệu quả rõ rệt cho ngành cà phê Việt Nam, cụ thể là việc tái canh đã không làm giảm năng suất và sản lượng cà phê Việt Nam mà còn tăng năng suất và sản lượng. Năng suất cà phê Việt Nam năm 2011 là 23,5 tạ/ha đã tăng lên 28,2 tạ/ha năm 2021 và sản lượng tăng từ 1,27 triệu tấn lên 1,81 triệu tấn.

Tái canh cà phê đã đạt vượt kế hoạch, tính lũy kế đến năm 2020 diện tích tái canh cà phê và ghép cải tạo đạt gần 150 nghìn ha, vượt 30 nghìn ha so với kế hoạch.

Đại diện địa phương thực hiện tái canh cây cà phê giai đoạn qua, ông Đỗ Xuân Dũng, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Đắk Lắk cho biết, cà phê không những có ý nghĩa về kinh tế mà là văn hóa của địa phương. Do vậy, địa phương đã thực hiện ứng dụng khoa học công nghệ, tưới tiết kiệm, sử dụng các giống cà phê do Viện WASI nghiên cứu để thực hiện tái canh cà phê. Ông Dũng thông tin thêm: "Đắk Lắk tái canh chủ yếu sử dụng giống mới. Việc này giúp tăng năng suất, trẻ hóa vườn cà phê già cỗi. Thời gian qua, địa phương đã có nhiều chính sách hỗ trợ cây giống và vay vốn để tái canh".

Trong giai đoạn 2021-2025, Bộ NN&PTNT đặt mục tiêu trồng tái canh và ghép cải tạo khoảng 107 nghìn ha cà phê; trong đó, trồng tái canh 75 nghìn ha, ghép cải tạo 32 nghìn ha. Năng suất vườn cà phê sau khi trồng tái canh và ghép cải tạo ở thời kỳ kinh doanh ổn định đạt bình quân 3,5 tấn nhân/ha. Thu nhập/ha cà phê sau khi trồng tái canh và ghép cải tạo tăng 1,5 - 2 lần so với trước khi tái canh.

Thứ trưởng Lê Quốc Doanh cho biết, qua việc tổng kết chương trình tái canh 2014-2020 đã mang lại nhiều hiệu quả rõ rệt. Do đó, để tiếp tục mở rộng chương trình này, các cơ quan ở Trung ương và địa phương đã có những kế hoạch tiếp theo cho trương tình tái canh đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.

Cũng chính vì vậy, Bộ NN&PTNT tiếp tục phê duyệt đề án tái canh cà phê giai đoạn 2021-2025. Đề án tái canh cà phê giai đoạn 2021-2025 không chỉ thực hiện ở 5 tỉnh Tây Nguyên mà còn được mở rộng ở các tỉnh cà phê khác như Sơn La, Điện Biên, Quảng Trị, Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu.

Để tái canh giai đoạn 2021-2025 hiệu quả, các địa phương cần tiếp tục rà soát, phân loại, xác định diện tích cà phê già cỗi của từng hộ để xây dựng kế hoạch tái canh, ghép cải tạo cho từng năm sát với thực tế của địa phương.

Thứ trưởng Lê Quốc Doanh cũng cho biết hiện các cơ quan chuyên môn thuộc Bộ đang tiếp tục bổ sung hoàn thiện Quy trình tái canh, đặc biệt là quy trình tái canh cho cà phê chè phù hợp với các địa phương như Sơn La, Điện Biên, Quảng Trị. Các đơn vị nghiên cứu thuộc Bộ NN&PTNT cũng tiếp tục nghiên cứu, khảo nghiệm để đưa vào sản xuất các giống cà phê mới phục vụ nhu cầu tái canh của các tỉnh, chú ý đến bộ giống cà phê chè phù hợp cho cả vùng miền Trung và vùng Tây Bắc.

Đỗ Hương

 

Biến đổi khí hậu làm gia tăng sâu bệnh hại

Nguồn tin: Báo Đắk Nông

Biến đổi khí hậu (BĐKH) không chỉ gây ra những hiện tượng thời tiết cực đoan mà còn phát sinh nhiều loại sâu bệnh hại trên cây trồng. Đây là những thách thức lớn đối với sự phát triển của ngành nông nghiệp và cần có giải pháp phòng, ngừa hiệu quả.

Theo nghiên cứu và dự báo của Ủy ban liên chính phủ về BĐKH của Liên Hợp Quốc (IPPC) và Ngân hàng thế giới (WB), ở Việt Nam, ngoài tình trạng nước biển dâng, BĐKH cũng làm thay đổi điều kiện sinh sống của các loài sinh vật.

Môi trường sống thay đổi đang là nguy cơ làm gia tăng các loại sâu hại, với khả năng thích nghi cao, mức độ gây hại nặng hơn cho cây trồng. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy, tại nhiều địa phương trong nước đã xuất hiện thêm nhiều loại dịch hại mới, gây thiệt hại nặng cho sản xuất nông nghiệp.

Trong đó, phải kể đến dịch vàng lùn, lùn xoắn lá, bệnh lùn sọc đen, dịch rầy nâu, sâu ăn lá cà phê… Gần đây là sâu keo mùa thu gây hại cây ngô, bệnh khám lá sắn cũng xuất hiện tại nhiều địa phương.

Trong giai đoạn cuối vụ đông xuân năm 2022, nông dân trong tỉnh Đắk Nông đối diện với nhiều loại hình thời tiết bất thường như: mưa trái mùa, thời tiết lạnh, nắng nóng gia tăng…

 

 

Sâu keo mùa thu đang gây ảnh hưởng đến năng suất ngô của người dân xã Ea Pô (Cư Jút)

Ông Vi Văn Kim, ở thôn Thanh Sơn, xã Ea Pô (Cư Jút) cho biết, tần suất sâu bọ xuất hiện, gây hại gần như suốt vòng đời của cây trồng vụ đông xuân. Trong đó, nhiều nhất là các loại sâu ăn lá, rễ, hoa, quả.

Theo Chi cục Phát triển nông nghiệp tỉnh, trong môi trường sản xuất luôn tồn tại đa dạng những loài sâu bọ, dịch hại. Tuy nhiên, những năm gần đây, các loại sâu hại trên cây trồng như: rệp sáp, rệp muội, rệp vẫy nâu, sâu đục cành, sâu ăn lá... xuất hiện nhiều hơn, với nhiều biến chủng dị thường.

Mức độ gây hại của các loại sinh vật này cũng nghiêm trọng, đặc biệt là chúng có khả năng kháng lại một số loại thuốc bảo vệ thực vật thông thường.

Ông Nguyễn Văn Vương, ở xã Thuận An (Đắk Mil) cho hay, ông trồng cà phê hơn 20 năm, nhưng gần đây mới bắt gặp loại sâu ăn lá cà phê. Tuy xuất hiện không nhiều, nhưng khó diệt, vì sâu non cuốn trong lá.

Gia đình ông Vương có 1,5 ha cà phê. Năm nay, ông thực hiện tái canh một phần bằng biện pháp ghép chồi. Nhưng khi chồi non vừa đến thời kỳ ghép thì xuất hiện sâu ăn lá.

Qua tìm hiểu, những tháng vừa qua, sâu ăn lá cà phê cũng xuất hiện tại một số tỉnh ở khu vực Tây Nguyên như: Lâm Đồng, Đắk Lắk… Loài sâu này gây hại bằng cách cắn phá đọt non, sau đó ăn dần đến lá bánh tẻ và lá già.

 

 

Các loại cây họ đậu cũng bị ảnh hưởng nặng do sâu bệnh gây ra

Những cây có mật độ sâu cao có thể bị ăn trụi lá, khiến cây mất dần sức, sinh trưởng phát triển kém. Sâu ăn lá cà phê vào lúc chiều tối hoặc sáng sớm. Còn ban ngày chúng thường ẩn nấp, nên rất khó phát hiện.

Cũng theo Chi cục Phát triển nông nghiệp tỉnh, hiện chưa có thuốc bảo vệ thực vật đặc hiệu cho loài sâu này. Do đó, bà con có thể sử dụng biện pháp thủ công bằng cách diệt sâu non, thu gom nhộng và kết hợp một số thuốc có hoạt chất như: Alpha - Cypermethrin, Chlorpyrifos Ethul – Cypermethrin… để phun trừ.

Theo các chuyên gia, ngành Nông nghiệp cần phải đánh giá tác động của BĐKH đối với sự bùng phát của các loại sâu bệnh hại mới. Trong đó, cần chú ý các loại sâu thứ yếu có thể trở thành chủ yếu, gây hại mạnh trên các loại cây trồng.

Ngành Nông nghiệp cũng cần nâng cấp, bổ sung, cải thiện các biện pháp bảo vệ thực vật, nâng cao hiệu quả phòng, chống sâu hại trong điều kiện BĐKH hiện nay.

Bài, ảnh: Kim Ngân

 

Thái Nguyên: Cựu chiến binh Triệu Văn Tài và cây hồi ở Khe Cái

Nguồn tin: Báo Thái Nguyên

 

Với 1.000 gốc hồi đã cho thu hoạch, mỗi năm, CCB Triệu Văn Tài thu nhập 150 triệu đồng.

Về xóm Khe Cái, xã Vũ Chấn (Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên), nhắc đến ông Triệu Văn Tài - một cựu chiến binh người dân tộc Dao, nhiều người không khỏi thán phục bởi ý chí quyết tâm, cần cù lao động của ông. Từ hai bàn tay trắng, ông Tài đã vươn lên trở thành tấm gương tiêu biểu làm giàu từ cây hồi.

Nhà ông Tài nằm trong hẻm núi, sau nhà là rừng đầu nguồn Khau Nào, bên cạnh là dòng suối Giang. Tuy chỉ cách đường liên xã Vũ Chấn - Nghinh Tường hơn 2km, nhưng con đường vào nhà ông gập ghềnh, dốc núi, rất khó khăn cho việc đi lại. Biết sắp bước vào mùa mưa bão, nên trước đó 1 tháng, bố con ông Tài đã hì hục vác từng viên gạch không nung xếp thành lối đi dài gần 1km đủ để xe máy qua lại đỡ trơn trượt. Tuy vậy, phải chật vật lắm, chúng tôi mới vào được nhà ông.

Kể về hành trình gây dựng kinh tế của mình, ông Tài cho biết: Năm 1989, sau khi rời quân ngũ, tôi về quê trong điều kiện rất gian khó: Không vốn, không có kiến thức và đất sản xuất. Đến năm 1993, được gia đình bên vợ cho khu đất trong lũng núi này, hai vợ chồng tôi vào đây ở, ngày ngày kiên trì khai khẩn đất hoang làm nương bãi. "Người có công trời không phụ", từ một vùng núi heo hút hoang vu, đến nay, tôi đã sở hữu 20ha rừng.

Có đất, ông Tài đăng ký trồng cây hồi theo Chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc (Chương trình 327) của Nhà nước. Ban đầu, ông được cấp 120 cây giống; sau đó, ông mua thêm cây giống, mở rộng diện tích trồng hồi. Theo ông, cây hồi hợp với khí hậu, thổ nhưỡng ở vùng này, vừa có tác đụng giữ đất bảo vệ rừng, vừa mang lại giá trị kinh tế cao.

Ông Tài bảo: Trồng hồi cũng không quá khó, quan trọng là phải thường xuyên phát quang cỏ dại cho gốc cây thoáng, sạch. Cây hồi bắt đầu cho thu hoạch quả từ năm thứ 6, sau đó, mỗi năm cho thu hái 2 vụ. Khó khăn nhất là khâu thu hoạch, bởi cây tốt, cành nhiều, quả nhỏ, mỗi ngày, một người chỉ thu hái được 1-2 cây. Giá bán quả hồi tươi dao động từ 30-70 nghìn đồng/kg, thu hái đến đâu, tư thương thu mua đến đó, không lo chuyện đầu ra.

Đến nay, ông Tài đã trồng được 4ha hồi với khoảng 3.000 cây, trong đó 1.000 cây đã cho thu hoạch. Tính riêng cây hồi, trung bình mỗi năm, ông thu về trên 150 triệu đồng.

Ngoài tập trung phát triển cây hồi, gia đình ông còn nuôi thêm 12 con bò, cấy 1 mẫu ruộng, nuôi cá, chăn gà, vịt, trồng vài chục gốc thanh long quanh vườn và 2ha keo. Hiện, ông Tài còn đang làm đất để trồng thêm 1,5ha quế.

Nói về ông Tài, anh Hoàng Đức Quyền, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã Vũ Chấn, nhận xét: Không chỉ làm kinh tế giỏi, ông Tài còn tích cực tham gia công tác xã hội với vai trò là Người có uy tín trong cộng đồng, Chi hội trưởng Chi hội Nông dân xóm Khe Cái. Với kinh nghiệm sẵn có, ông sẵn lòng chia sẻ, hướng dẫn kỹ thuật nuôi trồng, hỗ trợ cây, con giống cho người dân quanh vùng… Ông cũng tích cực tuyên truyền, vận động người dân chấp hành tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thực hiện các cuộc vận động, phong trào thi đua, nhất là làm đường giao thông; bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Ông Tài đã nhiều lần được Ban Dân tộc, Hội Nông dân tỉnh, UBND Võ Nhai khen thưởng trong các phong trào thi đua yêu nước, tôn vinh gương sản xuất - kinh doanh giỏi, trong công tác dân tộc và các phong trào của cựu chiến binh…

Lưu Phượng

 

Bạc Liêu: Nhiều mô hình sản xuất mới cho hiệu quả kinh tế cao

Nguồn tin:  Báo Bạc Liêu

Thực hiện phong trào xây dựng nông thôn mới, nhiều địa phương đã xuất hiện các mô hình sản xuất mới mang lại hiệu quả kinh tế cao, giúp nông dân ổn định cuộc sống.

 

 

Ông Lưu Minh Lợi (xã Vĩnh Trạch Đông, TP. Bạc Liêu) thu hoạch chuối sáp.

CÁC MÔ HÌNH MỚI

Xã Vĩnh Phú Tây được xem là “thủ phủ” nuôi rắn hổ đất của huyện Phước Long (Bạc Liêu). Mặc dù chỉ một số hộ nuôi nhưng số lượng lên đến hàng chục ngàn con. Điển hình như hộ ông Lê Văn Khánh, mỗi năm xuất bán hơn 4.000 con rắn giống (giá 130.000 đồng/kg) và từ 700kg - 800kg rắn thịt (giá dao động từ 500.000 - 800.000 đồng/kg tùy thời điểm), thu được từ 0,8 - 1 tỷ đồng. Ông Khánh chia sẻ: “Nuôi rắn hổ đất cũng dễ lắm nhưng cần sự kiên trì và gan dạ. Chuồng trại nuôi phải thường xuyên vệ sinh cho sạch sẽ, luôn cho rắn ăn no thì không có gì trục trặc”.

Hay mô hình trồng chuối sáp ở xã Vĩnh Trạch Đông (TP. Bạc Liêu) cũng đang phát triển và cho thu nhập khá. Đi đầu trong mô hình này phải kể đến hộ ông Lưu Minh Lợi ở ấp Biển Tây A. Sau khoảng 5 năm trồng, ông Lợi có trong tay vườn chuối sáp xanh tốt với gần 300 cây đang cho trái. Chuối sáp sau khoảng 8 tháng trồng bắt đầu ra trái, và sau khoảng 3 tháng thì thu hoạch. Trung bình mỗi quầy chuối sáp có trọng lượng từ 10 - 15kg, thương lái đến tận vườn mua với giá 15.000 đồng/kg. Hầu như mỗi ngày ông Lợi đều có chuối để bán, trung bình khoảng 20kg chuối/ngày, thu khoảng 300.000 đồng. Từ nguồn thu này đã giúp gia đình ông Lợi có cuộc sống ổn định hơn.

Chia sẻ về cách trồng chuối sáp, ông Lợi cho biết: “Trước đây tôi trồng chuối già Nam Mỹ, trồng ổi nhưng đều không hiệu quả. Nhận thấy cây chuối sáp rất hợp với thổ nhưỡng ở đây lại ít sâu bệnh nên tôi chuyển sang trồng loại cây này. Trong quá trình trồng, cần lưu ý tỉa lá thường xuyên, vài tháng bón phân một lần. Sau khoảng 2 năm trồng nên bổ sung đất mới nhằm cung cấp dưỡng chất cho cây chuối”.

Ngoài ra, các địa phương trong tỉnh còn có một số mô hình sản xuất mới mang lại hiệu quả cao như nuôi chồn hương, nuôi ong, nuôi lươn không bùn… Các mô hình sản xuất này cần được nhân rộng để nâng cao thu nhập và đời sống người dân nông thôn.

 

 

Mô hình nuôi rắn hổ đất ở xã Vĩnh Phú Tây (huyện Phước Long). Ảnh: M.Đ

NHÂN RỘNG MÔ HÌNH HIỆU QUẢ

Từ những mô hình sản xuất mới mang lại hiệu quả, ngành Nông nghiệp đang có kế hoạch nhân rộng ra các địa bàn khác trong tỉnh. Theo đó, ngành sẽ quy hoạch phát triển các vùng sản xuất với các đối tượng phù hợp điều kiện thực tại. Một số loài động vật quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng nhưng giá trị kinh tế cao, khi gây nuôi phải có điều kiện và được ngành chức năng cấp phép. Đồng thời, cần có chính sách tín dụng đầu tư, hỗ trợ thử nghiệm các mô hình sản xuất mới, cũng như thực hiện liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo hướng nâng cao chuỗi giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Khuyến khích phát triển hợp tác sản xuất, chăn nuôi và tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm khi nhân rộng các mô hình, tạo điều kiện giúp doanh nghiệp và người dân hợp tác phát triển một cách hiệu quả, bền vững.

Các ngành chức năng tổ chức tập huấn các tiến bộ khoa học - kỹ thuật về cây trồng, vật nuôi mới cho nông dân; tăng cuờng công tác dự báo tình hình dịch bệnh, sâu hại trên các đối tượng cây trồng, vật nuôi; hướng dẫn các biện pháp phòng ngừa bệnh hợp lý, đúng quy trình và theo phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh. Quan tâm hỗ trợ vốn vay ưu đãi cho nông dân để tái sản xuất hoặc mở rộng quy mô, đầu tư đúng, đủ cho mô hình sản xuất, góp phần hạn chế rủi ro, tăng năng suất, nhất là nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao...

Đánh giá về các mô hình sản xuất mới, ông Phạm Thanh Hải - Phó Giám đốc Sở NN&PTNT, cho biết: “Từ phong trào xây dựng nông thôn mới, ngành Nông nghiệp và các địa phương phát động các phong trào sản xuất mới. Nông dân trong tỉnh đã tìm tòi học hỏi ở nhiều nơi và đưa các mô hình mới, sáng tạo về sản xuất. Các mô hình sản xuất mới đều cho hiệu quả kinh tế cao và bền vững. Từ đó, nông dân tăng thêm thu nhập, ổn định cuộc sống…”.

MINH ĐẠT

 

Giá lợn hơi bất ngờ tăng mạnh, có nơi đạt mức 61.000 đồng/kg

Nguồn tin: Lao Động

Sau gần 2 tháng “lình xình” ở mức 54.000-57.000 đồng/kg, ngày 24.6.2022, giá lợn hơi đã bất ngờ tăng mạnh trên cả nước, có nơi đạt mức 61.000 đồng/kg.

 

 

Giá lợn hơi tăng sẽ giảm tình trạng thua lỗ của người chăn nuôi. Ảnh: Vũ Long

Thông tin từ các thương lái cho biết, tại khu vực miền Bắc, ngày 24.6.2022, giá lợn hơi tăng từ 2.000-4.000 đồng/kg. Trong đó, Hưng Yên có mức giá tăng cao nhất (4.000 đồng/kg), đưa giá lợn hơi tại địa phương này lên mức 61.000 đồng/kg – là mức cao nhất từ đầu năm 2022 đến nay tại khu vực miền Bắc.

Tại nhiều địa phương khác, giá lợn hơi cũng tăng khoảng 2.000 đồng/kg, như: Yên Bái, Lào Cai, Phú Thọ, đưa giá lợn hơi lên mức 58.000 đồng/kg… Hiện tại, giá lợn hơi tại các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Thái Nguyên, Tuyên Quang đang được bán ra với mức 57.000 - 58.000 đồng/kg tùy trọng lượng và chất lượng lợn.

Tại khu vực miền Trung - Tây Nguyên, ngày 24.6, giá lợn hơi tăng 1.000 đồng/kg so với 1 ngày trước đó, bán ra ở mức 51.000 - 57.000 đồng/kg. Cụ thể, giá lợn tại Hà Tĩnh và Lâm Đồng tăng 1.000 đồng/kg, lần lượt bán ra ở mức 55.000 đồng/kg và 56.000 đồng/kg. Bình Thuận là tỉnh có giá lợn hơi cao nhất ở khu vực miền Trung: 57.000 đồng/kg. Ngược lại, Bình Định là tỉnh có giá lợn hơi thấp nhất tại khu vực này: 51.000 đồng/kg được ghi nhận tại Bình Định. Giá lợn hơi tại các địa phương còn lại không thay đổi, giao dịch ở mức 53.000 – 56.000 đồng/kg.

Tại khu vực miền Nam, giá lợn hơi ít biến động bởi trong thời gian gần đây, khu vực này có giá lợn hơi bình quân cao nhất trên cả nước. Ngày 24.6, giá lợn hơi tại các tỉnh phía Nam dao động trong khoảng 54.000 - 59.000 đồng/kg.

An Giang là địa phương có giá lợn hơi cao nhất tại khu vực miền Nam, hiện đang giao dịch ở mức 58.000 đồng/kg. Tỉnh Bình Dương có mức tăng cao nhất (2.000 đồng/kg), hiện giá lợn tại tỉnh này được giao dịch với giá 57.000 đồng/kg. Tại các tỉnh Bình Phước, Sóc Trăng và Kiên Giang giá lợn hơi cũng tăng nhẹ 1.000 đồng/kg, bán ra ở mức 56.000 đồng/kg. Ở chiều ngược lại, tại Hậu Giang và Bạc Liêu giá lợn hơi đã giảm 1.000 đồng/kg, giao dịch ở mức 55.000 đồng/kg.

VŨ LONG

 

Chi phí tăng cao, người chăn nuôi ở Tiền Giang điêu đứng

Nguồn tin: VOV

Giá con giống, thức ăn chăn nuôi liên tục tăng cao trong khi giá bán sản phẩm tăng chậm và dưới mức chi phí, khiến nhiều hộ nuôi cá, nuôi heo ở Tiền Giang đã phải dừng nuôi.

Tiền Giang là địa phương có mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản phát triển mạnh ở vùng ĐBSCL. Gần đây, trước tình trạng giá xăng dầu tăng cao đã kéo theo chi phí mua thức ăn, thuốc thú y nhảy vọt, làm cho người chăn nuôi không có lãi, cuộc sống khó khăn.

Dù giá cá điêu hồng nuôi lồng bè đang ở mức “kỉ lục” (38.000 đồng/kg) nhưng nhiều ngư dân ở tỉnh Tiền Giang đã treo bè vì thua lỗ do giá thức ăn ở mức cao. Gần đây, giá thức ăn cho cá bè liên tục tăng nên ngư dân nuôi cá bè phải lỗ hơn 3.000 đồng/kg.

 

 

Người nuôi heo tại tỉnh Tiền Giang không mạnh dạn tái đàn vì giá thức ăn tăng cao.

Ông Nguyễn Tấn Bĩnh, ngư dân nuôi cá bè lâu năm ở cồn Thới Sơn, TP Mỹ Tho tâm tư, xăng dầu lên nên thức ăn tăng theo, tính ra thức ăn tăng 30% so với mọi năm nhưng giá cá mới tăng thêm 3.000 đồng/kg từ nửa tháng nay.

“Giá cá hiện đã lên 38.000 đồng/kg nhưng người nuôi vẫn còn lỗ, khi giá cá đạt 41.000 đồng/kg người nuôi mới huề vốn và 42.000 đồng/kg trở lên người nuôi mới có lãi. Tuy nhiên giá thức ăn đang tăng cao quá khiến người dân không dám thả nuôi và treo ao, trong khi các đại lý thức ăn chăn nuôi cũng không bán chịu, phải mua bằng tiền mặt. Giờ ai có tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng mới có tiền mua thức ăn cho cá, còn ai không có tài sản thế chấp vay vốn đành phải nghỉ”, ông Bĩnh cho biết.

Cùng với cá, đàn heo ở tỉnh Tiền Giang thường đứng hạng thứ 2 (sau Bến Tre) nhưng hiện nay giảm mạnh do giá thức ăn, thuốc thú y quá cao. Hiện nay, dù giá heo trên dưới 5,5 triệu/tạ nhưng người nuôi vẫn chưa có lãi. Xã Xuân Đông, huyện Chợ Gạo là địa phương có đàn heo lớn nhất tỉnh Tiền Giang. Trước đây, tổng đàn heo của địa phương này gần 50.000 con, nay giảm xuống còn dưới 5.000 con. Nhiều trang trại heo chuyển sang nuôi gia cầm, thủy cầm.

“Giá thức ăn hiện nay khiến người dân nuôi heo không có lãi, khiến một số hộ chuyển qua nuôi vịt công nghiệp. Mỗi con heo từ lúc nuôi đến khi xuất bán phải cần 13 bao thức ăn, giá 350.000 đồng/bao nên nếu nuôi không khéo sẽ bị lỗ. Nói chung, giá heo phải 6 triệu đồng/tạ người nuôi mới có lãi, hiện chỉ còn mấy trại nuôi heo quy mô lớn còn tồn tại, người chăn nuôi nhỏ lẻ đã nghỉ gần hết”, ông Nguyễn Văn Mười, Chủ tịch UBND xã Xuân Đông cho biết thêm.

Nhìn chung các trang trại nuôi gà, vịt, chim cút ở tỉnh Tiền Giang thời điểm này cũng không đạt hiệu quả cao vì chi phí đầu tư tăng vọt, nhất là giá nhân công, thức ăn, thuốc phòng ngừa dịch bệnh mà giá bán ra không tương xứng.

Giá xăng dầu tăng cao đã ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động, sinh hoạt, đời sống con người. Ngành chăn nuôi ở tỉnh Tiền Giang đang cầm cự trước bối cảnh chi phí đầu tư tăng cao, trong khi đó đầu ra nông sản bấp bênh. Do đó, người chăn nuôi rất mong được sự quan tâm, hỗ trợ của các cấp chính quyền, các ngành chức năng để vượt qua cơn “bão giá” này./.

Nhật Trường/VOV-ĐBSCL

 

Nuôi thỏ thương phẩm mang lại thu nhập cao

Nguồn tin: Báo Long An

Với bản tính cần cù, dám nghĩ, dám làm, ông Nguyễn Ngọc Minh (xã Bình Thạnh, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An) mạnh dạn đầu tư vốn thực hiện mô hình nuôi thỏ. Đến nay, mô hình nuôi thỏ của ông Minh mang lại hiệu quả bước đầu, giúp gia đình có cuộc sống ổn định hơn trước nhờ mức thu nhập khá cao.

Chia sẻ với chúng tôi, ông Minh cho biết: “Trước đây, gia đình chủ yếu trồng cây ăn trái nhưng cứ gặp điệp khúc “được mùa, mất giá”. Với mong muốn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi đúng hướng kết hợp phát huy thế mạnh về đất đai cũng như nguồn thức ăn sẵn có tại địa phương, năm 2020, tôi bắt tay thử nghiệm mô hình nuôi thỏ với 10 con thỏ giống”.

Đối với nhiều nông dân vùng biên giới như ông Minh, thỏ là vật nuôi còn khá mới. Vì vậy, ông dành nhiều thời gian tìm hiểu kỹ thuật nuôi, chăm sóc thỏ thông qua Internet và học hỏi kinh nghiệm từ các mô hình nuôi thỏ hiệu quả khác. Sau thời gian thực hiện mô hình, nhận thấy việc nuôi thỏ khá đơn giản, có nhiều ưu điểm về khả năng sinh trưởng, ít dịch bệnh, thị trường tiêu thụ ổn định nên ông Minh mạnh dạn mở rộng mô hình. Hiện trang trại của ông có hơn 1.000 con thỏ, trong đó có 100 con thỏ sinh sản.

 

 

Mô hình nuôi thỏ của ông Nguyễn Ngọc Minh thành công, mang lại hiệu quả bước đầu, giúp gia đình ông có cuộc sống ổn định hơn trước nhờ mức thu nhập khá cao

Ông Minh chia sẻ: “Nuôi thỏ mang lại giá trị kinh tế cao nhưng muốn thành công cần phải nắm được một số đặc điểm về sinh lý, tiêu hóa, sinh sản, kỹ thuật nuôi và chăm sóc thỏ theo từng lứa tuổi. Kỹ thuật nuôi thỏ không khó, quan trọng là phải chịu khó tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm từ những người đi trước và phải luôn nỗ lực, không nản lòng khi gặp khó khăn thì mới thành công được”.

Thỏ là vật nuôi nhạy cảm với các tác nhân ngoại cảnh nên trang trại được ông Minh thiết kế kỹ lưỡng, thông thoáng, thường xuyên dọn vệ sinh, đặc biệt là hệ thống nước uống tự động, bảo đảm luôn được cung cấp đầy đủ nước cho thỏ. Nguồn thức ăn cho thỏ khá dồi dào, dễ kiếm, dễ trồng và sẵn có quanh năm, từ các loại cỏ, lá cây, củ, quả,... cho đến các loại thức ăn viên chuyên dụng. Theo ông Minh, người nuôi nên thay đổi nguồn thức ăn phù hợp với điều kiện sinh trưởng của thỏ.

Thỏ mẹ sinh sản một lứa từ 6-8 con. Thỏ con được 1 tháng tuổi là có thể tách mẹ để nuôi thương phẩm. Sau khoảng 3 tháng nuôi, thỏ đạt trọng lượng từ 2-2,5kg là có thể bán. Bình quân mỗi tháng, trang trại của ông Minh cho xuất chuồng từ 100-200 con thỏ thương phẩm với giá bán dao động từ 70.000-75.000 đồng/kg. Sau khi trừ chi phí, ông Minh có thu nhập ổn định gần 20 triệu đồng/tháng.

“Trong quá trình nuôi thỏ cần chăm sóc kỹ để thỏ không bị bệnh. Các bệnh cần phòng cho thỏ là ghẻ, cầu trùng, nấm, bại liệt,... Khi mới bắt đầu nuôi thỏ, tôi cũng lo lắng đầu ra nhưng hiện nay được nhiều thương lái tìm mua nên yên tâm hơn” - ông Minh cho biết thêm.

Có thể thấy, mô hình nuôi thỏ của ông Minh mang lại thành công bước đầu, mở ra hướng đi mới cho nông dân, góp phần nâng cao thu nhập. Đây là mô hình khép kín kết hợp nuôi thỏ và trồng cây ăn trái, phù hợp điều kiện thực tế, đầu ra ổn định và giải quyết việc làm thường xuyên cho 5-7 lao động tại địa phương. Thời gian tới, ông Minh tiếp tục đầu tư nâng cấp trang trại nuôi thỏ. Không giấu bí quyết thành công cho riêng mình, ông Minh sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm cho những ai có ý định gắn bó với nghề nuôi thỏ./.

Huỳnh Hương

 

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop