Vùng nguyên liệu cây ăn quả phát triển mạnh mẽ
Nguồn tin: Báo Long An
Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu cây ăn quả vùng Đồng Tháp Mười đang đạt được những kết quả khả quan. Theo thông tin từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Long An, tổng diện tích sản xuất cây ăn quả tại các huyện tham gia đề án đạt khoảng 5.357ha, tăng 1.391ha so với năm 2021.
Vùng Đồng Tháp Mười hiện có 519ha sầu riêng
Sự tăng trưởng này chủ yếu tập trung vào các loại cây trồng như mít, sầu riêng, chanh và bưởi. Cụ thể, diện tích trồng mít đạt 2.618ha, sầu riêng 519ha, xoài 220ha và còn lại 2.000ha chủ yếu là các loại cây khác như dứa, chanh, bưởi và mãng cầu.
Cùng việc mở rộng diện tích, chất lượng sản phẩm cũng được nâng cao. Đến nay, vùng nguyên liệu đã được cấp 26 mã số vùng trồng, với tổng diện tích 477,01ha. Các sản phẩm từ Đồng Tháp Mười đã có mặt tại nhiều thị trường khó tính trên thế giới như Hàn Quốc, Nga, Anh, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Châu Âu và New Zealand.
Để thúc đẩy phát triển bền vững, các địa phương đã tập trung xây dựng chuỗi liên kết giữa hợp tác xã và doanh nghiệp. Hiện tại, đã có 2 chuỗi liên kết được hình thành và đang được triển khai. Đồng thời, 5 hợp tác xã và trang trại trồng các loại cây ăn quả như mít, bưởi, sầu riêng, chanh đã được hỗ trợ chứng nhận VietGAP, bảo đảm chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế.
Bên cạnh đó, các địa phương cũng đã đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và chế biến. Đáng chú ý là việc xây dựng nhà kho sơ chế mít tại Hợp tác xã Nông nghiệp ấp 4 Tân Hiệp (huyện Thạnh Hóa), góp phần nâng cao giá trị sản phẩm và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ.
Những kết quả đã đạt của đề án cho thấy tiềm năng lớn của vùng Đồng Tháp Mười trong việc phát triển sản xuất cây ăn quả, góp phần nâng cao thu nhập và cải thiện cuộc sống người dân./.
Minh Tuệ
Trồng sầu riêng đạt lợi nhuận tiền tỷ
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai
Theo số liệu của Hiệp hội rau quả Việt Nam, trong 6 tháng năm 2024, xuất khẩu sầu riêng đạt 1,32 tỷ USD, tăng 45% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 65% tỷ trọng trong nhóm quả xuất khẩu.
Vùng trồng sầu riêng được cấp mã số vùng trồng xuất khẩu tại xã Xuân Định, huyện Xuân Lộc. Ảnh: Song Lê
Nhờ xuất khẩu tốt nên vụ thu hoạch năm nay, giá sầu riêng nông dân bán ra luôn đứng ở mức cao. Cụ thể, giá sầu riêng đầu mùa có thời điểm bán được 120 ngàn đồng/kg; khi rộ vụ giá sầu riêng vẫn bán được từ 45-55 ngàn đồng/kg, cao hơn nhiều so với trung bình nhiều năm trở lại đây. Nhờ bán được với giá cao, vụ thu hoạch năm nay, nông dân trồng sầu riêng đạt lợi nhuận tốt. 1 hécta sầu riêng đạt năng suất, nông dân có thể thu lợi nhuận tiền tỷ.
Vài năm trở lại đây, diện tích sâu riêng trên địa bàn Đồng Nai tăng mạnh. Hiện toàn tỉnh có 12.654 hécta sầu riêng, tập trung vào 2 giống chủ lực là Dona và Ri6. Ngành nông nghiệp cũng tập trung đẩy mạnh làm mã số vùng trồng đạt chuẩn xuất khẩu chính ngạch đi thị trường Trung Quốc. Đến nay, toàn tỉnh được cấp 41 mã số vùng trồng sầu riêng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc với diện tích 1.959 hécta, sản lượng 48.975 tấn. Ngoài ra, toàn tỉnh còn có 34 vùng trồng đã nộp hồ sơ chờ phê duyệt mã số với diện tích 977 hécta.
Song Lê
Bảo vệ vườn cây ăn trái trong mùa mưa lũ
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Những năm gần đây, dù không còn lũ lớn nhưng triều cường dâng cao và thời tiết diễn biến cực đoan, khó đoán do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Để tránh các thiệt hại đáng tiếc có thể xảy ra cho vườn cây ăn trái trong mùa mưa lũ, nông dân TP Cần Thơ đã và đang tích cực áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp được ngành Nông nghiệp khuyến cáo chủ động chăm sóc và bảo vệ vườn cây.
Nông dân tại xã Tân Thới, huyện Phong Điền chủ động làm đập tạm để ngăn lũ và triều cường, bảo vệ vườn cây.
Tích cực bảo vệ vườn cây
Cây ăn trái là loại cây trồng lâu năm, nông dân phải đầu tư khá nhiều chi phí và công sức mới có được những vườn cây giúp mang lại huê lợi cho người trồng. Do vậy, nếu để xảy ra các sự cố vườn cây bị chết do ngập úng hay bị đổ ngã do giông lốc và mưa bão thì thiệt hại là rất lớn. Nông dân phải mất rất nhiều thời gian để phục hồi và trồng lại cây. Nhận thức được điều đó và được các ngành chức năng quan tâm hướng dẫn và có các khuyến cáo thường xuyên, nông dân trồng cây ăn trái tại các quận, huyện trên địa bàn thành phố đã chủ động thực hiện nhiều biện pháp nhằm chăm sóc và bảo vệ vườn cây.
Anh Cao Đàm Hữu Trị ở xã Tân Thới, huyện Phong Điền, cho biết: “Nhờ phát triển trồng cây ăn trái, nhất là trồng cây sầu riêng mà nhiều hộ dân tại địa phương có thể vươn lên thoát nghèo và làm giàu. Do vậy, bà con rất quan tâm đến việc bảo vệ vườn cây, nhất là chuẩn bị sẵn các máy móc để kịp thời tiêu thoát nước cho vườn cây ăn trái trong mùa mưa lũ. Tôi có 7 công đất trồng sầu riêng và hiện cũng chủ động đặt sẵn máy bơm nước trong vườn. Kiểm tra gia cố hệ thống bờ bao, thực hiện nạo vét, vệ sinh, dọn cỏ trong các mương vườn để dòng chảy thông thoáng, thuận lợi cho việc tiêu thoát nước khi gặp phải trời mưa to kéo dài”.
Theo ông Trần Văn Dũ ở ấp Đông Hòa, xã Đông Thuận, huyện Thới Lai, gia đình ông có 2ha trồng nhãn. Năm nay, dự báo lũ không lớn và hiện hầu hết các diện tích trồng cây ăn trái đều được bảo vệ bởi hệ thống đê bao vững chắc nhưng ông và các hộ dân tại địa phương không chủ quan bởi gần đây thời tiết diễn biến rất phức tạp. Đặc biệt, tình hình mưa lớn kéo dài, kết hợp với ảnh hưởng của nước lũ và triều cường có thể khiến vườn cây bị ngập nước, giông lốc và mưa bão cũng khiến cây dễ bị đổ ngã và hư hại, nhất là đối với các diện tích cây đang ra hoa và cho trái. Vì vậy, ông đã chủ động chuẩn bị máy bơm nước và thực hiện nhiều biện pháp nhằm tránh cây bị đổ ngã, hư hại do mưa gió. Thực hiện cắt tỉa tàn, tạo tán cây, buộc dây, chống đỡ cho cây và bón phân phù hợp để cây giảm nguy cơ bị đổ ngã.
Kịp thời khuyến cáo
Diện tích trồng cây ăn trái trên địa bàn TP Cần Thơ đã liên tục tăng và có đóng góp ngày càng lớn vào giá trị sản xuất nông nghiệp. Nhiều vườn cây ăn trái đã giúp nông dân có thu nhập cao gấp nhiều lần so với trồng lúa. Đến nay, diện tích trồng cây ăn trái ở TP Cần Thơ đã đạt trên 25.000ha, với sản lượng trái cây có thể đạt hơn 223.250 tấn/năm. Cây ăn trái được trồng tại thành phố khá đa dạng về chủng loại, với nhiều loại trái ngon, đặc sản. Trong đó, diện tích trồng nhiều nhất là các loại sầu riêng, với 4.816ha. Diện tích trồng xoài các loại khoảng 3.376ha, nhãn 2.547ha, mận 1.792ha, mít 1.714ha, vú sữa 1.452ha, chanh 1.331ha, chuối 976ha, cam 974ha, măng cụt 847ha, bưởi 600ha, chôm chôm 366ha, ổi 360ha. Ngoài ra, diện tích trồng dừa là 1.326ha và các loại cây trồng khác là 3.617ha.
Để hỗ trợ nông dân chăm sóc và bảo vệ tốt các loại cây ăn trái, cũng như giúp nông dân phát huy hiệu quả vườn cây, thời gian qua ngành Nông nghiệp thành phố cùng các ngành chức năng tại các địa phương đã tích cực đẩy mạnh các hoạt động tập huấn kỹ thuật. Hướng dẫn nông dân chuẩn hóa sản xuất đạt theo các tiêu chuẩn, chất lượng để đáp ứng nhu cầu thị trường. Hỗ trợ nông dân ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và đẩy mạnh áp dụng cơ giới hóa các khâu sản xuất, nhất là lắp đặt các hệ thống tưới phun nước cho vườn cây. Thúc đẩy nông dân tăng cường liên kết với nhau và với các doanh nghiệp nhằm gắn kết giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Thường xuyên cung cấp thông tin thị trường và dự báo thời tiết để giúp nông dân chủ động có giải pháp ứng phó. Đặc biệt, hằng năm khi chuẩn bị bước vào mùa mưa và các tháng cao điểm bị ảnh hưởng bởi mưa bão, lũ và triều cường, các cấp và các ngành chức năng cũng kịp thời có các khuyến cáo, hướng dẫn nông dân kiểm tra, gia cố các hệ thống đê bao, bờ bao... Chuẩn bị máy móc và các phương tiện tát nước để sẵn sàng tiêu thoát nước và phòng, chống ngập úng cho vườn cây ăn trái. Khuyến cáo nông dân thăm vườn thường xuyên, đề cao cảnh giác với tình hình vườn cây có thể bị ngập úng do mưa lũ và triều cường.
Theo ông Trần Thái Nghiêm, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT TP Cần Thơ, năm nay tình hình thời tiết dự báo có nhiều diễn biến phức tạp bởi biến đổi khí hậu, nhiều khả năng có mưa lớn kéo dài do ảnh hưởng của La Nina, đặc biệt từ tháng 8 đến tháng 11 sẽ có mưa nhiều. Dù lũ được dự báo ở mức thấp nhưng tình hình giông lốc, mưa bão và triều cường tiếp tục diễn biếp phức tạp, ảnh hưởng đến các vùng trồng cây ăn trái, nhất là khi hầu hết vùng trồng cây ăn trái lớn đều nằm cặp theo các sông lớn. Nhiều vùng trồng cây ăn trái chịu sự uy hiếp trực tiếp của triều cường. Để bảo vệ các diện tích trồng cây ăn trái trong mùa mưa bão hiện nay và bước vào giai đoạn nước lũ đang lên, nông dân tại các địa phương, từng vùng sản xuất và từng hợp tác xã phải rà soát, gia cố lại các hệ thống đê bao, bờ bao. Chủ động chuẩn bị máy bơm nước và các phương tiện phục vụ tát nước. Cắt tỉa các cành cây già cỗi, tạo tán cho cây thông thoáng để hạn chế nơi trú ẩn cho sinh vật gây hại và kết hợp thực hiện các biện pháp chống chỏi phù hợp cho từng loại cây để phòng tránh cây bị đổ ngã. Mùa này, nhiều bà con cũng xử lý cho cây ra hoa và trái để phục vụ thị trường dịp Tết Nguyên đán 2025, nên chú ý cắt tỉa trái để nâng cao phẩm chất, chất lượng trái cây, bảo vệ cho cây khỏe mạnh. Quản lý tốt cỏ dại trong vườn cây ăn trái, không diệt cỏ bằng biện pháp phun thuốc cỏ để tránh lưu tồn trong đất và ảnh hưởng đến hệ sinh thái và chất lượng, an toàn của trái cây. Quan tâm sử dụng các loại phân bón và thuốc bảo vệ một cách phù hợp, chú ý theo dõi độ pH của đất để kịp thời có giải pháp xứ lý vôi và thực hiện các giải pháp để vườn cây ăn trái phát triển khỏe mạnh và có khả năng chống chịu tốt với các điều kiện bất lợi...
Bài, ảnh: KHÁNH TRUNG
Giá dừa khô nguyên liệu tăng cao
Nguồn tin: Báo Đồng Khởi
Hiện nay, giá dừa khô nguyên liệu tại tỉnh Bến Tre tăng cao, từ 110 - 120 ngàn đồng/chục (12 trái), tăng 30 - 40 ngàn đồng/chục so với tháng trước, tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm trước. Người dân phấn khởi vì giá dừa tăng cao trong giai đoạn dừa đang phục hồi sau thời gian bị ảnh hưởng hạn mặn vì người dân có thêm kinh phí đầu tư chăm sóc cho cây dừa.
Thu hoạch dừa tại xã Châu Bình, huyện Giồng Trôm.
Theo bà Nguyễn Thị Ánh, xã Châu Bình, huyện Giồng Trôm, hơn 4 năm qua, giá dừa luôn giữ ở mức thấp, chưa bao giờ vượt qua hơn 100 ngàn đồng/chục. Hiện nay, giá dừa tăng trở lại người dân phấn khởi. Bà Nguyễn Thị Ánh cho hay, 2 ngày trước, bà vừa thu hoạch 8.000m2 đất trồng dừa với sản lượng hơn 1.000 trái dừa, bán với giá 110 ngàn đồng/chục (chưa trừ chi phí công hái, thu gom), trong khi đó tháng trước bà bán với giá chỉ 75 ngàn đồng/chục.
Bà Ánh chia sẻ, với giá hiện nay giúp người dân có thêm chi phí để đầu tư phân bón cho cây dừa. Vì sau thời điểm ảnh hưởng hạn mặn, cây dừa xuống sức, hiện sản lượng giảm chỉ còn hơn phân nửa so với trước. Bên cạnh đó, giá dừa giữ mức hơn 100 ngàn đồng/chục, nếu duy trì với giá này, kinh tế người dân sẽ bền vững hơn.
Giá dừa tăng, thu nhập tăng theo, ông Nguyễn Văn Tài, xã Bình Hòa, huyện Giồng Trôm kêu nhân công bồi bùn (phù sa) đắp vào gốc dừa để giúp cây dừa thêm dinh dưỡng nuôi cây. Ông Tài cho biết, những năm qua, giá dừa xuống thấp, thu nhập không đủ chi tiêu nên 3 năm gần đây ông không có tiền thuê nhân công bồi bùn cho cây dừa. Bên cạnh đó, lượng phân bón giảm, làm cho năng suất cây dừa giảm.
Theo ông Tài, mỗi năm 1ha dừa cần 30 - 40 triệu đồng tiền phân bón, nhân công bồi bùn cho cây, giúp cây phát triển đạt năng suất cao. Nhưng nếu giá dừa ở mức thấp người dân không có thu nhập nên thường ít chăm sóc cho cây dừa. Hiện nay, giá dừa tăng, thu nhập của gia đình khá hơn, có thêm kinh phí tập trung chăm sóc vườn dừa, giúp dừa phát triển tốt, chống chọi với tình trạng xâm nhập mặn trong thời gian tới. Với giá hiện nay, 1ha đất trồng dừa cho thu nhập từ 13 - 16 triệu đồng/tháng.
Theo các thương lái thu mua dừa, giá dừa tăng cao phần lớn do sản lượng dừa đang giảm vì ảnh hưởng hạn mặn trước đó. Bên cạnh đó, nhu cầu sản xuất các nhà máy tăng nên các công ty tập trung thu mua, làm cho giá tăng lên. Tùy theo khu vực, chất lượng trái dừa có giá khác nhau. Khu vực đạt chất lượng cao như xã Châu Bình, Châu Hòa (Giồng Trôm), các xã phía Nam của huyện Mỏ Cày Nam, dừa khô nguyên liệu có giá từ 110 - 120 ngàn đồng/chục (chưa trừ công thu hoạch), các khu vực khác giá thấp hơn khoảng 10 - 20 ngàn đồng/chục.
Theo Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Huỳnh Quang Đức, toàn tỉnh có hơn 78.000ha dừa; trong đó, chủ yếu là dừa khô nguyên liệu. Ngành nông nghiệp tỉnh đang tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp đăng ký thực hiện mã số vùng trồng để khi có ký kết Hiệp định thư chính thức xuất khẩu dừa chính ngạch sang thị trường Trung Quốc, tỉnh có đủ điều kiện để đáp ứng cho các doanh nghiệp.
Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Huỳnh Quang Đức chia sẻ, nếu được xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc, ngành dừa sẽ có thêm thị trường tiêu thụ rộng lớn, khi đó giá dừa sẽ ổn định hơn trong thời gian tới. Cùng với đó, ngành chức năng kêu gọi nông dân tham gia tổ hợp tác, hợp tác xã để liên kết tiêu thụ với doanh nghiệp thu mua trực tiếp, tạo đầu ra ổn định cho nông dân. Bên cạnh đó, khuyến khích nông dân sản xuất dừa theo hướng hữu cơ để liên kết trực tiếp với doanh nghiệp thu mua. Khi đó, giá dừa tăng thêm, tạo hướng đi bền vững cho cây dừa.
Bài, ảnh: Phúc Hậu
Dùng băng thun y tế phòng rệp sáp gây hại sầu riêng
Nguồn tin: Báo Đắk Lắk
Từ việc quan sát tập tính sinh trưởng của loài rệp sáp, anh Bùi Thanh (xã Ea Yông, huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk) đã sáng tạo ra cách phòng trừ rệp sáp hiệu quả trên vườn cây sầu riêng canh tác theo hướng an toàn sinh học của gia đình.
Anh Thanh chia sẻ, rệp sáp là loài gây hại ở tất cả bộ phận của cây sầu riêng với sự cộng sinh của kiến. Vào mùa khô, kiến sẽ mang rệp xuống đất để trú ẩn và chích hút gây hại gốc, rễ cây. Khi mưa ẩm, kiến lại mang rệp sáp, ấu trùng rệp sáp lên thân. Thời điểm rệp sáp sinh sôi mạnh là giai đoạn sầu riêng bắt đầu xổ nhụy, ra trái non, kéo dài đến khi thu hoạch. Nếu người làm vườn thiếu quan sát và phòng trừ không hiệu quả, chỉ một thời gian ngắn, rệp sáp sẽ sinh sôi nhanh chóng, phủ trắng cả quả non, lá và ngọn cây.
Không chỉ chích hút dinh dưỡng gây quăn lá, rụng trái, rệp sáp còn tạo môi trường thuận lợi cho nấm bồ hóng (muội đen) phát triển, làm suy giảm chất lượng, năng suất cây trồng và thẩm mỹ của quả sầu riêng. Đây cũng là một trong những đối tượng dịch hại ảnh hưởng đến các mặt hàng trái cây khi xuất khẩu chính ngạch.
Anh Bùi Thanh chia sẻ về cách dùng băng thun y tế để phòng rệp sáp.
Canh tác sầu riêng theo phương pháp sinh thái, an toàn nhiều năm qua, vì thế nên anh Thanh luôn trăn trở tìm cách phòng trừ rệp sáp hiệu quả mà không cần can thiệp bằng các giải pháp thuốc bảo vệ thực vật. Qua quan sát tập tính cộng sinh của rệp sáp và con đường di chuyển của kiến, anh Thanh nghĩ đến cách tạo một hàng rào bảo vệ ngay trên thân cây. Theo đó, anh đã dùng băng thun y tế ngâm qua thuốc tẩm màn chống muỗi rồi quấn một vài vòng trên thân cây, cách mặt đất khoảng 30 – 80 cm. Sau khi quấn băng y tế cho tất cả các cây trồng trong vườn, anh Thanh còn kiểm soát việc giao tán, tránh kiến di chuyển từ các cây bên ngoài vườn hoặc các con đường trung gian khác. Định kỳ khoảng 3 tháng, anh lại dùng bình xịt nhỏ bổ sung thêm thuốc tẩm màn pha loãng theo đúng tỷ lệ nhà sản xuất đưa ra vào các vị trí băng thun.
Cách làm này đã được anh Thanh áp dụng hiệu quả trên vườn sầu riêng của gia đình suốt 3 năm qua với chi phí phòng trừ rệp sáp cho một cây sầu riêng chỉ khoảng 4.000 – 5.000 đồng/năm. Cứ sau mỗi vụ thu hoạch, anh lại gỡ toàn bộ băng thun, giặt sạch rong rêu và tái sử dụng cho niên vụ tiếp theo. Ngoài hiệu quả trong việc phòng rệp sáp gây hại, từ khi thực hiện giải pháp quấn băng thun y tế và kiểm soát giao tán, anh Thanh còn nhận thấy lượng quả bị sóc, chuột khoét, gặm cũng giảm rõ rệt.
Theo anh Thanh, đây là giải pháp rẻ tiền, dễ thực hiện lại thân thiện với môi trường mà các nhà vườn có thể tham khảo để bảo vệ thành quả sản xuất. Ngoài áp dụng trên cây sầu riêng, giải pháp này cũng có thể ứng dụng cho các loại cây ăn quả, cây dài ngày khác nhằm chủ động ngăn ngừa rệp sáp gây hại, nhất là trong điều kiện thời tiết, khí hậu ngày càng diễn biến thất thường như hiện nay.
Đinh Nga
Trồng sen lấy ngó cho thu nhập quanh năm
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Nhiều nông dân trên địa bàn xã Mỹ Thuận (huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng) tìm sinh kế từ mô hình trồng sen lấy ngó. Dù công việc vất vả nhưng bù lại người trồng sen, lẫn người làm thuê đều có nguồn thu ổn định giúp trang trải cuộc sống gia đình.
Những người phụ nữ thu hoạch ngó sen phải trầm mình dưới nước suốt nhiều giờ liền.
Không chỉ mang lại vẻ đẹp thuần khiết, bình yên ở chốn làng quê, mà cây sen trở thành nguồn thu nhập khá cho nhiều hộ gia đình chuyên trồng sen lấy ngó, gương, hoa, củ sen. Trong đó, ngó sen là bộ phận được người trồng sen thu hoạch gần như quanh năm. Những ngày này dù đang vào mùa mưa, nhưng không khí tại ấp Rạch Rê (xã Mỹ Thuận, huyện Mỹ Tú) nơi có đến hơn chục héc-ta trồng sen lấy ngó vẫn nhộp nhịp người lội sình thu hoạch ngó sen hằng ngày. Vào buổi sáng sớm là thời điểm nhộn nhịp nhất trên các ruộng sen.
Cứ cách 2 ngày là ông Bùi Văn Đá (47 tuổi, ngụ ấp Rạch Rê) xuống ruộng sen để thu hoạch ngó. Mỗi lần thu hoạch khoảng 25kg, bán được khoảng 500.000 đồng. Nhờ ruộng sen mà ông kiếm được thu nhập để trang trải cuộc sống gia đình suốt hàng chục năm qua. “Cây sen cho kinh tế ổn định nhưng mình phải chịu khó lội sình bùn để nhổ. Sáng sớm xuống nước nhổ đến khi nào đủ số lượng thương lái mua thì lên. Dù cực nhưng bù lại có nguồn thu nhập”, ông Đá nói.
Mô hình trồng sen lấy ngó khá nhẹ công chăm sóc, ít tốn chi phí. Sen trồng hơn 3 tháng là lấy được ngó và thời gian lấy ngó kéo dài cho đến vài năm, tùy thuộc vào nguồn nước, thời tiết và kỹ thuật chăm sóc. Ngoài ra, người trồng sen có thể tận dụng ruộng sen để thả cá nuôi, vừa thu hái bông sen, gương sen… vừa có cá bán để tăng thêm thu nhập.
Bà Trần Ngọc Liên (46 tuổi, ngụ ấp Rạch Rê) cho biết, trồng sen cực nhất là lúc thu hoạch vì phải ngâm mình trong nước nhiều giờ liên tục. Nhưng người ướt thì mới có tiền. Với 1ha trồng sen của gia đình cứ cách 2 ngày có thể thu hoạch 1 lần, kiếm được trên 1 triệu đồng. “Để lấy được ngó sen người nhổ phải mò mẫm trong bùn, lần tay vuốt từng cọng ngó để nhổ. Sen có nhiều gai nên dễ gây trầy xước tay chân. Sau nhiều giờ nhổ là bàn tay bị vọp rồi sình bùn, mủ sen bám đen hết”, bà Liên cho biết. Việc thu hoạch ngó sen khá vất vả vì phải trầm mình dưới đầm, nhưng bù lại, người trồng sen lẫn người đi nhổ ngó sen thuê đều có nguồn thu đáng kể, trang trải được cuộc sống gia đình. Nhiều lao động nông nhàn cũng tham gia nhổ sen thuê với mức giá 7.000 đồng/kg. Trung bình mỗi ngày cũng kiếm được thu nhập khoảng 200.000 đồng.
Sen sau khi nhổ được rửa sạch, bó lại từng bó nhỏ để giao cho thương lái. Hiện nay giá bán dao động từ 17.000-20.000 đồng/kg. Ngó sen cũng được người tiêu dùng lựa chọn vì có thể chế biến thành nhiều món ngon, bổ dưỡng.
Bài, ảnh: NGUYỄN TRINH
Đồng Nai: Huyện Cẩm Mỹ gieo trồng gần 9 ngàn hécta vụ hè thu
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai
Vụ Hè thu năm 2024, toàn huyện Cẩm Mỹ (Đồng Nai) gieo trồng gần 9 ngàn hécta cây hàng năm. Trong đó, cây bắp chiếm diện tích lớn nhất với hơn 5,8 ngàn hécta; cây lúa hơn 780 hécta...
Vùng chuyên canh cây bắp tại huyện Cẩm Mỹ. Ảnh: Song Lê
Trong đó, địa phương đã hình thành được những vùng chuyên canh trồng lúa sạch, rau sạch. Đặc biệt, mô hình trồng bắp thu hoạch cây làm thức ăn chăn nuôi gia súc, cho hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn so với trồng bắp thu hạt. Đặc biệt, trên địa bàn huyện có một số hợp tác xã, tổ hợp tác đầu tư dự án cánh đồng lớn trồng bắp làm thức ăn chăn nuôi gia súc, bao tiêu sản phẩm cho tổ viên, xã viên để đầu ra cho cây bắp bền vững hơn.
Năm nay, thời tiết vụ hè thu thất thường hơn mọi năm, ngay đầu mùa mưa đã có nhiều đợt mưa lớn xuất hiện nhưng cây trồng vụ hè thu vẫn phát triển tốt. Trong đó, nhờ bà con nông dân mạnh dạn áp dụng nhiều biện pháp khoa học kỹ thuật trong canh tác, xử lý sâu bệnh nên cây trồng tăng trưởng tốt, tình hình sâu bệnh được kiểm soát.
Song Lê
Vụ Hè Thu 2024: Giá lúa ổn định, nông dân có lợi nhuận cao
Nguồn tin: Báo Long An
Thời điểm này, nông dân tại các huyện vùng Đồng Tháp Mười của tỉnh Long An đang thu hoạch rộ lúa vụ Hè Thu (HT) 2024. Hiện giá lúa vẫn ổn định so với đầu vụ, dao động từ 7.200-7.800 đồng/kg (tùy giống), nông dân có lợi nhuận từ 25-38 triệu đồng/ha.
Năng suất, giá bán lúa ở mức cao
Thông tin từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, vụ lúa HT 2024, toàn tỉnh gieo sạ 218.415,5ha, đạt 101,6% kế hoạch, bằng 100,5% so cùng kỳ năm 2023. Vụ HT năm nay, do ảnh hưởng của hạn, xâm nhập mặn ở các huyện phía Nam nên thời gian gieo sạ tại các huyện vùng Đồng Tháp Mười và các huyện phía Nam chênh lệch khoảng 2 tháng.
Toàn tỉnh đã thu hoạch hơn 54.248ha lúa Hè Thu 2024
Theo đó, nông dân các huyện vùng Đồng Tháp Mười bắt đầu thu hoạch lúa từ cuối tháng 6/2024 và đã thu hoạch hơn 54.248ha, năng suất khô ước đạt 6,51 tấn/ha, sản lượng 352.891 tấn. Dự kiến, vụ HT sẽ thu hoạch dứt điểm vào cuối tháng 9/2024.
Tuy nhiên, hơn 2 tuần trở lại đây do thời tiết bất lợi, mưa giông, áp thấp nhiệt đới gây khó khăn, ảnh hưởng đến việc thu hoạch lúa và năng suất lúa của người dân. Để bảo vệ diện tích lúa HT trước mưa, bão, ngành Nông nghiệp tỉnh khuyến cáo nông dân các địa phương tranh thủ thời tiết nắng ráo tiến hành thu hoạch nhanh nhằm hạn chế thất thoát.
Tại huyện Tân Hưng, hàng ngàn hécta lúa HT 2024 đã cho thu hoạch, giá bán ổn định, nông dân thu lợi nhuận khá cao. Theo số liệu của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tân Hưng, đến thời điểm này, nông dân trên địa bàn huyện thu hoạch được hơn 25.000ha lúa HT 2024, năng suất từ 5 - 8 tấn/ha, giá bán dao động từ 7.000 - 7.600 đồng/kg (tùy giống), lợi nhuận từ 20 - 35 triệu đồng/ha.
Ông Nguyễn Văn Bé (xã Hưng Thạnh, huyện Tân Hưng) chia sẻ: “Mấy trận mưa dầm kèm thêm giông gió làm cho một số diện tích lúa bị ngã và ảnh hưởng đến năng suất. Nhìn chung, năng suất lúa vụ này cũng đạt tương đương những vụ HT trước, tuy nhiên nhờ lúa bán được giá, 7.800 đồng/kg nên tôi có lời khoảng 20 triệu đồng/ha”.
Theo Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tân Hưng - Phan Văn Nỉ, vụ lúa HT này, mặc dù nông dân một số địa phương gieo sạ sớm hơn so với lịch thời vụ mà ngành khuyến cáo nhưng do thời tiết khá thuận lợi, sâu, bệnh gây hại ít nên dự kiến năng suất lúa sẽ cao hơn so với các vụ HT trước.
“Những ngày qua, mưa giông và áp thấp nhiệt đới gây ngã một số diện tích lúa. Cùng với đó, mực nước dưới các tuyến kênh, sông khá cao gây khó khăn cho việc bơm thoát nước của nông dân. Ngành Nông nghiệp huyện phối hợp các địa phương nắm sát tình hình dự báo thời tiết và có những khuyến cáo kịp thời, bảo đảm việc thu hoạch và tiêu thụ lúa của nông dân” - ông Phan Văn Nỉ cho biết.
Thông tin từ Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Vĩnh Hưng, vụ HT năm nay, toàn huyện gieo sạ 28.624ha. Đến ngày 19/7/2024, nông dân trên địa bàn huyện thu hoạch được 5.963ha. Năng suất từ 4,5 - 8 tấn/ha, giá lúa dao động từ 6.800 - 7.300 đồng/kg tùy từng loại giống, nông dân thu lợi nhuận từ 16 - 34 triệu đồng/ha. Dự kiến khoảng 15 ngày nữa sẽ thu hoạch dứt điểm.
Theo Giám đốc Hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp Vĩnh Thuận (xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Hưng) - Nguyễn Thị Diệu Ngân, vụ HT 2024, tổng diện tích lúa của thành viên HTX khoảng 500ha, trong đó có 100ha lúa gồm 50ha sản xuất lúa giống (OM18) và 50ha sản xuất lúa sạch theo tiêu chuẩn châu Âu được ký hợp đồng bao tiêu.
“Giá sàn mà HTX thu mua cho nông dân là 7.500 đồng/kg. Riêng 50ha lúa sạch theo tiêu chuẩn châu Âu được cộng thêm 300 đồng/kg là 7.800 đồng/kg, lúa giống OM18 được cộng thêm 700 đồng là 8.200 đồng/kg. Còn lúa giống OM5451 thì HTX thu mua với giá 7.400 đồng/kg. Với giá lúa như hiện nay thì thành viên HTX có lợi nhuận từ 15-20 triệu đồng/ha” - bà Nguyễn Thị Diệu Ngân thông tin.
Ông Nguyễn Văn Em (ấp Kinh Mới, xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Hưng) bày tỏ: “Vụ HT này, tôi sạ 6ha lúa OM18. Hiện lúa bước vào giai đoạn thu hoạch. Vừa qua có bão nhưng đến thời điểm này cũng đã nắng ráo, thu hoạch khá thuận lợi. Ước tính, năng suất lúa của gia đình tôi đạt 6,5 tấn/ha, giá bán 7.500 đồng/kg. Sau khi trừ chi phí, gia đình tôi thu lợi nhuận khoảng 20 triệu đồng/ha”.
Theo Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Vĩnh Hưng - Đinh Châu Phong, một số diện tích lúa HT năm nay đạt năng suất khá thấp là do ảnh hưởng của bệnh cháy bìa lá và rầy phấn trắng. Cùng với đó, một số diện tích giảm năng suất là do ảnh hưởng của mưa, bão thời gian gần đây. Trong vụ Thu Đông sắp tới, ngành Nông nghiệp huyện khuyến cáo nông dân không gieo sạ lúa mà nên cho đất nghỉ ngơi hoặc sản xuất một vụ màu ngắn ngày, sau đó ngâm lũ để hướng đến sản xuất vụ Đông Xuân 2024-2025 hiệu quả.
Tập trung thu hoạch
Những ngày qua, mực nước tại các huyện đầu nguồn đang có dấu hiệu tăng, trung bình ngày đêm mực nước dâng lên từ 2-10cm. Thông tin về tình hình này, Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn và Thủy lợi tỉnh - Võ Kim Thuần cho biết, nguyên nhân làm cho mực nước tại các huyện đầu nguồn tăng là do nước mưa tồn đọng từ ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới và cơn bão số 2, trong những ngày tới, mực nước sẽ giảm và không ảnh hưởng đến tiến độ thu hoạch lúa của nông dân.
Theo dự báo của Viện Quy hoạch Thủy lợi Miền Nam, mực nước tại các trạm thuộc khu vực Đồng Tháp Mười sẽ tiếp tục giảm đến ngày 31/7/2024 với cường suất trung bình 2,2 cm/ngày, sau đó tăng trở lại với cường suất trung bình 3,6 cm/ngày và biến đổi theo triều.
Theo Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Nguyễn Thanh Truyền, vụ lúa HT năm nay, tỉnh duy trì diện tích sản xuất lúa chất lượng cao trên 90% tổng diện tích gieo trồng; áp dụng đồng bộ cơ giới hóa trong sản xuất, nhất là khâu gieo sạ, phun thuốc, bón phân, thu hoạch; tăng cường nhân rộng các mô hình sản xuất đạt chuẩn, hình thức liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu nông sản hiệu quả.
Bên cạnh đó, ngành Nông nghiệp tỉnh cùng các ngành chức năng, đơn vị có liên quan tăng cường công tác quản lý chất lượng lúa giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật; phối hợp Đài Khí tượng Thủy văn của tỉnh và Trung ương, theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết nhằm chủ động trong sản xuất; vận hành đóng, mở hệ thống cống phục vụ sản xuất, nhất là chủ động triển khai các giải pháp phòng, chống mưa, bão để bảo vệ sản xuất vụ lúa HT.
“Các diện tích lúa HT còn lại sẽ thu hoạch từ nay đến cuối tháng 9/2024 nên có nguy cơ ảnh hưởng do mưa, bão. Vì vậy, để bảo vệ diện tích lúa HT còn lại, ngành Nông nghiệp tỉnh yêu cầu chính quyền các địa phương và nông dân cần quan tâm huy động mọi nguồn lực, tranh thủ thời tiết nắng ráo tiến hành thu hoạch nhanh, đúng thời điểm lúa chín.
Ngành chức năng và chính quyền các địa phương cần thông tin kịp thời diễn biến thiên tai, áp thấp nhiệt đới, mưa, bão đến người dân để chủ động trong sản xuất, chăm sóc và bảo quản lúa sau thu hoạch; chủ động kiểm tra, tu sửa đê bao, bờ bao chắc chắn để bảo vệ đồng lúa. Bên cạnh đó, nông dân cần thường xuyên thăm đồng và bơm thoát nước kịp thời để hạn chế lúa bị ngã” - ông Nguyễn Thanh Truyền khuyến cáo./.
Bùi Tùng - Hoàng Tuân
Trồng ớt mặt quỷ siêu cay theo hợp đồng
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Những cây ớt được trồng trong nhà kính, tạo thành vòm với những trái ớt có màu đỏ tươi, có những hình dáng kỳ lạ. Đây là vườn ớt Habanero của một gia đình nông dân tại TP Bảo Lộc (tỉnh Lâm Đồng), trồng theo hợp đồng với đầu ra đã được bao tiêu.
Ông Ngô Văn Bình trong vườn ớt
Gia đình ông Ngô Văn Bình, thôn Thanh Hương 3, xã Lộc Thanh, TP Bảo Lộc đang thu hoạch ớt. Ông Ngô Văn Bình cho biết, khác hoàn toàn với các loại ớt thường được biết đến tại Việt Nam như ớt chuông, ớt xiêm, ớt cao sản…, ớt Habanero có nguồn gốc từ châu Phi, với hình dáng lạ và hương vị đặc biệt. Hái một trái ớt Habanero trong tay, ông Ngô Văn Bình chia sẻ: “Trái ớt Habanero này có hình dạng tương tự trái ớt chuông nhỏ. Nhưng hương vị của ớt rất đặc biệt, vô cùng cay, vị cay khác hẳn với ớt truyền thống Việt Nam. Hiện tại, gia đình chúng tôi đang canh tác ớt Habanero theo hợp đồng với doanh nghiệp, chuyên phục vụ sản xuất tương ớt”.
Theo ông Ngô Văn Bình, gia đình ông trồng ớt theo hợp đồng với một doanh nghiệp chuyên chế biến tương ớt. Với những loại tương ớt đặc biệt, ớt Habanero cho hương vị và màu sắc đạt chuẩn. Theo lời giới thiệu của Công ty Mimosa Tek, doanh nghiệp chuyên hỗ trợ các giải pháp nông nghiệp thông minh tại Lâm Đồng, gia đình ông Vũ Văn Bình đã ký kết hợp đồng trồng ớt Habanero. Theo đó, doanh nghiệp giao cho nông dân cây ớt giống. Đồng thời, chuyển giao kĩ thuật canh tác cho nông dân và bao tiêu sản phẩm hoàn toàn.
Khác với các loại ớt cay thường được trồng trên đất, ớt Habanero trồng tương tự với ớt chuông, cây được trồng trong bịch giá thể. Ông Ngô Văn Bình chia sẻ: “Như gia đình tôi trồng hai gốc ớt trong một bịch. Chế độ chăm sóc của cây ớt khá dễ, tưới nhỏ giọt cũng như phân bón thông qua hệ thống tưới. Ớt Habanero có đặc thù là lớn nhanh, cây rất ít bệnh, chỉ cần chú ý làm lá, đảm bảo chế độ tưới là có ớt trái thu hoạch”. Theo ông Ngô Văn Bình, từ cây ớt giống cao 15 cm, sau hai tháng, gia đình đã bắt đầu được thu hoạch ớt. Ớt Habanero có nhiều hình dáng tùy từng chủng loại, trong đó có cả trái ớt có hình dáng nhăn, thường được gọi là ớt “mặt quỷ” siêu cay. Mỗi sáng, gia đình thu hoạch ớt, chọn trái chín đỏ để thu hoạch. Theo ông Bình, doanh nghiệp yêu cầu hái ớt chín đỏ bởi khi đó, trái ớt mới đạt hương vị và vị cay đậm đà nhất, phù hợp với quy trình làm tương ớt. Theo thông tin từ doanh nghiệp cung cấp khi ký hợp đồng, năng suất mỗi gốc ớt đạt 2 kg. Gia đình có thể thu hoạch liên tục trong 7 tháng, sau đó vườn ớt sẽ giảm dần năng suất. Một sào, với số lượng 2.500 gốc ớt, gia đình ông Bình sẽ thu được 6 tấn trái. Hiện tại, ông đang thu hoạch đến tháng thứ tư và theo ông, năng suất sẽ đạt tương tự với thông tin từ doanh nghiệp đưa ra.
“Giá doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm ớt Habanero là 63 ngàn đồng/kg. Đây không phải là một con số quá cao nhưng bù lại, người nông dân rất ổn định bởi khi trồng xuống đã biết thu nhập thực tế từ vườn ớt”, ông Ngô Văn Bình chia sẻ. Bên cạnh đó, cây ớt Habanero rất dễ chăm sóc, ít bệnh. Người trồng chỉ cần ngừa nấm và bọ trĩ, nhện đỏ khi cây ớt còn bé. Sau 30 ngày xuống giống, khi đã khá cứng cáp, cây ớt gần như không còn bệnh. Đồng thời, Công ty Mimosa Tek hướng dẫn nông dân cách chăm sóc ớt hiệu quả, sử dụng thuốc sinh học, cách ly đúng thời gian. Vì vậy, trồng ớt luôn đảm bảo sức khỏe cho người nông dân cũng như đảm bảo chất lượng trái ớt Habanero.
Hiện tại, tại xã Lộc Thanh đã có một số nông hộ chuyển từ canh tác các loại rau trong nhà kính khác sang trồng ớt Habanero theo hợp đồng với doanh nghiệp, bà Vũ Thị Yến - Chủ tịch Hội Nông dân xã Lộc Thanh cho biết. Cây ớt Habanero yêu cầu được trồng trong nhà kính, trồng trên giá thể, tương tự như các loại ớt chuông. Tuy nhiên, đây là một giống cây mới, trồng với mục đích chế biến tương ớt, rất khó bán trên thị trường tự do nên vì vậy, nông dân cần đảm bảo có hợp đồng tiêu thụ đầu ra trước khi xuống giống, bà Yến thông tin. Nhiều nông dân tại khu vực Lộc Thanh đã có hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp, xuống giống trồng ớt Habanero, mang lại một nguồn thu nhập mới, đồng thời cũng cung cấp cho doanh nghiệp những trái ớt siêu cay đạt chuẩn, đảm bảo chất lượng tương ớt mang thương hiệu Việt. Bà Vũ Thị Yến cũng cho biết, Hội Nông dân luôn vận động nông dân trồng nông sản theo hợp đồng, đảm bảo đầu ra an toàn, mang lại thu nhập ổn định cho nông dân, đồng thời nông dân cũng được phía doanh nghiệp hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật canh tác hiện đại.
DIỆP QUỲNH
Ðậu xanh được mùa, được giá
Nguồn tin: Báo Bình Định
Những ngày này, trên các cánh đồng ở xã An Hòa, An Tân của huyện An Lão (tỉnh Bình Định), nông dân đang tập trung thu hoạch đậu xanh trong niềm vui được mùa, được giá.
Là hộ có diện tích đậu xanh nhiều nhất thôn, ông Nguyễn Liêm, ở thôn Thanh Sơn, xã An Tân cho biết, toàn bộ diện tích 7 sào lúa Hè Thu, gia đình ông chuyển sang trồng đậu xanh. Nhờ nắm chắc kỹ thuật, từ khâu chọn giống cho đến chăm sóc đúng quy trình, cộng thêm thời tiết phù hợp, sau 65 ngày, cây đậu cho thu hoạch. “Năm nay, năng suất đạt khoảng 120 kg/sào, tăng 20 kg/sào so với năm ngoái. Mỗi vụ thường thu hoạch được 5 đợt, năm nay đã hái đợt thứ 5 mà cây vẫn còn sai trái và tiếp tục ra hoa. Với giá bán ổn định 40.000 đồng/kg, gia đình tôi có lãi gần 4 triệu đồng/sào, cao gấp đôi so với trồng lúa trên cùng chân đất”, ông Liêm nói.
Nông dân An Lão đang tập trung thu hoạch đậu xanh. Ảnh: D.T.D
Những năm gần đây, sau khi thu hoạch lúa vụ Đông Xuân, bà con An Lão tiến hành trồng cây đậu xanh, với diện tích khoảng 30 ha. Đến cuối tháng 7 này, phần lớn ruộng đậu đã được bà con thu hoạch, năng suất trung bình đạt từ 100 - 120 kg/sào, cao hơn 20 - 30 kg/sào so với năm 2023.
Việc chuyển những diện tích đất không chủ động nước tưới sang cây trồng cạn có giá trị kinh tế như cây đậu xanh là giải pháp hợp lý của nông dân huyện An Lão.
Ông Lê Hoàng Hiền, Phó Chủ tịch Hội Nông dân huyện, cho biết: An Lão là địa phương có truyền thống sản xuất cây trồng cạn trong vụ Hè Thu. Thời gian tới, Hội sẽ tiếp tục tuyên truyền, triển khai nhân rộng mô hình này trên những diện tích đất sản xuất trước đây bị bỏ hoang vụ Hè Thu, nhằm giúp bà con thay đổi phương thức canh tác theo hướng bền vững, nâng cao trình độ thâm canh, thích ứng với biến đổi khí hậu và tăng thêm thu nhập cho nông dân.
DIỆP THỊ DIỆU
100 gian hàng tham gia Phiên chợ nông sản và sản phẩm OCOP Khánh Hòa 2024
Nguồn tin: Báo Khánh Hòa
Tối 1-8, tại Công viên Yến Phi - Công viên Thiếu Nhi (TP. Nha Trang), Phiên chợ nông sản và sản phẩm OCOP Khánh Hòa năm 2024 đã khai mạc. Các ông, bà: Nguyễn Tấn Tuân - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; Hà Quốc Trị - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh; Nguyễn Xuân Thắng - Trưởng Ban Dân tộc, Tôn giáo, Quốc phòng, An ninh - Hội Nông dân Việt Nam; Trần Thu Mai - Chủ tịch UBMTTQ Việt Nam tỉnh; Phạm Thị Xuân Trang - Phó Chủ tịch HĐND tỉnh và đông đảo hội viên, nông dân, người dân và du khách trong ngoài tỉnh đến dự.
Các đại biểu cắt băng khai mạc phiên chợ.
Phiên chợ do Hội Nông dân tỉnh Khánh Hòa tổ chức. Phiên chợ có quy mô 100 gian hàng, trong đó có 65 gian hàng nông sản và nông sản chế biến, trên 40 sản phẩm đạt chứng nhận OCOP như: sầu riêng (Khánh Sơn); bưởi da xanh, chuối (Khánh Vĩnh); dừa xiêm, rau sạch, tỏi sẻ, gạo Ngọc Quang (Ninh Hòa); xoài sấy dẻo, táo (Cam Ranh); chả cá, trầm hương, dừa xiêm (Vạn Ninh); các loại xoài và sản phẩm từ xoài (Cam Lâm); nấm, rong nho (Nha Trang)…
Ngoài ra, các gian hàng còn trưng bày giới thiệu và cung ứng các sản phẩm công nghệ sinh học, hàng mỹ nghệ, cây cảnh, sinh vật cảnh, vật tư nông nghiệp phục vụ sản xuất có chất lượng và giá trị ứng dụng cao của các doanh nghiệp, đơn vị uy tín. Đến với phiên chợ, du khách còn có cơ hội tìm hiểu những sản phẩm làng nghề truyền thống và thưởng thức ẩm thực của các địa phương trên địa bàn Khánh Hòa.
Ngoài Khánh Hòa, phiên chợ còn có các gian hàng nông sản đặc trưng đến từ TP. Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Phú Yên, Huế, Lào Cai… tham gia quảng bá, giới thiệu, trưng bày.
Trong khuôn khổ phiên chợ, Hội Nông dân tỉnh Khánh Hòa tổ chức Hội thảo “Trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh giỏi trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi”; ký kết với Hội Nông dân tỉnh Đắk Lắk phối hợp về tuyên truyền, vận động, hỗ trợ nông dân 2 tỉnh trong phát triển sản xuất kinh doanh; giao lưu tiếng hát nông dân vào đêm 2-8 nhằm giới thiệu đời sống văn hóa của hội viên nông dân, qua đó giới thiệu nét đẹp quê hương, hình ảnh, con người Khánh Hòa với du khách khi đến phiên chợ.
Phát biểu tại phiên chợ, Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Tấn Tuân chúc mừng và đánh giá cao các sản phẩm tham gia phiên chợ, nhất là những sản phẩm đặc trưng, đặc hữu, có chất lượng cao, mẫu mã đẹp. Ông đề nghị các cấp hội nông dân tiếp tục đồng hành, hỗ trợ hội viên, nông dân kết nối thị trường tiêu thụ nông sản; triển khai các mô hình du lịch nông nghiệp, nông thôn, qua đó thúc đẩy sản xuất kinh doanh sản phẩm nông sản phát triển theo hướng an toàn, xanh và bền vững.
Phiên chợ sẽ diễn ra đến hết ngày 4-8.
C.Đ
Thay đổi để phát triển
Nguồn tin: Báo Bình Phước
Trong sản xuất nông nghiệp, việc nông dân thay đổi phương thức sản xuất, giống cây trồng, vật nuôi để đạt hiệu quả kinh tế cao là điều tất yếu. Sự năng động, linh hoạt của từng mô hình làm cho phong trào thi đua lao động, sản xuất giỏi thêm đa dạng, phong phú và ngày càng được lan tỏa.
THAY GIỐNG BÒ MỚI
Lâu nay, mô hình chăn nuôi bò ở xã Quang Minh, TX. Chơn Thành (tỉnh Bình Phước) được nông dân phát triển mạnh. Lợi thế của địa phương có nhiều đồng cỏ, nguồn thức ăn dồi dào. Hiện tổng đàn bò toàn xã khoảng 700 con, phần lớn thuộc giống bò vàng, trong đó có Tổ hợp tác (THT) chăn nuôi bò ấp Bàu Teng với 8 thành viên tham gia. Các hộ thường xuyên hỗ trợ nhau trong chăn nuôi. Tuy nhiên, mấy năm trở lại đây, giống bò này bị thoái hóa, chất lượng giảm sút, nhỏ con, sinh sản kém. Do vậy, Hội Nông dân xã Quang Minh đã chuyển đổi sang giống bò lai Sind chất lượng cao để nông dân phát triển.
Chú bê giống lai Sind là kết quả từ dự án chuyển đổi giống do Hội Nông dân xã Quang Minh quản lý, Tổ hợp tác nuôi bò ấp Bàu Teng thụ hưởng
Ông Trần Quang Sắc, Chủ tịch Hội Nông dân xã Quang Minh cho biết: Từ Nghị quyết số 06/2023/NQ-HĐND của HĐND tỉnh quy định một số nội dung, mức hỗ trợ nguồn vốn sự nghiệp thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2023-2025 trên địa bàn tỉnh, hội đã xây dựng phương án nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của THT chăn nuôi bò ấp Bàu Teng và đã được UBND thị xã chấp thuận. Hội Nông dân xã là đơn vị quản lý mô hình. Chúng tôi giao THT chăn nuôi bò ấp Bàu Teng trực tiếp thực hiện. Với số vốn 20 triệu đồng, THT đã mua 1 cặp bò cái giống lai Sind để nuôi thử nghiệm và hiện đã sinh bê.
Ông Nguyễn Đình Tú, tổ trưởng trực tiếp quản lý, chăm sóc bò của mô hình cho biết: Hằng ngày, đàn bò giống cũ của THT được chăn thả tập trung. Các hộ thành viên thay nhau cử người đi chăn thả. Mô hình này có nhiều ưu điểm, tuy nhiên lâu nay, việc bò trong đàn phối giống lẫn nhau dẫn đến mau chóng bị thoái hóa. Do vậy, khi thực hiện chuyển sang bò lai Sind, các hộ sẽ chăn thả riêng theo từng nhóm. Với nhiều ưu điểm vượt trội, bò lai Sind có giá cao hơn. Mới đây, có 2 hộ dân đã mua bò lai Sind để cải thiện chất lượng đàn. Chúng tôi tiếp tục phổ biến kiến thức, kinh nghiệm chăn nuôi, phòng chống dịch bệnh trên đàn bò để nông dân phát triển.
NUÔI LƯƠN SINH SẢN
Thời gian gần đây, người nuôi lươn trên địa bàn tỉnh gặp khó do giá lươn thương phẩm xuống thấp. Lươn nuôi đến kỳ phải bán, nhưng bán lỗ vốn nên anh Phan Minh Hiếu ở thôn 5, xã Minh Hưng, huyện Bù Đăng đã quyết định chuyển đổi sang nuôi lươn sinh sản. Anh Hiếu cho rằng, nếu mô hình này thành công, có lươn giống bán giá thấp hơn thị trường, giảm chi phí ban đầu sẽ góp phần giúp người nuôi lươn phát triển bền vững hơn.
Để thực hiện mô hình, anh Hiếu đã đi các tỉnh miền Tây Nam Bộ tham quan mô hình nuôi lươn sinh sản để học tập kinh nghiệm, đồng thời không ngừng tìm hiểu kiến thức trên internet để áp dụng thực tế. Với số lượng lươn thương phẩm hiện có, anh đã chọn những con chất lượng tốt, phù hợp sinh sản chuyển sang bể mới và hiện đã có kết quả.
“Tôi chọn những con từ 10-12 tháng tuổi, nặng khoảng 150g trở xuống, những con có thân nhỏ, ngắn sẽ đẻ trứng tốt. Đến nay, hầu hết các ổ do mình tạo ra đã có lươn vào đẻ. Từ ổ trứng đó, tôi chuyển sang bể dành riêng để ấp trứng và nở thành lươn con. Sau khoảng 2,5-3 tháng, lươn con được thả vào môi trường nuôi lớn thành thương phẩm”.
Gia đình anh Hiếu hiện sản xuất được hơn 4.000 con giống để nuôi thương phẩm. Anh Hiếu cho biết, thời gian tới sẽ cải tạo thêm 10 bể, đáp ứng nhu cầu lươn giống cho người dân địa phương.
Ông Nguyễn Minh Châu, Chủ tịch Hội Nông dân xã Minh Hưng cho biết: Xã hiện có THT nuôi lươn không bùn, gồm 7 thành viên. Thời gian qua, hội đã phối hợp với các ngành liên quan hỗ trợ nông dân tiếp cận được nguồn vốn ưu đãi 350 triệu đồng. Tuy nhiên, giá lươn xuống thấp, chi phí cao khiến một số hộ lo lắng. Do vậy, cách làm của anh Hiếu là hướng đi hứa hẹn nhiều thành công.
SẢN XUẤT THEO NHU CẦU
Trên địa bàn tỉnh, mô hình trồng dưa lưới được nhiều nông dân phát triển. Phần lớn các mô hình đều phải đầu tư vốn ban đầu cao. Khi có sản phẩm, hộ nào cũng muốn tiêu thụ thuận lợi, bán được giá như mong muốn. Tuy nhiên, để làm được điều đó, cần liên kết chặt chẽ, sản xuất theo nhu cầu.
Gia đình bà Nguyễn Thị Mỹ Tân ở ấp Suối Nhung, xã Tân Hưng, huyện Đồng Phú khởi nghiệp bằng mô hình trồng dưa lưới từ năm 2019. Trải qua nhiều thăng trầm do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, đến nay gia đình bà đã sản xuất ổn định với thu nhập cao từ 5 sào dưa lưới trong nhà màng.
Bà Tân cho biết, vườn dưa của gia đình chưa được cấp mã vùng trồng, chưa được chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP nên việc tiêu thụ phải linh hoạt. Để thích ứng với thực tế, bà thường xuyên tìm hiểu nhu cầu thị trường để sản xuất sản phẩm phù hợp. Hiện nhiều người trồng giống dưa vàng VA.74, tuy nhiên gia đình bà chuyển sang trồng dưa xanh Hạ Uyển. So với dưa vàng, dưa xanh thương phẩm có chi phí hạt giống thấp hơn, ngoài ra cây khỏe, ít sâu bệnh nên chi phí chăm sóc cũng giảm.
“Bình quân, giá bán dưa xanh thấp hơn dưa vàng khoảng 10.000 đồng/kg. Nếu có công ty thu mua theo hợp đồng thì tốt, còn thương lái mua để bán lẻ thì cũng dễ tiêu thụ vì đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tượng người tiêu dùng” - bà Tân chia sẻ.
Quang Minh
TP. Thái Nguyên: Tăng giá trị nông sản từ sản xuất hữu cơ
Nguồn tin: Báo Thái Nguyên
Trong cơ cấu kinh tế của TP. Thái Nguyên, nông nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ và đang giảm dần do diện tích đất bị thu hồi để triển khai các dự án. Thời gian qua, thành phố chú trọng nâng cao giá trị nông sản, trọng tâm là triển khai các mô hình sản xuất theo hướng hữu cơ.
Cán bộ chuyên môn của TP. Thái Nguyên hướng dẫn gia đình anh Nguyễn Văn Tiến, ở xóm Khuôn, xã Phúc Trìu, chăm sóc chè theo hướng hữu cơ.
Chè là cây trồng chủ lực trong phát triển kinh tế của nông dân TP. Thái Nguyên, với tổng dân tích trên 1.500ha, tập trung nhiều tại các xã phía Tây, như: Tân Cương, Phúc Trìu, Phúc Xuân, Thịnh Đức, Quyết Thắng… Để nâng cao giá trị cây chè, địa phương đã đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về sản xuất nông nghiệp an toàn, hữu cơ. Hiện nay, khoảng 80% diện tích của TP. Thái Nguyên đang được sản xuất theo quy trình VietGAP, hữu cơ.
Đầu năm 2024, anh Nguyễn Văn Tiến, ở xóm Khuôn, xã Phúc Trìu, đăng ký thực hiện sản xuất hữu cơ trên toàn bộ 2,5ha chè của gia đình. Anh Tiến nhận xét: Khi chuyển sang hướng hữu cơ, sử dụng toàn bộ phân vi sinh thay thế cho phân hóa học, cây trồng không bị chững, mà phát triển rất tốt. Năng suất và chất lượng sản phẩm chè tăng cao từ 20-25%; giá bán từ 600-700 nghìn đồng/kg, cao hơn 200-300 nghìn đồng/kg so với trước đây.
Ông Nguyễn Hồng Khanh, Phó Chủ tịch UBND xã Phúc Trìu, thông tin: Là xã thuần nông, đời sống người dân phục thuộc chính vào cây chè. Do đó, việc triển khai các mô hình chăm sóc chè an toàn được bà con rất quan tâm. Nhất là khi các mô hình này được Nhà nước hỗ trợ vật tư, phân bón và khoa học - kỹ thuật. Với tổng diện tích 370ha chè toàn xã, có gần 90% đã sản xuất theo hướng an toàn, hữu cơ. Trong đó, ½ diện tích được người dân chăm sóc hữu cơ từ 3-4 năm, tập trung nhiều ở các xóm: Phúc Thuần, Phúc Thành, Soi Mít...
Cùng với cây chè, TP. Thái Nguyên còn triển khai các mô hình hữu cơ với cây ăn quả, cây lúa. Đơn cử như vụ đông - xuân vừa qua, thành phố triển khai thành công mô hình sản xuất lúa hữu cơ, với quy mô 24ha, tại 3 xã: Đồng Liên, Linh Sơn và Tân Cương, trên 200 hộ dân tham gia. Giống lúa đưa vào trong mô hình là HD11 và HDT10.
Qua đánh giá, canh tác theo phương pháp hữu cơ, cây lúa sinh trưởng và phát triển khoẻ, khả năng chống chịu sâu bệnh, điều kiện ngoại cảnh tốt; cải tạo đất, bảo vệ môi trường. Hiệu quả kinh tế, năng suất cao hơn khoảng 10-15% so với giống đối chứng, chất lượng gạo ngon hơn hẳn.
Bà Đào Thị Kim Quý, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp TP. Thái Nguyên, cho biết: Thực hiện sự chỉ đạo UBND thành phố, năm 2024, Trung tâm triển khai các mô hình nông nghiệp hữu cơ với cây chè (8ha) và cây lúa (24ha). Nếu tính cả các mô hình mà các cơ quan chức năng của tỉnh triển khai, đã có khoảng 30% diện tích chè của thành phố được chứng nhận và chứng nhận chuyển đổi.
Kết quả cho thấy, sản xuất theo hướng hữu cơ giúp cải thiện rõ rệt cả về năng suất, chất lượng cây trồng và tiêu thụ sản phẩm thuận lợi. Trên cơ sở này, Trung tâm sẽ tiếp tục đề xuất nhằm mở rộng hơn nữa quy mô, diện tích nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn; gần nhất là vụ mùa này sẽ triển khai mô hình lúa hữu cơ với quy mô 30ha.
Để nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp, bên cạnh việc triển khai các mô hình hữu cơ, cơ quan chuyên môn của TP. Thái Nguyên hướng dẫn nông dân tham gia nhiều mô hình ứng dụng công nghệ cao. Hiện nay, thành phố đã hình thành vùng sản xuất cây ăn quả tập trung tại xã Linh Sơn, với hơn 70ha diện tích trổng ổi; 100ha sản xuất hoa, rau ứng dụng công nghệ cao tại xã Huống Thượng…
Ngoài ra, thành phố còn ban hành, triển khai các đề án về phát triển cây trồng, như: Bảo tồn và phát triển vùng chè đặc sản Tân Cương; bảo tồn giống chè Trung du… Qua đó góp phần nâng cao giá trị sản phẩm trên 1ha đất nông nghiệp trồng trọt. Dự kiến đến hết năm 2024, giá trị sản phẩm trên đất nông nghiệp trồng trọt của TP. Thái Nguyên đạt 170 triệu đồng/ha, tăng gần 52 triệu đồng/ha so với năm 2021.
Chung An
Thúc đẩy phát triển chăn nuôi hữu cơ: Hướng tới một nền nông nghiệp an toàn, bền vững
Nguồn tin: Báo Tây Ninh
Những năm gần đây, nhu cầu sử dụng thực phẩm sạch, an toàn, thân thiện với môi trường ngày càng được chú trọng. Việc đẩy mạnh các giải pháp phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ là xu thế tất yếu, hướng tới một nền nông nghiệp an toàn và bền vững.
Chăn nuôi hữu cơ là một phần trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ, sử dụng các nguồn thức ăn tự nhiên, không sử dụng thức ăn có thành phần biến đổi gen, thức ăn tăng trọng, kháng sinh, chất kích thích tăng trưởng, đồng thời bảo đảm cho động vật có môi trường sống thoải mái nhất và bảo vệ môi trường sinh thái. Ngoài ra, chăn nuôi hữu cơ cũng góp phần giải quyết các thách thức mà cả thế giới phải đối mặt như dịch bệnh, biến đổi khí hậu, ô nhiễm nước; góp phần vào công tác đa dạng sinh học, lưu giữ các nguồn gen quý.
Trong thực tế, việc phát triển công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp ở nước ta đã mang lại những thành tựu to lớn về nông nghiệp. Tuy nhiên, những thành tựu đó của ngành chăn nuôi cũng dẫn đến nhiều hệ luỵ như: chất thải chăn nuôi gây ô nhiễm môi trường, nguồn thực phẩm chăn nuôi không bảo đảm chất lượng về tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. Vì vậy, việc phát triển nông nghiệp hữu cơ nói chung, chăn nuôi hữu cơ nói riêng trở thành vấn đề cấp bách, nhất là thời điểm Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với quốc tế.
Tại Việt Nam, theo công bố của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), tỷ lệ sản phẩm chăn nuôi hữu cơ đạt từ 1%-2% so với tổng sản phẩm chăn nuôi. Các sản phẩm chăn nuôi tiềm năng, đã được chứng nhận hữu cơ và được ưu tiên như sữa, mật ong, yến sào, thịt gia súc, gia cầm.
Trại nuôi gà của anh Nguyễn Năng Cường, ấp Thạnh Hiệp, xã Thạnh Đông, huyện Tân Châu có diện tích 2,4 ha, quy mô nuôi khoảng 9.000 con. Hiện anh nuôi giống gà ri Lượng Huệ- Hải Phòng. Khu vực nuôi được bố trí ở nơi cao ráo, dễ thoát nước; chuồng trại được thiết kế bảo đảm lưu thông không khí và có tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng tự nhiên, thuận lợi cho ăn, uống, vận động của gà. Trong quá trình nuôi, anh thường xuyên tiêu độc khử trùng, thực hiện các biện pháp ngăn ngừa dịch bệnh để duy trì sức khoẻ tốt cho đàn gà.
Anh Cường chăm sóc đàn gà
“Khi phối trộn thức ăn, tôi tăng tỉ lệ bắp nên chất lượng thịt tốt hơn. Ngoài ra, tôi còn tận dụng những phụ phẩm trong nông nghiệp, thức ăn có sẵn tại địa phương như bắp, cám... ủ men vi sinh, qua đó, giúp tăng cường hệ tiêu hoá, tăng sức đề kháng, hạn chế dịch bệnh, giảm chi phí chăn nuôi” - anh Cường nói.
Tuy nhiên, theo anh Cường, chăn nuôi hữu cơ còn là hình thức mới, có nhiều tiêu chí cần phải tuân thủ, chi phí sản xuất cao nên giá thành sẽ cao hơn so với chăn nuôi truyền thống, do đó, nông dân còn e ngại về vấn đề đầu ra. Anh mong muốn ngành chức năng tuyên truyền, phổ biến rộng rãi về chăn nuôi hữu cơ; đồng thời hỗ trợ xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, liên kết sản xuất - tiêu thụ các sản phẩm từ chăn nuôi hữu cơ, từ đó tạo thuận lợi cho hình thức chăn nuôi này phát triển bền vững.
Theo TS. Nguyễn Văn Bắc- Phó trưởng Văn phòng Thường trực tại Nam bộ, Trung tâm Khuyến nông quốc gia, chăn nuôi hữu cơ là một trong những chủ trương, chính sách của Bộ NN&PTNT, đặc biệt trong những năm gần đây đã có những quy chuẩn về chăn nuôi hữu cơ. Tây Ninh được Bộ NN&PTNT xác định là một trong những trọng điểm chăn nuôi của cả nước. Sắp tới, tỉnh sẽ có nhiều cơ sở chăn nuôi an toàn cấp huyện và khả năng là cấp tỉnh. Đây là điều kiện thuận lợi để ngành chăn nuôi của tỉnh phát triển hoặc xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi ra thị trường thế giới.
“Tại Tây Ninh, hiện có rất nhiều doanh nghiệp đang đầu tư theo hướng chăn nuôi hữu cơ, như trang trại bò sữa ở Bến Cầu của Công ty Vinamilk, hoặc các trang trại chăn nuôi theo tiêu chuẩn Halal xuất khẩu sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp như Tập đoàn Hùng Nhơn kết hợp với De Heus... triển khai các dự án này. Bên cạnh đó, chăn nuôi nông hộ ở Tây Ninh vẫn còn khá nhiều, đây cũng là một trong những đối tượng cung cấp thực phẩm rất quan trọng cho tỉnh. Hằng năm, Trung tâm Khuyến nông quốc gia đều có những dự án, chương trình đào tạo, tập huấn về chăn nuôi hữu cơ, qua đó giúp cho các hộ chăn nuôi ở Tây Ninh có thể triển khai một cách tốt nhất trong thời gian tới”- TS. Nguyễn Văn Bắc cho biết.
Một số tiêu chuẩn chính trong chăn nuôi hữu cơ mà các cơ sở, trang trại cần phải chú ý gồm: khu vực định chăn nuôi hữu cơ phải có ranh giới, có thời gian chuyển đổi phù hợp với từng loại vật nuôi; về con giống, khuyến khích con giống bản địa, được lấy từ các cơ sở giống hữu cơ; hạn chế sử dụng thức ăn có nguồn gốc động vật như bột cá, bột thịt; khuyến khích sử dụng các thức ăn có nguồn gốc từ thực vật; không sử dụng các chất kích thích trong thức ăn, không sử dụng thức ăn có nguồn gốc biến đổi gen.
Một yếu tố rất quan trọng nữa trong chăn nuôi hữu cơ là các trang trại phải đáp ứng được các phúc lợi động vật, khuyến khích chăn nuôi bảo đảm tập tính, bản năng của vật nuôi, như đối với gà phải có sàn đậu, có chỗ bới; heo mới phối giống nên nuôi theo hình thức nhóm heo sẽ tốt hơn nuôi từng con trong cũi... Người chăn nuôi nên tham khảo các quy chuẩn chăn nuôi hữu cơ của Việt Nam, hoặc thông qua Trung tâm Khuyến nông, các đơn vị trong ngành Nông nghiệp để tham quan, học hỏi kinh nghiệm, nắm được các tiêu chuẩn, yêu cầu về chăn nuôi hữu cơ và từng bước áp dụng tại cơ sở của mình.
TS. Nguyễn Văn Bắc chia sẻ: “Có thể nói, chăn nuôi hữu cơ hiện nay là một vấn đề khá mới cho nên thách thức đầu tiên đó là về nhận thức - nhận thức đối với người quản lý và với người chăn nuôi. Do vậy, trước hết cần phải tăng cường công tác tuyên truyền. Các Trung tâm Khuyến nông cần tăng cường triển khai các mô hình về chăn nuôi hữu cơ để nông dân đến tham quan, học tập. Những chủ trương, chính sách cũng cần phải được bổ sung, hoàn thiện để sát với thực tế, từ đó mới có thể nhân rộng mô hình.
Chăn nuôi nói chung và chăn nuôi hữu cơ nói riêng là một ngành cần có sự ổn định về đất đai, quy hoạch. Do đó, về phía chính quyền địa phương cũng cần có những quy hoạch về chăn nuôi. Ngoài ra, do đây là một sản phẩm mới nên cần tạo ra những chuỗi liên kết từ sản xuất đến người tiêu dùng, để sản phẩm này thực sự có hiệu quả và sự ổn định”.
Trúc Ly
Hiệu quả từ nuôi chồn hương
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Những năm qua, BCĐ Chương trình xây dựng NTM xã Bình Phước (huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long) vận động người dân phát triển các mô hình kinh tế hiệu quả, để nâng cao thu nhập trên cùng diện tích canh tác, góp phần nâng chất tiêu chí thu nhập trong xây dựng NTM. Trong đó, mô hình nuôi chồn hương đang mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Nuôi chồn hương hiệu quả cao
Bắt tay nuôi chồn hương từ năm 2016, nhưng không hiệu quả. Mãi đến năm 2018, ông Trần Văn Long (tên thường gọi là Ba Long, ngụ ấp Phước Chí, xã Bình Phước) mới tìm mua được con giống chất lượng ở Campuchia và phát huy hiệu quả kinh tế đến ngày hôm nay. Nhờ nuôi chồn hương hiệu quả mà ông có tiền cất 3 căn biệt thự rộng lớn, phía trước có làm bờ kè, không gian rộng thoáng. Trong đó, 1 căn của vợ chồng ông, 2 căn còn lại là ông cất cho con trai và con gái.
Ông Ba Long kể: Những năm đầu, do không biết nguồn gốc, xuất xứ, nên ông mua phải con giống trôi nổi trên mạng, chồn bị chết nhiều, làm ăn thất bại. Sau này, được người bạn giới thiệu nguồn giống chất lượng ở nước láng giềng nên ông tìm đến mua thử 5 con, nuôi lần lần rồi nhân giống ra. “Trước khi đầu tư phải tìm hiểu kỹ và nuôi chồn hương phải có kỹ thuật riêng- từ kinh nghiệm mà ra”- ông Ba Long đúc kết.
Theo ông Ba Long, nuôi chồn hương có giá trị lâu dài, lợi nhuận cao hơn các loài vật khác. Bình quân, nuôi trong 8 tháng, chồn hương có thể đạt trọng lượng khoảng 4kg, là có thể cho xuất chuồng. Giá bán dao động 1,7-2,5 triệu đồng/kg, ông bỏ túi khoảng 6,8-10 triệu đồng/con. Trong khi chi phí bỏ ra không quá 1,5 triệu đồng/con.
Tổng đàn nuôi chồn hương của ông Ba Long có thời điểm lên đến 800 con. Trong đó, khu vực nhà ông có trại nuôi với 140 ô nuôi (140 con). Ông nuôi xoay vòng xen kẽ, chủ yếu là bán giống. Theo ông Ba Long, mỗi trại nuôi chỉ cần 1 người chăm sóc là đủ. Mỗi ngày chỉ cần bỏ ra 1 tiếng đồng hồ để cho ăn và chăm sóc chồn hương.
Ngoài ra, ông Ba Long còn nhân rộng trại nuôi ở nhà các con của ông. Khu vực này được đầu tư mới và hiện đại hơn, có vòi uống nước tự động.
Ông Ba Long còn tạo việc làm cho 20 hộ nuôi gia công. Theo đó, mỗi hộ chăm sóc 20 con chồn hương, được ông trả công 5 triệu đồng/tháng. Cách làm này vừa giúp ông mở rộng quy mô chăn nuôi, vừa tạo an sinh xã hội cho các hộ bị bệnh, tai biến, không thể đi làm xa. “Sắp tới, tôi định sẽ nhân rộng cho thêm 20 hộ nuôi gia công nữa, để tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho những người yếu thế”- ông Ba Long dự tính.
Nâng thu nhập, góp sức xây nông thôn mới
Mô hình nuôi chồn hương khá hiệu quả, nhưng chi phí đầu tư ban đầu khá cao. Chỉ tính riêng con giống là 20 triệu đồng/con. Hiện, thị trường tiêu thụ chồn hương chủ yếu là ở miền Trung và miền Bắc.
“Thị trường Trung Quốc cũng rất thích chồn hương”- ông Ba Long cho biết và nói: Mỗi hộ nuôi 10 con chồn thương phẩm, bỏ túi bạc trăm triệu đồng mỗi năm là bình thường. Khi đẻ thì tự chồn hương mẹ nuôi, đến khi chồn hương con biết ăn thì tách ra. Mỗi năm chồn hương đẻ 2 đợt, khoảng 5-7 con/đợt.
Nhờ làm kinh tế hiệu quả, ông Ba Long nhiệt tình hỗ trợ địa phương xây dựng đường giao thông nông thôn, mua BHYT cho học sinh nghèo, tặng tập vở, lắp đặt máy điều hòa cho trường mẫu giáo... “tôi mần ăn được nên cũng dành phần nào góp sức cùng địa phương”- ông Ba Long nói.
Theo BCĐ Chương trình xây dựng NTM xã Bình Phước, bên cạnh mô hình nuôi chồn hương, ở xã hiện còn có các mô hình kinh tế hiệu quả như nuôi dế, trồng sầu riêng, trồng bưởi da xanh xen dừa và tắc... góp phần tăng thu nhập, giải quyết việc làm cho nhiều lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương.
Nhờ nuôi chồn hương hiệu quả, ông Ba Long (trái) nhiệt tình đóng góp các chương trình tại địa phương, góp phần xây dựng NTM.
Qua khảo sát, đánh giá kết quả thực hiện các tiêu chí NTM tại xã Bình Phước, ông Lê Văn Dũng- Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp-PTNT, Chánh Văn phòng điều phối chương trình xây dựng NTM tỉnh cho rằng: Mục đích cuối cùng của NTM là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Vì vậy, cần nâng chất các tiêu chí nhà ở dân cư, thu nhập, hộ nghèo. Theo đó, cần xác định rõ thế mạnh của xã để tác động kịp thời. Đồng thời, quan tâm kết nối giới thiệu việc làm để giúp người dân nâng cao thu nhập.
Bài, ảnh: XUÂN TƯƠI
Chính sách hỗ trợ 100% chi phí mua vắc xin viêm da nổi cục: Giúp nông dân bảo vệ tốt đàn vật nuôi
Nguồn tin: Báo Bình Định
Ðầu năm 2024, tỉnh Bình Định triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ 100% chi phí mua vắc xin viêm da nổi cục cấp về các địa phương tổ chức tiêm phòng cho đàn gia súc. Nhờ đó, người chăn nuôi đã tích cực đăng ký tiêm cho trâu, bò để bảo vệ tốt hơn đàn vật nuôi của mình.
Ông Huỳnh Ngọc Diệp, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y (Sở NN&PTNT), cho biết: Từ năm 2023 về trước, cơ chế hỗ trợ vắc xin viêm da nổi cục là tỉnh hỗ trợ 50% kinh phí, phần còn lại do người chăn nuôi đối ứng. Tuy nhiên, vắc xin viêm da nổi cục có giá khá cao (khoảng 35.000 đồng/liều), người chăn nuôi trâu, bò phải đối ứng 17.500 đồng/liều. Số tiền này, người chăn nuôi ở huyện đồng bằng có khả năng chi trả, nhưng với hộ chăn nuôi là người dân tộc thiểu số ở miền núi thì tương đối khó.
Nhân viên thú y cơ sở tiêm phòng vắc xin viêm da nổi cục cho đàn bò ở TX An Nhơn. Ảnh: T.LỢI
Thực tế cho thấy, trâu, bò được nuôi nhiều tại các huyện trung du và miền núi trong tỉnh. Vì vậy, khoản tiền đối ứng là rào cản với hộ chăn nuôi thực hiện tiêm phòng vắc xin, dẫn đến tỷ lệ tiêm vắc xin không đạt yêu cầu. Do đó, khi bệnh viêm da nổi cục xảy ra khiến tốc độ lây lan nhanh, gây thiệt hại cho người chăn nuôi.
Để bảo vệ đàn vật nuôi tốt hơn, ngày 5.1.2024, UBND tỉnh ban hành quyết định về cơ chế hỗ trợ vắc xin và tiền công tiêm vắc xin phòng bệnh viêm da nổi cục cho đàn trâu, bò trên địa bàn tỉnh. Theo đó, người chăn nuôi ở 3 huyện miền núi: An Lão, Vân Canh, Vĩnh Thạnh được ngân sách tỉnh hỗ trợ 100% kinh phí mua vắc xin viêm da nổi cục. Huyện trung du Hoài Ân được ngân sách tỉnh chi trả 75% kinh phí mua vắc xin, ngân sách huyện chi trả 25% kinh phí còn lại. Các huyện, thị xã còn lại, ngân sách tỉnh chi trả 50% kinh phí mua vắc xin, 50% kinh phí còn lại do ngân sách các huyện, thị xã chi trả. Riêng TP Quy Nhơn, ngân sách thành phố bảo đảm chi trả 100% kinh phí mua vắc xin để hỗ trợ cho người chăn nuôi.
Chị Nguyễn Thị Bích Phượng, ở thôn Phú Thuận, xã Ân Đức (huyện Hoài Ân) chia sẻ, gia đình đang nuôi 2 con bò sinh sản và vừa được nhân viên thú y xã hỗ trợ tiêm vắc xin phòng bệnh viêm da nổi cục. Đợt tiêm lần này, nhà nước hỗ trợ 100% tiền thuốc tiêm, thay vì 50% như năm 2023, gia đình chỉ thanh toán tiền công theo quy định.
Theo ông Nguyễn Thanh Vương, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Hoài Ân, toàn huyện có 25.900 con trâu, bò. Từ năm 2023 về trước, mỗi năm, huyện đối ứng từ 450 - 500 triệu đồng kinh phí mua vắc xin tiêm phòng cho đàn vật nuôi. Năm 2024, chính sách hỗ trợ thay đổi, mức đối ứng của địa phương từ 50% giảm còn 25%. Đáng mừng là khi tiêm vắc xin viêm da nổi cục cho trâu, bò, người chăn nuôi không tốn tiền, điều đó giúp bà con tiết kiệm được khoản chi phí không nhỏ khi chăm sóc, phòng bệnh cho trâu, bò.
Tuy Phước là địa phương có tỷ lệ đàn trâu, bò được tiêm phòng vắc xin viêm da nổi cục đạt tỷ lệ cao. Ông Trần Văn Minh, Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Tuy Phước, cho hay: Tổng đàn trâu, bò ở huyện hơn 16.000 con, đến nay, có hơn 12.000 con được tiêm vắc xin phòng bệnh viêm da nổi cục.
Trong đó, Phước Hòa là xã có tỷ lệ tiêm phòng đạt cao với hơn 90%. Ông Lê Ngọc Sơn, nhân viên thú y xã Phước Hòa, xác nhận toàn xã có 815 con trâu, bò. Với việc làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền và chính sách hỗ trợ kinh phí mua vắc xin được tỉnh “mở” theo cơ chế hỗ trợ 100%, người chăn nuôi hăng hái đăng ký tiêm. Nhờ đó, tình hình dịch bệnh trên đàn trâu, bò ở địa phương chưa xảy ra. Hiện nay, xã đang tiếp tục rà soát để tiêm phòng cho số lượng bê, nghé mới sinh và số trâu, bò đã hết thời hạn miễn dịch sau khi tiêm.
Ông Huỳnh Ngọc Diệp cho biết thêm: Toàn tỉnh có hơn 300 nghìn con trâu, bò; hơn 654 nghìn con heo (không tính heo con theo mẹ) và gần 9.700 con gia cầm. Để bảo toàn đàn vật nuôi, hằng năm, Bình Định chi ngân sách từ 12 - 14 tỷ đồng để mua hỗ trợ các loại vắc xin phòng bệnh gia súc, gia cầm cấp cho các địa phương tiêm phòng cho đàn vật nuôi. Đến thời điểm này, có gần 89.000 con trâu, bò trong tỉnh đã tiêm vắc xin viêm da nổi cục, đạt tỷ lệ gần 30% tổng đàn. Hiện Chi cục tiếp tục triển khai tiêm phòng vắc xin cúm gia cầm cho gia cầm nuôi mới, tái đàn và tiêm vắc xin phòng viêm da nổi cục cho bê, nghé mới sinh và cả trâu, bò chưa tiêm phòng hoặc hết thời gian miễn dịch. Bên cạnh chính sách hỗ trợ kinh phí mua vắc xin, Chi cục khuyến cáo người chăn nuôi chủ động theo dõi, nắm bắt thông tin tình hình dịch bệnh trong vùng, địa phương. Thực hiện các biện pháp phòng bệnh bằng cách tiêm phòng đầy đủ vắc xin, cũng như vệ sinh, tiêu độc sát trùng chuồng trại, khu vực chăn nuôi. Từ đó, đàn vật nuôi được bảo vệ tốt hơn, nguy cơ bùng phát và lây lan dịch bệnh cũng sẽ hạn chế.
TRỌNG LỢI
Phát triển kinh tế từ mô hình nuôi ong dú
Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Tận dụng lợi thế tự nhiên từ thảm thực vật rộng (chủ yếu là các vườn cây ăn trái và hoa cỏ dại), những năm gần đây, nông dân huyện Châu Đức (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) đã có thu nhập hàng trăm triệu đồng từ phát triển mô hình nuôi ong dú.
Ông Thân Xuân Động (bên phải), Phó Chủ tịch Hội Nông dân huyện Châu Đức tham quan trại nuôi ong dú của anh Trương Nhật Trường.
Dễ làm, lợi nhuận cao
Trại nuôi ong dú của gia đình anh Trương Nhật Trường, ở ấp Tiến Thành, xã Quảng Thành (huyện Châu Đức) có diện tích chừng 100m2. Từ năm 2023 đến nay, trại ong này đã mang lại thu nhập cho gia đình anh Trường hơn 250 triệu đồng từ bán thùng ong giống và mật ong.
Chia sẻ về mô hình nuôi ong dú, anh Trường cho hay, anh có đam mê tìm hiểu về các loài ong từ lâu. Qua tìm hiểu, anh Trường biết ong dú có kích thước nhỏ hơn ong mật, đặc biệt không có ngòi đốt, không bỏ tổ đi nơi khác, không chiếm nhiều diện tích nuôi. Nhận thấy đây là loại ong khác với những loại ong nuôi lấy mật đang bán phổ biến trên thị trường, có tiềm năng để phát triển thành sản phẩm thương mại, anh Trường quyết định dồn hết tâm sức nuôi ong dú, một loại ong rừng tự nhiên, tự sinh trưởng và làm mật.
Vừa tự làm và kết hợp nghiên cứu tài liệu tham khảo từ sách báo, mạng internet, sau nhiều lần thử nghiệm nắm bắt được quá trình sinh trưởng của ong dú, anh Trường tiến hành nhân đàn nuôi trong nhà và xung quanh vườn. Từ hơn chục đàn ong gây dựng ban đầu, sau 7 năm nuôi anh Trường đã phát triển hơn 600 đàn ong dú và thành lập “Trường nông trại ong”.
Theo anh Trường, một đàn ong dú mỗi năm cho thu hoạch mật 2 lần, khoảng 1 lít mật. Đặc tính của loài ong dú này không ăn đường mà chỉ hút nhụy hoa nên mật tự nhiên và nguyên chất. Mật ong dú vị ngọt, thanh và hơi chua, hàm lượng chất dinh dưỡng cao hơn các loại mật ong khác nên được nhiều người tìm mua. Mật ong dú bán tại vườn là 2 triệu đồng/lít; mỗi thùng giống ong bán từ 1,5 - 2 triệu đồng. Riêng với mật ong dú, anh Trường có 2 sản phẩm: mật và cao ong dú. Hiện anh Trường tập trung đẩy mạnh khai thác giống nên việc thu mật ong đến nay đạt khoảng 150 lít.
Theo kinh nghiệm của anh Trường, nuôi ong dú trong nhà cần tạo không gian thoáng mát, nhiệt độ ổn định còn nuôi ở ngoài trời, dưới các tán cây cần chú ý bảo vệ tổ ong khỏi các loại thằn lằn và chim rình bắt ăn. Nuôi ong dú rất dễ, an toàn với người nuôi. Con ong mật sẽ bỏ tổ đi nhưng với ong dú không có hiện tượng này vì con ong dú chúa sau khi đẻ rồi ở yên một chỗ và không bay.
Nuôi ông dú kết hợp du lịch
Với diện tích hơn 1.500m2, điểm Win’s Farm được chị Nguyễn Thị Ngọc Phượng, ở ấp Liên Hiệp, xã Xà Bang đầu tư mô hình nuôi ong dú kết hợp với các trường học tổ chức mô hình tham quan tìm hiểu về loài ong. Qua đó, tạo sự gắn kết học sinh với thiên nhiên nhằm giáo dục bảo vệ môi trường, giữ gìn cảnh quan thiên nhiên.
Tại đây, hơn 200 hộp gỗ nuôi ong dú được chị Phượng thiết kế với nhiều kiểu dáng lạ. Chia sẻ về hộp gỗ nuôi ong dú, chị Phượng cho hay, các hộ trên địa bàn nuôi ong dú chủ yếu lấy mật, còn ở Win’s Farm, hộp gỗ được trang trí bắt mắt để vừa nuôi lấy mật vừa có thể làm cảnh tạo điểm nhấn cho các không gian ngoài trời.
“Những chiếc hộp này được xem là ngôi nhà để nuôi ong, đảm bảo cho việc tách đàn, hoặc lấy mật mà không ảnh hưởng đến sự phát triển của đàn ong. Mỗi hộp ong dú nuôi trong vòng gần 1 năm mới thu hoạch, được tầm 500ml mật ong. Đây cũng là dự án khởi nghiệp trong năm 2024 mà tôi đã đăng ký”, chị Phượng cho biết thêm.
Theo Hội Nông dân huyện, Châu Đức có diện tích đất sản xuất nông nghiệp trên 34.500ha, chiếm trên 81% diện tích đất tự nhiên toàn huyện. Nhiều vùng chuyên canh cây ăn trái được hình thành, phù hợp với mô hình nuôi ong dú. “Hội sẽ tham mưu UBND huyện hỗ trợ xây dựng sản phẩm OCOP; hỗ trợ vốn vay ưu đãi; tuyên truyền, vận động 15 hộ nuôi ong dú trên địa bàn huyện tiến tới thành lập Chi hội Nông dân nghề nghiệp, nhằm giúp đỡ nhau về kỹ thuật, nâng cao chất lượng, tạo thương hiệu và ổn định đầu ra cho sản phẩm ong dú”, ông Thân Xuân Động, Phó Chủ tịch Hội Nông dân huyện cho hay.
Bài, ảnh: NGUYỄN NGỌC LINH
Giải pháp phát triển chăn nuôi an toàn
Nguồn tin: Báo Bình Phước
Qua gần 3 năm triển khai thực hiện, dự án "Ứng dụng chế phẩm có nguồn gốc từ thảo dược Biovita trong chăn nuôi gà ta lai chọi theo hướng an toàn kết hợp chăn thả tự nhiên trên địa bàn tỉnh Bình Phước” do anh Thái Thành Nam, Giám đốc Công ty TNHH thực hành sản xuất nông nghiệp VINAFARM, huyện Đồng Phú, làm chủ nhiệm đã được Sở Khoa học và Công nghệ thông qua. Dự án mang lại những hiệu quả rõ rệt, chất lượng thịt gà thơm, ngon được người tiêu dùng lựa chọn.
Tăng sức đề kháng cho gà
Sở hữu 5 trại gà, với quy mô khoảng 5.000 con/trại, anh Thái Thành Nam, Giám đốc Công ty TNHH thực hành sản xuất nông nghiệp VINAFARM đã triển khai hiệu quả dự án “Ứng dụng chế phẩm có nguồn gốc từ thảo dược Biovita trong chăn nuôi gà ta lai chọi theo hướng an toàn kết hợp chăn thả tự nhiên trên địa bàn tỉnh Bình Phước”.
Gà ở giai đoạn úm cho ăn chế phẩm từ thảo dược giúp tăng sức đề kháng, ổn định hệ vi sinh vật trong đường ruột, giảm các bệnh về hô hấp, tiêu hóa; tăng khả năng hệ miễn dịch
Gà cho ăn chế phẩm từ thảo dược có giá bán cao hơn 20- 30% so với cách nuôi thông thường
Có kinh nghiệm lâu năm trong kinh doanh trại gà, khoảng 3 năm nay, anh Nam đã xây dựng 2 mô hình thí nghiệm chăn nuôi và 1 mô hình liên kết cho hiệu quả kinh tế cao. Theo anh Nam, gà từ lúc nở đến khi xuất bán giống khoảng 21-26 ngày và tầm 130-135 ngày có thể bán thương phẩm. Nuôi bằng chế phẩm có nguồn gốc từ thảo dược Biovita giúp gà sinh trưởng và phát triển khỏe mạnh, đặc biệt tiết kiệm thức ăn mà năng suất vẫn đảm bảo đạt và vượt.
Sau gần 3 năm, trại gà của anh Nam luôn mang lại nguồn thu hiệu quả. Anh Nam cho biết: Gà được cho ăn chế phẩm từ thảo dược có sức đề kháng cao. Đặc biệt, chế phẩm giúp gà ở giai đoạn úm (từ 1-28 ngày tuổi) ổn định hệ vi sinh vật trong đường ruột, giảm các bệnh về hô hấp, tiêu hóa, tăng khả năng hệ miễn dịch, làm ấm cơ thể, giảm quy trình kháng sinh.
Hướng đến chăn nuôi sạch, bền vững
Chăn nuôi gà bằng chế phẩm sinh học từ thảo dược là một mô hình mới trong chăn nuôi gà sạch, đem lại giá trị kinh tế cao cho nông dân. Đặc biệt, gà nuôi theo hình thức vừa nhốt vừa thả vườn giúp thịt ngon, chất lượng hơn. Theo anh Nam, tới ngày xuất bán, trọng lượng gà mái sẽ đạt khoảng 1,8kg/con và gà trống 2,3kg/con, giá bán 55-60 ngàn đồng/kg nếu nuôi bình thường. Còn nếu áp dụng quy trình kỹ thuật, báo cáo đầu vào, đầu ra và nuôi thêm 1 tháng bằng chế phẩm, giá bán sẽ tăng khoảng 35 ngàn đồng/con, cao hơn từ 20-30% so với cách nuôi thông thường.
Anh Nam chia sẻ: “Ứng dụng chế phẩm trong chăn nuôi nhằm hướng đến thay thế kháng sinh mới, hạn chế sử dụng kháng sinh cho vật nuôi. Từ đó, cải thiện năng suất và chất lượng sản phẩm cung cấp cho người tiêu dùng, hướng đến nền chăn nuôi sạch và bền vững”.
Theo anh Nam, trước đây, để nuôi được 1kg gà cần 3,5kg cám; tuy nhiên, hiện nuôi bằng chế phẩm có nguồn gốc từ thảo dược Biovita, lượng thức ăn cho gà giảm còn khoảng 3,15kg cám. Thành phần chính của thảo dược Biovita gồm tỏi, gừng, nghệ, là những chất phụ gia có lợi trong chăn nuôi, giúp heo, gà có thể tự đề kháng mà không cần dùng thuốc kháng sinh. Sản phẩm do các chuyên gia của Trường đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh nghiên cứu và tổng hợp để bổ sung vào thức ăn chăn nuôi cho gia súc, gia cầm. Qua nghiên cứu cho thấy, chế phẩm này có thể thay thế việc bổ sung kháng sinh trong chăn nuôi heo, gà. Đồng thời, chất lượng thịt và hiệu quả kinh tế được cải thiện.
Theo anh Thái Thành Nam, gà nuôi bằng chế phẩm thảo dược khoảng 130-135 ngày sẽ xuất bán, khi đó trọng lượng gà mái đạt khoảng 1,8kg/con, gà trống đạt 2,3kg/con
Phó trưởng Phòng Quản lý khoa học công nghệ, Sở Khoa học và Công nghệ Đàm Văn Toàn nhận định: Trong quá trình theo dõi dự án triển khai thực hiện, chúng tôi thấy hiệu quả. Qua các lần kiểm tra, sức đề kháng của con giống tốt, tỷ lệ hao hụt giảm so với các mô hình đối chứng. Đây là tín hiệu vui cho thấy việc ứng dụng các chế phẩm từ thảo dược trong chăn nuôi để nâng cao hiệu quả kinh tế.
Bà BÙI THỊ MINH THÚY, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ: Dự án “Ứng dụng chế phẩm có nguồn gốc từ thảo dược Biovita trong chăn nuôi gà ta lai chọi theo hướng an toàn kết hợp chăn thả tự nhiên trên địa bàn tỉnh Bình Phước” cần tiếp tục phát triển và nhân rộng; tiến tới xây dựng thương hiệu gà ta lai chọi Bình Phước, cũng như đăng ký sản phẩm OCOP. Từ đó, hướng tới nền chăn nuôi sạch, bền vững, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng.
Ngọc Quế
Hiếu Giang tổng hợp