TP Cần Thơ: Thu hoạch hơn 107.780 tấn trái cây
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Cần Thơ, hiện tổng diện tích cây ăn trái toàn thành phố là 25.660ha, vượt 0,55% kế hoạch, tăng 4,56% so với cùng kỳ năm trước. Từ đầu năm đến nay, sản lượng cây ăn trái thu hoạch của thành phố đạt 107.784 tấn, đạt 54,2% so kế hoạch, giảm 6,81% so cùng kỳ năm trước.
Thu hoạch vú sữa tại xã Trường Long, huyện Phong Điền.
Thời gian qua, ngành Nông nghiệp thành phố xây dựng vùng sản xuất cây ăn trái chủ lực và hình thành các sản phẩm đặc trưng có thương hiệu với diện tích 12.673ha, đạt sản lượng gần 140.000 tấn gồm các loại cây trồng như dâu Hạ Châu, sầu riêng, xoài Cát Hòa Lộc Sông Hậu, nhãn, vú sữa...
Cùng với phát triển vùng cây ăn trái tập trung, thành phố còn tập trung tìm đầu ra cho sản phẩm thông qua mô hình liên kết. Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Cần Thơ, phần lớn sản lượng trái cây hiện nay được tiêu thụ thông qua hệ thống thương lái bằng phương thức thu mua tại vườn. Bên cạnh đó, một số tổ chức kinh tế tập thể, hộ nông dân bước đầu thực hiện liên kết tiêu thụ, cung cấp trái cây cho các cơ sở bán lẻ ở trung tâm thành phố hoặc tiêu thụ thông qua hình thức du lịch sinh thái vườn. Nhiều công ty liên kết tiêu thụ với các hợp tác xã, tổ hợp tác để sản xuất cây ăn trái xuất khẩu sang Mỹ, Úc, Trung Quốc,... với hàng ngàn nông hộ tham gia liên kết tại các huyện Phong Ðiền, Thới Lai, Cờ Ðỏ và quận Ô Môn, Thốt Nốt.
Tin, ảnh: MỸ THANH
Xây dựng thương hiệu - Từ lễ hội đến thị trường
Nguồn tin: Báo Đắk Lắk
Lễ hội Sầu riêng Krông Pắc lần thứ II đã tạo được hiệu ứng mạnh cho quảng bá sầu riêng Đắk Lắk cũng như thương hiệu "Sầu riêng Krông Pắc", mở ra cơ hội rất lớn cho việc định hướng chiến lược ngành hàng trái cây thế mạnh của tỉnh.
Xác định chiến lược ngành hàng
Được xem là một hoạt động trọng tâm của Lễ hội Sầu riêng Krông Pắc lần thứ II, Hội thảo xây dựng và phát triển hệ sinh thái sầu riêng bền vững đã quy tụ đông đảo các nhà quản lý, chuyên gia đầu ngành đến nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân. Tại đây, vấn đề trọng tâm trong việc phát triển sầu riêng bền vững tại Đắk Lắk cũng như cả nước đã được bóc tách, phân tích và đưa ra những giải pháp cụ thể.
Việc tuân thủ các quy định của nước nhập khẩu là yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp xuất khẩu sầu riêng.
Các chuyên gia cho rằng, hiện nay Tây Nguyên đã vượt qua Đồng bằng sông Cửu Long và trở thành vùng sản xuất sầu riêng lớn nhất cả nước, khi chiếm 50% diện tích và hơn 40% sản lượng. Sầu riêng Tây Nguyên cũng có lợi thế cạnh tranh về thời vụ trên thị trường xuất khẩu với các nước trong khu vực. Chính vì điều kiện tự nhiên đặc thù, sầu riêng ở Tây Nguyên nói chung, Đắk Lắk nói riêng đã mở rộng và kéo dài thời gian thu hoạch, tạo ra lợi thế cạnh tranh rất lớn cho sầu riêng Việt Nam so với Thái Lan và các nước trong khu vực.
“Ngành hàng sầu riêng đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là chúng ta sớm nhận diện đầy đủ những tiềm năng, cơ hội, đan xen với những khó khăn, thách thức, kịp thời khắc phục những hạn chế dựa trên tầm nhìn chiến lược và các giải pháp đồng bộ về phát triển ngành hàng hiệu quả, bền vững" - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Thiên Văn.
Ông Peter Johnson, chuyên gia của Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO) phân tích: Sản lượng sầu riêng ở Việt Nam tăng đáng kể và được thúc đẩy bởi tiêu dùng trong nước và xuất khẩu sang Trung Quốc.
Việt Nam có lợi thế từ việc kéo dài mùa cung ứng, tuy nhiên nhược điểm là chất lượng sản phẩm chưa đồng đều, việc tuân thủ quy trình sản xuất, chế biến để đáp ứng yêu của nước nhập khẩu chưa cao; kết cấu hạ tầng phục vụ cho sản xuất, chế biến, vận chuyển vẫn còn kém…
Hiện nay, phân khúc sầu riêng đông lạnh do Thái Lan và Malaysia thống trị, song Việt Nam cũng đã ký Nghị định thư xuất khẩu sầu riêng đông lạnh với Trung Quốc, tạo ra cơ hội đáng kể để mở rộng thị trường.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần quan tâm và đưa ra chiến lược cho sản phẩm bột sầu riêng, bởi hiện nay nhu cầu về các sản phẩm có hương vị sầu riêng đã tăng lên đáng kể.
Nhiều cơ hội cho sầu riêng
Diện tích sầu riêng của Đắk Lắk đã chiếm lĩnh vị trí thứ nhất của cả nước, sản lượng dự kiến ước đạt trên 300.000 tấn. Đến nay toàn tỉnh đã được phía Trung Quốc phê duyệt 23 cơ sở đóng gói và 68 mã vùng trồng, với tổng diện tích 2.521 ha và đang chờ phía Trung Quốc phê duyệt 206 vùng trồng khác, với diện tích khoảng 5.000 ha.
Định hướng của tỉnh trong thời gian tới là tập trung thực hiện theo Đề án phát triển ngành hàng sầu riêng, bơ đến năm 2030. Trong đó, diện tích sầu riêng phát triển ổn định khoảng 40.000 ha, sản lượng khoảng 790.000 tấn; diện tích được chứng nhận và cấp mã số vùng trồng khoảng 26.000 ha. Mục tiêu của đề án nhằm thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn quy định tại Nghị thư xuất khẩu sầu riêng quả tươi và sầu riêng cấp đông đã được ký kết.
Theo ông Mahesh Chand Giri, Quyền Tổng lãnh sự Ấn Độ tại TP. Hồ Chí Minh, Ấn Độ là thị trường tiềm năng của sản phẩm sầu riêng, bởi đây là thị trường có dân số đông nhất thế giới.
Tại thị trường Ấn Độ, giá bán sầu riêng từ 15 – 20 USD/kg, nếu có khoảng 10 - 20% dân số Ấn Độ tiêu thụ sầu riêng thì đó là một thị trường cực kỳ lớn. Ấn Độ luôn có những hoạt động thương mại, quảng bá sản phẩm nông sản, thực phẩm cho các nước trên thế giới, nhất là Hội chợ triển lãm “Thế giới Thực phẩm Ấn Độ” (World Food India) tổ chức hằng năm ở Thủ đô New Delhi, với hơn 100 quốc gia tham dự.
Đây là cơ hội cực kỳ lớn cho các doanh nghiệp (DN) Việt Nam tiếp cận thị trường của Ấn Độ và hàng trăm quốc gia khác. Do đó, Đắk Lắk cũng như huyện Krông Pắc cần đặc biệt lưu tâm đến cơ hội này. Các DN Việt Nam nên mang sầu riêng sang thị trường Ấn Độ để triển lãm và kết nối các nhà đầu tư, từ đó tạo được những thỏa thuận giữa hai chính phủ trong việc thương mại sản phẩm này.
Theo GS.TS. Trần Văn Hâu, cựu giảng viên cao cấp, Trường Đại học Cần Thơ, để sản xuất sầu riêng được bền vững, các thành phần trong chuỗi giá trị cần tập trung sản xuất sầu riêng đạt chất lượng tốt nhất, góp phần xây dựng thương hiệu sầu riêng của địa phương cũng như của Việt Nam để có thể cạnh tranh với sầu riêng của các nước và phát triển ở thị trường nội địa.
Minh Thuận
Phát triển sầu riêng theo hướng an toàn và bền vững
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Cây sầu riêng có giá trị kinh tế tương đối cao so với các loại cây trồng khác, đem lại nguồn thu đáng kể cho bà con nông dân địa phương. Tuy nhiên, phát triển cây sầu riêng cũng đang đứng trước nhiều thách thức, cần có giải pháp thích hợp để nâng cao chuỗi giá trị, cũng như đảm bảo đầu ra ổn định.
HTX Nông nghiệp Đạ M’ri với sản phẩm sầu riêng sạch nổi tiếng đem lại thu nhập cao cho bà con Nhân dân
Đạ Huoai là huyện dẫn đầu tỉnh Lâm Đồng về diện tích sầu riêng với gần 5.000 ha, trong đó diện tích cho thu hoạch đạt 3.501 ha. Năng suất sầu riêng ước đạt 115,8 tạ/ha, sản lượng ước đạt 40.000 tấn. Hiện, giá sầu riêng thu mua tại vườn đối với sầu riêng Ri6 trung bình từ 45-50 ngàn đồng/kg và Dona trung bình từ 65-70 ngàn đồng/kg. Địa phương có khoảng 800 ha sầu riêng được sản xuất theo các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ và đảm bảo tiêu chuẩn về chất lượng phục vụ xuất khẩu.
Đơn cử như tại Hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp Đạ M’ri là một HTX sản xuất sầu riêng lâu năm tại địa phương luôn định hướng cho nông dân sản xuất sạch, ưu tiên sử dụng các chế phẩm sinh học để chăm sóc sầu riêng đảm bảo chất lượng và hạn chế sâu bệnh hại. Ông Nguyễn Thanh Sơn - Giám đốc HTX Nông nghiệp Đạ M'ri cho biết, điểm nhấn từ sự thay đổi về đầu ra bắt đầu từ đầu năm 2023, nhờ thị trường Trung Quốc mở cửa nên xuất khẩu sầu riêng thuận lợi, giá tốt hơn các năm trước nên bà con nông dân rất phấn khởi.
Với diện tích trên gần 400 ha cùng 125 thành viên, mùa sầu riêng năm 2024, HTX Nông nghiệp Đạ M’ri ước thu khoảng 6.000 tấn, bình quân 1 ha bà con thu nhập khoảng 1 tỷ đồng, cao hơn nhiều so với các loại cây trồng khác tại địa phương. “Để sầu riêng phát triển bền vững, được các đơn vị bao tiêu với giá ổn định bà con rất chú trọng tới nâng cao chất lượng, tuân thủ các quy trình chăm sóc. Trồng sầu riêng sạch, đảm bảo chất lượng, giữ uy tín là mục tiêu dài hạn của bà con nông dân kể cả đối với sầu riêng xuất khẩu hay nội tiêu trong nước”, ông Sơn chia sẻ.
Theo ghi nhận các huyện như Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên sầu riêng hiện nay đã thu hoạch xong mùa vụ. Riêng các huyện như Đam Rông, Lâm Hà, Đức Trọng,... lại đang vào vụ thu hoạch chính. Chuẩn bị vào mùa vụ thu bói với dự kiến đạt 100 tấn sầu riêng trên diện tích 5 ha, anh Nguyễn Thanh Tùng (thôn Đắk Măng, xã Đạ R’sal, huyện Đam Rông) hồ hởi cho biết, dự kiến trung bình mỗi cây sầu riêng anh trồng 5 năm sẽ cho thu bói 1 tạ. Với giá bán tại vườn là 60.000 đồng đến 80.000 đồng/kg, gia đình anh Tùng dự kiến thu về tiền tỷ cho mỗi ha sầu riêng. Không riêng gì anh Tùng, bà con Nhân dân huyện vùng xa Đam Rông thời gian qua đã chú trọng phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, trong đó cây sầu riêng đang là cây trồng rất được quan tâm đầu tư, mở rộng diện tích. Trên địa bàn toàn tỉnh, tới đầu năm 2024 có tổng diện tích sầu riêng hơn 20.000 ha, bao gồm diện tích trồng thuần 12.649 ha, trồng xen 7.714,5 ha. Trong đó, diện tích ở giai đoạn kinh doanh 10.844 ha, sản lượng thu hoạch gần 124.000 tấn. Theo lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, vài năm trở lại đây một số thị trường lớn đang mở cửa đối với các sản phẩm về nông nghiệp, đặc biệt là những sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao, trong đó có cây sầu riêng. Do đó, định hướng phát triển của nền nông nghiệp tỉnh Lâm Đồng cũng đang cùng xu thế đó, phát triển theo hướng bền vững, tức là canh tác đảm bảo an toàn, an toàn từ người sản xuất đến người tiêu dùng, đáp ứng tiêu chuẩn cho các thị trường để phục vụ xuất khẩu.
Để thực hiện các giải pháp trên, hiện tại nhiều địa phương cũng định hướng phát triển sầu riêng theo hướng bền vững, tăng cường tuyên truyền, khuyến cáo sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đảm bảo nguyên tắc 4 đúng (đúng thuốc, đúng lúc, đúng liều lượng - nồng độ và đúng cách) và chỉ thu hoạch sầu riêng khi đảm bảo độ chín, kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và một số kim loại nặng,... Ngoài việc định hướng phát triển từ diện tích tới quản lý chất lượng vùng trồng sầu riêng, các cơ quan nhà nước cũng đứng ra thúc đẩy hợp tác công tư, phối hợp các doanh nghiệp tổ chức để thí điểm mô hình trồng sầu riêng bền vững.
Theo Kế hoạch cơ cấu lại ngành Nông nghiệp tỉnh Lâm Đồng hướng đến toàn diện bền vững và hiện đại giai đoạn 2021-2025, đối với cây ăn quả, cây đặc sản, ngành Nông nghiệp đặt mục tiêu tiếp tục chuyển đổi diện tích vườn tạp sang trồng chuyên canh các giống cây ăn quả và cây đặc sản, kết hợp phát triển mô hình trồng xen giữa cây công nghiệp và cây ăn quả để nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Cụ thể, đến năm 2025, địa phương phấn đấu phát triển thêm 18.500 ha cây ăn quả, trọng tâm là các chủng loại sầu riêng, chuối, bơ, chanh leo..., trong đó tập trung phát triển diện tích trên địa bàn 3 huyện phía Nam đối với cây sầu riêng.
CHÍNH THÀNH
Giá lúa Hè thu cuối vụ đang cao hơn cùng kỳ 300-600 đồng/kg
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Nhiều nông dân đang thu hoạch lúa Hè thu cuối vụ trên địa bàn huyện Long Mỹ (tỉnh Hậu Giang) cho biết, hiện thương lái cân lúa tươi cắt máy tại ruộng đối với giống OM 18 dao động từ 8.100-8.300 đồng/kg, còn giống lúa OM 5451 ở mức từ 7.600-7.800 đồng/kg. Với mức giá như trên thì bình quân giá lúa tươi được nông dân bán cao hơn từ 300-600 đồng/kg so với cùng kỳ.
Nông dân huyện Long Mỹ phấn khởi thu hoạch lúa Hè thu cuối vụ vì bán được giá.
Theo lý giải của một số thương lái đang thu mua lúa của nông dân trên địa bàn huyện Long Mỹ, nguyên nhân giá lúa tăng là do những ngày gần đây, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam chạm mức cao nhất trong gần 3 tháng qua. Cụ thể, theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), gạo 100% tấm giữ ở mức 440 USD/tấn; gạo 25% tấm lên mức 547 USD/tấn, tăng 3 USD; gạo tiêu chuẩn 5% tấm lên mức 579 USD/tấn, tăng 9 USD/tấn so với một tuần trước đó. Sự gia tăng này không chỉ phản ánh nhu cầu gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế, mà còn cho thấy sự điều chỉnh giá phù hợp với biến động của thị trường toàn cầu, mở ra những triển vọng tươi sáng với khả năng có thêm các đơn hàng xuất khẩu trong tháng 9 này và tháng 10 tới.
Qua rà soát mới đây của ngành nông nghiệp tỉnh, hiện nông dân trên địa bàn tỉnh đã thu hoạch được hơn 67.400ha trong tổng số gần 74.200ha lúa Hè thu đã xuống giống, ước năng suất bình quân đạt 6,2 tấn/ha.
Hiện các diện tích lúa Hè thu chưa cắt (khoảng 6.800ha) chủ yếu tập trung trên địa bàn huyện Long Mỹ; trong đó đa phần lúa đều ở giai đoạn trổ chín. Những ngày qua, do ảnh hưởng của bão số 3 nên trên địa bàn huyện Long Mỹ nói riêng và tỉnh nói chung thường xuyên xuất hiện mưa dầm kéo dài, từ đó làm chậm tiến độ thu hoạch lúa của người dân. Tuy nhiên, tranh thủ khi thời tiết thuận lợi, bà con khẩn trương cắt lúa giao cho thương lái nhằm hạn chế thiệt hại và phấn khởi khi bán lúa được giá cao.
TUẤN PHÁT
Hỗ trợ 20 ngàn cây ca cao giống cho nông dân
Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Sáng 31/8, Hội Nông dân huyện Châu Đức (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) tổ chức trao 4.000 cây ca cao giống cho thành viên HTX, hộ nông dân trên địa bàn huyện.
Trước đó, Hội Nông dân huyện cũng đã tổ chức trao 16 ngàn cây ca cao giống cho các thành viên HTX, hội viên nông dân trồng ca cao trên địa bàn huyện. Tổng kinh phí mua cây ca cao giống là trên 260 triệu đồng, do Hội Nông dân huyện vận động các DN hỗ trợ.
Ông Thân Xuân Động (bên phải), Phó Chủ tịch Hội Nông dân huyện Châu Đức hỗ cây ca cao giống cho ông Lê Ngọc Cần, Giám đốc HTX Ca cao Châu Đức.
Theo Hội Nông dân huyện, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Châu Đức lần thứ VI, nhiệm kỳ 2020-2025 đã xác định cây ca cao là một trong những cây chiến lược cần tập trung ưu tiên phát triển.
Tham gia dự án phát triển vùng nguyên liệu ca cao, nông dân sẽ được bao tiêu thu mua sản phẩm; hỗ trợ kỹ thuật chăm sóc và sơ chế cây ca cao; kỹ thuật sản xuất phân hữu cơ từ lá và vỏ trái ca cao…
Tin, ảnh: NGUYỄN HẠNH
Trồng nấm hữu cơ trong nhà màng khép kín
Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế
Nắm bắt được nhu cầu tiêu thụ thực phẩm sạch, đặc biệt là các loại nấm ăn, chị Đặng Thị Hồng, trú thôn Pi ây 1, xã Quảng Nhâm, huyện A Lưới (tỉnh Thừa Thiên Huế) đã khởi nghiệp thành công với mô hình trồng nấm hữu cơ trong nhà màng kép kín.
Chị Hồng với mô hình trồng nấm hữu cơ trong nhà màng khép kín
Có niềm đam mê với làm nông nghiệp, cùng với đó là nắm bắt nhu cầu thị trường, năm 2009, chị Hồng quyết định gom vốn trồng các loại nấm khác nhau như nấm rơm, nấm mèo, nấm sò và nấm dược liệu Vân chi… Sau vài năm nghiên cứu và triển khai mô hình, chị Hồng nhận thấy nấm rơm là loại nấm cho năng suất cao và được tiêu thụ nhiều nhất. Từ đó, chị quyết định đầu tư 6 phòng, với tổng diện tích 60m2 chuyên trồng nấm rơm hữu cơ.
Chị Hồng cho biết, điều kiện để nấm rơm phát triển tốt thì nhà màng nuôi trồng nấm phải đúng quy trình và tiêu chuẩn kỹ thuật, đảm bảo các yếu tố như: Ánh sáng, nhiệt độ, không khí, độ ẩm…; nếu thiếu một trong những yếu tố trên thì nấm không thể phát triển tốt. Mô hình trồng nấm hữu cơ của chị Hồng được trồng trên dàn thép, phân thành nhiều tầng nên tiết kiệm diện tích đất sản xuất. Nguyên liệu phôi nấm chủ yếu là sản phẩm từ thân cây bông vải, rơm, cây bắp xay nhuyễn, nhanh mục, có hàm lượng dinh dưỡng cao, chi phí rẻ, thời gian từ khi làm đất trồng đến khi thu hoạch khoảng 15 - 20 ngày. Mỗi lứa cho ra 20 - 25kg nấm thành phẩm.
Điểm đặc biệt của mô hình trồng nấm hữu cơ trong nhà màng là không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, cho sản phẩm sạch, đảm bảo an toàn cho người sử dụng. Nhờ đó, đầu ra của sản phẩm cũng được bảo đảm và được người tiêu dùng ưa chuộng. Trung bình mỗi tháng chị Hồng thu hoạch được hơn 1 tạ nấm. Số nấm này được bán cho các tiểu thương trên địa bàn huyện A Lưới với giá từ 80.000 – 90.000 đồng/kg, bán lẻ cho người tiêu dùng từ 120.000 đồng/kg.
Từ tháng 7/2024 đến nay, được Sở Khoa học và Công nghệ hướng dẫn cách trồng nấm với kỹ thuật và công nghệ cao. Sau hơn một tháng áp dụng, mô hình trồng nấm theo công nghệ mới của chị Hồng đã thu hoạch được 3 lứa đầu tiên, mỗi lứa thu được 55kg nấm, cao hơn gấp đôi so với phương pháp trồng trước đó. “Từ khi áp dụng kỹ thuật, công nghệ cao, chất lượng nấm thành phẩm tốt hơn rất nhiều, kích thước nấm phát triển đồng đều, to hơn, chất lượng dinh dưỡng cũng cao hơn so với cách trồng cũ”, chị Hồng phấn khởi.
“Mình đang tiếp tục thử nghiệm phương pháp trồng theo kỹ thuật, công nghệ cao, nếu chất lượng sản phẩm ổn định, mình sẽ mở rộng mô hình sản xuất, kinh doanh; từ đó mở rộng thị trường tiêu thụ như TP. Huế , TP. Đà Nẵng…”, chị Hồng chia sẻ.
Từ bã thải của phôi nấm rơm, chị Hồng sử dụng để làm phân bón cho vườn ổi. Mô hình tuần hoàn khép kín vừa tiết kiệm, vừa tận dụng triệt để các phế phẩm từ mô hình trồng nấm, vườn ổi phát triển xanh tốt, cho năng suất cao.
Chị Hồng còn tạo công ăn việc làm cho 5 người dân là đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) trong thôn, với thu nhập từ 4,5 - 6 triệu đồng/tháng và hơn 10 người làm thời vụ với mức thu nhập từ 180.000 - 200.000 đồng/ngày công.
Chị Đặng Thị Hồng là một trong những phụ nữ vùng cao dám nghĩ, dám làm, mạnh dạn làm giàu trên vùng đất khó. Không những sản xuất, kinh doanh giỏi, chị Hồng còn tạo công ăn việc làm cho người đồng bào DTTS, giúp bà con có nguồn thu nhập ổn định, góp phần giảm nghèo bền vững tại địa phương.
Ngày 23/8 vừa qua, chị Đặng Thị Hồng là một trong những cá nhân xuất sắc được Ban Dân tộc tỉnh tuyên dương, tặng giấy khen với mô hình kinh tế tiêu biểu và khởi nghiệp thành công trong vùng đồng bào DTTS năm 2024.
Bài, ảnh: Bạch Châu
Tìm hướng phát triển bền vững cho nông nghiệp Bạc Liêu
Nguồn tin: Báo Bạc Liêu
Từ nền nông nghiệp lạc hậu, chỉ sản xuất 1 vụ lúa/năm, nông nghiệp Bạc Liêu đã phát triển vượt bậc với nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp an toàn, nông nghiệp xanh, sạch và ứng dụng công nghệ cao. Là ngành mũi nhọn quan trọng trong phát triển kinh tế của tỉnh, nông nghiệp Bạc Liêu cũng hướng đến mục tiêu phát triển bền vững trong thời gian tới.
Phát triển nông nghiệp công nghệ cao
Những năm đầu sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nông nghiệp Bạc Liêu chỉ sản xuất 1 vụ lúa và phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, năng suất và giá trị đều thấp, đời sống nông dân luôn chật vật. 27 năm sau ngày chia tách tỉnh, nông nghiệp Bạc Liêu đã hoàn toàn mang một diện mạo mới. Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch, hữu cơ được chú trọng, từng bước chuyển đổi sang cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, nông nghiệp cũng trở thành trụ đỡ của cả nền kinh tế, đời sống nông dân nâng lên đáng kể. Lão nông Nguyễn Văn Hương (xã Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Lợi) cho biết: “Nông dân bây giờ làm lúa nhàn lắm. Bởi từ khâu làm đất cho đến thu hoạch lúa đều được cơ giới hóa hoàn toàn. Gieo sạ, phun thuốc thì bằng máy bay, tất cả phải lao động chân tay nay thay bằng máy móc. Từ sản xuất 1 vụ lúa/năm nay tăng lên 3 vụ/năm và giảm chi phí đầu tư, tăng lợi nhuận”.
Không chỉ sản xuất lúa, Bạc Liêu còn là một trong những tỉnh trọng điểm nuôi tôm công nghệ cao. Theo báo cáo của Sở NN&PTNT, toàn tỉnh hiện có hơn 145.200ha diện tích nuôi trồng thủy sản, trong đó, tôm siêu thâm canh, thâm canh, bán thâm canh hơn 9.800ha. Ngành chức năng cũng đã cấp hơn 20.000 giấy xác nhận đăng ký nuôi trồng thủy sản với diện tích hơn 39.900ha nhằm đám ứng yêu cầu xuất khẩu. Ngoài ra, hạ tầng kỹ thuật “Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển tôm Bạc Liêu” đã hoàn thành, hướng đến xây dựng tỉnh trở thành trung tâm công nghiệp ngành tôm của cả nước…
Sở NN&PTNT kiểm tra mô hình nuôi tôm công nghệ cao. Ảnh: M.Đ
Hướng đến phát triển nông nghiệp bền vững
Khi những ảnh hưởng từ biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn ngày càng nặng nề, ngành Nông nghiệp cũng đối diện với bài toán phải tìm được hướng đi bền vững, thuận thiên. Mô hình nuôi quảng canh cải tiến kết hợp (tôm sú - cua - cá) thích ứng với biến đổi khí hậu, đạt hiệu quả kinh tế gắn với chuỗi giá trị ở vùng Nam Quốc lộ 1A, hay mô hình tôm - lúa kết hợp ở vùng Bắc Quốc lộ 1A… được xem là những giải pháp hiệu quả đã được ngành Nông nghiệp thực hiện nhân rộng, mang lại hiệu ứng tích cực. Đặc biệt, thực hiện Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030” trên địa bàn tỉnh, ngành Nông nghiệp đang xây dựng các mô hình giúp nông dân tiếp cận với các quy định để giảm phát thải trong sản xuất, hướng đến nền nông nghiệp xanh và bền vững.
Thực hiện tái cơ cấu và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp - nông thôn, góp phần đảm bảo phát triển bền vững, Bạc Liêu đang định hướng tập trung phát triển nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao, hiện đại, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ. Tuy nhiên, để có một nền nông nghiệp phát triển thật sự bền vững theo tinh thần Nghị quyết 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) “về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, Bạc Liêu cần phải làm nhiều hơn. Cụ thể là nâng cao nhận thức cho toàn xã hội, nhất là nông dân về tầm quan trọng của nông nghiệp trong phát triển bền vững kinh tế - xã hội; tiếp tục thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới, xây dựng chuỗi liên kết giá trị từ đồng ruộng đến bàn ăn gắn với việc phát huy vai trò của “4 nhà” (Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nông); ưu tiên ứng dụng công nghệ 4.0, nhất là các công nghệ phục vụ cho sản xuất… Những nhiệm vụ này được triển khai đồng bộ sẽ giúp nền nông nghiệp Bạc Liêu nhanh chóng khắc phục những thách thức, hòa nhập vào xu thế phát triển chung.
Trong định hướng phát triển, Bạc Liêu sẽ tập trung xây dựng nền nông nghiệp - nông thôn phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, nâng cao giá trị gia tăng. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Bạc Liêu được kỳ vọng sẽ tiếp tục có những đổi thay vượt bậc và diệu kỳ như thời gian qua.
Minh Đạt
Xây dựng thương hiệu nông sản mùa nước nổi Đồng Tháp
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Tháp
Đến dự Hội nghị sơ kết thực hiện Dự án Sản xuất nông nghiệp tuần hoàn, hiện đại và phát thải thấp, tại huyện Tam Nông vào sáng ngày 01/9, do Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp tổ chức, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan phấn khởi khi nông dân có nhiều thay đổi lớn trong tư duy và phương thức sản xuất nông nghiệp thích ứng biến đổi khí hậu.
Bộ trưởng Lê Minh Hoan và các đại biểu được nghe chia sẻ về kết quả bước đầu của Dự án Sản xuất nông nghiệp tuần hoàn, hiện đại và phát thải thấp của nông dân xã Phú Thành A, huyện Tam Nông; kết quả tham gia mô hình điểm của Hợp tác xã nông nghiệp Thắng Lợi (huyện Tháp Mười) trong Đề án 01 triệu héc ta lúa chất lượng cao và phát thải thấp, gắn với tăng trưởng xanh; mô hình lúa – cá tại thành phố Hồng Ngự; phát triển lúa sinh thái kết hợp bảo tồn Sếu tại Vườn Quốc gia Tràm Chim; sản xuất lúa giống của Hợp tác xã Giống nông nghiệp Định An (huyện Lấp Vò); phát triển du lịch sinh thái của Công ty Du lịch WildBird v.v..
Qua đó, Bộ trưởng Lê Minh Hoan đánh giá cao quá trình triển khai thực hiện và đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp, các Sở, ngành tỉnh và địa phương cần tiếp tục đồng hành, hỗ trợ nông dân trên bước đường thực hành sản xuất nông nghiệp có trách nhiệm, góp phần bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên.
Với mỗi mô hình, hướng đến giải quyết bền vững ở 03 yếu tố: Kinh tế - môi trường – xã hội; mỗi cách làm của nông dân đều là những câu chuyện cần được khai thác để đưa vào sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm mùa nước nổi, đặc trưng riêng có của địa phương - Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhấn mạnh và gợi ý với chính quyền tỉnh về xây dựng thương hiệu nông sản mùa nước nổi của những người nông dân Đồng Tháp, trên cơ sở đó, hình thành tư duy cộng đồng, gắn kết với nhau.
Ông Nguyễn Phước Thiện – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh cảm ơn và tiếp thu các ý kiến chỉ đạo của Bộ trưởng Lê Minh Hoan và cho biết tỉnh sẽ nghiên cứu, triển khai thực hiện trong thời gian tới.
Về Đề án 01 triệu héc ta lúa chất lượng cao và phát thải thấp, gắn với tăng trưởng xanh, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh đề nghị các huyện, thành phố và nông dân tích cực tham gia, với mục tiêu trước tiên là phải giảm giá thành sản xuất, giảm phân bón và thuốc hóa học để bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng và người sản xuất, xây dựng nền nông nghiệp xanh, bền vững hơn.
Theo Ủy ban nhân dân huyện Tam Nông, Dự án Sản xuất nông nghiệp tuần hoàn, hiện đại và phát thải thấp được triển khai tại xã Phú Thành A, với quy mô 170 ha.
Dự án đã trải qua 04 vụ sản xuất lúa: Đông Xuân, Hè Thu của năm 2023 và 2024, từ 20 ha ban đầu đã mở rộng trên 80 ha. Bên cạnh trồng lúa, nông dân còn thực hiện mô hình kết hợp trữ cá mùa lũ năm 2023 (170 ha), mô hình quản lý rơm rạ theo hướng tuần hoàn năm 2024 (trồng nấm).
Anh Nguyễn Minh Tuấn – Giám đốc Hợp tác xã nông nghiệp sinh thái Quyết Tiến, đơn vị tham gia dự án chia sẻ thuận lợi, khó khăn
Nông dân trồng lúa đã áp dụng các biện pháp sạ cụm, sạ thưa, giúp giảm lượng giống gieo sạ từ 40 - 60% so với sản xuất bình thường (giảm khoảng 50 - 70 kg/ha); sử dụng phân hữu cơ thay thế một phần phân bón vô cơ và giảm khoảng 30 - 40% lượng phân vô cơ so với bên ngoài (khoảng 100 - 150 kg/ha); cơ giới hóa được áp dụng từ khâu xuống giống đến khi thu hoạch.
Nguyệt Ánh
Nông nghiệp xanh - xu hướng tất yếu
Nguồn tin: Báo Thái Nguyên
Áp dụng đồng bộ các quy trình, sử dụng hợp lý, tiết kiệm vật tư đầu vào và hiệu quả các nguồn tài nguyên, thiên nhiên, nông nghiệp xanh đang được coi là xu hướng tất yếu của thời đại. Tại Thái Nguyên, nông nghiệp xanh cũng đã được quan tâm từ 5 năm trở lại đây, trong đó có một số mô hình phát huy hiệu quả. Dù vậy, để phát triển nông nghiệp xanh, tỉnh vẫn cần vượt qua không ít trở ngại.
Mô hình trồng thanh long hữu cơ tại xã Phú Thượng (Võ Nhai) đang phát triển rất tốt, có đầu ra ổn định.
Nâng cao tính cạnh tranh của nông sản
Một trong những điển hình về sản xuất nông nghiệp xanh “có tiếng” tại Thái Nguyên phải kể đến là Hợp tác xã (HTX) Chăn nuôi xanh, ở tổ dân phố Pha, phường Lương Sơn (TP. Sông Công). Sau 7 năm đi vào hoạt động, HTX đã khẳng định được hiệu quả từ sản xuất sạch, xanh khi tạo dựng thành công mô hình chăn nuôi lợn, gà khép kín theo hướng an toàn sinh học (từ sản xuất con giống đến khâu chăm sóc, giết mổ), trồng các loại rau, quả chất lượng cao trong nhà kính (khoảng 1.500m2).
Không chỉ chủ động kiểm soát đầu vào như con giống, thức ăn chăn nuôi để tạo ra sản phẩm an toàn, HTX còn có khu xử lý chất thải riêng để không gây mùi, bảo vệ sức khỏe con người và môi trường xung quanh. Chất thải từ chăn nuôi được HTX thu gom, xử lý phục vụ cho việc trồng rau xanh trong nhà kính mang lại hiệu quả thiết thực.
Ông Nguyễn Văn Ngữ, Giám đốc HTX, cho biết: Mỗi năm chúng tôi đưa ra thị trường hơn 1.000 con lợn, trên 6.000 con gà thương phẩm đạt tiêu chuẩn VietGAP và 10 tấn rau quả sạch. Điều khiến tôi tâm đắc chính là sản phẩm của HTX làm ra đến đâu, tiêu thụ hết đến đó. Vài năm nay, dù giá bán thị lợn, gà, rau xanh trên thị trường có giảm “sâu” thì sản phẩm của chúng tôi vẫn giữ giá ổn định và có chiều hướng tăng lên.
Từ thực tế cho thấy, nông nghiệp xanh đang hướng đến nâng cao tính cạnh tranh của nông sản. Đồng thời, phát triển công nghệ xử lý và tái sử dụng các phế thải, phụ phẩm, giúp người nông dân có chất lượng cuộc sống tốt hơn, ổn kinh tế, bảo vệ tài nguyên và hệ sinh thái nông nghiệp. Ông Vũ Đức Hảo, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT cho hay: Nông nghiệp xanh mang lại nhiều lợi ích cả về kinh tế lẫn xã hội khi giảm phát thải và tác động của hóa chất độc hại; phục hồi, cải thiện đất đai; tạo ra sản phẩm sạch, an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng.
Đáng nói, sản xuất sạch, xanh còn giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường, bảo vệ sức khỏe con người vì không còn tình trạng vứt bỏ bao bì, hóa chất rơi vãi ngoài môi trường hoặc chất thải dư thừa làm ô nhiễm nguồn nước. Theo đó, hệ sinh thái được cân bằng và duy trì đa dạng sinh học do hạn chế sử dụng hóa chất, giúp ổn định hệ vi sinh có lợi trong đất, để cây trồng phát triển theo hướng tự nhiên.
Nông dẫn vẫn e ngại
Hiệu quả là vậy nhưng nông nghiệp xanh vẫn còn khá mới lạ, chưa phổ biến rộng rãi ở Thái Nguyên. Đặc biệt, nhiều nông dân trong tỉnh rất muốn tiếp cận nhưng vẫn chỉ dừng ở mức tìm hiểu chứ chưa áp dụng. Bà Lê Thị Phương, xóm La Đồng, xã La Hiên (Võ Nhai) chia sẻ: Gia đình tôi có khoảng 1ha na trên núi. Hiện nay, người dân La Hiên đã thâm canh na rải vụ để hạn chế tình trạng mất giá khi vào vụ thu hoạch chính. Tuy nhiên việc hướng đến sản xuất xanh vẫn đang nằm ở dự định. Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy, để đầu tư cho sản xuất xanh, người nông dân không chỉ tốn nhiều thời gian, công sức mà còn phải đảm bảo quy trình khép kín từ việc đầu tư cho giống cây; kỹ thuật trong thâm canh, sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ vật đến việc thu hái, bảo quản…
Dù nông nghiệp xanh tạo ra nông sản chất lượng, đảm bảo an toàn cho người sản xuất và tiêu dùng nhưng giá bán lại đắt hơn so với sản phẩm thông thường. Minh chứng rõ nét nhất là giá bán sản phẩm na sạch La Hiên tại phiên livestream trên nền tảng Facebook, Tiktok diễn ra hồi đầu tháng 8 vừa qua (do UBND huyện Võ Nhai và Liên minh HTX tỉnh phối hợp tổ chức) có giá 80 nghìn đồng/hg, trong khi giá bán ngoài thị trường bình quân chỉ từ 20-40 nghìn đồng/kg. Chị Nguyễn Thị Dung, chủ quầy kinh doanh hoa quả tại tổ 8, phường Hoàng Văn Thụ (TP. Thái Nguyên), nói: Hiện nay, nhiều người vẫn quan tâm về giá chứ chưa chú trọng đến sự an toàn của sản phẩm. Với giá bán còn cao, nông sản sạch, xanh rất kén người tiêu dùng.
Hướng đến mục tiêu “tăng trưởng xanh”
Rõ ràng, Thái Nguyên có nhiều thuận lợi và tiềm năng để phát triển nền nông nghiệp xanh. Hiện nay, tỉnh đã có 60ha chè được chứng nhận hữu cơ theo tiêu chuẩn TCVN 11041; xây dựng được vùng trồng 4.000ha quế tập trung. Từ nay đến hết năm 2025, tỉnh phấn đấu có khoảng 200ha chè hữu cơ đạt chứng nhận; đến năm 2030, phấn đấu có 10.000ha quế tập trung tại Định Hóa, Võ Nhai.
Riêng trong lĩnh vực chăn nuôi, tỉnh đã xây dựng được trên 70 HTX, tổ hợp tác sản xuất chăn nuôi; 9 doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi; 30 doanh nghiệp, công ty liên doanh, liên kết chăn nuôi lợn, gà theo chuỗi; duy trì hoạt động 20 chuỗi liên kết sản xuất - giết mổ, chế biến - tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi. Trong thời gian tới, tỉnh tiếp tục khuyến khích phát triển chăn nuôi xanh.
Để đạt mục tiêu tăng trưởng xanh, công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức người dân về nền nông nghiệp xanh được Thái Nguyên coi là giải pháp cả trước mắt và lâu dài. Cùng với đó, tỉnh tiếp tục nâng cao giá trị kinh tế trên cùng một đơn vị diện tích đất canh tác; giới thiệu, quảng bá, tuyên truyền để nhân rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp sạch, xanh. Ngoài ra, tỉnh sẽ tổ chức đào tạo, tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật theo hướng cầm tay, chỉ việc cho nông dân trong phát triển nông xanh…
Tùng Lâm
Thêm trợ lực cho người chăn nuôi heo
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Qua quá trình nghiên cứu, đề tài “Giải pháp phát triển bền vững đàn heo tại tỉnh Hậu Giang” đã đề xuất quy trình chăn nuôi heo hiệu quả, phù hợp với điều kiện sản xuất và phát triển của đàn heo trên địa bàn tỉnh.
Kết quả đề tài là trợ lực cho người chăn nuôi heo trên địa bàn tỉnh.
Từ nỗi lo dịch tả heo châu Phi...
Theo báo cáo, trong 6 tháng đầu năm, đàn heo của tỉnh đạt 145.890 con; toàn tỉnh xảy ra 1 ổ dịch tả heo châu Phi trên đàn heo có 66 con ở huyện Châu Thành A. Bước sang tháng 7, tỉnh xuất hiện thêm 3 ổ dịch tại thành phố Vị Thanh, với tổng số 145 con heo. Nhiều năm qua, dịch bệnh này vẫn luôn là một “nỗi lo” lớn đối với người chăn nuôi heo trên địa bàn tỉnh.
Trong giai đoạn 2018-2023, dịch tả heo châu Phi đã ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng và cơ cấu đàn heo của tỉnh. Nếu như trước năm 2018, mật độ chăn nuôi heo tại tỉnh dao động từ 10-100 con/km2, thì đến đỉnh dịch vào năm 2019, mật độ chăn nuôi heo đã giảm xuống còn dưới 10 con/km2, với tất cả các huyện, thị, thành phố đều có tỷ lệ ghi nhận dịch là 100%. Dịch tả heo châu Phi đã gây nhiều thiệt hại cho người chăn nuôi heo, ảnh hưởng tiêu cực đến sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp tỉnh.
Theo ông Ngô Minh Long, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: “Những năm 2018, 2019, khi dịch tả heo châu Phi xảy ra tại tỉnh đã làm tiêu hủy hơn 55.000 con heo. Tỉnh phải bỏ ra nguồn ngân sách lớn để hỗ trợ thiệt hại cho người dân. Tăng trưởng ngành nông nghiệp cũng vì vậy mà suy giảm”. Từ năm 2020 đến nay, tuy đàn heo đã có xu hướng tăng dần, nhưng nguy cơ từ dịch tả heo châu Phi vẫn còn tiềm ẩn.
Trước thực trạng trên, năm 2021, tỉnh đã triển khai đề tài “Giải pháp phát triển bền vững đàn heo tại tỉnh Hậu Giang”, do PGS.TS Trần Ngọc Bích làm chủ nhiệm, Trường Đại học Cần Thơ là tổ chức chủ trì. Đề tài được kỳ vọng sẽ xây dựng biện pháp phòng và trị bệnh dịch tả heo châu Phi phù hợp với điều kiện thực tế của Hậu Giang. Từ đó, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm từ con heo tại tỉnh.
Đến giải pháp để đàn heo phát triển bền vững
Triển khai đề tài, ban chủ nhiệm đã tổng quan về tình hình, điều kiện chăn nuôi heo trên địa bàn tỉnh.
Kết quả điều tra cho thấy, chăn nuôi quy mô nhỏ chiếm tỷ lệ cao nhất với 67,22%. Cơ cấu đàn phổ biến nhất là chăn nuôi heo kết hợp sinh sản và lấy thịt, với tỷ lệ 67,79%. Có 58,89% số hộ chăn nuôi heo có khoảng cách từ khu chăn nuôi đến đường giao thông chính dưới 1km. Hầu hết người dân có chuồng nuôi heo chắc chắn, có ý thức về dịch bệnh và xử lý dịch bệnh, với 90,56% hộ chăn nuôi tiêm phòng vắc-xin cho đàn heo.
Đề tài cũng chỉ ra, bệnh dịch tả heo châu Phi tại tỉnh phụ thuộc vào các yếu tố như: nguồn gốc con giống, thức ăn, hệ thống chăn nuôi, con người và khoảng cách với đường giao thông chính, chợ, trại khác,… Với phương pháp realtime PCR, đề tài phát hiện vi-rút dịch tả heo châu Phi lưu hành trên 22,91% mẫu giám sát được lấy trên địa bàn tỉnh, chủng này có cùng phân nhánh với các chủng vi-rút dịch tả heo châu Phi đang lưu hành ở đồng bằng sông Cửu Long cũng như cả nước.
Trên cơ sở đó, đề tài đã tạo bản đồ dịch tễ bệnh dịch tả heo châu Phi tỉnh Hậu Giang. Ban hành sổ tay hướng dẫn và xây dựng quy trình chăn nuôi heo an toàn sinh học và phòng, chống một số bệnh truyền nhiễm trên đàn heo. Đưa ra các giải pháp kỹ thuật xây dựng, phát triển mô hình chăn nuôi heo đảm bảo an toàn sinh học, theo hướng hiện đại, bền vững. Đề xuất giải pháp quản lý nhà nước hiệu quả trong phòng, chống dịch tả heo châu Phi và các bệnh truyền nhiễm khác trên đàn heo tại tỉnh.
Theo TS. Nguyễn Văn Quyên, Trưởng khoa Nông nghiệp, Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thành phố Cần Thơ: “Kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa thực tiễn cao, có thể ứng dụng rộng rãi trong ngành chăn nuôi heo tại các nông hộ trên địa bàn tỉnh”. Qua đó, giúp người chăn nuôi heo có thêm kiến thức phòng, chống dịch tả heo châu Phi và các dịch bệnh khác một cách hiệu quả, giúp đàn heo của tỉnh phát triển bền vững hơn.
ĐANG THƯ
Vào mùa chay, thị trường tiêu thụ gia cầm kém sôi động
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai
Theo nông dân nuôi gà, vịt trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, vào mùa chay tháng 7 âm lịch, giá gà, vịt giảm nhẹ do sức tiêu thụ trên thị trường chậm hơn so với trước.
Mô hình nuôi gà thịt tại huyện Long Thành. Ảnh: Song Lê
Trong đó, giá gà lông màu hiện ở mức 30-31 ngàn đồng/kg; gà ta thả vườn dao động từ 45-50 ngàn đồng/kg tùy loại gà trống, gà mái, giảm từ 3-5 ngàn đồng/kg so với tháng trước. Giá vịt thịt dao động từ 43-45 ngàn đồng/kg, giảm khoảng 3 ngàn đồng/kg so với tháng trước. Tuy nguồn cung gà, vịt không tăng so với trước nhưng do nhu cầu tiêu thụ trên thị trường khá chậm là nguyên nhân khiến giá gà, vịt hạ nhiệt.
Tuy nhiên, từ đầu năm đến nay, giá các loại gia cầm gà vẫn ổn định ở mức cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm ngoái. Nguyên nhân do nguồn cung các loại gia cầm giảm hơn so với cùng kỳ mọi năm. Với mức giá hiện nay, người nuôi gà công nghiệp, gà lông màu, vẫn có lợi nhuận để yên tâm sản xuất.
Song Lê
Nuôi chồn hương cho lợi nhuận cao
Nguồn tin: Báo Phú Yên
Mô hình nuôi chồn hương của CCB Cao Thành Công, Chủ tịch Hội CCB phường Hòa Xuân Tây (TX Đông Hòa) cho lợi nhuận cao. Ảnh: MẠNH HOÀI NAM
Trang trại nuôi chồn hương của CCB Cao Thành Công, Chủ tịch Hội CCB phường Hòa Xuân Tây (TX Đông Hòa, tỉnh Phú Yên) chỉ có 300m2, nhưng mang về lợi nhuận cao.
Rời quân ngũ trở về cuộc sống đời thường, tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng với phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, CCB Cao Thành Công đã nỗ lực vươn lên phát triển kinh tế gia đình.
Chồn hương rất dễ nuôi
Trước đây, anh cùng đoàn thanh niên trong phường chung vốn nuôi cá, nuôi chình để phát triển kinh tế gia đình nhưng hiệu quả không cao. Sau khi được Hội CCB TX Đông Hòa cho đi tham quan, học hỏi các mô hình ngoài tỉnh, đồng thời được hỗ trợ nguồn vốn vay, anh Công đã mạnh dạn đầu tư nuôi chồn hương. CCB Cao Thành Công chia sẻ: Mới đầu tôi đầu tư 100 triệu tiền giống, hiện giờ giá trị chồn sinh sản và chồn thương phẩm cũng tầm 400-500 triệu đồng.
Ban đầu, công việc nuôi chồn gặp nhiều khó khăn do anh Công thiếu kinh nghiệm, chưa hiểu tập tính sống của loài chồn. Vì vậy, anh tự nghiên cứu, tìm hiểu kiến thức trên internet, học kỹ thuật chăm sóc từ những người nuôi trước rồi rà soát lại quy trình nuôi của mình để thay đổi cách chăm sóc phù hợp. Sau 2 năm, anh Công đã gây dựng thành công trang trại chồn hương với các nhóm chồn thịt, chồn sinh sản, chồn con, với tổng đàn trên 40 con.
Anh Công cho hay, chồn hương rất dễ nuôi. Thức ăn của chồn chủ yếu là chuối chín, các loại hoa trái ngọt và cá rô phi, cua... Chồn rất dữ, nếu nuôi nhốt chung chúng thường cắn nhau nên phải thiết kế những ô lồng nhỏ để nuôi mỗi con một ô, kích thước chuồng nuôi khoảng 1m2/con. Đặc biệt, chồn nuôi 8 tháng là bắt đầu sinh sản, con cái bỏ ăn, hay kêu như gà kêu ổ là động đực.
“Nuôi chồn sinh sản, có khâu đặc biệt là rất khó tìm con đực giống giao phối. Theo kinh nghiệm, 100 con đực thì chọn được 2 con nhảy (phối giống) đậu, số còn lại không đạt nên bán thịt. Vì vậy, giá con đực phối giống hiện nay đến 50 triệu đồng/con. Chồn đực nặng chưa được 5kg nhưng giá trị hơn con bò đực lai cao to nặng gần nửa tấn”, anh Công nói.
Anh Công còn tiết lộ: Nếu chăm sóc đúng cách, một con chồn mẹ, mỗi năm sinh sản từ 2-3 lứa, mỗi lứa 2-6 con. Chồn hương con nuôi khoảng 2-4 tháng có thể bán giống với giá từ 10-11 triệu đồng/cặp và bán giống đẻ sẽ cao hơn, 20 triệu đồng/cặp.
Nhân rộng mô hình
Khi chồn mẹ sinh sản thì người nuôi đến kiểm lâm để khai báo giống như đăng ký “giấy khai sinh”. Cứ 6 tháng, cán bộ kiểm lâm đến kiểm tra chuồng nuôi và số lượng chồn con. Chia sẻ về những dự định trong thời gian tới, anh Công cho biết sẽ mở rộng trang trại và tiếp tục cung cấp con giống cho bà con có nhu cầu chăn nuôi để phát triển kinh tế.
Ông Nguyễn Vĩnh Lanh, Chủ tịch Hội CCB TX Đông Hòa cho hay: Nuôi chồn của CCB Cao Thành Công là một mô hình mới. Đối với cương vị Chủ tịch CCB phường, anh Công đã chia sẻ kinh nghiệm trong phát triển kinh tế thông qua nhiều mô hình hay, nhiều cách làm sáng tạo, cùng giúp hội viên CCB vươn lên thoát nghèo. Gần đây, Hội CCB tỉnh tổ chức hội viên CCB tham quan, học hỏi, nhân rộng mô hình nuôi chồn hương này.
Đại tá Phan Tấn Ô, Phó Chủ tịch Hội CCB tỉnh cho biết: Chồn hương có giá trị kinh tế cao hơn so với nhiều vật nuôi khác, đặc biệt là với nhu cầu ngày càng lớn từ các quán ăn và nhà hàng, do đó đầu ra cho chồn thịt và chồn giống rất thuận lợi. Mô hình nuôi chồn hương của anh Công không chỉ tốn ít không gian mà còn mang lại lợi nhuận hấp dẫn, phù hợp để phát triển kinh tế. Hội CCB đang tích cực vận động để mở rộng mô hình này cho hội viên.
Ông Nguyễn Vĩnh Lanh, Chủ tịch Hội CCB TX Đông Hòa: Nuôi chồn hương của CCB Cao Thành Công là một mô hình mới. Gần đây, Hội CCB tỉnh tổ chức hội viên CCB tham quan, học hỏi, nhân rộng mô hình nuôi chồn hương này.
MẠNH HOÀI NAM
Hiếu Giang tổng hợp