Thái Nguyên: Na Võ Nhai - Quả ngọt trên núi đá
Nguồn tin: Báo Thái Nguyên
Bén rễ trên đất Võ Nhai (Thái Nguyên) từ hàng chục năm nay, na trở thành “cây thoát nghèo”, “cây làm giàu” của hàng trăm hộ dân trên địa bàn huyện vùng cao này. Na Võ Nhai được người tiêu dùng ưa chuộng bởi thơm ngon, vị ngọt đậm. Được chăm sóc tỉ mẩn bởi bàn tay của những người nông dân vùng cao, quả na Võ Nhai mang đậm sắc - hương - vị của miền núi đá. Với 700ha trồng na trên địa bàn, những năm qua, vấn đề xúc tiến thương mại cho sản phẩm nông nghiệp chủ lực này luôn được huyện Võ Nhai và tỉnh quan tâm.
Lãnh đạo huyện Võ Nhai thăm vườn na tại xã Phú Thượng và trao đổi với bà con nhân dân về đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm na.
Thức quà từ núi đá
Vừa qua cơn mưa rào, tất cả đều trở nên đậm nước mà no căng. Trên những vách núi đá ở La Hiên, Lâu Thượng, Phú Thượng, thị trấn Đình Cả…, những vườn na ngút ngàn đắm mình trong màu xanh tươi mát. Trên những triền dốc núi, cứ một khoảng xa xa lại thấp thoáng bóng người miệt mài thu hoạch những quả na chính vụ tươi ngon.
Vừa luôn tay làm việc, chị Nông Thị Ngọc Ánh, xóm Xuân Hòa, xã La Hiên, vừa chia sẻ: Để có được những quả na thơm ngọt, ngay từ mùng 5 Tết Nguyên đán chúng tôi đã phải tỉa cành cho cây. Đến tháng 3, tháng 4 thì thụ phấn cho từng bông hoa, rồi miệt mài chăm sóc đến ngày được hái những quả na to đều, đẹp mắt. Với 3 sào na, khi vào chính vụ, mỗi ngày tôi thu hơn 1 tạ quả. Sau khi tham gia chương trình livestream bán na và nông sản tại Lễ hội “Võ Nhai mùa na chín” vào năm ngoái, đến vụ na năm nay, nhiều khách hàng cũ đã tìm đến tận vườn nhà tôi để mua, tôi không cần phải mang ra chợ như mọi năm.
Có diện tích trồng na gấp 3 lần gia đình chị Ánh, năm nay, anh Vũ Bá Thái, ở xóm Xuân Hòa, xã La Hiên tiếp tục tham gia Chương trình xúc tiến, kết nối tiêu thụ sản phẩm na Võ Nhai và nông sản tỉnh Thái Nguyên năm 2024. Hiện tại, anh Thái đang thu hoạch những quả na to, đẹp nhất, chuẩn bị bao bì, hộp giấy để đóng gói cho khách hàng. Anh Thái chia sẻ: Năm nay mưa nhiều nên vụ na đến sớm hơn so với mọi năm. Thời tiết thuận lợi nên na đẹp quả, vẫn giữ được hương thơm, vị ngọt đặc trưng, được khách hàng rất yêu thích. Thay vì bọc na trong giấy báo như trước đây, năm nay tôi sử dụng lá na để lót giữa các lớp quả. Việc này vừa giữ cho quả na tươi, tránh dập nát, vừa có mùi thơm, lại được khách hàng ưa chuộng hơn.
Tay thoăn thoắt xếp từng quả na vừa hái vào thùng giấy để chuyển đi cho kịp chuyến xe sáng sớm, chị Trương Thị Thủy, thành viên Hợp tác xã na La Hiên bảo: Tuy chưa đến ngày chính diễn ra sự kiện livestream phiên chợ na huyện Võ Nhai và nông sản Thái Nguyên nhưng nhiều khách hàng đã đặt mua qua kênh online. Mỗi ngày tôi và các thành viên Hợp tác xã xếp hàng chục thùng na để gửi đi cho khách ở TP. Thái Nguyên, TP. Phổ Yên hay nhiều tỉnh thành khác như Hà Nội, Vĩnh Phúc… Ngày mai khi diễn ra sự kiện livestream, dự kiến lượng đơn hàng sẽ lớn hơn nhiều, nhưng chúng tôi rất vui với sự “quá tải” này.
Toàn huyện Võ Nhai hiện có hơn 700ha trồng na, trong đó có khoảng 200ha đã được chứng nhận VietGAP. Với phần diện tích còn lại, bà con cũng chú trọng sản xuất theo hướng an toàn nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của khách hàng, đồng thời chung tay bảo vệ thương hiệu na Võ Nhai. Thời điểm này, na Võ Nhai đang có giá 30-35 nghìn đồng/kg (50-60 nghìn đồng/kg đối với hàng loại 1). Sản phẩm quả na được dán tem nhãn và mã QR để người tiêu dùng có thể truy xuất nguồn gốc, từng bước xây dựng thương hiệu bền vững. Đây cũng là điểm thuận lợi để tỉnh và huyện Võ Nhai triển khai xúc tiến tiêu thụ sản phẩm.
Không chỉ là sản phẩm kinh tế
Xã La Hiên là địa phương tập trung phần lớn diện tích trồng na của huyện Võ Nhai. Ông Vi Văn Út, Phó Chủ tịch UBND xã, cho biết: Để chuẩn bị cho Chương trình xúc tiến, kết nối tiêu thụ sản phẩm na Võ Nhai và nông sản tỉnh Thái Nguyên năm 2024, UBND xã đã triển khai nội dung Chương trình đến tất cả các hợp tác xã, tổ hợp tác trên địa bàn. Các hộ trồng na đã chuẩn bị chu đáo về sản phẩm, mẫu mã bao bì... để tham gia Chương trình đạt hiệu quả cao.
Đặc biệt, với mục đích kết hợp kinh tế nông nghiệp với du lịch, năm nay, huyện Võ Nhai đã xây dựng điểm check-in vùng trồng na tại khu Lân Hồng, xã La Hiên, với nhiều tiểu cảnh trang trí mang đặc trưng của vùng dân tộc thiểu số để thu hút du khách đến tham quan, mua nông sản.
Đồng chí Hà Thị Bích Hồng, Bí thư Huyện ủy Võ Nhai, cho biết: Những năm gần đây, Chương trình xúc tiến, kết nối tiêu thụ sản phẩm na Võ Nhai và nông sản tỉnh Thái Nguyên đã trở thành sự kiện thường niên được tổ chức trên địa bàn huyện. Đây là cơ hội để huyện và nông dân trên địa bàn quảng bá rộng rãi đặc sản địa phương và nâng cao giá trị thương hiệu, giá trị kinh tế của quả na. Qua nhiều năm được tổ chức, sự kiện này không chỉ được người dân trên địa bàn huyện Võ Nhai đón chờ mà còn thu hút sự quan tâm của đông đảo bà con, du khách gần xa. Từ mục tiêu thúc đẩy tiêu thụ nông sản ban đầu, Chương trình đang dần trở thành sản phẩm du lịch đặc sắc của địa phương với các hoạt động check-in, trải nghiệm hái na, tham gia phiên livestream bán nông sản…
Người dân Võ Nhai tự hào về cây na. Họ cũng rất tự tin vào chất lượng quả na được trồng trên đất Võ Nhai, với hương thơm, vị ngọt đặc trưng như gom đủ tinh túy của vùng núi đá khô cằn và khí trời vùng cao. Vì vậy, người dân vùng cao luôn đón chờ du khách đến với miền quả ngọt, thưởng thức những trái na đặc sản và cùng trải nghiệm những nét văn hóa truyền thống đặc sắc nơi đây...
Nhóm P.V
Sống khỏe nhờ trồng cây ca cao
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Nhờ trồng cây ca cao mà nhiều nhà vườn tại huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long sống khỏe, vươn lên thoát nghèo, thậm chí kiếm được thu nhập trăm triệu đồng mỗi năm.
Ông Hai Suối bên vườn ca cao rộng 1,5ha cho năng suất ổn định, sản lượng đạt khoảng 80 kg/cây/năm.
Ca cao là một trong những cây trồng có mặt từ lâu tại ĐBSCL, được trồng phổ biến ở nhiều địa phương như Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cần Thơ… Riêng tại tỉnh Vĩnh Long, từ năm 2006, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh đã có dự án hỗ trợ cây giống và chuyển giao kỹ thuật để bà con nông dân trồng xen canh cây ca cao trong các vườn cây ăn trái, chủ yếu là vườn dừa ở các huyện Vũng Liêm, Trà Ôn. Từ sự kết hợp này đã đem lại hiệu quả kinh tế ổn định cho nhiều nhà vườn nơi đây.
Trong khi giá cả nhiều loại cây ăn trái khác biến động không ngừng, giá ca cao được thu mua rất ổn định giúp người trồng kiếm được thu nhập khá. Từ những hiệu quả mang lại, diện tích trồng cây ca cao ở địa phương ngày một mở rộng. Từ đây, hình thành những tổ hợp tác, hợp tác xã làm đầu mối dẫn dắt, đưa cây trồng này bén rễ, bám đất ở nhiều nơi trong tỉnh.
Kể về hành trình nên duyên với cây ca cao, ông Nguyễn Văn Suối (Hai Suối), Giám đốc Hợp tác xã nông nghiệp Tích Khánh (xã Tích Thiện, huyện Trà Ôn) đã gắn bó với cây ca cao hơn 20 năm, với nhiều tâm huyết với loại cây này cho biết, cây ca cao đã giúp bà con xóa đói giảm nghèo, kỹ thuật trồng lại vô cùng đơn giản, nhà nhà đều có thể trồng được.
Ông Hai Suối nhớ lại, nhiều năm về trước với 3ha đất ruộng, ông làm quần quật từ năm này sang năm khác nhưng không khá lên nổi. Nhận thấy nếu còn trồng lúa về lâu về dài cũng không đem lại hiệu quả kinh tế, lại cực công chăm sóc nên ông quyết định chuyển đổi sang mô hình khác. Ông cất công lặn lội nhiều nơi tìm hiểu mô hình hay, tình cờ biết được cây ca cao được trồng nhiều ở tỉnh Bến Tre đem lại hiệu quả kinh tế nên ông lặn lội sang để học hỏi. Thấy mô hình đầy tiềm năng, ông quyết định cải tạo đất ruộng và chi số tiền lớn để mua 1.200 cây giống về trồng trên diện tích 1,5ha. Thời điểm đầu, ông Hai Suối gặp không ít khó khăn bởi ca cao có nhiều giống, khi đưa về vùng đất mới nên đòi hỏi kỹ thuật trồng khó hơn. Tuy nhiên, với sự quyết tâm, cần cù và tỉ mỉ trong khâu chăm sóc, cây trồng cây mới này cũng không làm khó được ông. Trong quá trình trồng, ông đánh giá cây ca cao dễ trồng, ít tốn công chăm sóc, chi phí đầu tư thấp, cho trái quanh năm, giá cây giống rẻ chỉ từ 16.000 đồng/cây. Điểm đặc biệt của loại cây này so với nhiều cây trồng khác là sức chống chịu độ mặn tốt và chỉ cần tưới 1-2 lần/tuần.
Theo ông Hai Suối, nếu trồng chuyên canh có thể trồng với mật độ dày khoảng 80 cây/1.000m2, nếu trồng xen với vườn dừa có thể trồng dừa khoảng cách 7-8 m/cây và xen ca cao vào các điểm trống khoảng 40 cây ca cao và 20 cây dừa. Từ khi trồng đến 18 tháng tuổi cây bắt đầu ra hoa. Khoảng 22 tháng nhà vườn đã có khoản thu nhập đầu tiên từ vườn ca cao. Cây ở tuổi thứ 3 cho năng suất trái 30 kg/cây/năm. Mỗi năm sau đó, năng suất tăng thêm từ 5-10 kg/cây. Đến nay, vườn ca cao của ông Hai Suối đã trưởng thành, cho năng suất ổn định, sản lượng đạt khoảng 80 kg/cây/năm. Khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 12 âm lịch là mùa thuận của cây sẽ cho sản lượng quả ổn định. Vào mùa nghịch sản lượng giảm khoảng 70-75%. Hiện nay, giá ca cao rất ổn định, bình quân 5.500 đồng/kg, mỗi năm 1,5ha trồng ca cao đem lại thu nhập gần 500 triệu đồng cho ông Hai Suối.
Ông Nguyễn Văn Kiều (74 tuổi, ngụ xã Tích Thiện) đang có trên 1,5ha vườn dừa xen ca cao. Cứ khoảng 1.000m2 ông trồng 20 cây dừa xen thêm 40 cây ca cao. Qua chăm sóc, lão nông này cho biết cây cao cao chịu được nước nhiễm mặn khá tốt. "Vườn ca cao của tôi khoảng 7 năm tuổi, những tháng cho thu hoạch rộ sản lượng khoảng 600 kg/tuần. Những tháng mùa nghịch, sản lượng giảm còn khoảng 200kg/tuần. Mỗi tháng, nhờ vườn ca cao mà tôi thu lãi trên 10 triệu đồng mà không tốn quá nhiều công chăm sóc".
Thời gian qua, Hợp tác xã Nông nghiệp Tích Khánh tổ chức sản xuất và liên kết thu mua ca cao cho bà con nông dân địa phương. Đến nay, tổng diện tích vùng nguyên liệu ca cao của hợp tác xã đã lên đến 140ha, trồng khoảng 140.000 cây, với 220 hộ dân trong và ngoài huyện tham gia, năng suất bình quân đạt khoảng 10 tấn/ha/năm. Ông Nguyễn Văn Tám, Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Trà Ôn, cho biết, thời gian qua, huyện khuyến khích nông dân chuyển đổi cây trồng ở những nơi phù hợp. Trong đó, cây ca cao đang có triển vọng, giúp nông dân có thu nhập khá từ mô hình này.
Bài, ảnh: NGUYỄN TRINH
Hàn Quốc chính thức cấp phép nhập khẩu bưởi Việt Nam
Nguồn tin: Báo Chính Phủ
Cục Bảo vệ thực vật (BVTV), Bộ N&PTNT vừa cho biết ngày 30/7, sau 3 tháng lấy ý kiến rộng rãi của các bên liên quan, Cục Kiểm dịch Động thực vật Hàn Quốc (APQA) đã công bố trên website về quy định nhập khẩu đối với quả bưởi tươi từ Việt Nam sang Hàn Quốc.
Bưởi là quả tươi thứ 3 của Việt Nam được phép nhập khẩu vào Hàn Quốc, sau thanh long và xoài - Ảnh: VGP/Đỗ Hương
Đây là được xem là thông báo chính thức cho phép việc nhập khẩu bưởi tươi của Việt Nam.
Bưởi là quả tươi thứ 3 của Việt Nam được phép nhập khẩu vào Hàn Quốc, sau thanh long và xoài. Cục BVTV đánh giá, đây là bước tiến quan trọng, mở ra cơ hội lớn cho nông sản Việt Nam tiếp cận thị trường quốc tế, đồng thời khẳng định chất lượng và uy tín của nông sản Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Với thị trường 50 triệu dân, Hàn Quốc là thị trường rất tiềm năng cho bưởi Việt Nam - một trong 14 nhóm trái cây chủ lực theo đề án phát triển cây ăn quả mà Bộ NN&PTNT định hướng.
Cả nước hiện có hơn 100.000ha trồng bưởi, với sản lượng hơn 900.000 tấn. Riêng Đồng bằng sông Cửu Long chiếm khoảng 32.000ha, với sản lượng khoảng 370.000 tấn, được xem là vùng sản xuất trọng điểm.
Những tỉnh có diện tích bưởi lớn là Bến Tre (hơn 8.800ha), Vĩnh Long (hơn 8.600ha), Đồng Nai (hơn 5.400ha). Các giống bưởi nổi tiếng, có tiềm năng xuất khẩu lớn gồm bưởi da xanh, bưởi Năm Roi, bưởi Tân Triều...
Trước Hàn Quốc, một số thị trường lớn như Hoa Kỳ, New Zealand… cũng cấp phép cho trái bưởi tươi Việt Nam. Hiện bưởi Việt Nam được xuất khẩu chính ngạch tới 13 quốc gia và vùng lãnh thổ. Dự báo sang năm 2025, con số này sẽ tăng lên thành 14, với sự tham gia của Australia.
Hiệp hội Rau quả Việt Nam thống kê, cùng với sầu riêng, bưởi là mặt hàng trái cây có giá trị tăng cao, tính từ đầu năm 2023 đến nay.
Từ năm 2018, Cục BVTV đã khởi động chương trình mở cửa thị trường đối với quả bưởi của Việt nam xuất khẩu sang Hàn Quốc. Quá trình đàm phán được đẩy nhanh sau COVID-19.
Sau 2 năm phối hợp, trao đổi thông tin để thực hiện phân tích nguy cơ dịch hại và trải qua nhiều vòng đàm phán, Cục BVTV và APQA đã thống nhất về mặt kỹ thuật trong cuộc họp song phương hồi tháng 4/2024.
Vào ngày 18/7, Cục BVTV đã đăng tải trên website dự thảo các yêu cầu về kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm đối với quả bưởi tươi của Việt Nam nhập khẩu vào Hàn Quốc, nhằm giúp các tổ chức, cá nhân quan tâm có thể tìm hiểu và nắm trước thông tin về các quy định này.
Cục đề nghị các bên liên quan tìm hiểu kỹ yêu cầu về kiểm dịch thực vật đối với quả bưởi tươi nhập khẩu vào Hàn Quốc và nhanh chóng triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại, xuất khẩu bưởi sang quốc gia Đông Bắc Á này.
Đỗ Hương
Làm giàu từ cây bưởi da xanh
Nguồn tin: Báo Bình Định
Bằng sự cần cù, nỗ lực vượt khó, ông Trần Chanh (61 tuổi, ở thôn Thanh Sơn, xã An Tân, huyện An Lão, tỉnh Bình Định) đã mạnh dạn chuyển đổi cây trồng kém hiệu quả sang mô hình trồng bưởi da xanh, mang lại thu nhập mỗi năm hàng trăm triệu đồng.
Trước đây, trên diện tích đất vườn 1 ha, gia đình ông Chanh chủ yếu trồng cây điều, keo lai, hiệu quả không cao. Sau một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu các loại cây trồng mới, ông quyết định chọn bưởi da xanh làm loại cây trồng chủ lực để phát triển kinh tế gia đình.
Năm 2017, ông vay 50 triệu đồng từ chương trình cho vay dành cho hộ nghèo của Ngân hàng CSXH huyện An Lão để cải tạo đất, phá bỏ vườn điều và mua 300 gốc bưởi da xanh về trồng. Ông Chanh chia sẻ, thời điểm đó, ở thôn Thanh Sơn chưa có ai trồng bưởi da xanh, vì cho rằng thổ nhưỡng không phù hợp. Ngay từ khi bắt đầu, ông đăng ký tham gia các lớp tập huấn, tự tích lũy kinh nghiệm trồng trọt từ những mô hình kinh tế hiệu quả.
Ông Trần Chanh chăm sóc cây bưởi tại vườn. Ảnh: T.C
Từ kiến thức có được, ông Chanh áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào chăm sóc, hạn chế sử dụng phân bón, thuốc hóa học. Cây sinh trưởng tốt, chỉ sau 3 năm trồng, cây đã cho những quả bưởi đầu tiên.
Theo ông Chanh, cây bưởi da xanh gần như cho quả quanh năm, nhưng ông chỉ tập trung chính cho 2 vụ (từ tháng 3 - 6 và từ tháng 8 - 11). Nhất là mới đây, trong vụ mùa đầu tiên, ông thu hoạch hơn 11 tấn quả và bán trực tiếp cho thương lái tại vườn với giá khoảng 30.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, ông thu lãi gần 70 triệu đồng.
Mặt khác, cũng trên diện tích hiện có, ông còn trồng xen canh thêm một số giống cây trồng khác, như 1.000 cây dứa, 200 cây chuối, vài chục cây mít Thái và thanh long ruột đỏ… Riêng số cây này cũng giúp gia đình ông có nguồn thu ổn định hơn 50 triệu đồng/năm. Nhờ biết cách làm kinh tế hiệu quả, cuối năm 2022, gia đình ông đã thoát nghèo, trở thành hộ khá.
“Tháng 3.2024, tôi vay thêm 100 triệu đồng nữa từ nguồn vốn giải quyết việc làm của Ngân hàng CSXH huyện. Với số tiền này, tôi sử dụng để cải tạo và mở rộng thêm 1 ha đất trồng keo sang trồng bưởi; đồng thời, vận động các hộ dân trong vùng mạnh dạn chuyển đổi những cây trồng kém hiệu quả sang trồng bưởi da xanh, nâng cao giá trị nông sản cho địa phương, từng bước làm giàu, tăng thêm thu nhập cho gia đình”, ông Chanh nói.
TRIỀU CHÂU
Để sầu riêng không phải sầu chung
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Việc ồ ạt tự phát trồng sầu riêng số lượng lớn với mong muốn đón đầu thị trường của nông dân đang tiềm ẩn nhiều rủi ro về đầu ra lẫn giá cả.
Nông dân cần thận trọng khi ồ ạt trồng sầu riêng để tránh cảnh thừa hàng dội chợ.
Mở rộng diện tích
Canh tác hơn 3ha sầu riêng, cây nhỏ nhất 3 năm tuổi, còn lớn nhất 9 năm tuổi, anh Võ Trung Tình, ngụ xã Long Thạnh, huyện Phụng Hiệp (tỉnh Hậu Giang), cho biết, đây là loại cây ăn trái mang lại nhiều giá trị kinh tế. Vụ thu hoạch vừa rồi, giá sầu riêng liên tục neo giữ ở mức cao. Trong đó, sầu riêng Ri6 đỉnh điểm 120.000-130.000 đồng/kg, Monthong Thái từ 180.000-190.000 đồng/kg. Nhờ mức giá này mà nhiều bà con trong HTX Chín Em Ba có cuộc sống ổn định, một số rục rịch mở rộng diện tích.
“Bà con trồng mới sầu riêng rất nhiều. Trồng xen vô cây có sẵn để đón thị trường vì giá loại trái cây này đang cao. Đơn vị cũng mua sầu riêng phục vụ xuất khẩu nhưng đầu ra chủ yếu phụ thuộc vào thị trường nhập khẩu”, anh Trung Tình chia sẻ.
Trước việc nhiều hộ dân mở rộng diện tích trồng sầu riêng vì thấy lợi nhuận cao, ông Lê Văn Sáu, ở xã Tân Bình, huyện Phụng Hiệp, người được mệnh danh là tỉ phú sầu riêng với gần 40 năm kinh nghiệm bày tỏ: “Theo thị trường thì sầu riêng là cây có múi có giá đứng đầu bảng. Trái cây này đang xuất khẩu, nếu làm chất lượng thì sẽ có hiệu quả kinh tế. Tôi bán Ri6 gần 60.000 đồng/kg, trong khi có hộ bán giá 30.000 đồng/kg. Trồng sầu riêng muốn thành công phải học hỏi, tham gia liên kết chứ trồng nhỏ lẻ thì khó thành công. Hồi đó, tôi phải lặn lội lên đại học Cần Thơ tìm nhà khoa học rồi qua Tiền Giang, chỗ trồng sầu riêng học kinh nghiệm mới được như bây giờ”.
Rà soát sơ bộ mới đây của ngành nông nghiệp, nhiều loại cây ăn trái giảm đáng kể diện tích so với cùng kỳ, thay vào đó là diện tích trồng cây sầu riêng tăng mạnh. Toàn tỉnh có khoảng 2.500ha sầu riêng, tăng 640ha so cùng kỳ năm 2023. Có khoảng 1.000ha đang thu hoạch với năng suất trung bình 14-16 tấn/ha. Sầu riêng Ri6 chiếm 84%, Monthong chiếm 12%, các giống khác chiếm 4%. Riêng huyện Phụng Hiệp chiếm khoảng 26% diện tích trồng sầu riêng toàn tỉnh. Trong đó có 30ha sầu riêng đạt chứng nhận VietGAP được doanh nghiệp bao tiêu xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc.
Tại buổi tiếp xúc đối thoại giữa lãnh đạo tỉnh Hậu Giang với doanh nghiệp, ông Nguyễn Văn Vo, chủ cửa hàng vật tư nông nghiệp Nguyễn Văn Vo ở thành phố Vị Thanh, bày tỏ: “Đề nghị ngành nông nghiệp làm sao quy hoạch được trồng cây gì, con gì để giúp nông dân sau này buôn bán được có giá, chứ giờ đi đâu cũng gặp trồng sầu riêng hết. Không biết chừng nữa có sầu chung không, nhưng nếu làm như vậy sẽ ảnh hưởng đến doanh nghiệp. Đa số doanh nghiệp bán phân cho bà con nông dân, các đại lý bán chịu 50%. Nếu lỡ giá cả, thất mùa thì doanh nghiệp chịu”.
Bà Nguyễn Thị Giang, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh khuyến cáo, ông dân nên tìm hiểu và nắm kỹ các biện pháp kỹ thuật trong canh tác cây sầu riêng. Đồng thời, cần tuân thủ các quy định về an toàn thực phẩm, đảm bảo chất lượng nông sản. Cần liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp thu mua, xuất khẩu để tạo mối liên kết sản xuất - tiêu thụ ổn định và bền vững…
Cần có định hướng
Trong những năm gần đây, sầu riêng được người tiêu dùng ưa chuộng, giá cao. Đặc biệt, loại trái cây này đã được xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc từ cuối năm 2022, mở ra cơ hội lớn đối người trồng và doanh nghiệp Việt Nam. Giá tăng kỷ lục, khiến sức hút của cây trồng này trở nên hấp dẫn hơn bao giờ hết. Điều này lý giải vì sao thời gian qua, diện tích trồng sầu riêng đã và đang được nhân lên ở các địa phương ĐBSCL, trong đó có Hậu Giang.
Ông Đồng Văn Thanh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh, cho biết: “Chúng tôi chỉ đạo ngành nông nghiệp xây dựng bản đồ để chúng ta xác định vị trí, nơi nào trồng những loại cây gì phù hợp với thổ nhưỡng và nhu cầu thị trường, số lượng bao nhiêu. Ngành nông nghiệp đang xúc tiến sớm có bản đồ để chúng ta thực hiện trồng các loại cây phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu. Hiện tại cũng cần những vùng sản xuất tập trung, ký kết với các doanh nghiệp mua sản phẩm của mình. Họ không chịu việc sản xuất nhỏ lẻ, manh mún như trước đây vì họ tính số lượng của chúng ta không đủ cung ứng cho họ theo yêu cầu, không đủ cung cấp cho các đơn đặt hàng của họ”, ông Đồng Văn Thanh chia sẻ.
Cũng theo ông Đồng Văn Thanh, một vấn đề khác cũng đáng quan tâm, đó là khi sản xuất nhỏ lẻ, tự phát sẽ khó đảm bảo đồng đều về chất lượng và tiêu chuẩn khi các nông dân có thời gian xịt thuốc, rải phân không đồng bộ. Điều này, sẽ gây trở ngại cho đầu ra nông sản của nông dân.
Trong quá khứ, không hiếm những bài học đắt giá về việc ồ ạt chuyển đổi cây trồng, vật nuôi theo phong trào khiến cho việc cung vượt cầu phải cần đến các chiến dịch giải cứu. Đã đến lúc cần nhìn nhận thực tế, với nông dân có ý định, hoặc chuẩn bị bắt tay vào trồng sầu riêng cũng cần phải suy nghĩ, định hướng cẩn thận trước khi đầu tư. Bên cạnh đó, cần sản xuất theo tư duy kinh tế, nắm bắt nhu cầu thị trường. Và nhất là tuân thủ khuyến cáo của cơ quan chức năng.
Cùng với đó, các cấp, các ngành chức năng cần làm tốt hơn công tác quy hoạch, định hướng dựa trên lợi thế so sánh của từng địa phương, gắn với nhu cầu thị trường và hỗ trợ, tạo gắn kết chặt chẽ giữa các khâu trong chuỗi giá trị ngành hàng. Tăng cường công tác kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến lớn để nông dân không phải rơi vào vòng luẩn quẩn trồng - chặt, chạy vào vết xe đổ của những lần trồng theo phong trào tự phát trước đây.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, diện tích sầu riêng cả nước từ 32.000ha của năm 2015 đã tăng đột biến lên hơn 150.000ha vào năm 2023. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khuyến cáo, các địa phương cần xây dựng kế hoạch phát triển sản xuất cây sầu riêng theo vùng tập trung, không mở rộng diện tích, đặc biệt là tại các vùng có thổ nhưỡng không phù hợp, không có điều kiện đầu tư thâm canh, vùng chưa có đê bao khép kín, đê bao không đảm bảo gây ngập lụt trong mùa mưa và xâm nhập mặn trong mùa khô tại khu vực ĐBSCL.
MỘNG TOÀN
Chuẩn bị vụ lúa trên đất nuôi tôm
Nguồn tin: Báo Cà Mau
Hiện nay, bà con nông dân ở các xã vùng chuyển đổi sản xuất huyện Trần Văn Thời (tỉnh Cà Mau) đang tập trung gieo mạ, tích cực rửa mặn, xổ phèn, cải tạo đất để chuẩn bị sản xuất vụ lúa trên đất nuôi tôm.
Theo kế hoạch, vụ lúa trên đất nuôi tôm năm nay huyện Trần Văn Thời sản xuất hơn 3.140 ha, tập trung ở các xã: Khánh Bình, Khánh Bình Ðông, Lợi An, Phong Lạc và Phong Ðiền. Vụ mùa vừa qua đa số nông dân trúng mùa, được giá nên vụ lúa trên đất nuôi tôm năm nay, nhiều bà con ở các xã vùng chuyển đổi sản xuất đã chủ động rửa mặn, xổ phèn từ rất sớm. Cùng với đó, bà con cũng tận dụng mặt sân, bờ vuông, đất trống quanh nhà để gieo mạ, chuẩn bị cho việc cấy lúa theo lịch thời vụ.
Tranh thủ lúc mưa nhiều, ông Nguyễn Thanh Liêm, ấp Tân Thành, xã Phong Lạc đang tích cực rửa mặn và gieo mạ được hơn 10 ngày tuổi. "Năm nay, số hộ dân trong ấp có thể tham gia sản xuất vụ lúa trên đất nuôi tôm khoảng 90%. Hiện tại, nhiều hộ đã gieo mạ xong; số còn lại chờ đúng lịch thời vụ sẽ tiến hành gieo sạ trực tiếp xuống ruộng", ông Liêm cho biết.
Gia đình ông Nguyễn Thanh Liêm tận dụng hết diện tích đất trống quanh nhà gieo mạ để chuẩn bị sản xuất vụ lúa trên đất nuôi tôm.
Cùng ấp Tân Thành, gia đình ông Châu Văn Ðược cũng đang rửa mặn, xổ phèn và gieo mạ được hơn 20 ngày tuổi. Ông Ðược chia sẻ: "Tranh thủ mấy đợt mưa lớn kéo dài vừa qua, tôi đã xổ nước trong vuông ra ngoài nhiều lần để hứng nước mưa. Hiện tại, độ mặn trong vuông đã giảm, chờ tới ngày mạ đủ tuổi sẽ nhổ cấy. Năm nay tôi tiếp tục chọn giống lúa Một bụi đỏ vì thấy giống này phù hợp với thời tiết và độ mặn ở đây".
Theo ông Võ Văn Tòng, ấp Tân Thành, trước kia người dân ở đây sản xuất 1 vụ lúa trên đất nuôi tôm đạt hiệu quả không cao, do khi trời dứt mưa nước mặn ngoài sông xâm nhập vào đồng ruộng dẫn đến thiệt hại. Mấy năm gần đây, nhờ hệ thống cống thuỷ lợi, việc ngăn mặn, chống tràn hiệu quả nên bà con sản xuất lúa hiệu quả. "Năm nay, nông dân ở đây ai cũng chuẩn bị làm vụ lúa trên đất nuôi tôm. Riêng gia đình tôi có khoảng 2 ha đất, hiện tại tôi đã gieo mạ xong, đến đầu tháng 8 âm lịch, mạ cỡ 2 tháng trở lên sẽ tiến hành nhổ cấy", ông Tòng chia sẻ.
Nhằm đảm bảo cho nông dân ở các xã vùng chuyển đổi sản xuất trên địa bàn huyện sản xuất hiệu quả vụ lúa trên đất nuôi tôm, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện đã xây dựng kế hoạch, hướng dẫn lịch thời vụ để nông dân áp dụng. Ngoài ra, khuyến cáo nông dân chọn các loại giống lúa đưa vào sản xuất phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương; hướng dẫn quy trình cải tạo đất để đảm bảo cho quá trình xuống giống đạt hiệu quả, tránh bị thiệt hại.
Nhiều nông dân cho biết, sản xuất vụ lúa trên đất nuôi tôm không chỉ giúp bà con tăng thêm thu nhập mà còn tạo môi trường thuận lợi cho tôm nuôi phát triển tốt. Về lâu dài, các ngành chuyên môn cũng cần quy hoạch lại sản xuất và từng bước hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi tại các vùng sản xuất vụ lúa trên đất nuôi tôm, nhằm giúp bà con nông dân giảm bớt thiệt hại do thời tiết gây ra./.
Anh Quốc
Liên kết sản xuất rau màu chuyên canh quy mô lớn
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Vùng chuyên canh cải xà lách xoong ở xã Thuận An, TX Bình Minh giúp nông dân thu nhập cao.
Hàng năm, diện tích đất sản xuất rau màu các loại của tỉnh Vĩnh Long khoảng hơn 45.000ha, sản lượng bình quân khoảng 900.000 tấn. Hiện, các vùng sản xuất rau màu được quy hoạch và từng bước phát triển thành các vùng chuyên canh với quy mô lớn. Sản phẩm của nông dân tham gia các chuỗi liên kết có đầu ra ổn định, giúp họ nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống, vươn lên làm giàu.
Nhiều năm qua, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng và sức cạnh tranh của các sản phẩm rau màu chủ lực trên địa bàn, các cấp, các ngành và địa phương ở Vĩnh Long đã ban hành và triển khai nhiều kế hoạch, chương trình, đề án tác động tích cực trong thực tế, mang lại hiệu quả cao…
Mở rộng vùng chuyên canh
Mấy năm gần đây, tại xã Ngãi Tứ (huyện Tam Bình) đã hình thành vùng chuyên canh rau màu quy mô lớn, có liên kết tiêu thụ sản phẩm, người dân yên tâm sản xuất.
Ông Nguyễn Văn Tám- Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX Rau màu Ngãi Tứ, chia sẻ: “Mỗi ngày, HTX thu mua cả chục tấn rau màu. Chiều hôm trước, chúng tôi đến tận ruộng, hoặc điện thoại nắm thông tin về số lượng rau màu của người dân để sáng hôm sau đến nhận. Nhiều gia đình để sản phẩm trước nhà, hoặc người của chúng tôi đến tận ruộng để vận chuyển giúp”.
Ông Nguyễn Văn Lập (ngụ ấp Bình Quý, xã Ngãi Tứ), cho hay: “Gia đình tôi sản xuất 3 công đất màu. Trước kia, mỗi khi thu hoạch, việc bán sản phẩm rất khó khăn, nhiều lúc bán đổ, bán tháo, giá cả rất bấp bênh. Từ khi tham gia HTX Ngãi Tứ, gia đình tôi không còn lo đầu ra sản phẩm, tất cả được bao tiêu, giá cả cũng cao hơn bán chợ”.
Theo ông Nguyễn Văn Tám, mỗi ngày HTX thu mua 2 chuyến. Buổi sáng sẽ phân phối hàng cho các tỉnh khu vực ĐBSCL và buổi chiều đưa đến các chợ đầu mối ở TP Hồ Chí Minh. HTX ngày càng mở rộng thu mua nông sản, giúp nông dân yên tâm sản xuất, nâng cao thu nhập.
Phó Chủ tịch UBND xã Ngãi Tứ Nguyễn Hoàng Diệu cho biết, trước đây, xã chủ yếu sản xuất lúa luân canh với màu. Qua thời gian, nhận thấy trồng màu có hiệu quả kinh tế cao hơn cho nên người dân mạnh dạn chuyển đổi sang chuyên canh màu từ đất lúa kém hiệu quả. Hiện, Ngãi Tứ đã hình thành được vùng chuyên canh màu hơn 220ha; trên địa bàn xã có chợ đầu mối nông sản, mỗi ngày cung ứng và trao đổi hơn 200 tấn hàng hóa, giúp nông dân xã Ngãi Tứ nói riêng và các vùng chuyên canh rau màu lân cận ở Vĩnh Long nói chung, có đầu ra ổn định.
Với các vùng chuyên canh màu đang mở rộng, lãnh đạo TX Bình Minh cũng đề ra nhiều kế hoạch nhằm nâng cao chất lượng vùng chuyên canh cải xà lách xoong trên địa bàn xã Thuận An. Nhờ thu nhập bình quân đầu người cao nhất tỉnh cùng với đạt các tiêu chí khác, xã Thuận An được công nhận là xã NTM kiểu mẫu đầu tiên của tỉnh Vĩnh Long.
Chủ tịch UBND xã Thuận An Nguyễn Văn Hiếu cho biết, thu nhập chính của phần lớn nông dân trong xã là nhờ cải xà lách xoong. Trung bình mỗi công cải xà lách xoong, nông dân thu lãi hơn 100 triệu đồng/năm. Diện tích đất trồng màu hiện chiếm hơn 50% diện tích đất nông nghiệp của xã, chủ yếu là trồng cải xà lách xoong. Mỗi năm, xã chuyển dịch đất lúa kém hiệu quả sang chuyên canh màu từ 5- 6ha…
Nâng tầm ngành sản xuất, chế biến rau màu
Theo Sở Nông nghiệp-PTNT, do các đặc thù về điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, Vĩnh Long có các vùng chuyên canh rau màu đặc trưng, như: Khoai lang ở huyện Bình Tân; xà lách xoong ở TX Bình Minh; dưa leo ở huyện Tam Bình…
Thị trường tiêu thụ đa dạng, giáp TP Cần Thơ và lên TP Hồ Chí Minh cũng rất thuận lợi nhờ các tuyến cao tốc đã hoàn thiện. Hiện, các vùng sản xuất chuyên canh rau màu quy mô lớn của tỉnh đáp ứng tốt nhu cầu của các thị trường tiêu thụ. Người sản xuất có nhiều kinh nghiệm và ứng dụng tốt các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất cho nên tạo được sản phẩm bảo đảm chất lượng, sản lượng khá ổn định.
Phó Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và BVTV tỉnh- Nguyễn Ngọc Thanh cho biết, ngành chức năng đang tập trung xây dựng các vùng trồng tập trung, liên kết chặt chẽ trong sản xuất và tiêu thụ, bảo đảm quản lý vùng trồng và truy xuất nguồn gốc.
Cùng với đó, từng bước áp dụng cơ giới hóa, ứng dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất đồng loạt, giảm chi phí sản xuất. Theo định hướng của tỉnh Vĩnh Long, đến năm 2030, diện tích gieo trồng rau màu các loại của toàn tỉnh hàng năm khoảng 47.000ha, tập trung tại TX Bình Minh và các huyện Bình Tân, Tam Bình…
Chủ tịch UBND tỉnh- Lữ Quang Ngời cho biết, theo Quy hoạch tỉnh Vĩnh Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, hướng phát triển ngành nông nghiệp là chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp.
Tỉnh chú trọng ứng dụng khoa học- công nghệ, phát triển nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn, thích ứng biến đổi khí hậu; đồng thời, xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn gắn với công nghiệp chế biến theo chuỗi giá trị và xây dựng thương hiệu sản phẩm.
Vĩnh Long sẽ thu hút nhiều hơn các doanh nghiệp có quy mô lớn và vừa đầu tư vào ngành chế biến rau quả. Đến năm 2030, tỉnh phấn đấu có hơn 70% cơ sở chế biến, bảo quản rau quả xuất khẩu đạt trình độ và công nghệ sản xuất tiên tiến; công suất chế biến đạt 24.000 tấn sản phẩm/năm, gấp 2 lần năm 2020.
Tỉnh cũng đang xây dựng “Kế hoạch phát triển các vùng sản xuất rau an toàn, tập trung, bảo đảm truy xuất nguồn gốc gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ đến năm 2030 tại tỉnh Vĩnh Long”; từ đó, góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng rau màu trong nước và xuất khẩu, phát triển bền vững ngành hàng rau, bảo đảm an ninh lương thực, an toàn vệ sinh thực phẩm và nâng cao sức khỏe cộng đồng...
Bài, ảnh: BÁ DŨNG
Sản xuất rau màu mùa mưa
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Chủ động, kịp thời thực hiện biện pháp phòng ngừa và ngăn chặn mầm bệnh vào mùa mưa là yếu tố cấp thiết để cây rau màu đạt năng suất và chất lượng.
Nhà lưới phát huy hiệu quả trong mùa mưa.
Chủ động phòng ngừa
Từ tháng trước, anh Nguyễn Văn Hoàng, ở ấp 7, xã Long Trị A, thị xã Long Mỹ (tỉnh Hậu Giang) đã tự gia cố các liếp trồng rau trong vườn để phòng trường hợp rau bị úng nước do mưa nhiều, anh Hoàng cho biết: “Gần 1ha đất vườn xung quanh nhà tôi dùng để trồng các loại rau cải, ước sản lượng đạt hơn 53 tấn/năm. Do có kinh nghiệm nên từ trước mùa mưa, gia đình tôi đã nhanh chóng chuẩn bị từ khâu đất trồng, nhà lưới,… không cho mưa làm dập lá, hoặc bị sâu tơ, rầy nhảy tấn công”.
Trước những trận mưa lớn, kéo dài như hiện nay, mô hình nhà lưới đã phát huy hiệu quả khi giúp bà con trong hợp tác xã (HTX) Nông sản an toàn Long Trị A giảm thiểu tối đa thiệt hại do mưa. So với cách trồng rau truyền thống, trồng rau trong nhà lưới giúp hạn chế sự tác động tiêu cực của yếu tố tự nhiên như mưa, côn trùng,… giúp cây trồng khỏe mạnh, phát triển nhanh, ít cần đến các loại thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) và phân bón.
Ông Hồ Ngọc Bình, Giám đốc Hợp tác xã (HTX) Nông sản an toàn Long Trị A, ở ấp 7, xã Long Trị A, thị xã Long Mỹ, cho biết: “Năm nay mưa kéo dài nên bà con chọn các loại rau dễ bán như cải ngọt, cải xanh, cải bẹ dúng,… để trồng. Hiện 12 công đất trong HTX đang xuống giống và thu hoạch để giao cho bạn hàng tại các chợ Vị Thủy, Long Mỹ,… Hơn 20ha đất còn lại người dân để trống cho đất nghỉ, chuẩn bị tốt cho vụ sau. Nhờ có nhà lưới và bờ bao nên rau không bị ảnh hưởng, tuy nhiên giá bán có giảm nhẹ, khoảng 2.000 đồng/kg so với cách đây khoảng 1 tháng, với giá bán trung bình từ 8.000-10.000 đồng/kg”.
Biện pháp thích ứng mùa mưa
Tính đến nay, toàn tỉnh đã xuống giống được 24.753ha rau màu, đạt 91,7% so với kế hoạch năm 2024, giảm 517ha so với cùng kỳ. Thu hoạch lũy kế đến thời điểm này đạt 20.344ha, năng suất trung bình ước đạt 12,5 tấn/ha. Nhìn chung diện tích trồng rau màu tại thời điểm này giảm so với cùng kỳ là do các diện tích trồng xen trong các vườn cây ăn trái tận dụng diện tích trong thời gian cây còn nhỏ nay các loại cây ăn trái đã lớn nên diện tích này cũng giảm.
Ông Bạch Văn Sơn, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh, cho rằng: “Nếu tận dụng lượng nước tự nhiên trong mùa mưa thì sẽ giảm được một phần công lao động cũng như lượng nước cần phải cung cấp cho cây. Tuy nhiên, nếu mưa liên tục sẽ gây ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của rau màu”.
Do đó, để rau màu phát triển tốt trong mùa mưa, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh khuyến cáo bà con nên chọn nền đất cao ráo, tầng canh tác dày, đất tơi xốp, cũng như tránh làm đất quá nhuyễn vì nếu gặp mưa to dễ bị nén gây thiếu oxy, dẫn đến nghẹt rễ. Đồng thời, nên dọn các tàn dư ở vụ trước để loại bỏ nơi trú ẩn của côn trùng, sâu bệnh gây hại.
Bên cạnh đó, cần có bờ bao và hệ thống thoát nước tốt để tránh nước bị tồn đọng khi gặp mưa to hoặc mưa dầm lâu ngày gây ngập úng rau; lựa chọn các giống rau có thị trường tiêu thụ ổn định và cho hiệu quả kinh tế cao như: dưa leo, khổ qua, đậu đũa,… nhằm phát triển cây màu an toàn và bền vững. Ngoài ra, nên ươm cây giống trong khay hoặc túi bầu, vừa tiết kiệm thời gian, vừa bảo đảm tỷ lệ cây sống cao, cây rau sẽ mau bén rễ sau khi trồng, tạo sức khỏe cho cây từ giai đoạn cây con để góp phần chống chịu sâu bệnh gây hại.
Không nên gieo sạ với mật độ quá dày, chế độ tưới vừa phải, vừa đủ cho cây trồng phát triển, thường xuyên theo dõi các đối tượng gây hại, áp dụng các biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp (IPM), quản lý sức khỏe cây trồng (IPHM) và phun thuốc theo nguyên tắc 4 đúng, sử dụng thuốc BVTV sinh học để đạt được năng suất và hiệu quả kinh tế cao nhất.
Song song, các phòng chuyên môn và các trạm trực thuộc cần tăng cường phối hợp với địa phương theo dõi, cập nhật thông tin diễn biến thời tiết để kịp thời phổ biến bản tin thời tiết nông vụ góp phần hạn chế rủi ro trong sản xuất; theo dõi và dự báo tình hình sinh vật gây hại để tư vấn cho nông dân cách thức phòng trừ hiệu quả, an toàn hạn chế thấp nhất ảnh hưởng thiệt hại do mưa bão gây ra. Dự báo trong những ngày tới, tình hình mưa còn diễn biến còn phức tạp, các phòng chuyên môn cần hướng dẫn người dân có biện pháp xử lý kịp thời hạn chế thiệt hại, vận động nông dân gia cố bờ bao, cống đập, khai thông dòng chảy, tích cực bơm chống ngập úng cho các loại cây trồng khác.
MAI THANH
Phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững
Nguồn tin: Báo Bình Dương
Để tạo sự chuyển biến trong ngành nông nghiệp cũng như khai thác và phát huy thế mạnh về thổ nhưỡng, khí hậu, thời gian qua, Bình Dương đã thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại, xây dựng nền nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững.
Chuyển dịch đúng định hướng
Ngành nông nghiệp và các địa phương đang chủ động rà soát, chuyển đổi diện tích cây trồng kém hiệu quả sang các loại cây có giá trị kinh tế cao hơn, phù hợp với điều kiện của từng vùng, đưa các giống mới có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị. Từ sản xuất tự phát, manh mún, lạc hậu, đến nay toàn tỉnh đã có hơn 5.760 ha diện tích đất canh tác ứng dụng công nghệ cao. Lĩnh vực chăn nuôi cũng chuyển biến tích cực theo hướng tập trung, quy mô lớn, tỷ lệ chăn nuôi trang trại chiếm trên 90% tổng đàn gia súc, gia cầm toàn tỉnh.
Hiện chăn nuôi gà ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh tiếp tục phát triển với 150 trang trại đầu tư chăn nuôi gà giống, gà đẻ trứng và gà thịt với tổng đàn trên 8,3 triệu con, chiếm 68,4% tổng đàn; chăn nuôi heo thịt, heo giống chất lượng cao có 265 trang trại, với tổng đàn trên 714 ngàn con, chiếm 76,7% tổng đàn; chăn nuôi vịt thịt có 80 trang trại, với tổng đàn 863 ngàn con; chăn nuôi bò sữa có 1 trang trại với tổng đàn 491 con.
Bình Dương đã thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại, xây dựng nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững
Bên cạnh đó, tỉnh Bình Dương cũng là một trong những địa phương đạt kết quả cao trong xây dựng vùng an toàn dịch bệnh động vật để hướng tới mục tiêu xuất khẩu. Cục Thú y đã công nhận 13 vùng an toàn dịch bệnh đối với cúm gia cầm, Niu-cat-xơn, lở mồm long móng gia súc, dịch tả heo và dại trên chó, mèo.
Riêng chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM), từ thực tiễn đã cho thấy các cấp, các ngành, các địa phương đã nỗ lực triển khai đồng bộ chương trình với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, gắn kết hài hòa với lộ trình phát triển đô thị của tỉnh và các huyện, thị xã, thành phố.
Phát huy tiềm lực khoa học công nghệ
Theo lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), trong những năm qua, ngành NN&PTNT tiếp tục thực hiện có hiệu quả đề án, kế hoạch cơ cấu lại ngành toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, vận hành theo cơ chế thị trường, ứng dụng khoa học công nghệ mới là động lực chủ yếu tạo giá trị gia tăng và chuyển đổi mô hình tăng trưởng; tổ chức liên kết chuỗi sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp tiếp tục được đổi mới; chất lượng sản phẩm nông sản được nâng cao, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa có nhiều tiến bộ.
Có thể khẳng định, những dấu mốc của ngành nông nghiệp Bình Dương không chỉphản ánh sựchuyển dịch đúng hướng, màcòn cho thấy kết quảcủa việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp được Bình Dương tập trung thực hiện. Các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt và vượt so với các mục tiêu của chương trình. Nhiều năm liền, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn tăng trưởng không ngừng.
Năm 2023 đạt hơn 80 triệu đồng/năm. Tổng số trang trại nông nghiệp của tỉnh đứng thứ 2 vùng Đông Nam bộ và thứ 5 cả nước; diện tích trồng cao su và sản lượng mủ khô xếp thứ 2; số lượng đàn lợn xếp thứ 8, số lượng đàn gia cầm xếp thứ 12 toàn quốc; năng lực chăn nuôi công nghệ cao của Bình Dương được đánh giá thuộc nhóm hàng đầu cả nước.
Ông Phạm Văn Bông, Giám đốc Sở NN&PTNT, cho biết trong quá trình hình thành và phát triển với vị thế là tỉnh có mức độ đô thị hóa cao, tốc độ tăng trưởng nhanh hàng đầu cả nước đã tạo nhiều lợi thế nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cho ngành nông nghiệp của tỉnh về chi phí nhân công, đất đai, cơ hội thu hút vốn đầu tư.
Trước những khó khăn thách thức nói trên, ngành nông nghiệp Bình Dương đã triển khai nhiều giải pháp sáng tạo và đạt được nhiều bước tiến lớn, nhiều lĩnh vực được đánh giá là đi đầu cả nước.
Thời gian tới, ngành nông nghiệp Bình Dương tiếp tục phát huy nền tảng đã có, vận dụng sáng tạo hơn nữa nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn gắn liền với định hướng mới của Đề án Thành phố thông minh - Vùng đổi mới sáng tạo Bình Dương.
Đồng thời, ngành bứt phá, chuyển đổi từ mô hình sản xuất nhỏ lẻ, gia công sang sản xuất chuyên nghiệp, tiên tiến ứng dụng công nghệ, phát huy tiềm lực, đẩy mạnh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, xây dựng nông thôn kiểu mẫu gắn liền với làng thông minh, đưa nông nghiệp, nông thôn lên một tầm cao mới.
Đến nay, Bình Dương có 38/38 xã đạt chuẩn NTM; 38/38 (100%) xã đạt chuẩn NTM nâng cao; 3 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu về văn hóa và sản xuất; 3/6 đơn vị cấp huyện, thành phố được công nhận đạt chuẩn NTM/ hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM.
THOẠI PHƯƠNG
Đồng Nai: Huyện Cẩm Mỹ có nhiều sản phẩm OCOP trái cây tươi
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai
Là huyện thuần nông, huyện Cẩm Mỹ (Đồng Nai) có thế mạnh phát triển nhiều mặt hàng nông sản, nhất là các loại đặc sản trái cây tươi. Theo đó, địa phương rất chú trọng triển khai thực hiện chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP), đặc biệt làm sản phẩm OCOP cho mặt hàng trái cây tươi.
Gian hàng trưng bày các sản phẩm OCOP của huyện Cẩm Mỹ.
Đến nay, toàn huyện có 20 sản phẩm được chứng nhận OCOP. Trong đó, có 18 sản phẩm OCOP 3 sao; 2 sản phẩm được công nhận đạt chuẩn OCOP 4 sao. Trong đó, có nhiều sản phẩm nông sản, trái cây tươi được cấp chứng nhận OCOP như: sầu riêng Xuân Đường, sầu riêng Sáu Hiệp (xã Xuân Quế), hồ tiêu Lâm San, bưởi da xanh xã Xuân Mỹ, chôm chôm Sông Nhạn...
Huyện đang tiếp tục tập trung vận động các chủ thể sản xuất, kinh doanh duy trì, nâng chất lượng sản phẩm OCOP để ngày càng đáp ứng tốt hơn về nhu cầu chất lượng và sự đa dạng sản phẩm của thị trường tiêu thụ. Qua đó, góp phần xây dựng nhãn hàng, thương hiệu nông sản địa phương.
Song Lê
Giá heo tăng nhưng tăng đàn không nhiều
Nguồn tin: Báo Sóc Trăng
Trong các tháng giữa năm 2024, giá heo hơi tăng cao nhưng hộ nuôi chỉ phát triển đàn heo với số lượng ít. Nguyên nhân được nông dân chia sẻ là do tác động của thị trường, giá thịt có sự biến động tăng, giảm thất thường theo thời điểm trong năm, cùng với đó là ảnh hưởng từ bệnh dịch tả heo châu Phi nên hộ chăn nuôi ít tăng đàn.
Có nhiều năm chăn nuôi heo, bà Nguyễn Thị Sáu, xã Tân Thạnh, huyện Long Phú (Sóc Trăng) chia sẻ: "Tôi nuôi heo tính đến nay đã hơn 30 năm. Nhờ nuôi heo mà đời sống gia đình tôi phát triển từng ngày. Thời điểm nuôi heo thuận lợi, bình quân xuất bán ra thị trường hơn 100 con heo thịt/năm. Trong tháng 4, tháng 5 vừa qua, tuy giá heo hơi tăng cao (lên đến hơn 65.000 đồng/kg), nhưng do bị ảnh hưởng bệnh heo tai xanh, bệnh dịch tả heo châu Phi và giá không ổn định nên tôi quyết định không tăng đàn".
Bà Nguyễn Thị Lệ, thị trấn Kế Sách, huyện Kế Sách (Sóc Trăng) chăm sóc đàn heo của gia đình. Ảnh: THÚY LIỄU
Cũng là hộ nuôi heo hơn 10 năm qua, bà Nguyễn Thị Lệ, thị trấn Kế Sách, huyện Kế Sách (Sóc Trăng) cho biết: “Trước tình hình dịch bệnh heo diễn biến phức tạp, đặc biệt là bệnh dịch tả heo châu Phi nên tôi chăm sóc đàn heo bằng cách vệ sinh chuồng sạch sẽ, tiêu độc khử trùng theo định kỳ. Hiện tại, tôi nuôi 5 con heo nái sinh sản, xuất bán mỗi năm từ 80 - 100 con heo thịt. Tôi mới vừa xuất bán 40 con, trừ hết các khoản chi phí lợi nhuận hơn 120 triệu đồng. Đến cuối năm sẽ tiếp tục xuất chuồng hơn 40 con nữa. Để giảm rủi ro khi giá heo giảm, tôi duy trì đàn heo nuôi như hiện tại".
Đồng chí Lâm Đăng Vinh - Phó Trưởng Phòng Kinh tế thị xã Ngã Năm thông tin, tuy nhiều hộ nuôi heo thận trọng trước tình hình dịch bệnh và giá cả, không tăng đàn, nhưng tổng đàn heo trên địa bàn thị xã đến thời điểm hiện tại là 28.518 con, tăng 9,7% so cùng kỳ năm trước. Hình thức chăn nuôi của thị xã theo quy mô hộ gia đình, từ 2 - 20 con/hộ và có khoảng 10 hộ chăn nuôi heo gia trại từ 100 - 200 con/hộ. Để bảo vệ đàn heo nuôi tại hộ, phòng chống tốt các dịch bệnh, đơn vị phối hợp các đơn vị liên quan hướng dẫn người chăn nuôi tăng cường áp dụng các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học, vệ sinh tiêu độc khử trùng môi trường chăn nuôi. Tổ chức tiêm phòng dịch bệnh đảm bảo tỷ lệ tiêm đạt 100%; kiểm soát giết mổ và kiểm tra vệ sinh thú y đối với cơ sở chăn nuôi, giết mổ. Theo dõi chặt chẽ tình hình diễn biến các loại dịch bệnh, đặc biệt là dịch tả heo châu Phi và triển khai kịp thời các biện pháp phòng, chống dịch bệnh khi có dịch bệnh xảy ra. Tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn người chăn nuôi các biện pháp phòng, chống dịch bệnh trên heo.
“Đàn heo toàn tỉnh gần 200.000 con, tăng hơn 12% so cùng kỳ năm trước. Để bảo vệ đàn heo nuôi phát triển tốt, khuyến cáo người chăn nuôi tăng cường áp dụng các biện pháp vệ sinh, sát trùng khu vực chuồng nuôi và khu vực xung quanh chuồng nuôi. Đẩy mạnh chăn nuôi an toàn sinh học, xây dựng cơ sở, vùng chăn nuôi an toàn dịch bệnh; tiêm phòng vắc xin phòng chống bệnh dịch tả heo châu Phi. Cùng với đó, người chăn nuôi cần chủ động thực hiện các biện pháp phòng, chống bệnh dịch tả heo châu Phi theo hướng dẫn của ngành chuyên môn; tiêu hủy heo mắc bệnh, nghi mắc bệnh, heo chết, không mua bán, vận chuyển heo bệnh, vứt xác heo chết làm lây lan dịch bệnh, ô nhiễm môi trường…”, đồng chí Đào Văn Bảy - Phó Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y Sóc Trăng chia sẻ.
THÚY LIỄU
Long An xây dựng, phát triển thương hiệu yến
Nguồn tin: Báo Long An
Thời gian qua, ngành chức năng tỉnh Long An tập trung hỗ trợ người dân trong vùng quy hoạch nuôi yến xây dựng thương hiệu; đồng thời, làm cầu nối để người nuôi chim yến liên kết với các doanh nghiệp xuất khẩu nhằm đưa sản phẩm yến của tỉnh vươn xa.
Toàn tỉnh có gần 1.200 nhà yến
Hiện toàn tỉnh có gần 1.200 nhà yến, tăng khoảng 650 nhà so với năm 2020. Trong đó, số nhà yến ở khu vực Đồng Tháp Mười chiếm trên 60%, với khoảng 700 nhà yến. Sự phát triển nhanh chóng này được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố, trong đó có giá trị kinh tế cao của yến, chính sách hỗ trợ của địa phương và tiềm năng phát triển của ngành.
Thông tin từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, từ năm 2020, tỉnh đã ban hành danh sách vùng được phép nuôi yến. Theo đó, vùng nuôi chim yến phải nằm ngoài các khu vực không được phép chăn nuôi gồm khu vực các phường của TP.Tân An, thị xã Kiến Tường; khu vực thị trấn thuộc các huyện Bến Lức, Đức Hòa, Cần Đước, Cần Giuộc, Thủ Thừa, Tân Trụ, Châu Thành, Đức Huệ, Thạnh Hóa, Tân Thạnh, Vĩnh Hưng, Mộc Hóa, Tân Hưng; khu, cụm, tuyến dân cư hiện hữu hoặc có chủ trương đầu tư của cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đồng thời, nhà yến phải có khoảng cách tối thiểu 300m tính từ ranh giới hành chính của khu vực không được phép chăn nuôi.
Trên cơ sở quy định vùng nuôi và đặc tính của loài chim yến, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tham mưu UBND tỉnh tiếp tục định hướng các tiểu vùng đáp ứng được điều kiện để phát triển ngành yến gắn với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại địa phương và các quy định pháp luật chuyên ngành về đầu tư, xây dựng và môi trường.
Cùng với đó, Sở đã và đang phối hợp các sở, ngành liên quan để quản lý về cấp phép xây dựng nhà yến. Đồng thời, Sở cũng đẩy mạnh việc xây dựng chuỗi liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tổ yến; khuyến khích thành lập Hội nuôi yến, tham gia Hiệp hội yến sào, tham gia xây dựng sản phẩm OCOP,…
Ngoài ra, Sở còn phối hợp các địa phương thực hiện rà soát các cơ sở nuôi có nhu cầu xuất khẩu sản phẩm tổ yến; nắm bắt thông tin khó khăn của nông hộ, cơ sở. Qua đó, có những chính sách hỗ trợ kịp thời để thúc đẩy nghề nuôi yến phát triển đúng với tiềm năng, lợi thế./.
Minh Tuệ
Giàu lên từ nghề nuôi chim yến
Nguồn tin: Báo Bình Định
Gắn bó với nghề nuôi chim yến suốt 15 năm qua, anh Nguyễn Văn Mân (SN 1982, khu phố Cửu Lợi Bắc, phường Tam Quan Nam, TX Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định) đã vươn lên làm giàu và đóng góp tích cực cho địa phương.
Anh Mân chia sẻ về hành trình đến với nghề nuôi chim yến: “Sau khi tốt nghiệp đại học ngành xây dựng tại TP Hồ Chí Minh năm 2007, tôi làm việc trong lĩnh vực thiết kế và lắp đặt thiết bị cho nhà nuôi yến ở các huyện ven biển phía Bắc. Cuối năm 2009, tôi quyết định nghỉ việc để chuyển sang nghề nuôi yến.”
Với nền tảng kiến thức xây dựng và kinh nghiệm tích lũy, anh Mân đầu tư gần 1 tỷ đồng để xây dựng nhà nuôi yến tại khu phố Cửu Lợi Nam (Tam Quan Nam). Chỉ sau một năm, nhà yến của anh đã thu hút khoảng 1.000 cặp chim, cho vụ khai thác đầu tiên gần 10 kg yến thô. Hiện tại, cơ sở này đã có trên 5.000 cặp chim yến sinh sản.
Năm 2014, anh Mân tiếp tục đầu tư 5 tỷ đồng xây dựng nhà nuôi yến thứ hai tại khu phố Cửu Lợi Bắc, quy mô 4 tầng, hiện có trên 1.000 cặp chim yến. Anh cho biết, khai thác yến chỉ bắt đầu khi chim con trưởng thành và rời tổ, để tổ có thời gian tái tạo và chim yến không rời đi nơi khác. Trung bình mỗi năm, hai cơ sở của anh cung cấp từ 50 - 60 kg yến thô.
Năm 2016, anh Mân thành lập Công ty TNHH Yến sào Yến Mân, chuyên sơ chế và cung cấp tổ yến cùng các sản phẩm từ yến. Để đảm bảo nguồn nguyên liệu, công ty của anh còn đầu tư xây dựng 6 nhà nuôi yến tại tỉnh Gia Lai. Công ty xuất ra thị trường trung bình 20 - 25 kg yến thành phẩm mỗi tháng, thu nhập hằng năm ước tính trên 2 tỷ đồng.
Anh Mân giới thiệu các sản phẩm của Công ty TNHH Yến sào Yến Mân. Ảnh: D.B.S
Các sản phẩm của Công ty TNHH Yến sào Yến Mân hiện có mặt tại gần 50 cửa hàng trong và ngoài tỉnh, bao gồm tổ yến thô, yến tinh chế, yến rút lông định hình và yến chưng sẵn. Sản phẩm yến sào tinh chế và yến rút lông Yến Mân được Công ty CP chứng nhận GLOBALCERT cấp giấy chứng nhận đạt chất lượng TCVN ISO 22000:2018; 5 sản phẩm tinh chế từ yến được Hội đồng thẩm định TX Hoài Nhơn công nhận sản phẩm OCOP đạt hạng 3 sao. Công ty giải quyết việc làm cho 9 lao động chính thức với thu nhập 8 triệu đồng/người/tháng và 10 lao động thời vụ.
Ông Nguyễn Thanh Hải, Chủ tịch UBND phường Tam Quan Nam, đánh giá: “Công ty TNHH Yến sào Yến Mân đã đồng hành tích cực cùng sự phát triển của phường và thị xã, đóng góp nhiều cho các hoạt động an sinh xã hội, đền ơn đáp nghĩa và khuyến học khuyến tài. Đặc biệt, công ty còn tạo ra nhiều sản phẩm OCOP tiêu biểu, chất lượng cho địa phương.”
BẢO SƯƠNG - THANH HÙNG
Ninh Thuận: Hiệu quả bước đầu mô hình chăn nuôi cừu theo chuỗi giá trị ở xã Phước Chính
Nguồn tin: Báo Ninh Thuận
Mô hình chăn nuôi cừu sinh sản theo chuỗi giá trị ở xã Phước Chính (Bác Ái) được Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) tỉnh Ninh Thuận triển khai vào tháng 10/2023. Qua gần 9 tháng triển khai, bước đầu mô hình mang lại hiệu quả, tạo sinh kế cho người dân ở vùng cao.
Từ khi được nhận 14 con cừu cái sinh sản và 1 con cừu đực giống vào tháng 10/2023 để chăn nuôi theo chuỗi giá trị đã giúp gia đình chị Chamaléa Thị Ngọc ở thôn Núi Rây có thêm thu nhập. Để đàn cừu phát triển ổn định, gia đình chị chủ động trồng cỏ đảm bảo nguồn thức ăn tươi cho đàn gia súc. Nhờ đó, đàn cừu phát triển tốt, sau gần 9 tháng nuôi tỷ lệ sinh sản đạt trên 80%. Chị Ngọc, phấn khởi: Trước đây kinh tế gia đình tôi khó khăn, nguồn thu nhập chính phụ thuộc vào trồng trọt, hiện nay được Nhà nước hỗ trợ vật nuôi đã giúp kinh tế gia đình ổn định hơn. Từ 15 con cừu giống ban đầu, đến nay đã phát triển lên 26 con, vừa rồi gia đình bán bớt 3 con cừu giống được gần 5 triệu đồng. Ngoài gia đình chị Ngọc, ở xã Phước Chính còn có nhiều hộ được hỗ trợ cừa giống để phát triển chăn nuôi.
Mô hình chăn nuôi cừu sinh sản theo chuỗi giá trị ở xã Phước Chính giúp nhiều hộ thoát nghèo.
Mô hình chăn nuôi cừu sinh sản theo chuỗi giá trị tại xã Phước Chính có 32 hội viên phụ nữ Raglai thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo được hưởng lợi; mỗi hộ nhận được 14 con cừu cái sinh sản và 1 con cừu đực giống, tổng kinh phí hơn 1,9 tỷ đồng. Chị Chamaléa Thị Duy, Chủ tịch Hội LHPN xã Phước Chính, cho biết: Mô hình bước đầu mang lại hiệu quả, tạo điều kiện giúp các hộ phát triển chăn nuôi, vươn lên thoát nghèo bền vững. Thời gian tới, hội tiếp tục phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, hướng dẫn cách chăm sóc, tiêm phòng và phối hợp với Hợp tác xã Phát triển nông nghiệp Quang Khánh tiêu thụ ổn định sản phẩm cừu của bà con; đồng thời, tiếp tục xây dựng và nhân rộng mô hình.
Phan Thanh
Hiếu Giang tổng hợp