Chung tay đưa nông sản Việt ra thế giới
Nguồn tin: Báo Công Thương
Bộ Công Thương cùng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngày 18/2, đã tổ chức tọa đàm với các Tham tán và Tùy viên Thương mại của Việt Nam tại nước ngoài nhằm tìm giải pháp thúc đẩy liên kết, sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nông lâm thủy sản (NLTS) Việt Nam ra thị trường thế giới.
Bảo quản vải theo công nghệ CAS (Cells Alive System) để xuất khẩu
Tại buổi tọa đàm, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN và PTNT) Trần Thanh Nam cho biết, thời gian qua, nhất là năm 2015, hàng loạt vấn đề kỹ thuật liên quan đến việc đưa NLTS Việt vào thị trường quốc tế đã được Bộ Công Thương và Bộ NN và PTNT phối hợp thành công, như: Đưa xoài Việt Nam vào Nhật Bản, đưa vải tươi sang Úc và Hoa Kỳ, nối lại xuất khẩu các mặt hàng rau gia vị sang châu Âu sau một thời gian tạm ngừng, giải quyết các vấn đề vướng mắc trong xuất khẩu thịt lợn và thủy sản sang Liên bang Nga.
Hai Bộ cũng đã phối hợp tích cực trong việc đàm phán với Trung Quốc về khử trùng gạo, tháo gỡ để xuất khẩu trở lại thanh long sang Đài Loan, và gần đây nhất là đã và đang làm việc với phía Mỹ về Đạo luật nông trại liên quan tới vấn đề cá tra. Tuy nhiên ,Thứ trưởng Nam cũng thừa nhận, dù đã đạt được những thành tựu to lớn, nhưng xét về thực lực của Việt Nam cũng như tiềm năng xuất khẩu của ngành nông nghiệp có thể thấy chúng ta vẫn chưa khai thác hết được lợi thế của ngành, cũng như lợi thế do quá trình hội nhập đem lại.
Nhận định chung đều cho rằng, khả năng cạnh tranh của nông sản Việt còn thấp, giá xuất khẩu không ổn định, thường xuyên biến động, các mặt hàng xuất khẩu còn nghèo nàn, chưa đa dạng.
Vì vậy để chủ động thích ứng với những biến động của kinh tế quốc tế, đảm bảo hội nhập đem lại hiệu quả thiết thực, có chiều sâu và sẵn sàng ứng phó với những vấn đề phát sinh trong thương mại NLTS, Bộ NN và PTNT mong muốn thời gian tới sẽ phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương, trực tiếp là các cơ quan đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài, để tăng cường hợp tác và đảm bảo việc giải quyết kịp thời các rào cản kỹ thuật, các tranh chấp phát sinh trong thương mại NLTS; thúc đẩy quan hệ, khâu nối xuất nhập khẩu NLTS; tạo ra mạng lưới thông tin về NLTS thông suốt kết nối giữa các thị trường với Việt Nam phục vụ các doanh nghiệp sản xuất, xuất nhập khẩu NLTS, góp phần nâng cao vị thế, hình ảnh nông nghiệp Việt Nam trong cộng đồng quốc tế;
Hai Bộ chú trọng phối hợp tổ chức các sự kiện, diễn đàn xúc tiến thương mại các mặt hàng nông lâm, thủy sản và xúc tiến đầu tư vào ngành NN và PTNT; thông báo về thực hiện các cam kết hội nhập trong lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam với các đối tác song phương và đa phương. Thúc đẩy thực hiện các thỏa thuận hợp tác, các điều ước quốc tế về hợp tác trong nông nghiệp, nông thôn đã ký kết giữa Việt Nam và các nước.
Hai Bộ cũng sẽ tăng cường phối hợp trong việc tiếp tục thúc đẩy mở cửa thị trường NLTS của Việt Nam ra quốc tế nhằm đa dạng hóa thị trường, giữ vững và phát triển thị trường khó tính, chú trọng các thị trường tiềm năng, dễ tính như các nước Trung Đông (UAE, Ả rập Xê út, Iran...), các nước châu Phi, khai thác hiệu quả các thị trường truyền thống như ASEAN, EU, cũng như tìm kiếm và đa dạng các hình thức xuất khẩu mới.
Diệu Linh
Nghệ An: Những "ông chủ lớn" trên đồng ruộng thuê mướn
Nguồn tin: Báo Nghệ An
Những “ông chủ” kiểu mới, thuê hoặc mượn đất sản xuất hàng hóa tập trung là chuyện không còn xa lạ ở nhiều địa phương trong những năm gần đây.
Ông Hồ Sỹ Quảng, "ông chủ nông dân" tại xã Thọ Thành, Yên Thành, Nghệ An.
Ông Hồ Sĩ Quảng ở xã Thọ Thành, Yên Thành, Nghệ An là một trong những người có những bước đi tiên phong, trở thành một “ông chủ nông dân” tại vùng đầm hoang Rộc Dứa vốn toàn năn lác. Hơn 10 năm đi xuất khẩu lao động ở Hungary, chứng kiến cách làm nông nghiệp tập trung, chuyên nghiệp ở nước bạn mà ao ước, sau khi về quê, ông Quảng đã làm đơn xin nhận vùng đầm này để cải tạo, trồng lúa.
Từ 17 ha đất không ai muốn nhìn đến, qua bao vất vả, khó khăn, ngay vụ sản xuất đầu tiên, ông Quảng đã thu lãi hơn 400 triệu đồng từ cây lúa, và đến nay ông thu về hơn 1 tỷ đồng/vụ, giải quyết việc làm cho hàng chục lao động trong xã.
Sản xuất nông nghiệp tập trung trên quy mô diện tích lớn là điều kiện tiên quyết để đưa cơ giới hóa vào đồng ruộng.
Xã Diễn Mỹ (Diễn Châu) có diện tích đất hai lúa khá lớn, nhưng trong vụ đông, đồng đất ở Diễn Mỹ bị bỏ hoang bạt ngàn. Từ nhu cầu mua ngô cây làm thức ăn cho bò sữa của các Nhà máy sản xuất sữa trên địa bàn, vụ đông năm 2015, gia đình anh Chu Duy Phong vừa mượn, vừa thuê được 20 ha đất hai lúa. Anh thuê người, tập trung trồng ngô bán non cho Nhà máy sữa TH. Chỉ sau 2,5 tháng, với trên 35 tấn ngô cây/ha, từ 20 ha đất vốn bỏ hoang, anh thu về hàng trăm triệu đồng.
Thu hoạch ngô cây ở Diễn Châu bán cho Nhà máy sữa TH.
Trưởng phòng Nông nghiệp huyện Diễn Châu, ông Lê Thế Hiếu cho biết: Những năm gần đây, trên địa bàn huyện có một số hộ dân đứng ra thuê hoặc mượn đất với quy mô từ 5 - 7 ha, thậm chí lên tới vài chục ha để trồng ngô, rau màu, bầu bí tập trung, đem lại lợi nhuận rất lớn.
Trước xu thế và những lợi ích thấy rõ, từ 1/1/2016, Diễn Châu sẽ hỗ trợ 1 triệu đồng/ha đối với những nông dân thuê đất, tích tụ ruộng đất từ 5 ha trở lên. Huyện cũng tập trung tuyên truyền, khuyến cáo những hộ nông dân không có nhu cầu sản xuất nông nghiệp tạo điều kiện cho người khác hoặc doanh nghiệp mượn hoặc thuê đất.
Trang trại trồng cam quy mô lớn ở Đồng Thành, Yên Thành.
Theo ông Nguyễn Văn Lập, Phó giám đốc Sở NN&PTNT, nếu phát triển được xu thế cho thuê hoặc mượn đất để sản xuất tập trung như hiện nay, thì không chỉ những “doanh nông” này có lợi, mà nông dân cũng có nguồn thu nhập ổn định từ việc cho thuê đất. Việc này cũng góp phần đạt được nhiều mục tiêu trong xây dựng NTM như nâng cao mức thu nhập bình quân ở nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang làm việc khác, đẩy mạnh phát triển CN- TTCN, tạo nguồn sản xuất hàng hóa tập trung.
Phú Hương
Tôi muốn 'nhân bản' chính tôi
Nguồn tin: Đại Đoàn Kết
Ở tuổi 75 - tuổi được xem là xưa nay hiếm nhưng GS.TS Võ Tòng Xuân vẫn tận tụy, nhiệt huyết, trăn trở với hoạt động khoa học nông nghiệp và giáo dục. Ông tâm sự: “Dù ở cương vị nào, độ tuổi nào thì tôi vẫn toàn tâm, toàn ý, toàn lực cho sự nghiệp trồng người cũng như sự phát triển mang tính bền vững, ổn định của ngành nông nghiệp, đặc biệt là cây lúa Việt. Tôi muốn “nhân bản” chính tôi thành nhiều người khác nhau để cống hiến nhiều hơn nữa".
GS.TS Võ Tòng Xuân với bà con nông dân.
Nhớ lại thời “cậu học trò nghèo ham học”
Trò chuyện với GS.TS Võ Tòng Xuân chúng tôi mới hiểu rõ hơn về ông, hiểu rõ về ý chí cố gắng không mệt mỏi nhằm chuẩn bị hành trang kiến thức từ rất nhiều năm trước. Với ông, kiến thức không tự dưng có được. Kiến thức là do thầy cô dạy dỗ, xã hội cung cấp, bản thân lắng nghe, suy nghĩ và học hỏi... Song điều quan trọng hơn cả là sự cố gắng không ngừng nghỉ của bản thân.
Sinh ra trong gia đình nghèo, kinh tế chật vật nên để có tiền đi học, cậu học trò nhỏ Võ Tòng Xuân năm xưa không ngại khó, không ngại khổ kiếm tiền bằng nghề bán báo dạo tại bến xe An Đông (quận 5 - TP HCM), thậm chí là ở đậu nhà người khác để dạy kèm, tối đến ôm chăn gối ra xe hơi ngủ để trông xe ngoài hẻm. Đối với Võ Tòng Xuân, đây hoàn toàn không phải cực hình của tuổi thơ dữ dội. Cái giá của sự tần tảo, chăm chỉ làm việc kiếm tiền ăn học được bù đắp.
Bằng chứng, ông có thể tiếp cận với tiếng Anh dễ dàng nhất, trong điều kiện tốt nhất có thể thông qua các chương trình của đài tiếng nói Hoa Kỳ, rồi học tiếng Anh miễn phí từ chuyên gia người Mỹ… Kết quả, Võ Tòng Xuân hoàn thành tốt nghiệp tú tài tại trường phổ thông ở Trung học Kỹ thuật Cao Thắng, chuyên ngành cơ khí.
Chưa bằng lòng với những thành tích đạt được và mong muốn học cao hơn nữa, ông quyết tâm dùi mài tiếng Anh để dành phần học bổng trong ngành nông học cho bằng được vì khoa cơ khí đã có quá nhiều người giỏi. Sự cố gắng của chàng sinh viên nghèo Võ Tòng Xuân hồi ấy được đền bù xứng đáng khi ông giành vị trí á quân trong cuộc thi tìm kiếm tài năng cho học bổng đại học Nông nghiệp tại LosBanos (Philippines), khoa Hóa học nông nghiệp, chuyên ngành mía đường.
Mong muốn có điều kiện tốt về vật chất để hoàn thành khóa học bổng tương đương thạc sĩ, tại Philippines, ông Võ Tòng Xuân tự “tậu” cho mình cái máy ảnh Pentax để kiếm cơm. Ban đầu sẽ chụp không công cho trường học, nhà thờ… nhằm rèn luyện tay nghề nhiếp ảnh “lụa là” hơn. Sau đó ông chủ động kiếm tiền bằng cách chụp ảnh cho đám tiệc. Kế hoạch hoàn hảo này trở thành bệ đỡ vững chắc nuôi ông và vợ con trong suốt thời gian du học tại đây.
Mọi vất vả cơ bản đã vượt qua, khóa học thạc sĩ chuyên ngành mía đường hoàn thành tốt năm 1965. Đây cũng là thời điểm Viện Nghiên cứu quốc tế chuyên về nông nghiệp tại Philippines mời gọi cán bộ khuyến nông các nước đến để học hỏi và nghiên cứu. Mong muốn trôi chảy trong việc trau dồi kiến thức cũng như hiệu quả nghiên cứu khoa học, cho nên ông xin học tại Viện mà không cần sự hỗ trợ của nhà trường cũng như giấy giới thiệu của chính quyền.
Ông được Viện Nghiên cứu quốc tế nhận làm nghiên cứu sinh chuyên ngành lúa gạo. Trong những ngày đầu tại Viện, ông đã mày mò phát triển tốt chương trình giảng dạy theo hướng của các chuyên gia Mỹ thay cho giáo trình hiện hành mà viện đưa ra. Được lãnh đạo Viện đánh giá cao phương pháp giảng dạy kiểu mới dễ tiếp, thu hiệu quả cao, vì vậy Viện Nghiên cứu quốc tế thưởng cho ông bằng cách trả lương giống như một nhân viên của Viện.
Tận hiến vì hạt gạo Việt
Năm 1971, thời điểm chiến tranh ở Việt Nam diễn ra hết sức gay gắt, ác liệt nhưng ông vẫn mong muốn trở về nước, đồng thời nung nấu ý chí cống hiến để cây lúa Việt thật sự phát triển. GS Võ Tòng Xuân không ngừng nghiên cứu với những đề tài tốt nhằm ứng dụng vào thực tiễn hỗ trợ nông nghiệp, đặc biệt là ngành lúa gạo. Vừa nghiên cứu các giống lúa nổi tiếng vừa lặn lội khắp nơi từ Đồng Tháp Mười trũng phèn đến tứ giác Long Xuyên đồng khô cỏ cháy để giúp đỡ nông dân tháo gỡ khó khăn, chinh phục thiên nhiên, đồng thời tìm ra những phương pháp tối ưu nhất để cây lúa phát triển ổn định. Nghiên cứu không ít, cống hiến rất nhiều song vẫn không bằng lòng với những thành quả đạt được.
Ròng rã nhiều thập kỷ đã qua, GS Võ Tòng Xuân vẫn luôn canh cánh vì sự phát triển nâng tầm tam nông (nông nghiệp, nông thôn, nông dân) của đất nước. Theo ông, Việt Nam nổi tiếng với ngành nông nghiệp thuần nông, nhưng vẫn là phương thức sản xuất cổ truyền dẫn đến hiệu quả không cao, chi phí nặng vốn. Chính vì lẽ đó mà gần 30 năm đổi mới và phát triển nhưng đời sống của nông dân vẫn bấp bênh và khó khăn. GS Võ Tòng Xuân cho rằng, chỉ khi nào nông dân được giáo dục theo hướng hiện đại, thay vì phát triển tự phát thì nông thôn mới tốt và nông nghiệp mới đạt `chất lượng xanh.
Còn riêng về hội nhập, vấn đề này đang cần sự đổi mới cho ngành nông nghiệp đưa lúa gạo chen chân vào thị trường thế giới, để ngành mía đường không thua trên sân nhà. Vậy tái cơ cấu nông nghiệp để hội nhập bằng cách nào? Ông cho rằng, muốn nông nghiệp phát triển ổn định và bền vững cần có sự liên kết chặt chẽ giữa nông dân - hợp tác xã - doanh nghiệp để tạo ra sản phẩm chất lượng theo chuỗi giá trị. Đây chính là giải pháp hết sức quan trọng cần áp dụng một cách hiệu quả.
Không tách rời nông nghiệp với giáo dục, GS.TS Võ Tòng Xuân khẳng định, ngành nông nghiệp chỉ có thể phát triển khi giáo dục được đổi mới. Giáo dục có đào tạo được những cán bộ nghiên cứu tâm huyết, nhiệt tình, tận tụy mới cho ra các xét nghiệm mang tính đột phá nhằm thúc đẩy ngành này phát triển. Cho nên, điều đầu tiên trước khi về nước sau một thời gian du học và nghiên cứu tại nước ngoài ông muốn “nhân bản” chính mình ra thành nhiều người khác nhau để cống hiến, hơn nữa sức mạnh của số đông sẽ làm nên kỳ tích.
Chính vì lẽ đó mà cùng việc giảng dạy 7 môn học, ông còn đảm nhận hướng dẫn đề tài cho hơn 20 sinh viên. Thời gian còn lại ông tập trung hoàn thành tốt luận án TS tại Nhật Bản với công trình nghiên cứu nhiều khía cạnh về các loại lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long. Xong luận án TS, ông lại về nước và bắt tay vào sự nghiệp giáo dục với chức danh Hiệu phó trường ĐH Cần Thơ, Hiệu trưởng trường ĐH An Giang, Hiệu trưởng trường ĐH Tân Tạo (Long An) và giờ là Hiệu trưởng trường ĐH Nam Cần Thơ.
40 năm cống hiến, GS.TS Võ Tòng Xuân không tách rời giữa nghiên cứu khoa học, giáo dục và thực tiễn. Giờ đây dù đã bước vào độ tuổi “xưa nay hiếm” nhưng tấm lòng yêu thương quê hương đất nước, sự miệt mài với công việc của ông vẫn vẹn nguyên như thời trai trẻ, trong suy nghĩ và hành động thường nhật.
Tâm sự về dự định trong thời gian sắp tới, ông cho biết: “Dù ở cương vị nào, độ tuổi nào thì tôi vẫn toàn tâm, toàn ý, toàn lực cho sự nghiệp trồng người và sự phát triển mang tính bền vững, ổn định của ngành nông nghiệp, đặc biệt là cây lúa Việt”.
Không dừng lại ở đó, GS.TS Võ Tòng Xuân còn mong muốn nền nông nghiệp, giáo dục sớm được đổi mới theo hướng hiện đại từ đó có thể khẳng định vị thế và khả năng cạnh tranh của Việt Nam trên trường thế giới. Ghi nhận những đóng góp của GS.TS Võ Tòng Xuân, ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Nhà giáo Nhân dân. Ngoài ra, ông còn được tổ chức thuộc các nước như Australia, Pháp, Canada… trao tặng nhiều bằng khen và phần thưởng cao quý.
Trước những cống hiến của GS Võ Tòng Xuân đóng góp cho nền giáo dục, nông nghiệp nước nhà, sinh thời, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: “GS.TS. Võ Tòng Xuân là một trí thức yêu nước, một nhà nông học xuất sắc, một nhà giáo nhân dân say mê sáng tạo khoa học, gắn bó với Đồng bằng sông Cửu Long, đã góp phần phát triển nền nông nghiệp nước nhà, xứng đáng với danh hiệu Anh hùng Lao động mà Nhà nước đã phong tặng. Mong nhà khoa học Võ Tòng Xuân có những thành tựu mới trong sáng tạo khoa học, góp phần xứng đáng hơn nữa đối với sự nghiệp phát triển nông nghiệp hiện đại và công cuộc đào tạo giáo dục của nước Việt Nam ta trong thế kỷ 21”.
Bước sang mùa Xuân này, ở tuổi 75, nhiệt huyết của GS Võ Tòng Xuân vì nền nông nghiệp nước nhà, vì hạt gạo Việt vẫn không hề thuyên giảm.
Thanh Giang
Nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp tại Hà Nội: Đồng bộ giải pháp
Nguồn tin: Hà Nội Mới
Nhờ quan tâm đầu tư và bằng nhiều cách làm sáng tạo đã mang đến những đổi thay đáng kể cho sản xuất nông nghiệp Hà Nội. Ở khu vực ngoại thành đã xuất hiện nhiều nông dân tỷ phú thu nhập từ mô hình sản xuất nông nghiệp hiệu quả...
"Nở rộ" mô hình hiệu quả
Thăm mô hình trồng phật thủ xã Đắc Sở (Hoài Đức) mới thấy rõ hiệu quả chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi của Hà Nội đang chuyển dịch đúng hướng. Chủ tịch Hội Sản xuất và Kinh doanh phật thủ Đắc Sở Tạ Văn Phúc cho biết, ngoài thu tiền tỷ từ trồng cam Canh, bưởi Diễn, tết Nguyên đán Bính Thân 2016 hơn 400 hộ dân xã Đắc Sở còn bội thu từ trồng cây phật thủ. Theo ông Phúc, yếu tố "kích thích" nông dân ham mê đồng ruộng, đó chính là các chính sách đầu tư nông nghiệp đi vào cuộc sống kịp thời. Đặc biệt chương trình dồn điền, đổi thửa gắn với xây dựng nông thôn mới của Hà Nội đã tạo thuận lợi cho nhiều mô hình sản xuất phát triển...
Mô hình trồng phật thủ tại xã Đắc Sở (huyện Hoài Đức). Ảnh: Bá Hoạt
Ông Nguyễn Văn Trường, thôn Tràng Cát, xã Kim An (Thanh Oai) cho biết, ngoài quan tâm đầu tư tạo điều kiện cho nhiều mô hình kinh tế mới phát huy lợi thế ở từng địa phương, nông dân còn thường xuyên được tập huấn khoa học kỹ thuật và hỗ trợ xây dựng thương hiệu… nên từng bước tiếp cận nhanh với thị trường. Đơn cử như ở xã Kim An, trước đây điều kiện canh tác khó khăn, nay đường nội đồng được quy hoạch tới từng chân ruộng, ô tô có thể đỗ ngay đầu bờ để thu mua nông sản. Nhiều giống cây mới chất lượng cao ở các viện nông, lâm nghiệp đến với nông dân rất nhanh...
Không riêng Hoài Đức, Thanh Oai, ở khu vực ngoại thành Hà Nội xuất hiện ngày một nhiều cách làm hiệu quả kinh tế cao như mô hình trồng hoa ly, hoa lan ở các huyện Đan Phượng, Hoài Đức, Mê Linh, Phúc Thọ, Thanh Trì, Đông Anh... cho giá trị từ 0,5 đến 1,5 tỷ đồng/ha/năm, thậm chí đạt 2 - 3 tỷ đồng/ha/năm; mô hình cây ăn quả ở một số xã thuộc các huyện Hoài Đức, Thanh Oai, Thanh Trì, Gia Lâm, Đông Anh, Mê Linh với giá trị đạt 1 - 2 tỷ đồng/ha/năm; các mô hình chăn nuôi thủy sản ở một số xã thuộc huyện Thanh Trì, Ứng Hòa, Mỹ Đức, Gia Lâm, Thanh Oai, Quốc Oai... với giá trị từ 200 đến 300 triệu đồng/ha/năm.
Ưu tiên đầu tư
Tuy vậy, ở một số nơi, nông dân vẫn loay hoay với việc chọn cây trồng chủ lực; mối liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ còn lỏng lẻo dẫn tới tình trạng nông dân thu nhập thấp, được mùa rớt giá. Đáng nói, ở nhiều nơi, nông thôn thiếu lao động trẻ, công nghệ cao, có làng chỉ còn người già làm nông nghiệp, sức ỳ ở nông thôn lớn… Theo Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Ngô Đại Ngọc: Muốn nông nghiệp làm thay đổi đời sống nông dân, bộ mặt nông thôn dứt khoát phải tập trung đầu tư mạnh cho nông nghiệp, nhất là các khâu như giống cây trồng, vật tư nông nghiệp, đào tạo kiến thức cho nông dân đồng bộ với hệ thống công nghệ sau thu hoạch, chế biến, bảo quản… để nâng cao hiệu quả sản xuất; quan tâm đến việc nhân rộng mô hình, chuyển giao công nghệ cho nông dân...
Ở góc độ vĩ mô, Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Chu Phú Mỹ cho rằng, cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó quan tâm đến công tác rà soát, điều chỉnh và nâng cao chất lượng quy hoạch, gắn với nghiên cứu thị trường, bảo đảm tính khả thi và tuân thủ quy hoạch, từng bước hạn chế việc sản xuất theo phong trào, tự phát dẫn đến tình trạng "được mùa rớt giá". Nâng cao hiệu lực trong việc quản lý chất lượng nông sản, an toàn vệ sinh thực phẩm, coi truy xuất nguồn gốc đối với hàng nông sản của doanh nghiệp là yêu cầu bắt buộc để doanh nghiệp phải có trách nhiệm đầu tư vào vùng nguyên liệu. Các địa phương cần có những chính sách ưu đãi, hỗ trợ với mức cao cho công tác nghiên cứu khoa học nông nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư phát triển có sự liên kết chặt chẽ giữa: Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nông.
Sơn Tùng
Xuất khẩu… cùi bắp
Nguồn tin: Báo An Giang
Những năm gần đây, cùi bắp được một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc thu mua khá mạnh để sản xuất nấm và phục vụ chăn nuôi. Nếu như trước đây, nông dân huyện đầu nguồn An Phú (An Giang) coi cùi bắp là phế phẩm bỏ đi thì hiện nay, nó lại là nguồn thu nhập đáng kể cho nông dân sau khi thu hoạch bắp.
- Bắp sau khi lấy hạt, cùi bắp cũng rất có giá trị
Bắp lai là một trong những loại cây trồng chủ lực của huyện An Phú. Diện tích trồng bắp lai hàng năm khoảng 3.000 héc-ta, năng suất bình quân 9,5 tấn/héc-ta. Bắp lai được trồng ở nhiều nơi nhưng tập trung chủ yếu tại các xã: Khánh An, Khánh Bình, Phú Hữu, Quốc Thái, Nhơn Hội, thị trấn Long Bình... Trước đây, sau khi thu hoạch, bắp được tách lấy hạt phơi khô rồi bán, một phần cùi bắp được sử dụng làm củi nấu, nhưng đa số là bỏ đi, gây ô nhiễm mỗi trường. Ước tính mỗi công, phần cùi bắp bỏ đi khoảng 200kg.
Thời gian gần đây, nhiều doanh nghiệp nhập khẩu từ Nhật Bản và Hàn Quốc có nhu cầu thu mua cùi bắp làm thức ăn chăn nuôi và trồng nấm với số lượng rất lớn. Ngoài ra, một phần do thị trường các nước khác, đặc biệt là Trung Quốc tăng giá, các doanh nghiệp nước ngoài chuyển sang thị trường Việt Nam nên cùi bắp từ phế phẩm đã trở thành sản phẩm hút hàng. Đây cũng là cơ hội để nông dân tìm hướng đi mới cho mình.
Nhận thấy được tiềm năng to lớn từ cùi bắp, ông Trần Công Nẻo (thị trấn An Phú, huyện An Phú) đã nắm bắt cơ hội này và là người tiên phong đưa phế phẩm từ cây bắp ra nước ngoài. Hiện tại, Công ty TNHH MTV Sản xuất – Thương mại – Dịch vụ Xuất nhập khẩu Tấn Lộc Phát (Công ty Tấn Lộc Phát) của ông Nẻo là địa điểm thu mua cùi bắp chính của nông dân huyện An Phú. Ông Nẻo cho biết: “Hiện nay, mỗi héc-ta bắp sau khi thu hoạch, tách hạt sẽ thu được 2 tấn cùi bắp. Với giá mua tại ruộng 800 đồng/kg, nông dân lãi thêm từ 1,5 - 2 triệu đồng/héc-ta.”
- Bắp sau khi lấy hạt, cùi bắp cũng rất có giá trị
“Thông thường, sau khi thu hoạch bắp, nông dân thường tách hạt rồi bỏ cùi tại ruộng. Phần cùi này được đốt đi hay tập trung lại một chỗ nhưng không được xử lý nên lâu ngày dẫn đến ô nhiễm môi trường. Sau khi tìm hiểu thị trường, với kinh nghiệm trong việc chế tạo, sửa chữa máy, tôi đã chế ra dây chuyền xay nhuyễn và ép thành khối cùi bắp” – ông Nẻo cho biết thêm. Tại công ty của ông Nẻo, cùi bắp sau khi mua về được sấy khô, sau đó được xay nhuyễn, rồi ép thành khối có kích thước 70x40x20cm theo một dây chuyền tự động khép kín, với khối lượng ước khoảng 30 kg/khối. Ước tính mỗi năm, Công ty Tấn Lộc Phát sản xuất 400 – 500 tấn cùi bắp thành phẩm, sản phẩn được tiêu thụ ở thị trường Cần Thơ và xuất khẩu sang thị trường Nhật, Hàn Quốc với giá từ 2 - 2,5 triệu đồng/tấn.
Hiện nay, phần lớn nông dân An Phú chỉ canh tác một vụ bắp, thời điểm xuống giống từ tháng 7 - 10 âm lịch nên vào thời gian này, Công ty Tấn Lộc Phát đẩy mạnh sản xuất. Thời gian còn lại, công ty chỉ hoạt động cầm chừng vì nguồn nguyên liệu không đủ. Ông Nẻo cho biết: “Để có đủ nguyên liệu, chúng tôi phải đi mua cùi bắp từ những nông dân ở một số địa phương khác như Tân Châu, Trà Vinh… có khi sang Campuchia để mua hàng về. Nhìn chung, đầu ra của loại sản phẩm này ổn định và rất hút hàng. Làm ra bao nhiêu, khách hàng thu gom hết bấy nhiêu, không có tình trạng ế hàng”.
Với việc thành lập công ty thu mua cùi bắp cho nông dân, ông Nẻo không những góp phần tăng thêm thu nhập của nông dân trồng bắp, mà còn giảm ô nhiễm môi trường từ việc vứt bỏ cùi bắp và tạo việc làm cho khoảng 13 lao động, với thu nhập bình quân mỗi người từ 3,5 - 4 triệu đồng/người/tháng.
ĐỨC TOÀN
Tỷ phú nông dân
Nguồn tin: Báo Quảng Ninh
Gần 1,6 tỷ đồng thu từ trồng cam và bạch đàn, năm nay, gia đình ông Hà Văn Sáng, người tiên phong trồng cam cao sản ở Quảng Nghĩa, TP Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh “ăn Tết to”. Hoan hỷ chia sẻ về thành quả lao động miệt mài của cả gia đình trong năm qua, ông Hà Văn Sáng, trú tại thôn 5, xã Quảng Nghĩa, TP Móng Cái, cho biết: Vừa rồi, gia đình tôi thu gần 2 tỷ đồng từ bán bạch đàn, cam, thanh long, mật ong… Đón Tết Bính Thân 2016, gia đình tôi rất vui vì thành quả lao động miệt mài nhiều năm của mình đã được trả công xứng đáng.
Ông Hà Văn Sáng dẫn khách tham quan vườn cam của gia đình.
Được biết, ông Sáng chính là người tiên phong trồng cam cao sản ở xã Quảng Nghĩa. Từ năm 2009, sau nhiều năm đúc rút kinh nghiệm, nghiên cứu kỹ khí hậu, thổ nhưỡng của vùng Quảng Nghĩa và nhu cầu của nhân dân, ông Sáng đã đầu tư xây dựng mô hình kinh tế trang trại. Trên diện tích hơn 13ha vườn đồi, gia đình ông Sáng đã dành 3ha để trồng cam cao sản với hơn 2 ngàn gốc cam Quất Đường và cam Thái Lan, gần 200 gốc thanh long và diện tích còn lại gia đình ông đã trồng hàng ngàn cây bạch đàn lấy gỗ...
Chia sẻ với chúng tôi, ông Sáng cho biết: Mùa cam này gia đình ông bội thu vì cam vừa được mùa, vừa có giá, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán vừa qua. Giống cam này dễ trồng, nếu chín tới vẫn để trên cây cả tháng được, không hỏng, nên không ngại ế hàng, chỉ sợ không có sức mà làm… Quả vậy, nhiều người dân trong vùng cho biết, tiếng đồn về vườn quả sạch của gia đình ông Sáng đã lan xa, thương lái ùn ùn kéo tới mua. Tại vườn, giá 1kg cam từ 25.000 - 30.000 đồng, thanh long ruột đỏ có giá 40.000 đồng/kg. Chỉ riêng bán cam vụ Tết, gia đình ông đã thu được hàng trăm triệu đồng. Ông Lương Tiến Dũng, Chủ tịch UBND xã Quảng Nghĩa, cho biết: Từ mô hình của ông Sáng, một số hộ dân xung quanh đã học tập và cũng đã bước đầu thành công, mở ra hướng phát triển mới cho nông nghiệp hàng hoá địa phương.
Thu Hằng (Đài Móng Cái)
Xã nông thôn mới đạt thu nhập "khủng"
Nguồn tin: Báo Đồng Nai
Đến nay, Đồng Nai có 91 xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có cả chục xã đạt thu nhập “khủng” với mức thu nhập bình quân của người dân đạt mức khoảng 50 triệu đồng/người/năm. Đặc biệt, nhiều xã xuất phát điểm rất khó khăn đã vươn lên đạt mức thu nhập thuộc hàng “top” của tỉnh, của cả nước về thu nhập.
Vườn tiêu rộng 2,5 hécta của gia đình đã được chứng nhận GlobalGAP.
Ngày nay, các xã nông thôn mới đều thật sự thay áo mới với những tuyến đường nhựa khang trang về tận các ngõ thôn, ấp được hình thành từ sự đóng góp của chính người dân. Thấp thoáng sau những vườn tiêu, vườn trái cây đặc sản bạt ngàn, xanh tốt là những biệt thự khang trang, rộng rãi của những tỷ phú nông dân.
* Giàu nhờ cây đặc sản
Trong vụ thu hoạch vừa qua, Hợp tác xã nông nghiệp - dịch vụ - thương mại Bình Lộc (TX.Long Khánh) đã xuất khẩu được 2 tấn chôm chôm Java dưới dạng sấy khô qua thị trường Pháp. Ông Phùng Thanh Tâm, Giám đốc Hợp tác xã nông nghiệp - dịch vụ - thương mại Bình Lộc, cho biết: “Lô hàng đầu tiên đạt về chất lượng và được thị trường Pháp đón nhận. Phía đối tác từ Pháp cũng đã cử đoàn về hợp tác xã lấy mẫu đất, mẫu nước về phân tích. Nếu kết quả đạt yêu cầu, năm 2016 phía đối tác sẽ hỗ trợ hợp tác xã phát triển diện tích chôm chôm Java theo chuẩn GlobalGAP để xuất khẩu lâu dài vào thị trường này. Đây là cơ hội để mở rộng thị trường xuất khẩu cho vùng đất có diện tích trồng chôm chôm lớn nhất của cả tỉnh với khoảng 1.200 hécta”. Là một trong những xã đầu tiên của Đồng Nai đạt chuẩn nông thôn mới, hiện Bình Lộc đã vươn lên là xã đạt thu nhập thuộc tốp đầu của tỉnh với mức bình quân 50 triệu đồng/người/năm, và là xã không còn hộ nghèo. Đây cũng là một trong những địa phương đi tiên phong trong thực hành sản xuất sạch với các mô hình vườn chôm chôm, sầu riêng sản xuất theo chuẩn VietGAP.
Xã Xuân Tân (TX.Long Khánh) cũng là một trong những điểm sáng trong phong trào xây dựng nông thôn mới nhờ chuyển đổi từ diện tích cây điều cho hiệu quả thấp tập trung phát triển các loại đặc sản cho lợi nhuận cao, như: sầu riêng, măng cụt... Theo ông Đặng Việt Dũng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Xuân Tân: “Từ sự chuyển đổi cây trồng đúng hướng, hiện giá trị sản phẩm thu được trên 1 hécta đất nông nghiệp của Xuân Tân đạt bình quân 115 triệu đồng, tăng gấp 2 lần so với năm 2009. Trong đó, có những hộ đạt mức thu nhập từ 350 - 400 triệu đồng/hécta từ cây tiêu, sầu riêng”. Song song với phát triển nông nghiệp, xã cũng tập trung phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Theo đó, thu nhập bình quân đầu người hiện đã đạt mức trên 50,3 triệu đồng/người/năm.
Một trong những điểm sáng về vươn lên làm giàu từ khó khăn trong xây dựng nông thôn mới là xã Lâm San (huyện Cẩm Mỹ). Năm 2010, thu nhập bình quân của người dân trên địa bàn xã chưa đến 11 triệu đồng/người/năm. Qua 5 năm xây dựng nông thôn mới, xã nghèo này đã vươn lên thành xã giàu với mức thu nhập bình quân đạt trên 42 triệu đồng/người/năm. Ông Nguyễn Huy Phê, Chủ tịch UBND xã Lâm San, vui vẻ thông báo: “Cùng với phong trào xây dựng nông thôn mới, xã nghèo Lâm San đã vươn lên thuộc tốp đầu của tỉnh về thu nhập. Yếu tố quyết định là địa phương đã có sự chuyển đổi đúng hướng tập trung phát triển cây tiêu cho lợi nhuận cao. Toàn xã có gần 2 ngàn hộ dân nhưng phát triển được khoảng 1.300 hécta tiêu, chỉ tính thu nhập từ cây tiêu đã có hàng chục hộ đạt nông dân tỷ phú”.
* Ứng dụng công nghệ vào sản xuất
Hiện nhiều nông dân tại Đồng Nai không phải suốt ngày quanh quẩn với mảnh vườn. Họ có thể đi chơi xa cả ngàn cây số và chỉ cần động tác bấm điện thoại là hệ thống tưới nước, bón phân được khởi động. Theo đó, dù có hàng chục hécta cây trồng nông dân cũng không lo vườn cây bị thiếu nước, thiếu phân. Tác giả của hệ thống tưới nước, bón phân tự động trên là ông Trương Đình Thống, người dân ngụ tại ấp 3, xã Bình Lộc, TX.Long Khánh. Nhờ chi phí không quá tốn kém nên mô hình này đã được các xã viên của Hợp tác xã Bình Lộc áp dụng rộng rãi và đang tiếp tục được nhân rộng đến nhiều nông dân khác.
Với mục tiêu xây dựng thương hiệu tiêu sạch Lâm San (Cẩm Mỹ), địa phương đã xây dựng mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật sản xuất hồ tiêu theo tiêu chuẩn GlobalGAP với diện tích 10 hécta và hướng tới xây dựng cánh đồng mẫu lớn cho cây tiêu với diện tích trên 300 hécta. Ông Phạm Xuân Chiên, nông dân có 2,5 hécta tiêu được cấp chứng nhận GlobalGAP tại ấp 3, nhận xét: “Nhờ làm tiêu sạch, vườn tiêu của gia đình tôi phát triển bền vững. Lợi ích lớn nhất là có doanh nghiệp về tận vườn bao tiêu với giá cao hơn mặt bằng ngoài thị trường. Cụ thể, 1kg tiêu sạch bán cao hơn mặt bằng ngoài thị trường khoảng 16 ngàn đồng vì được doanh nghiệp trực tiếp thu mua không qua thương lái, cân đúng, cân đủ và cộng thêm điểm thưởng. Nhờ đó, vụ tiêu năm ngoái với sản lượng tương đương, tôi tăng thêm lợi nhuận khoảng 150 triệu đồng/hécta”.
Theo những nông dân đang ứng dụng quy trình sản xuất theo chuẩn VietGAP, GlobalGAP, ở đây chủ yếu là thay đổi tập quán sản xuất, như: ưu tiên sử dụng phân bón hữu cơ, thuốc sinh học; bón phân, dùng thuốc đúng liều lượng... Chi phí sản xuất theo hướng sạch cũng chỉ tăng nhẹ so với cách làm truyền thống nhưng cây trồng phát triển tốt, hạn chế được dịch bệnh, sản phẩm đạt chất lượng cao. Ông Trần Văn Tánh, Phó giám đốc Hợp tác xã nông nghiệp Lâm San, cho biết: “Hiện nhiều doanh nghiệp chế biến hoặc xuất khẩu tiêu của Ấn Độ, Đức, Nhật Bản... đã tìm đến hợp tác xã đặt vấn đề bao tiêu sản phẩm. Chính hiệu quả thực tế đã thuyết phục đông đảo nông dân đầu tư theo hướng sản xuất an toàn”.
Bình Nguyên
Miền Tây hạn, mặn nghiêm trọng nhất 100 năm
Nguồn tin: VnExpress
Hạn hán và xâm nhập mặn được đánh giá là đặc biệt nghiêm trọng, nặng nhất 100 năm qua, gây thiệt hại nặng nề các tỉnh miền Tây.
Hàng chục nghìn ha lúa ở miền Tây chết do nước mặn xâm nhập. Ảnh: Cửu Long
"Dù chúng ta có biện pháp ứng phó nhưng thiệt hại vẫn xảy ra và sẽ nghiêm trọng hơn, do vậy cần phải cấp bách thống nhất các biện pháp ứng phó thiên tai", Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát nói tại Hội nghị phòng chống hạn, xâm nhập mặn vùng đồng bằng sông Cửu Long, sáng 17/2.
Theo Bộ trưởng Phát, trước mắt phải bảo vệ vụ lúa đông xuân 1,55 triệu ha trên đồng, sau đó tính chuyện an toàn cho vụ hè thu cũng như đời sống sản xuất của người dân. Đồng thời, địa phương phải có giải pháp tầm nhìn tương lai để ứng phó với tình trạng hạn và xâm nhập mặn khốc liệt, gay gắt hơn.
Nạo vét kênh mương nội đồng để giữ ngọt ở vùng bán đảo Cà Mau. Ảnh: Cửu Long
Báo cáo mới nhất của Bộ Nông nghiệp cho thấy, năm 2015 do ảnh hưởng của hiện tượng El Nino nên mùa mưa đến trễ và kết thúc sớm. Tổng lượng mưa trên lưu vực thiếu hụt 20 - 50% trung bình nhiều năm. Mực nước thượng nguồn sông Me Kong tiếp tục xuống nhanh và thấp nhất trong vòng 90 năm qua.
Mùa khô năm nay do thiếu nước ngọt, mặn xuất hiện sớm 2 tháng và nhiều khả năng kết thúc muộn. Hiện, trên các hệ thống sông chính ở miền Tây, mặn xâm nhập sâu 40 - 93km, tăng 10 - 15km so với các năm trước.
Gần 340.000 ha trong tổng số 1,55 triệu ha lúa đông xuân đang sản xuất tại miền Tây có nguy cơ bị xâm nhập mặn và hạn. Trong đó, 104.000 ha lúa bị thiệt hại nặng nề, hàng chục nghìn ha bị chết.
Tỉnh Vĩnh Long nằm rất xa biển nhưng lần đầu bị nước mặn tấn công. Tỉnh Kiên Giang công bố tình trạng thiên tai hơn 40.000 ha lúa bị chết, đời sống sản xuất của người dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng… Nhiều khả năng, các địa phương Bến Tre, Trà Vinh, Vị Thanh, Rạch Giá thiếu nước ngọt sinh hoạt từ 2 tháng trở lên.
Hệ thống cống đập ở các địa phương ven biển tại miền Tây được đóng kín để trữ nước ngọt. Ảnh: Cửu Long
Theo Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ, vùng đồng bằng sông Cửu Long là vựa lương thực, chiếm 55,5% sản lượng lúa, 70% trái cây, 69% thủy sản của cả nước. Do vậy việc phòng chống hạn, mặn cho vùng này là vấn đề sống còn.
"Trước mắt nên làm đê bao khép kín giữ ngọt, ngăn mặn tại những vùng sản suất trọng điểm như tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười... Về lâu dài, Chính phủ nên làm việc với các nước xung quanh để phối hợp giải quyết, thống nhất các biện pháp đảm bảo nguồn nước ngọt, chống hạn, mặn", ông Nguyễn Phong Quang - Phó ban thường trực Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ - nói.
Cửu Long
Xuất khẩu nông sản: Vẫn những khó khăn cũ
Nguồn tin: Hà Nội Mới
Xuất khẩu nông sản Việt Nam đã qua một năm gặp nhiều khó khăn khi giá trị các mặt hàng chủ lực như: Gạo, cà phê, thủy sản… giảm đáng kể. Theo nhận định, xuất khẩu nông sản năm nay có nhiều khởi sắc do một số hiệp định thương mại tự do (FTA) có hiệu lực... Vấn đề đặt ra, cần có chiến lược rõ ràng để duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định.
Bộ NN&PTNT cho biết, tháng đầu tiên của năm 2016 đã ghi nhận hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực đã có nhiều khởi sắc. Cụ thể, tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt 2,3 tỷ USD, trong đó: Gạo xuất khẩu đạt 495.000 tấn với giá trị 218 triệu USD, tăng 56,7% về khối lượng và tăng 46% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái; cà phê đạt 149.000 tấn với giá trị đạt 246 triệu USD, tăng 8% về khối lượng; hạt điều đạt 24.000 tấn, tăng 9% về khối lượng và tăng 15,6% về giá trị. Trong các mặt hàng nông sản, xuất khẩu thủy sản đang có nhiều dấu hiệu khả quan nhất khi giá tăng nhẹ và nhu cầu tiêu thụ ở các thị trường lớn khá tốt. Đặc biệt, với việc khơi thông nhiều thị trường khó tính sẽ hứa hẹn nhiều tiềm năng cho xuất khẩu trái cây trong năm nay…
Chế biến hải sản xuất khẩu tại Nhà máy Đông lạnh Sông Giang. Ảnh: Như Ý
Tuy vậy, dưới góc độ của các nhà nghiên cứu thị trường, chính sách và bối cảnh tiêu dùng của thế giới cho thấy, xuất khẩu nông sản của Việt Nam tiếp tục đối diện những khó khăn. Theo bà Nguyễn Thị Hồng, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ NN&PTNT), hạn chế lớn nhất là chất lượng, xuất khẩu thô và không làm chủ được thị trường. So với các nước, Việt Nam có nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu, thậm chí chi phối cả thị trường thế giới như hạt điều chiếm 50% thị phần điều thế giới; xuất khẩu gạo và cà phê đứng thứ 2, thứ 3 thế giới. Ba mặt hàng nông sản này của Việt Nam góp phần không nhỏ trong sự điều tiết chung thị trường thế giới. Song, giá trị thu về thấp do xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô. Ngoài ra, việc mở rộng thị trường với các doanh nghiệp Việt Nam cũng hạn chế.
Để khắc phục những hạn chế trên, tạo sự bứt phá mới, Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) Ma Quang Trung cho biết, trong năm nay, ngành Nông nghiệp chú trọng phát triển những mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu, trong đó, tập trung nâng cao chất lượng, xây dựng thương hiệu… đơn cử như khai thác lợi thế xuất khẩu rau, quả. "Chúng ta đã mở được nhiều thị trường mới trong năm qua để xuất khẩu các loại trái cây như vải thiều, thanh long, nhãn, xoài sang một số thị trường khó tính. Hiện các thị trường này |đã ổn định, nên chắc chắn trong năm 2016 các mặt hàng xuất khẩu này sẽ tăng lên" - ông Trung cho biết. Còn theo TS Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, triển vọng xuất khẩu nông sản khó có thể tăng đột biến trong năm nay, do đó muốn cạnh tranh được, cần phải tạo lợi thế, tìm ra phân khúc thị trường tốt và phù hợp…
Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng, đặc biệt trong năm nay một số hiệp định thương mại tự do (FTA) có hiệu lực, để cạnh tranh sòng phẳng trong xuất khẩu nông sản, theo Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát, phải đặc biệt quan tâm việc cập nhật, bổ sung, hoàn thiện thể chế, hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Sản xuất nông nghiệp phải đối diện rất nhiều khó khăn nhưng lại là ngành kinh tế chủ chốt, có lợi thế của nền kinh tế nước nhà, do đó cần rà soát và chủ động đề xuất cơ chế, chính sách để huy động các nguồn lực của xã hội, tạo điều kiện thuận lợi nhất và hỗ trợ cho người dân, doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Để thực hiện được mục tiêu đề ra, dứt khoát ngành Nông nghiệp cần đẩy mạnh tái cơ cấu, xác định những mặt hàng chủ lực qua đó có chiến lược xây dựng, mở rộng và phát triển sản xuất. Cùng với đó đẩy mạnh quảng bá, xây dựng thương hiệu nông sản; gắn sản xuất với tiêu thụ theo một chuỗi khép kín. Sản xuất nông nghiệp Việt Nam hiện không phải sản xuất để cung ứng trong nước mà để xuất khẩu, tạo ra những giá trị kinh tế lớn. Ngành Nông nghiệp một mặt phải nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm để đẩy mạnh xuất khẩu; mặt khác cần phải thực hiện tốt việc bảo vệ thị trường trong nước, bảo vệ người sản xuất bằng những biện pháp, hàng rào kỹ thuật phù hợp với thông lệ và các cam kết quốc tế…
Tổng Giám đốc Angimex (An Giang) Nguyễn Văn Tiến:
Gạo Việt Nam chưa có thương hiệu
Khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới hạn chế do gạo Việt Nam chưa có thương hiệu. Vấn đề đặt ra là, Chính phủ cần định hướng hỗ trợ doanh nghiệp về pháp lý cũng như nguồn vốn để xây dựng thương hiệu, tạo sức cạnh tranh trên thị trường thế giới; dứt khoát phải có sự giúp đỡ của các cấp, các ngành trong khâu sản xuất, bởi việc sản xuất khép kín, sạch, sử dụng công nghệ chế biến khoa học, không độc hại thì mới nâng cao giá trị nông sản xuất khẩu. Nếu để nông dân tự chọn, tự xử lý hoặc tự làm lấy theo cách truyền miệng sẽ không thể đáp ứng được nhu cầu của xuất khẩu.
Ông Nguyễn Văn An, tỉnh Bình Thuận:
Có sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp
Hoa quả đang là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nhưng để xuất khẩu được sang các thị trường "khó tính" cần sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, số doanh nghiệp liên kết cùng nông dân còn ít nên nông dân vẫn phát triển tự phát, tự do buôn bán chứ ít có doanh nghiệp thu mua cùng liên kết. Mặt khác, thời tiết không thuận lợi, tỷ giá biến động, ngoài ra có sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp với nhau đã kéo giá trị xuất khẩu nông sản tuột dốc.
Đào Huyền
Mô hình vườn đồng ở Gia Lâm: Cần sự hỗ trợ để phát triển bền vững
Nguồn tin: Kinh Tế Đô Thị
Từ một hộ kinh tế khó khăn, nhờ phát triển mô hình kinh tế vườn đồng, gia đình ông Ngô Văn Đỉnh ở thôn Sen Hồ, xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm đã có mức thu vài tỷ đồng mỗi năm.
Tuy nhiên, để mô hình này phát triển bền vững vẫn rất cần sự quan tâm hỗ trợ từ các cấp, ngành.
Bắt đầu từ cây đào Nhật Tân
Năm 2003, trong một lần đến làng hoa Nhật Tân, thấy nghề trồng đào cho thu nhập cao, ông Đỉnh chuyển 1.000m2 vườn nhà từ trồng rau ngắn ngày sang trồng đào thế. Quyết là làm, ông “cơm nắm muối vừng” hàng tháng trời ở Nhật Tân để học hỏi kinh nghiệm. Năm 2008, sau khi trúng thầu gần 2,5ha đất của xã, ông mạnh dạn vay vốn ngân hàng để thực hiện mô hình vườn đồng. Cùng với 2.000 gốc đào Nhật Tân, ông trồng thêm 2 vạn cây cam đường Canh, 1 vạn cây quất cảnh, quất thế và 2.000 gốc cam Vinh. Để tăng hiệu quả, gia đình ông đã liên kết với một số hộ làm vườn ở huyện Văn Giang (Hưng Yên) từ việc đặt gốc, sang ngôi, việc cắt tỉa, uốn thế với từng loại cây đến việc điều tra thổ nhưỡng, tình hình sâu bệnh... Bên cạnh đó, các thành viên trong gia đình tích cực tham dự các lớp tập huấn trồng cây ăn quả do huyện và xã tổ chức. Vì thế, nay chỉ cần nhìn màu lá, sắc hoa các loại cây ăn quả trong trang trại, ông có thể biết đất canh tác thiếu chất gì và cây ăn quả đang bị loại sâu, bệnh nào gây hại, từ đó kịp thời điều chỉnh lượng phân bón và thuốc trừ sâu phù hợp.
Vợ chồng ông Đỉnh cắt tỉa quất cảnh. Ảnh: Minh Liễu
Ông Đỉnh cho biết, gia đình chủ yếu sử dụng đỗ tương loại 1 nghiền nhỏ làm phân bón, ngoài ra còn sử dụng thêm phân lân đầu trâu và NPK. Thuốc trừ sâu thì sử dụng hoàn toàn thuốc vi sinh, tuyệt đối không sử dụng thuốc trừ cỏ và chỉ phun phòng sâu bệnh vào thời điểm quả còn non và trước khi quả phân múi (phun cách ly trước thu hoạch ít nhất 60 ngày) nên an toàn tuyệt đối với cả người sản xuất và người tiêu dùng.
Với cách làm như vậy, trang trại cây ăn quả nhà ông Đỉnh, cây nào cây nấy quả sáng và sai trĩu cành. Nhiều cây cam Vinh cho trên 2 tạ quả, cam đường Canh ra chùm vài trăm quả/cây. Nhờ linh hoạt trong phát triển mô hình vườn đồng, ngoài giải quyết việc làm thời vụ cho từ 5 - 20 lao động địa phương theo mức lao động thủ công từ 150.000 - 200.000 đồng/ngày, lao động kỹ thuật 600.000 đồng/ngày, trừ chi phí, mỗi năm, gia đình ông thu về trên dưới 3 tỷ đồng. Ông còn tận tình phổ biến kiến thức và kinh nghiệm làm vườn cho các hộ trong xã với mong muốn trên địa bàn có thêm nhiều nông hộ làm giàu từ đất nông nghiệp...
Vẫn mong sự tiếp sức
Theo ông Đỉnh, Lệ Chi đã cơ bản hoàn thành công tác dồn điền đổi thửa nên nhu cầu chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nhất là việc thực hiện mô hình vườn đồng đang tăng nhanh. Năm 2015, các hộ thực hiện sản xuất theo tiêu chuẩn VietGap, chất lượng sản phẩm được nâng cao song sức mua và giá cả đối với hầu hết các loại cây ăn quả đều giảm nhiều so với các năm trước. Do đó, để nông dân yên tâm đầu tư chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên đất nông nghiệp, nông dân Lệ Chi nói riêng và các xã trên địa bàn huyện Gia Lâm nói chung rất mong được các cấp chính quyền TP quan tâm giúp đỡ. Đặc biệt, tạo thuận lợi để nông dân được tham gia chuỗi liên kết giữa 4 nhà nhằm đảm bảo đầu ra cho sản phẩm. Bên cạnh đó, đẩy nhanh tiến độ phê duyệt các phương án chuyển đổi, nâng nguồn vốn cho vay thực hiện các mô hình chuyển đổi để khích lệ nông dân phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng an toàn bền vững.
Minh Liễu
Chuỗi liên kết trồng trọt, chăn nuôi: Dễ hay khó?
Nguồn tin: Báo Bình Phước
Sản phẩm làm ra không ai mua, bị thương lái ép giá, không lấy được vốn hoặc lỗ nặng… là khó khăn chung của nông dân Bình Phước hiện nay. Việc xây dựng chuỗi liên kết trong sản xuất từ chăn nuôi đến trồng trọt để sản phẩm có đầu ra ổn định là một trong những yêu cầu cấp thiết của ngành nông nghiệp khi triển khai xây dựng chuỗi liên kết.
Triển khai nhiều, nhưng...
Để nâng cao giá trị của sản phẩm nông nghiệp, thời gian qua Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh đã chủ động kêu gọi hỗ trợ, hợp tác với doanh nghiệp, làm tốt vai trò cầu nối giữa nhà khoa học - doanh nghiệp - nhà nông nhằm xây dựng các chuỗi liên kết cây trồng, vật nuôi. Điển hình như: Trồng thử nghiệm giống lúa lai (BTE-1) năng suất cao; ghép cải tạo vườn điều năng suất thấp; tưới nước hòa phân tiết kiệm trên cây điều; mô hình trình diễn heo đực giống tại xã Thanh Lương (Bình Long), phường Sơn Giang (Phước Long); kỹ thuật thụ tinh nhân tạo kết hợp thú y cộng đồng nhằm phát triển chăn nuôi heo theo hướng VietGAHP (GAHP - giải pháp thực hành chăn nuôi an toàn) trong nông hộ.
Cán bộ Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư kiểm tra vườn ươm của tổ hợp tác trồng ca cao ở xã Tân Hưng (Đồng Phú)
Tỉnh Bình Phước đã, đang “trải thảm đỏ” để mời gọi nhà đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp công nghệ cao, chế biến tạo nên chuỗi khép kín từ trang trại đến bàn ăn của người tiêu dùng nhằm nâng giá trị sản phẩm nông nghiệp. Việc ứng dụng, chuyển giao khoa học - kỹ thuật đơn thuần đã chuyển sang ứng dụng gắn với yếu tố thị trường, sản xuất theo hướng hàng hóa, bán nông nghiệp, điển hình như dự án chuỗi cung ứng tiêu bền vững (được tài trợ bởi Tổ chức Phát triển Hà Lan SNV, Công ty TNHH chế biến gia vị Nedspice Việt Nam).
Hiện Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh đã xây dựng được 3 câu lạc bộ tiêu bền vững tại xã Lộc Hiệp (Lộc Ninh); thực hiện thành công Dự án Phát triển chuỗi cung ứng tiêu bền vững (SNV) tại 2 huyện Bù Đốp và Lộc Ninh; thành lập 15 câu lạc bộ nông dân trồng tiêu ở 3 huyện Lộc Ninh, Bù Đốp và Hớn Quản với 627 hộ tham gia. Đến nay đã có nhiều hộ sản xuất đạt 10 tiêu chí theo tiêu chuẩn Rainforest Alliance (R.A) của Công ty TNHH chế biến gia vị Nedspice Việt Nam đưa ra và được bao tiêu sản phẩm với giá cao hơn giá thị trường từ 1.000 đồng/kg trở lên.
Mô hình chăn nuôi bò khép kín quy mô hộ gia đình của anh Nguyễn Thành Tuấn ở tổ 7, xã Minh Hưng (Chơn Thành) đang là cách làm cho thu nhập cao
Trung tâm còn phối hợp với Công ty TNHH sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh Tân Đồng Tiến và Công ty TNHH sản xuất - thương mại - dịch vụ gấc Tây Nguyên phát triển chuỗi gấc. Hai đơn vị đã cung cấp giống, phân bón theo hình thức trả trước 50% và tư vấn kỹ thuật cho các hộ đăng ký trên địa bàn 3 huyện: Bù Gia Mập, Đồng Phú, Lộc Ninh và thị xã Đồng Xoài, quy mô khoảng 31,5 ha cho 47 hộ. Giai đoạn 2015 - 2016, trung tâm dự kiến triển khai trồng khoảng 100 - 150 ha gấc, chia thành các cụm nông dân, có kỹ sư của trung tâm phụ trách theo dõi, hỗ trợ. Tuy nhiên, sau thời gian trồng, bên cạnh diện tích đang cho trái ổn định, một số hộ trồng gấc ở xã Tân Lợi (Đồng Phú) lo lắng vì phần lớn là giống đực nên không thể ra trái. Số cây cho trái bị thối đen ngay trên cành hoặc chết. Vì vậy, nông dân trồng gấc với diện tích lớn đang phải chặt bỏ để trồng lại giống cái. Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh đã hỗ trợ cây giống, kỹ thuật kịp thời để nông dân yên tâm xuống giống vụ mới.
Thời gian qua, trung tâm cũng phối hợp với các công ty Cargill, Mars Incorporated, Ca cao A1 lựa chọn 150 nông dân đang trồng ca cao để chuyển giao gói kỹ thuật về năng suất và tuyển chọn 300 nông hộ làm mô hình trình diễn ca cao trên diện tích 300 ha. Trung tâm đang thực hiện mô hình tạo chuỗi giá trị liên kết trong chăn nuôi gà theo hướng VietGAHP quy mô nông hộ; liên kết trồng chuối nuôi cấy mô; nhân rộng chăn nuôi ứng dụng khoa học - kỹ thuật cao như nuôi heo, gà trên đệm lót sinh học; nuôi bò kết hợp đồng cỏ và chế biến thức ăn gia súc...
Khi doanh nghiệp và nhà nông chưa có tiếng nói chung
Việc gắn kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và nhà nông trong chuỗi liên kết là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, hiện do thiếu chế tài ràng buộc nên sự liên kết còn lỏng lẻo, quy mô hẹp, mới dừng ở dạng mô hình, tổ hợp tác. Một số doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm và chia sẻ lợi ích với người chăn nuôi, khiến liên kết thiếu bền vững.
Mới đây, người nuôi gà ở xã Thanh Lương (Bình Long) điêu đứng khi cung vượt cầu dẫn đến gà thương phẩm rớt giá. Mặc dù các tổ hợp tác đã chủ động liên kết với công ty cung cấp thức ăn và ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm khi gà đến lứa xuất chuồng. Thế nhưng sự hợp tác suôn sẻ chỉ được thời gian đầu. Khi cung vượt cầu, công ty không bao tiêu sản phẩm nên phần thiệt người chăn nuôi phải gánh chịu.
Bà Lê Thị Ánh Tuyết, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh cho rằng: “Hiện nay, việc tổ chức liên kết từ khâu sản xuất đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm rất khó do làm ăn nhỏ lẻ. Một số doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm và chia sẻ lợi ích với người chăn nuôi. Đó là lý do khiến tính liên kết thiếu bền vững. Bên cạnh đó, chăn nuôi an toàn đang phải cạnh tranh với các sản phẩm không đảm bảo chất lượng, không có nguồn gốc tràn lan trên thị trường. Thực tế, muốn tham gia vào chuỗi liên kết bền vững, nông dân phải có tiềm lực về kinh tế, kỹ thuật, tầm nhìn xa. Các thành viên tham gia trong chuỗi phải giữ chữ tín và chia sẻ khó khăn, lợi nhuận với nhau thì chuỗi mới hoạt động bền vững”.
Từ các mô hình đã thực hiện trên địa bàn tỉnh cho thấy, chuỗi liên kết trên lý thuyết được xem như một “liều thuốc” đem đến hiệu quả cao cho cả nhà nông và doanh nghiệp nhưng khi áp dụng vào thực tế xem ra không hề đơn giản khi tất cả các phía đều muốn giành lợi ích về mình.
Năm 2016, Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh lựa chọn triển khai các mô hình ứng dụng khoa học - kỹ thuật mới nhằm tăng hiệu quả sản xuất, đổi mới giống như nuôi bò Úc; trồng chuối nuôi cấy mô; máy chế biến thức ăn đa năng kết hợp lên men ủ chín thức ăn nhằm tận thu các sản phẩm sẵn có; khảo sát các vùng nguyên liệu về sản xuất cây ăn trái có thế mạnh của địa phương như điều, ca cao, quýt đường, bơ, chôm chôm, sầu riêng... để định hướng cho các hộ sản xuất theo hướng VietGAP.
Ngân Hà
Lập nghiệp từ mô hình trang trại tổng hợp
Nguồn tin: Báo Quảng Trị
Với đức tính cần cù, ham học hỏi, mạnh dạn áp dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất, anh Nguyễn Đạo Trạch ở thôn Tân Diên, xã Hải Thọ (huyện Hải Lăng, Quảng Trị) đã xây dựng thành công mô hình trang trại tổng hợp, bước đầu đem lại nguồn thu nhập khá giúp cải thiện kinh tế gia đình.
Sinh ra và lớn lên trong gia đình làm nông nghiệp, từ nhỏ anh Trạch đã quen dần với những công việc của nhà nông như cày bừa, cấy hái. Khi lập gia đình, anh làm đủ thứ nghề để kiếm sống nhưng thu nhập không ổn định, cuộc sống ngày càng khó khăn. Khao khát làm giàu trên chính mảnh đất quê hương đã thôi thúc anh tích cực tìm hiểu, tham quan, học hỏi những mô hình chăn nuôi mới, có hiệu quả kinh tế cao. Năm 2013, trên diện tích 3 ha đất ở vùng gò đồi của thôn Tân Diên, anh Trạch đầu tư xây dựng trang trại tổng hợp gồm ao nuôi cá, xây dựng hệ thống chuồng trại khép kín để chăn nuôi lợn, gia cầm và trồng 2 ha rừng tràm.
Anh Nguyễn Đạo Trạch chăm sóc đàn gia cầm tại trang trại
Anh Trạch cho biết: “Để xây dựng mô hình trạng trại thành công, ngoài sự ủng hộ của chính quyền địa phương, sự giúp đỡ, hỗ trợ của người thân, tôi đã tích cực học hỏi, tiếp thu thêm kinh nghiệm của các mô hình sản xuất thành công trên địa bàn. Trên cơ sở đó rút kinh nghiệm, áp dụng sáng tạo vào mô hình của gia đình để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Đồng thời, nghiên cứu để nắm vững nhu cầu của thị trường cần loại sản phẩm gì để đầu tư nuôi trồng, đảm bảo đem lại giá trị thu nhập cao. Bên cạnh đó, xác định công tác thú y, chế độ dinh dưỡng cho vật nuôi cũng đóng một vai trò rất quan trọng nên tôi luôn quan tâm thực hiện tốt các khâu trong phòng chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm, đảm bảo chế độ dinh dưỡng phù hợp để nâng cao chất lượng đàn vật nuôi”.
Với 1 ha mặt nước, anh Trạch đã thả các loại cá truyền thống dễ chăm sóc, cho thu nhập cao như cá trắm, cá chép, cá rô phi, trê phi... Hệ thống chuồng trại khép kín dùng để chăn nuôi lợn thịt, bình quân 40 con/lứa, mỗi năm nuôi 4 lứa. Tận dụng không gian rộng xung quanh chuồng trại và ao cá anh Trạch nuôi thêm trên 400 con gà, ngan các loại, khoảng 3 tháng cho xuất chuồng 1 lứa. Trên diện tích 2 ha còn lại anh đầu tư trồng cây tràm lấy gỗ. Khác với nhiều hộ trồng rừng khác tại địa phương, nhận thấy trồng tràm bằng phương pháp giâm hom rút ngắn thời gian thu hoạch và tăng trọng lượng gỗ nên anh Trạch đã áp dụng trồng tràm giâm hom trên toàn bộ diện tích của trang trại. Đến nay, rừng đang phát triển tốt.
Trao đổi với chúng tôi về hiệu quả của trang trại, anh Trạch cho biết: “Sau 3 năm xây dựng, đến thời điểm này tôi mới chỉ thu hoạch cá, lợn, gà, ngan, mỗi năm cho thu nhập khoảng 200 triệu đồng. Trong thời gian tới tôi dự định sẽ tích lũy và vay thêm vốn để mở rộng quy mô trang trại, nuôi thêm một số con nuôi mới như dê, thỏ, bò... để tăng thu nhập, tạo việc làm cho lao động địa phương”.
THANH LÊ
Tiết kiệm điện hiệu quả nhờ ứng dụng sáng chế hệ thống phun nước và phun xịt tự động
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Để nhà vườn không còn lệ thuộc thời tiết và nhất là tiết kiệm chi phí xăng, dầu, phân bón và nhân công, nhà sáng chế "chân đất" Cao Phát Triển, khu vực Thới Xuân I, phường Thới Long, quận Ô Môn, Cần Thơ đã sáng chế thành công hệ thống phun nước và phun xịt tự động độc đáo có tính năng điều khiển bằng điện thoại di động thông minh. Với hệ thống phun tự động này, nhà vườn có thể điều khiển việc phun tưới nước cho cả 1 héc-ta vườn cây ăn trái trong vài phút mà không tốn đến 1.000 đồng tiền điện.
Anh Cao Phát Triển đang ứng dụng điều khiển hệ thống phun nước tự động trên điện thoại di động.
Để tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả sản xuất, năm 2013, anh Cao Phát Triển tự tay thiết kế hệ thống phun nước tự động cho vườn cây ăn trái của mình. Hệ thống phun nước tự động được thiết kế độc đáo kết nối con chíp điện từ được lắp đặt tại trạm bơm với phần mềm điều khiển trên điện thoại di động thông minh. Do đó, dù ở xa vườn cây ăn trái của mình bất cứ nơi đâu, chủ vườn chỉ cần thao tác trực tiếp trên điện thoại, máy bơm sẽ hoạt động đẩy nước từ ống chính chạy dọc theo hệ thống ống nối đến các trục tưới rồi lan tỏa ra đồng đều làm ướt từ gốc đến ngọn cây. Nhờ đó, lượng nước tưới được thẩm thấu nhanh, giúp cây trồng hấp thụ nước tốt nên khá phù hợp cho các loại cây ăn trái có múi, đặc biệt là quýt hồng. Nói về lợi ích và hiệu quả của hệ thống tưới nước tự động, anh Cao Phát Triển so sánh: Với diện tích 8.000m2, mỗi lần phun nước thủ công bằng máy nổ, nhà vườn tốn từ 3-4 lít xăng, còn tưới dầu tốn trên 2 lít. Nhưng áp dụng hệ thống phun tưới nước tự động, nhà vườn chỉ cần bật hệ thống điều khiển trên điện thoại di động, cả vườn cây sẽ được tưới nước đồng loạt trong vòng 10 phút mà không tốn đến 1.000 đồng chi phí điện. Năm 2014, anh Triển tiếp tục nghiên cứu và sáng chế ra mô hình phun xịt tự động chuyên để tưới phân, thuốc cho vườn cây ăn trái. Điểm khác biệt giữa hệ thống phun xịt với hệ thống tưới nước là đường ống dẫn phân, thuốc có tiết diện nhỏ hơn, giúp tiết kiệm lượng phân thuốc khi phun xịt. Tính năng hoạt động của hệ thống này cũng giống như hệ thống phun nước tự động, thông qua bộ điều khiển ứng dụng trên điện thoại thông minh, nhà vườn có thể điều khiển việc phun xịt nhanh chóng và chính xác trong vòng 6 phút trên diện tích 8.000m2. Ngoài ra, ưu thế của hệ thống phun xịt tự động giúp lượng thuốc hay phân bón được lan tỏa ra đồng đều. Nhờ đó, giúp nhà vườn tiết kiệm tiền phân, thuốc… góp phần nâng cao chất lượng trái đồng đều, màu đẹp và bán được giá hơn, nhất là vào vụ Tết.
Theo anh Cao Phát Triển, khi chưa ứng dụng các hệ thống phun xịt tự động với diện tích hơn 8.000m2 vườn cây trái, ngoài chi phí xăng, dầu phun xịt phân và thuốc, tiền thuê nhân công phun xịt cho cây mất khoảng 500.000 đồng/lần. Nhưng khi đưa hệ thống phun tưới tự động vào sản xuất, nhà vườn đã đỡ vất vả trong việc làm vườn, chủ động được thời gian phun tưới, góp phần đảm bảo sức khỏe cho nhà vườn khi không phải tiếp xúc trực tiếp hóa chất khi phun xịt phân, thuốc. Điều quan trọng là lợi ích của hệ thống phun xịt tự động mang lại giúp tiết kiệm tối đa chi phí sản xuất mỗi năm từ 45 - 50 triệu đồng/ha và nhất là nâng cao năng suất cao gấp nhiều lần so với cách làm thủ công trước đây. Hiệu quả của hệ thống phun tưới tự động mang lại hiệu quả hữu ích không chỉ cho bản thân nhà sáng chế Cao Phát Triển mà còn góp phần gia tăng hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp của nhiều nhà vườn. Hiện tại, mô hình đã được nhân rộng và triển khai lắp đặt hệ thống phun tưới tự động cho nhiều nông dân tại quận Ô Môn, Thốt Nốt của TP Cần Thơ và huyện Lai Vung của tỉnh Đồng Tháp… Tùy theo điều kiện tự nhiên và hạ tầng sẵn có của chủ vườn, chi phí đầu tư cho một hệ thống tưới phun tự động mất từ 70 - 90 triệu đồng/ha.
Không chỉ sáng tạo tiết kiệm chi phí sản xuất nông nghiệp, anh Cao Phát Triển còn chú trọng thực hiện tiết kiệm điện, nước trong sinh hoạt gia đình. Các biện pháp tiết kiệm năng lượng được anh Triển áp dụng triệt để, như: tắt nguồn tivi, quạt máy… khi không sử dụng, chủ động bố trí, lắp đặt các thiết bị cảm biến (mắt cảm biến hồng ngoại) tại các khu vực ít sử dụng điện vào ban đêm, như: hàng ba, nhà bếp… Điểm nổi bật của thiết bị cảm biến này, giúp hệ thống đèn sẽ tự động bật sáng khi có người sinh hoạt và tự động tắt khi không có người. Ở các nơi khác, như: nhà vệ sinh và nhà tắm, anh Triển còn lắp đặt đèn chiếu sáng tự động, khi mở cửa đèn tự bật sáng và tự động tắt khi đóng cửa. Ngoài ra, để đảm bảo an toàn trong sản xuất kinh tế vườn và trong sinh hoạt gia đình, anh Triển còn lắp đặt thêm hệ thống báo biến động mặt nước để giúp anh chủ động phòng tránh tình trạng ngập nước gây chết cây vào mùa nước nổi hay sự cố chập điện… Với những cách làm hay trong sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả đã giúp anh Triển tiết kiệm chi phí điện, nước trong sinh hoạt hằng ngay. Đồng thời, giúp cho nhiều nhà vườn tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả kinh tế trên mảnh đất vốn có của mình.
M.HOA
Giúp nông dân định hướng sản xuất
Nguồn tin: Báo Bà Rịa Vũng Tàu
Anh Lương Ngọc Tĩnh (tổ 9, ấp Mỹ Hòa, xã Long Mỹ, huyện Đất Đỏ) chăm sóc đàn dê.
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi là một trong những định hướng quan trọng của Ban chỉ đạo Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTM) nhằm giúp nông dân lựa chọn những cây trồng, vật nuôi phù hợp, mang lại hiệu quả kinh tế. Định hướng này đã giúp nhiều hộ dân thoát nghèo bền vững…
Theo Ban chỉ đạo chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng NTM tỉnh BR-VT, giai đoạn 2010-2015, tỉnh đã định hướng cho nông dân thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ như: Chuyển đổi lúa một vụ năng suất thấp sang trồng rau màu; tiếp tục xây dựng thương hiệu hàng hóa gắn với việc chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP; hướng dẫn nông dân thực hiện các biện pháp canh tác tiết kiệm, hiệu quả, giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh. Nhờ các giải pháp trên, tại các xã NTM, mức thu nhập bình quân đầu người đều cao hơn trước.
Anh Lương Ngọc Tĩnh (tổ 9, ấp Mỹ Hòa, xã Long Mỹ, huyện Đất Đỏ) cho biết, vườn của gia đình anh rộng 10 sào, trước đây anh trồng mì cao sản nhưng mì ngày càng rớt giá nên thu nhập ngày càng thấp. Năm 2010, anh chuyển 2 sào sang trồng cây mãng cầu ta. Đến năm 2014, cây mãng cầu ta cho năng suất 3 - 4 tấn/sào, mỗi năm thu hoạch được 2 - 3 vụ, giá bán tại vườn khoảng 30 - 45 ngàn đồng/kg. Thấy cây mãng cầu ta cho năng suất cao, khi bắt tay vào xây dựng NTM, xã Long Mỹ đã hướng dẫn bà con nông dân, trong đó có gia đình anh Tĩnh chuyển đổi sang trồng loại cây này. “Nhờ tham gia các lớp học về ứng dụng tiến bộ KH-KT vào trồng cây mãng cầu ta do xã tổ chức, năm 2014, tôi mạnh dạn bỏ cây mì và trồng 700 cây mãng cầu ta trên diện tích 8 sào còn lại trong vườn. Năm đầu một cây cho thu hoạch 2kg. Năm sau, năng suất tăng cao hơn 5 - 7 kg/cây. Tôi rất mừng vì bước đầu đã thành công và theo tính toán, những mùa vụ năm sau năng suất sẽ tăng gấp 5 - 6 lần so với 2 năm đầu” - anh Tĩnh nói.
Không chỉ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, anh Tĩnh còn được hướng dẫn trồng cỏ ở khu đất trống trong vườn để nuôi dê. Hiện tại, anh Tĩnh đang nuôi 32 con dê. Dê thịt hiện có giá bán tại chuồng 90.000 đồng/kg, nuôi 6 tháng là bán được, tính ra trừ các thứ chi phí, mỗi năm thu lãi khoảng 40 triệu đồng, cộng với tiền lãi từ vườn mãng cầu 40 - 50 triệu đồng/năm, gia đình anh Tĩnh đã có nguồn thu nhập ổn định.
Câu chuyện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi của anh Tĩnh ở xã NTM Long Mỹ cũng là bài toán được nhiều xã NTM trên địa bàn tỉnh áp dụng thành công. Theo đánh giá của Phòng NN-PTNT huyện Tân Thành, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng đã giúp nông dân các xã NTM trên địa bàn huyện nâng cao hiệu quả kinh tế gấp 2 - 3 lần trên cùng một diện tích. Thời gian gần đây, nhiều hộ đã phá bỏ vườn tạp, vườn cây kém năng suất chuyển sang trồng các loại cây như bưởi da xanh, mít viên linh, nhãn xuồng cơm vàng, mãng cầu ta, quýt đường, các loại rau màu... Ông Phạm Anh Ta (tổ 6, ấp Phước Bình, xã Sông Xoài, huyện Tân Thành) cho biết, trước đây, mảnh vườn rộng 1,5ha của ông trồng các loại cây tạp, nhưng khoảng 5 năm nay, ông chuyển hẳn sang trồng chuyên canh bưởi da xanh. Sau đó, ông được Sở KH-CN hướng dẫn trồng bưởi theo tiêu chuẩn VietGAP mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Ông Phạm Anh Ta cho biết, bưởi da xanh canh tác theo lối truyền thống chỉ đạt năng suất dưới 20 tấn/ha/năm nhưng áp dụng theo quy trình VietGAP cho năng suất từ 40 tấn/ha trở lên. Ngoài ra, áp dụng theo đúng quy trình VietGAP còn giảm được chi phí sản xuất, tiết kiệm nhân công. Tính bình quân, sau khi trừ chi phí, người nông dân trồng bưởi có lãi khoảng 400 - 500 triệu đồng/ha.
Ông Võ Khắc Thuyết, Chủ tịch UBND xã Quảng Thành (huyện Châu Đức) cho biết, để giải bài toán về tăng thu nhập cho người dân, những năm qua, xã Quảng Thành đã vận động người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi... Bên cạnh đó, xã cũng khuyến khích nông dân cùng liên kết đẩy mạnh sản xuất, tăng giá trị thu nhập trên một diện tích đất. Theo đó, các tổ hợp tác chăn nuôi gà; tổ HTX dịch vụ - nông nghiệp được thành lập để giúp bà con liên kết sản xuất, ứng dụng KH-KT và tạo đầu ra bền vững cho sản phẩm, hình thành các mô hình thâm canh cây tiêu năng suất gấp 2, 3 lần trên cùng một diện tích so với trước… Đây chính là giải pháp tích cực giúp xã Quảng Thành cán đích trước tiên về tiêu chí nâng cao thu nhập, với mức bình quân đầu người đạt 36,5 triệu đồng/người/năm trong phong trào thi đua xây dựng NTM của tỉnh.
SONG THƯ
Diện mạo mới ở Đầm Nại
Nguồn tin: Nhân Dân
Cán bộ Vườn quốc gia Núi Chúa và người dân xã Hộ Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận tích cực trồng và chăm sóc rừng ngập mặn theo dự án để hồi sinh cho Đầm Nại.
Nhờ triển khai Dự án trồng mới, phục hồi và kết hợp quản lý bảo vệ rừng chống xâm thực bờ biển thuộc địa bàn các huyện Ninh Hải, Ninh Phước và Thuận Nam, giai đoạn năm 2015 - 2020; giờ đây, Đầm Nại ở huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận đang hồi sinh đúng với những gì thiên nhiên đã ban tặng trước đó.
Trước đó, Đầm Nại rộng khoảng 1.200 ha, trong đó diện tích vùng triều chiếm 800 ha. Là một trong 12 đầm phá ven biển ở nước ta, mang đặc thù đầm nhiệt đới khô hạn. Đầm Nại là vùng nước tự nhiên nằm sâu trong đất liền, có cửa liên thông với biển qua lạch Ninh Chữ và nhận nước ngọt từ các kênh mương hệ thống thủy lợi chung quanh. Tuy nhiên, hơn chục năm trước, bất chấp những cảnh báo của ngành chức năng, người dân đã thay nhau chặt phá rừng ngập mặn, lấn chiếm hơn 400 ha đất khu vực Đầm Nại để làm đìa nuôi tôm công nghiệp đã khiến 300 ha rừng ngập mặn gồm cây mắm trắng và cây đân với hơn 147 loài thực vật và động vật nổi; 40 loài rong biển; 61 loài động vật đáy; 42 loài cá biển gần như bị tận diệt hoàn toàn. Đời sống của người dân chung quanh Đầm Nại ngày càng khó khăn, vì đã mất đi những gì mà thiên nhiên ban tặng.
Chủ tịch UBND huyện Ninh Hải Nguyễn Thị Diệu Tuyết cho biết, vào thời điểm từ năm 1996 đến 2000, khi Đầm Nại bị tàn phá, địa phương đã triển khai nhiều biện pháp ngăn chặn, nhưng do lợi nhuận từ nuôi tôm mang lại quá cao, cho nên người dân bất chấp tất cả cảnh báo. Chính quyền tổ chức ngăn chặn ban ngày, thì họ lén lút đào đìa vào ban đêm. Và, Đầm Nại bị tàn phá, môi trường bị ô nhiễm ngày càng nặng… đã hủy diệt những gì đã từng hiện hữu ở Đầm Nại hàng trăm năm.
Hệ lụy để lại là những loài thủy sản đặc trưng, quý hiếm trong khu vực Đầm Nại, như cua, ghẹ, sò, ốc, lươn, chạch đỏ… bị tận diệt, đời sống của hàng trăm hộ dân mưu sinh hằng ngày nhờ khai thác thủy hải sản ở khu vực này ngày càng khó khăn, phải đi đến những vùng khác làm thuê để kiếm sống.
Kế đó là thất bại của những người đã từng lấn chiếm đất Đầm Nại để nuôi tôm bị vỡ mộng trở thành tỷ phú, vì môi trường bị ô nhiễm, dẫn đến thua lỗ nặng nề, nợ nần chồng chất, hầu như 100% người nuôi tôm đã đi khỏi làng để trốn nợ.
Năm 2015, từ nguồn vốn Chương trình Ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng của Trung ương; vốn ODA, UBND tỉnh Ninh Thuận giao cho Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm chủ dự án, thực hiện việc khôi phục hệ sinh thái rừng ngập mặn; tái tạo nguồn lợi thủy hải sản khu vực Đầm Nại.
Sự tích cực của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn cùng sự đồng thuận của người dân đã và đang dần khôi phục lại diện mạo vốn có cho Đầm Nại. Anh Trần Cường, Trạm trưởng Trạm Kiểm Lâm Kiền Kiền – Bỉnh Nghĩa, Hạt kiểm lâm Vườn quốc gia Núi Chúa, tỉnh Ninh Thuận, bộc bạch: “Ban đầu, việc triển khai trồng lại rừng ngập mặn để tạo môi trường sinh thái gặp nhiều khó khăn, vì cây rừng đã bị hủy hoại, nên tìm giống thích hợp để trồng rất gian nan. Cùng với đó là người dân chưa thật sự đồng thuận, chúng tôi phải mất ba năm cử cán bộ thực hiện sách lược “năm cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng trồng, cùng bảo vệ và cùng khai thác) với người dân. Giờ thì bà con đã thấy được diện mạo mới của Đầm Nại, nên rất tích cực hưởng ứng”.
Xen lẫn với diện tích rừng ngập mặn tự nhiên còn lại được chăm sóc chu đáo trong những năm qua đang phát triển tốt bao bọc những điểm xung yếu của vành đai khu vực Đầm Nại là 52 ha cây mắm trắng và cây đân được ươm, trồng đang vươn mình, tạo cho Đầm Nại một màu xanh sinh thái mới. Hàng nghìn người dân sống quanh Đầm Nại có cơ hội để khai thác nguồn lợi thủy hải sản đa dạng cũng như thả nuôi các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao.
Nông dân Võ Văn Trúc, thôn Phương Cựu, xã Phương Hải, huyện Ninh Hải phấn chấn, nói: “Sau gần chục năm bị thiếu đói vì hậu quả tàn phá Đầm Nại, giờ nhất cử nhất động đều tuân thủ vào hướng dẫn của cán bộ kiểm lâm, tích cực trồng và bảo vệ rừng ngập mặn, không dùng xung điện để khai thác, tận diệt các loài thủy hải sản quý…nhờ đó, đời sống của bà con ngày càng tốt hơn. Gia đình tôi, giờ thu nhập mỗi năm hàng trăm triệu đồng nhờ nuôi cua, hào sửa…”
Trong những ngày cận Tết Nguyên đán Bính Thân 2016, chúng tôi trở lại Đầm Nại và tận mắt chứng kiến hàng chục ha rừng ngập mặn mới đang phát triển, nơi này đã và đang hồi sinh với diện mạo mới. Giám đốc Vườn Quốc gia Núi Chúa Đặng Kim Cương cho biết, chỉ trong một thời gian ngắn, nhiều đàn chim lưu lạc đã tựu về; các loài hải sản tưởng chừng bị tận diệt cũng đã quay về chốn cũ, sinh đẻ và phát triển từng ngày. Nhiều hộ dân đã từng tàn phá, lấn chiếm hàng chục ha rừng Đầm Nại để làm đìa nuôi tôm đã từng bỏ làng trốn nợ cũng đã quay về tích cực tham gia khôi phục lại những gì quý giá mà Đầm Nại đã có, với mong mỏi chuộc lại lỗi lầm và phát triển nuôi trồng các loài thủy sản theo định hướng của địa phương. Cũng có người đã trả hết nợ nần và đang vươn lên thoát nghèo.
Gặp lại các nông dân một thời tìm đủ mọi cách để “tàn sát” rừng ngập mặn Đầm Nại, ai cũng bộc bạch sự hối hận cho hành động của mình ngày ấy, cho nên, giờ chính họ là những người tích cực nhất, không quản ngày đêm bám đầm, tự nguyện trồng và chăm sóc từng cây non của rừng ngập mặn.
“Thấm thía lắm anh ơi, giờ mới nhận ra, nên anh em không nghĩ đến chuyện nhận lương mà chỉ mong những gì đóng góp hôm nay được cộng đồng chấp nhận để đền bù cho việc làm chưa đúng của hàng chục năm trước đây” - nông dân Võ Văn Trúc tâm sự.
Với những nỗ lực của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Ninh Thuận và người dân ở huyện Ninh Hải, giờ đây, Đầm Nại đang từng ngày tạo ra sự trù phú mới cho vùng đất tưởng chừng sẽ mãi mãi mất đi màu xanh vốn có mà thiên nhiên đã ban tặng.
Người dân sống ven Đầm Nại đã có hướng mưu sinh mới từ nguồn lợi thủy hải sản được tái tạo và chăm sóc đúng định hướng của ngành NN&PTNT tỉnh Ninh Thuận.
NGUYỄN TRUNG
Xử lý bao bì thuốc bảo vệ thực vật sau sử dụng sao cho đúng cách?
Nguồn tin: Báo Long An
Bao bì thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) là chất thải nguy hại, nếu xử lý không đúng cách sẽ phát tán nhiều chất độc hại ra môi trường, đặc biệt là Dioxin/Furan, một trong những chất độc tiềm ẩn nguy cơ gây ung thư và đột biến gen ở người.
Các thùng chứa bao bì thuốc BVTV tại ấp 3, xã Thanh Phú đã đầy và chưa được thu gom, xử lý
Chung tay bảo vệ môi trường
Ông Dương Văn Đủ, nhà ở ấp 3, xã Thanh Phú, huyện Bến Lức, tỉnh Long An có gần 1ha đất trồng lúa. Đã hơn 2 năm nay, thói quen của ông là khi ra ruộng, luôn cầm theo cây móc và bao nylon, mỗi khi thấy vỏ bao thuốc BVTV trên đường đi, rãnh nước, kênh rạch thì lượm bỏ vào bao. Tại 2 đầu ruộng lúa của mình, ông còn tạo 2 miệng cống lớn, 2 cái bàn cao để người dân dễ lấy nước pha thuốc BVTV rồi mang trên vai. Ở 2 điểm này có 2 chiếc bao lớn được ông treo sẵn, ai dùng xong thuốc BVTV thì bỏ vỏ vào đó. Khi các bao này đầy, ông mang về bỏ vào thùng đựng bao bì thuốc BVTV do Phòng Tài nguyên Môi trường (TNMT) huyện trang bị đặt trước nhà. Nhiều hộ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn xã Thanh Phú cũng hưởng ứng giữ gìn vệ sinh môi trường thông qua gom vỏ bao bì thuốc BVTV. Bây giờ, ở các kênh rạch trên địa bàn ấp 3, 1A, 1B, ấp 4, ấp Thanh Hiệp, người dân rất tích cực thực hiện mô hình thu gom bao bì thuốc BVTV về nơi tập kết đúng quy định.
Ông Võ Sơn Đào - Chủ tịch Hội Nông dân xã Thanh Phú cho biết, đó là kết quả của mô hình thu gom bao bì thuốc BVTV do Phòng TNMT huyện Bến Lức và Hội Nông dân xã Thanh Phú thực hiện vào cuối năm 2012.
Theo Phó Chủ tịch UBND huyện Vĩnh Hưng - Nguyễn Hữu Hồng, trên địa bàn xã Khánh Hưng, huyện xây dựng nhiều hố chứa bao bì thuốc BVTV ở những nơi thuận tiện để người dân bỏ vào sau khi sử dụng. Ngoài ra, chính quyền xã cũng tập trung tuyên truyền về tác hại dài lâu của việc ô nhiễm môi trường nên người dân dần thay đổi thói quen vứt rác, bao bì thuốc BVTV bừa bãi. Đến nay, mô hình này đã phát huy tác dụng, tình trạng vứt bừa bãi bao bì thuốc BVTV sau sử dụng đã giảm.
Phó Chủ tịch UBND huyện Bến Lức - Dương Văn Út cho rằng, rác thải sinh hoạt nông thôn là vấn đề mà huyện rất quan tâm, đây cũng là một nội dung trong tiêu chí môi trường trong xây dựng nông thôn mới. Hiện tại, rác thải sinh hoạt trên địa bàn dễ kiểm soát hơn là rác thải từ bao bì thuốc BVTV. Tuy nhiên, thời gian qua, có lúc, vấn đề này chưa thật sự được quan tâm đúng mức, người dân còn chủ quan trong khi thực tế đây là nguồn chất thải có tính nguy hại cao.
Cũng theo Phó Chủ tịch UBND huyện Vĩnh Hưng - Nguyễn Hữu Hồng, khó khăn của địa phương là chưa đủ kinh phí để thu gom, vận chuyển loại rác thải độc hại này đến nơi tiêu hủy đúng theo quy định.
Giải pháp nào?
Theo Phó Giám đốc Sở Tài nguyên Môi trường - Huỳnh Thị Phép, bao bì thuốc BVTV thuộc danh mục chất thải nguy hại theo Thông tư 36/2015/TT-BTNMT. Do vậy, khi đem bao bì thuốc BVTV đốt tự nhiên từ các bể chứa như hiện nay sẽ không kiểm soát được nhiệt độ đốt và sẽ phát sinh nhiều chất độc hại ra môi trường, đặc biệt là Dioxin/Furan là một trong những chất độc tiềm ẩn nguy cơ gây ung thư và đột biến gen ở người. Vì vậy, các ngành chức năng ở địa phương khuyến cáo người dân ngưng ngay việc đốt, tiêu hủy các loại bao bì thuốc BVTV bằng các bể chứa như hiện nay. Theo quy định, bao bì thuốc BVTV phải được xử lý đúng quy cách, nếu đốt thì phải được đốt trong các lò đốt chuyên dụng (đốt 2 cấp), với 2 buồng đốt gồm buồng đốt sơ cấp có nhiệt độ đốt tương đương 700 độ C và uồng đốt thứ cấp có nhiệt độ đốt tương đương 1.300 độ C.
Ông Võ Sơn Đào cho rằng, hiện nay, việc thu gom bao bì thuốc BVTV là ý thức của người dân, nhưng nếu có quy định, chế tài, chế độ khuyến khích thì sẽ tốt hơn. Thí dụ như các đại lý bán thuốc BVTV nên có nơi chứa bao bì thuốc BVTV sau sử dụng, nếu người dân thực hiện tốt việc thu gom thì các nơi này có chế độ khuyến mãi, hoặc thưởng tặng phẩm. Như thế sẽ khuyến khích người dân thực hiện tốt hơn.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn - Huỳnh Quốc Việt cho biết, sở đã xây dựng được 30 hố chứa bao bì thuốc BVTV ở các địa phương trong tỉnh. Tuy nhiên, nguồn kinh phí để thực hiện nhiệm vụ môi trường cấp cho ngành còn hạn chế nên số hố chưa đáp ứng nhu cầu của người dân. Theo ông, vấn đề xử lý bao bì thuốc BVTV không nên nghiêng về phía Nhà nước và cần phải có chính sách, cộng đồng trách nhiệm từ những nhà sản xuất thuốc BVTV./.
Thanh Tùng
Tỷ phú trên vùng đất khó
Nguồn tin: Báo Gia Lai
Từ hai bàn tay trắng, ông Cao Xuân Ba (Plei Pong, xã Chư A Thai, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai) đã biến những tấc đất cằn cỗi năm nào trở thành "tấc vàng" nhờ sự cần cù, siêng năng và không ngừng sáng tạo, học hỏi.
Ông Cao Xuân Ba với vườn cây nhãn lồng. Ảnh: Lê Văn Ngọc
Sinh ra và lớn lên tại mảnh đất Hưng Yên-nơi đất chật người đông, năm 1996, vợ chồng ông Cao Xuân Ba dắt díu con cái theo đoàn kinh tế mới vào vùng đất Gia Lai với hy vọng đổi đời. Dựng vội căn nhà vách gỗ, vợ chồng ông bắt tay vào cày xới những thửa ruộng đầu tiên để tỉa bắp, tỉa đậu. Ông dẫn nước về ruộng, đưa cây lúa nước vào canh tác để đảm bảo lương thực cho những ngày giáp hạt. Nhưng không phải vụ mùa nào cũng bội thu. “Nhiều đợt vợ chồng tôi phải lo chạy ăn từng bữa, đành phải đi vay mượn hoặc mua chịu của các cửa hàng để qua khoảng thời gian đói kém”-ông Ba bồi hồi nhớ lại.
Hiểu rõ giá trị của từng tấc đất, ông mạnh dạn khai hoang những vùng đất xa xôi hơn ở khu vực gần hồ Ayun Hạ được gần 20 ha. Một nửa diện tích ông vẫn trồng những cây nông nghiệp ngắn ngày, nửa còn lại, ông chuyển sang trồng cao su. Dù đã đi học hỏi kinh nghiệm từ Bắc chí Nam nhưng có lẽ mảnh đất Chư A Thai không hợp với loại cây “vàng trắng” này. 10 ha cao su của ông mắc bệnh tật, còi cọc, chậm phát triển khiến ông phải ngậm ngùi phá bỏ, chịu mất trắng hàng trăm triệu đồng.
Tuy vậy, ông vẫn không nản chí mà tiếp tục quay sang trồng mía. Nhờ chịu khó học hỏi kinh nghiệm, kỹ thuật cũng như đầu tư chăm sóc bài bản, những thửa mía của ông luôn đạt năng suất đáng mơ ước-hơn 100 tấn/ha. Với cây mía cao, to, gióng mía dài, vườn mía của ông trở thành vườn mía “chuẩn” cho những hộ trong vùng. Thu lợi nhuận trên dưới 1 tỷ đồng/năm từ cây mía, nhưng ông vẫn duy trì trồng lúa nước và chăn nuôi hàng chục con trâu, bò. Sự hài hòa này đã giúp ông có thu nhập ổn định để chu cấp cho người con trai cả đang du học ở Mỹ với chi phí gần 1 tỷ đồng mỗi năm. Người con trai còn lại của ông cũng đang theo học tại Học viện Biên phòng.
Có được cơ ngơi đáng mơ ước, nhưng người nông dân ấy vẫn chưa bao giờ hài lòng. Sinh ra ở mảnh đất của đặc sản nhãn lồng, ông yêu và hiểu loài cây này nên đã quyết định mang thương hiệu nhãn lồng Hưng Yên vào Gia Lai. Hiện ông có 300 gốc nhãn lồng và 200 gốc nhãn Thái đã cho thu bói; mỗi gốc cho từ 50kg đến 60kg vào trái vụ với giá trung bình 35 ngàn đồng/kg. Ông Ba cho biết: “Cả nhãn lồng hay nhãn Thái đều rất phù hợp với đất Chư A Thai này. Tôi phải tỉa bớt hoa để cho cây ra trái đều và không kiệt sức. Mình điều khiển được cây cho ra trái vụ nên không lo vấn đề về giá. Nếu ổn định, sắp tới tôi sẽ nhân rộng diện tích nhãn bởi đây là loài cây mang về thu nhập cao”.
Lê Văn Ngọc
Củ sắn “khủng” nặng 4,2 kilogam
Nguồn tin: Báo Đồng Tháp
Ông Nguyễn Thanh Giang (SN 1963, ngụ khóm Tân Đông A, thị trấn Thanh Bình, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp) phía sau nhà trồng cây ăn trái và có trồng sắn.
Cháu ông Giang khoe củ sắn “khủng” nặng 4,2kg
Mới đây, ông Giang thu hoạch vườn thì đào được một củ sắn có đường kính 25cm, chu vi 75cm và nặng 4,2kg.
Dương Út
ĐBSCL: Chật vật đối phó với hạn mặn
Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng
Do tác động của các hồ chứa thượng lưu, dòng chảy sông Mê Công về ĐBSCL khiến tình hình hạn hán và xâm nhập mặn ở ĐBSCL diễn biến phức tạp. Ở nhiều vùng ven biển, nước mặn xâm nhập sâu và sớm hơn mọi năm, gây khó khăn cho sản xuất và đời sống. Nhiều khu vực nội đồng, đô thị… đang đối mặt với nguy cơ thiếu nước ngọt cho sinh hoạt.
Dồn sức cứu lúa
Tính đến trung tuần tháng 1-2016, tỉnh Sóc Trăng có hơn 2.300ha lúa mùa và đông xuân bị ảnh hưởng do nhiễm mặn, trong đó hơn 780ha bị mất trắng, dù nông dân đã cố gắng làm đất sạ lại, bón thêm phân, thuốc dưỡng, nhưng vẫn thiệt hại trên 70% năng suất. Năm nay, nông dân vùng tôm lúa huyện Mỹ Xuyên xuống giống lúa mùa vượt hơn 11% kế hoạch, với trên 10.620ha. Ngoài 3.232ha đã thu hoạch, cho năng suất từ 4 - 6,5 tấn/ha, các diện tích còn lại chủ yếu đang làm đòng đến trổ, tuy vậy, đã có trên 480ha lúa bị ảnh hưởng do mặn xâm nhập sâu vào nội đồng, trong đó 439ha bị mất trắng, diện tích còn lại cũng thiệt hại từ 20% - 50% năng suất. Một số xã của huyện Trần Đề đã có 1.834ha lúa bị ảnh hưởng do xâm nhập mặn, trong đó hơn 340ha mất trắng. Theo kết quả quan trắc môi trường, độ mặn sông Mỹ Thanh hiện đạt mức cao nhất là 6,5%0, dự báo còn tăng trong những ngày tới. Ngoài ra, các huyện Long Phú, Châu Thành, Mỹ Tú… cũng có nguy cơ nhiễm mặn vào nội đồng cao, bởi hiện độ mặn trên sông Hậu đang ở mức báo động 2, đạt mức cao nhất là 19,5%0.
Nông dân tỉnh Sóc Trăng nhìn lúa chết vì hạn, mặn. Ảnh: TRUNG HIẾU
Diện tích lúa đông xuân 2015 - 2016 của Sóc Trăng còn hơn 100.000ha trên đồng, chủ yếu ở giai đoạn từ đẻ nhánh đến trổ chín, thời gian tới ngành chức năng khuyến cáo nông dân vui xuân nhưng không nên lơ là mà cần theo dõi sát tình hình độ mặn và thông báo của địa phương để canh lấy nước vào đồng, bảo đảm năng suất cho vụ lúa này.
Tại Tiền Giang, đến thời điểm này phần lớn diện tích lúa đông xuân đang ở giai đoạn tỉa dặm và đẻ nhánh nên nhu cầu dùng nước rất lớn. Trong khi đó, mực nước tại các kinh trong vùng rất thấp và đang tiếp tục xuống nhanh. Ngoài sông, độ mặn tiếp tục tăng, xâm nhập sâu vào nội đồng đe dọa đến các trà lúa hiện nay. Tại huyện Gò Công Đông, trên địa bàn huyện có khoảng 8.000ha lúa đang ở giai đoạn 30 ngày tuổi trong tổng số 11.000ha xuống giống trong vụ lúa đông xuân này. Nếu thời gian tới tình hình nước vẫn diễn biến theo hướng thế này, các trà lúa sẽ bị nguy kịch. Từ đó, huyện đã chỉ đạo các xã tổ chức bơm chuyền 2 cấp, trục vớt lục bình.
Nạo vét kênh mương dẫn nước phục vụ sản xuất tại tỉnh Sóc Trăng. Ảnh: TRUNG HIẾU
Ông Trần Hoàng Nhật Nam, Phó Chủ tịch UBND huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang cho biết, trước tình hình các kinh nội đồng cạn kiệt hiện nay, ngoài chỉ đạo tổ chức bơm chuyền, trục vớt lục bình, huyện chỉ đạo Phòng NN-PTNT, các xã giám sát chặt chẽ các công trình thủy lợi, tổ chức bơm chuyền từ kinh cấp 1 đến kinh cấp 2; đồng thời đã cho tiến hành rà soát, bổ sung phương án phòng, chống hạn, mặn từ huyện đến xã. Ông Nguyễn Thiện Pháp, Chi cục Trưởng Chi cục Thủy lợi và Phòng, chống lụt bão tỉnh Tiền Giang cho biết, mặn diễn biến quá nhanh so với dự tính, trong khi đó vùng dự án có nhiều diện tích phải đến cuối tháng 3 mới cắt nước. Nếu trước đây việc bơm chuyền chỉ dự kiến tổ chức cho các diện tích trễ vụ, còn nay phải tổ chức bơm chuyền cho cả những diện tích xuống giống đúng lịch thời vụ. Không chỉ vậy, ngoài sản xuất lúa, trong vùng còn khoảng 10.000ha cây ăn trái, rau màu và nước phục vụ sinh hoạt cho người dân.
Lo nguồn nước sinh hoạt
Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam dự báo, từ tháng 2-2016 trở đi, các thành phố như: Bến Tre (tỉnh Bến Tre), Rạch Giá (Kiên Giang), Vị Thanh (Hậu Giang) có khả năng thiếu nước ngọt nên cần có kế hoạch dự trữ để sinh hoạt... Trước tình hình này, TP Bến Tre đã chủ động đảm bảo nguồn nước từ Nhà máy nước Sơn Đông và lắp đặt trạm bơm và đường ống dẫn nước từ xã Phú Thành, huyện Châu Thành (nơi có độ mặn thấp nhất) đưa về Nhà máy nước Sơn Đông mỗi ngày khoảng 20.000m3 để pha loãng với nguồn nước tại chỗ. Ngoài ra, ngành cấp nước cũng tổ chức xe phục vụ nước ngọt cho các huyện ven biển, những nơi bị khô hạn và mặn xâm nhập sâu.
Theo ông Nguyễn Hữu Hoài Phương, Giám đốc Công ty TNHH MTV Cấp thoát nước Kiên Giang, trong trường hợp mặn xâm nhập 20 ngày liên tục, Công ty TNHH MTV Cấp thoát nước Kiên Giang cố gắng phân vùng và tách mạng cấp nước, bảo đảm cấp nước ổn định cho bệnh viện, trường học trên địa bàn thành phố Rạch Giá. Công ty chỉ bảo đảm cung cấp nước ổn định cho thành phố Rạch Giá và một phần huyện Hòn Đất khoảng 10 ngày, đêm. Ông Nguyễn Hữu Hoài Phương cho biết, để chủ động nguồn nước phục vụ sinh hoạt, công ty sẽ tiến hành khoan 16 giếng công cộng ở các phường trong nội ô thành phố Rạch Giá. Đồng thời, khôi phục một số giếng nước ngầm do công ty quản lý, bổ sung cụm xử lý nước đạt tiêu chuẩn cho phép, như giếng nước sân bay đường Cách Mạng Tháng Tám, Trạm cấp nước Rạch Sỏi tại khu dân cư bến xe tỉnh. Dự kiến những tháng đầu năm 2016, Nhà máy nước khu công nghiệp Thạnh Lộc có công suất 5.000m³/ngày, đêm đi vào hoạt động, bổ sung nước sinh hoạt cho người dân. Cống ngăn mặn tại cửa Sông Kiên dự kiến hoàn thành và đưa vào sử dụng trước Tết Bính Thân 2016 sẽ góp phần hạn chế nguồn nước mặn xâm nhập sâu vào nội đồng.
Trước tình hình trên, Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam khuyến cáo: Để thông tin kịp thời về mặn xâm nhập, nguồn nước và xây dựng kế hoạch vận hành các cửa cống, các giải pháp chống hạn mặn, đề nghị các địa phương thường xuyên cập nhật các bản tin dự báo hạn mặn, từ đó có kế hoạch triển khai ứng phó kịp thời, tránh bị thiệt hại trong sản xuất và đời sống.
NHÓM PV