Coi rào cản là cơ hội
Nguồn tin: Báo Công Thương
Các hiệp định thương mại tự do được Việt Nam ký kết từ cấp song phương đến châu lục, liên châu lục là cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là mặt hàng nông sản. Nhưng cùng đó là nhiều tiêu chuẩn kỹ thuật (TCKT) đang được các quốc gia nhập khẩu (NK) sử dụng như một biện pháp bảo vệ sản xuất trong nước.
Việc thiếu TCKT trong nước và vấp phải nhiều TCKT của quốc gia NK không chỉ làm nông, thủy sản (NTS) khó tiêu thụ nội địa mà ở thị trường xuất khẩu (XK) cũng gặp khó. Điển hình như quy định về chất cấm, dư lượng kháng sinh trong cá tra, tôm, chè, gạo, trái cây XK… bị Cục Quản lý thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) và các cơ quan kiểm định châu Âu cảnh báo. Hay mới đây, hải sản khai thác bị Ủy ban châu Âu rút "thẻ vàng" cảnh báo vì vi phạm các nguyên tắc IUU. Ngay cả thị trường Trung Quốc – vốn được đánh giá là dễ tính - cũng đang nâng cao tiêu chuẩn về chất lượng nông sản NK và tăng cường quản lý thương mại biên giới.
Việc đáp ứng các rào cản sẽ nâng sức cạnh tranh cho thủy sản Việt Nam
Với kiểm dịch thực vật, các nước đòi hỏi nước XK phải cung cấp bộ tài liệu kỹ thuật rất chi tiết về thành phần dịch hại, biện pháp phòng trừ, sản lượng, phân bố vùng trồng,... Tương tự với an toàn thực phẩm, nhiều mức dư lượng đang được các nước NK quy định ở mức 0 hoặc rất thấp trong khi hệ thống sản xuất của chúng ta vẫn tương đối manh mún, khó kiểm soát, chưa đủ điều kiện để đáp ứng TCKT đặt ra. Trong khi đó các doanh nghiệp (DN) XK NTS có quy mô vừa và nhỏ, năng lực đầu tư khoa học, công nghệ về bảo quản, chế biến và tổ chức vùng nguyên liệu còn yếu.
Rõ ràng, những TCKT mà các quốc gia NK đưa ra đang đòi hỏi nỗ lực thay đổi rất lớn từ không chỉ người nông dân, ngư dân, DN mà cả sự tham gia, hỗ trợ tích cực của cơ quan nhà nước quản lý đầu vào, đẩy mạnh liên kết sản xuất, tạo ra khối lượng nông sản lớn, chất lượng đồng đều, giao hàng đúng lúc, đạt tiêu chuẩn…
Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng, không nên xem TCKT với nghĩa tiêu cực mà cần nhìn nhận đây là những luật chơi công bằng trong tiến trình hội nhập mà ở đó, các DN Việt Nam hay bất kỳ quốc gia nào muốn gia nhập "sân chơi" chung đều phải đáp ứng.
Về vấn đề này, ông Lê Kỳ Anh - chuyên gia Phái đoàn Liên minh châu Âu - chỉ rõ, trong lĩnh vực NTS, những TCKT là cơ hội cho hàng hóa Việt Nam. Đơn cử, trong Chương các biện pháp nhằm bảo đảm an toàn thực vật và kiểm dịch động vật (SPS) của Hiệp định EVFTA có nội dung coi EU là thực thể đơn nhất, các yêu cầu về NK hàng vào một nước từ một sản phẩm tương tự sẽ không được áp dụng khác đi. Bởi nếu Việt Nam cho phép NK trái táo của Pháp thì trong tương lai một trái táo tương tự từ Ba Lan không phải lặp lại yêu cầu kỹ thuật, do đã được chứng minh tại mặt hàng XK đầu tiên. Quy định này đã được áp dụng ở Việt Nam và trong tương lai sẽ được áp dụng cho hàng hóa Việt XK vào châu Âu.
Như thế, nếu đáp ứng được các TCKT có phần "khắt khe" của EU, NTS Việt có thể tự tin bước vào bất kỳ thị trường nào khác và hiệu ứng này cũng sẽ có tác dụng ngay tại thị trường nội địa khi niềm tin của người tiêu dùng sẽ tăng tương ứng và đây là cơ sở để sản phẩm nâng sức cạnh tranh ngay trên sân nhà.
Người sản xuất và các nhà XK Việt Nam phải điều chỉnh hành vi của mình để phù hợp với yêu cầu trong các hiệp định thương mại, trong đó có EVFTA, nâng trách nhiệm tuân thủ các TCKT. Với cơ quan quản lý, cần rà soát, hoàn thiện các TCKT và quy hoạch, hình thành các vùng nguyên liệu lớn.
Hoàng Châu
Nỗ lực tìm đầu ra cho nông sản
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Là vùng cung ứng nông sản phục vụ xuất khẩu chủ lực của cả nước, thế nhưng việc sản xuất lúa gạo, thủy sản, trái cây... ở ĐBSCL luôn đối mặt với nhiều rủi ro bởi giá cả lên xuống thất thường do thiếu liên kết, yếu kém trong dự báo thị trường.
Xuất khẩu gạo khó khăn, khiến giá lúa ở ĐBSCL đang giảm.
Bấp bênh, thiếu ổn định
Nhiều năm nay, chúng ta luôn tự hào là một trong những cường quốc về xuất khẩu gạo trên thế giới; song, nhìn lại vẫn còn nhiều hộ trồng lúa ở “vựa lúa ĐBSCL” đời sống khó khăn. Các doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo than thở khi trải qua 6 tháng đầu năm nhưng công việc làm ăn không thuận như những năm trước. Thống kê của Bộ NN&PTNT cho thấy, xuất khẩu gạo 6 tháng đầu năm 2019 khoảng 3,39 triệu tấn, giá trị 1,46 tỉ USD, giảm 2,8% về khối lượng và giảm 19% về giá trị so cùng kỳ. Các doanh nghiệp nhận định, thị trường xuất khẩu gạo trên thế giới gần đây giảm. Giá gạo 5% của Thái Lan dao động khoảng 385-400 USD/tấn, trong khi gạo 5% của Ấn Độ 365 USD/tấn, của Việt Nam khoảng 350 USD/tấn… dự báo thị trường gạo tiếp tục trầm lắng do nhu cầu ở châu Á suy giảm.
Xuất khẩu giảm là nguyên nhân chính khiến giá lúa Hè thu ở ĐBSCL giảm. Sở NN&PTNT các tỉnh ĐBSCL cho biết, hơn 1,5 triệu héc-ta lúa Hè thu đang vào giai đoạn thu hoạch rộ; vậy mà giá lúa tươi dao động khoảng 4.300-5.500 đồng/kg, tùy loại. Cùng với giá thấp thì vụ này thời tiết bất lợi khiến lúa chậm phát triển, nông dân tốn nhiều chi phí đầu vào, nhưng năng suất lúa không cao. Do giá thành sản xuất tăng, trong khi năng suất thấp… khiến nhiều hộ không lãi nhiều.
Cùng với lúa gạo thì cá tra cũng lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Còn nhớ mới năm ngoái (2018), ngành cá tra thắng lớn khi kim ngạch xuất khẩu đạt tới 2,26 tỉ USD, tăng 26,5%. Sự khởi sắc này nên Bộ NN&PTNT đưa ra mục tiêu năm 2019 phấn đấu kim ngạch xuất khẩu cá tra khoảng 2,4 tỉ USD (tăng 12%). Các doanh nghiệp trong vùng cũng hồ hởi mở rộng vùng nuôi, khu sản xuất con giống, dây chuyền chế biến… nhằm kỳ vọng tiếp tục thắng lợi. Tuy nhiên, gần đây giá cá tra bất ngờ giảm liên tục xuống mức 19.000-21.000 đồng/kg thấp nhất trong 2 năm qua; với tình hình hiện tại người nuôi cá bị lỗ 3.000-5.000 đồng/kg. Các HTX thủy sản và cả doanh nghiệp xuất khẩu ở ĐBSCL cũng ngạc nhiên khi mới đầu quý IV/2018, giá cá tra còn ở thế “thượng phong” với giá 35.000-36.000 đồng/kg, vậy mà chỉ vài tháng sau đã tuột dốc thảm hại. Nguyên nhân được lý giải là do tình hình xuất khẩu khó khăn, trong đó xuất sang thị trường Trung Quốc bị giảm liên tục từ đầu năm 2019 đến nay, thị trường Hoa Kỳ cũng giảm mạnh; song song đó, chiến tranh thương mại giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ gây ảnh hưởng và nhiều rào cản kỹ thuật khác… Trước hàng loạt khó khăn vây quanh ngành cá tra, giải pháp cấp bách được các doanh nghiệp và các hiệp hội thủy sản đưa ra lúc này là khuyến cáo không nên tiếp tục thả nuôi mới, nhằm tránh tình trạng thừa nguyên liệu và giá cá có thể rớt thêm.
Đối với trái cây cũng thiếu ổn định. Điển hình như thanh long từ 20.000-40.000 đồng/kg thời điểm trước đó không lâu; nay cũng sụt giảm…
Thay đổi cách nghĩ, cách làm
Các chuyên gia cho rằng, yếu kém của nông nghiệp ĐBSCL nói riêng và cả nước nói chung là sản xuất nhỏ lẻ, tự phát, thiếu liên kết và thiếu dự báo thị trường. Do đó, tình trạng “tới mùa, dội chợ, rớt giá” vẫn cứ lặp đi lặp lại, làm cho người sản xuất bị thiệt hại.
Khắc phục hạn chế trên, Bộ NN&PTNT chủ trương phát triển “cánh đồng lớn” nhằm sản xuất lúa gạo hiện đại, tạo ra sản lượng lớn, đồng đều, tăng chất lượng và là nền tảng cho sản xuất tiêu chuẩn VietGAP với sự liên kết 4 nhà. Sau khi phát động mô hình “cánh đồng lớn” vào năm 2011 thì đến năm 2015 diện tích phát triển tới khoảng 190.000ha, với hàng trăm doanh nghiệp ký hợp đồng bao tiêu cho hàng chục ngàn hộ tham gia. Tuy nhiên, sau khoảng 5 năm đầu thực hiện rầm rộ thì vài năm nay mô hình này yếu dần, bởi tình hình xuất khẩu gạo khó khăn; giữa doanh nghiệp và nông dân vẫn chưa tìm được tiếng nói chung; năng lực của các doanh nghiệp chưa mạnh và cũng có doanh nghiệp không mặn tham gia mô hình do không muốn bao tiêu, cùng một số nguyên nhân khác…
Đối với trái cây, khó nhất hiện nay là thiếu nghiên cứu và dự báo có chiều sâu ở các thị trường trọng điểm; thiếu thông tin về các đối thủ cạnh tranh; đặc biệt là thiếu kinh phí để mở cửa thị trường xuất khẩu mới. Ngoài ra, hầu hết doanh nghiệp xuất khẩu rau quả ở ĐBSCL và cả nước có quy mô nhỏ, năng lực yếu và tổ chức xuất khẩu chưa hiệu quả; công nghệ bảo quản, xử lý sau thu hoạch còn yếu. Bên cạnh đó, có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh và chưa gắn kết giữa doanh nghiệp với HTX cùng nông dân từ khâu sản xuất đến xuất khẩu.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Quốc Doanh bộc bạch: “Gần đây, các tỉnh ĐBSCL đẩy mạnh xuất khẩu xoài đi Mỹ đã mở ra triển vọng cho ngành trái cây. Trên tinh thần đó, chúng ta đang hướng tới mục tiêu xuất khẩu rau quả đạt trên 4,5 tỉ USD vào năm 2020 (trong đó cây ăn trái chiếm hơn 3,6 tỉ USD). Làm được điều này, Bộ NN&PTNT xây dựng đề án, kế hoạch phát triển cây ăn trái chủ lực, trong đó chú trọng thị trường, đặc biệt là các thị trường lớn. Mỗi tỉnh chọn một số loại cây ăn trái chủ lực nhằm hình thành vùng sản xuất tập trung, đầu tư phát triển ngành hàng theo chuỗi giá trị, gắn đầu tư cơ sở hạ tầng. Nhanh chóng liên kết vùng trong sản xuất, tiêu thụ, xuất khẩu trái cây.
Ông Doãn Tới, Tổng Giám đốc Công ty CP Nam Việt, cho rằng: “Sau hơn 20 năm hình thành và phát triển, nghề cá tra đã có những thuận lợi và khó khăn. Giai đoạn năm 2000 đến 2016, khi cá tra khủng hoảng thừa nguyên liệu, giá xuống thấp và khó tiêu thụ… khiến hàng loạt hộ nuôi thua lỗ, nhiều nhà máy phá sản. Đây là bài học của phát triển “nóng”, thiếu đầu tư. Năm 2017 và 2018, nghề cá tra đi vào ổn định và lấy lại vị thế trên trường quốc tế; tuy nhiên sang năm 2019 thì gặp khó trở lại. Để bền vững thì điều quan trọng là tiếp tục đầu tư nâng chất lượng, đầu tư vùng nuôi để chủ động trong chế biến, xuất khẩu. Đây là điều sống còn mà các doanh nghiệp, ngành chức năng, HTX… phải làm quyết liệt”.
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường lưu ý: Giải pháp lúc này là không nuôi tự phát tràn lan, cần đẩy mạnh liên kết để siết chặt kiểm soát, quản lý… Tập trung ứng dụng những công nghệ mới nhất vào ngành hàng cá tra trên các mặt; trong đó giống là khâu then chốt của chuỗi cá tra, cần đầu tư mạnh hơn và chủ động con giống. Tiến tới xây dựng ngành hàng cá tra theo hướng tập trung, chất lượng, hiệu quả, bền vững…
Ông Lê Minh Hoan, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp nhìn nhận, trong điều kiện nông sản cạnh tranh khốc liệt trên thị trường xuất khẩu thì vấn đề giảm chi phí giá thành là rất quan trọng. Vì vậy, cần quy tụ nông dân vào HTX, tổ hợp tác để liên kết chuỗi giá trị với doanh nghiệp; từ đó hình thành các mô hình sản xuất lớn để thuận lợi trong ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ cao… Muốn đạt được những vấn đề trên thì cần thay đổi cách nghĩ, cách làm và cần thực hiện chủ trương “tri thức hóa nông dân”, để làm thay đổi tư duy từ sản xuất nông nghiệp đơn thuần sang tư duy làm “kinh tế nông nghiệp”. Đây là vấn đề quan trọng, thích ứng với yêu cầu của nền sản xuất nông nghiệp hiện đại. Đồng thời, cũng là giải pháp căn cơ đưa các sản phẩm nông sản đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế…
Bài, ảnh: HƯNG TÂN
Lâm Đồng: Lạc Dương thiệt hại nặng do mưa bão
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
UBND huyện Lạc Dương (tỉnh Lâm Đồng) cho biết, theo thống kê ban đầu, đến chiều 8/8, mưa bão đã gây thiệt hại trên địa bàn huyện trên 87 tỷ đồng…
Riêng về sản xuất nông nghiệp, đã có trên 100 ha rau màu, nhà kính bị ảnh hưởng, thiệt hại nặng, trong đó diện tích nhà kính bị ngập khoảng trên 73 ha và 02 ha nhà kính bị sập, nghiêng. Tại Xã Đưng K’Nớ, sạt lở đất gây vùi lấp khoảng 10 ha cà phê và 1 ha nhà kính trồng rau, màu bị ngập; ước thiệt hại: 02 tỷ đồng. Còn tại thị trấn Lạc Dương, tổng diện tích rau màu bị ảnh hưởng 90 ha, trong đó 70 ha sản xuất trong nhà kính bị ngập, ước thiệt hại trên 10 tỷ và sập 02 ha nhà kính ước thiệt hại khoảng 04 tỷ đồng.
Mưa bão còn cuốn trôi nhiều gia súc, gia cầm của người dân trên địa bàn, đặc biệt đã gây thiệt hại 1,2 ha diện tích nuôi trồng thủy sản, gồm cá nước lạnh (cá tầm) thiệt hại trên 312 tấn, ước trên 52 tỷ đồng.
THỤY TRANG
Phú Yên: Kinh nghiệm của một địa phương trong việc thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất kém hiệu quả
Nguồn tin: Khuyến Nông VN
Thời gian qua, nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh Phú Yên đã tích cực thực hiện các mô hình để vận động nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất kém hiệu quả theo Đề án tái cơ cấu Ngành Nông nghiệp của tỉnh. Tùy theo điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng và trình độ canh tác mà mỗi địa phương có những mô hình sản xuất khác nhau cho phù hợp.
Chúng tôi xin giới thiệu kinh nghiệm của Hợp tác xã nông nghiệp Hòa Xuân Tây 1, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên trong việc xây dựng mô hình trồng sen và cây đậu phộng (lạc) trên đất lúa kém hiệu quả đã bước đầu thực hiện thành công.
Ông Huỳnh Văn Bảo - Giám đốc HTX nông nghiệp Hòa Xuân Tây 1, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên cho biết: Điều kiện về đất đai phục vụ sản xuất nông nghiệp tại địa phương có nhiều chân đất khác nhau như: đầm trũng, ao hồ, đất lúa 2 vụ, đất gò đồi sản xuất lúa một vụ… Do tập quán canh tác nên nông dân lâu nay chỉ quen trồng lúa nước, năng suất thấp không ổn định, hiệu quả kinh tế không cao. Thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất kém hiệu quả, địa phương đã nghiên cứu, chủ động xây dựng các mô hình, thực hiện thành công, được nhiều nông dân áp dụng làm theo. Đồng thời phát triển thành vùng chuyên canh, tạo ra sản phẩm hàng hóa số lượng lớn và đang xây dựng làm sản phẩm đặc trưng của địa phương.
Từ chuyển đổi sang trồng cây đậu phộng…
Những năm trước đây một số nông dân cũng đã trồng cây đậu phộng, tuy nhiên do thiếu kỹ thuật canh tác, giống đậu phộng qua nhiều vụ, nhiều năm sản xuất đã bị thoái hóa, lẫn tạp, mang nhiều mầm bệnh… nên hiệu quả kinh tế không cao. Năm 2017, hợp tác xã đã phối hợp với Trung tâm Khuyến nông tỉnh và các cơ quan chuyên môn xây dựng mô hình trình diễn các giống đậu phộng, đặc biệt là giống TB25 cấp xác nhận trên các chân đất chuyển đổi cây trồng. Sự thành công của các mô hình trình diễn đã giúp cho nông dân địa phương làm quen với kỹ thuật thâm canh cây đậu phộng, biết đến nhiều giống mới cho năng suất, chất lượng cao, từ đó nhiều nông dân đã mạnh dạn chuyển đổi sang trồng cây đậu phộng. Đến nay vùng sản xuất đậu phộng của HTX đã phát triển lên quy mô 25 ha.
Theo ông Huỳnh Văn Bảo, điều khiến nông dân mạnh dạn chuyển đổi từ các cây trồng quen thuộc sang trồng cây đậu phộng là đầu ra ổn định và thu nhập cao. Qua thực tế sản xuất của nông dân cho thấy nếu đậu phộng trồng vào vụ Đông Xuân sẽ cho năng suất bình quân trên 300 kg/sào; còn vụ Hè Thu năng suất thấp hơn, khoảng hơn 200kg/sào (1 sào = 500m2). Với giá thu mua từ 15.000 đến 17.000 đồng/kg đậu phộng như năm nay thì mỗi sào đậu phộng cho lãi khoảng 2,5 triệu đồng ở vụ Hè Thu và khoảng 5 triệu đồng ở vụ Đông Xuân. So với trồng lúa thì trồng đậu phộng lãi gấp 3 đến 4 lần. Ngoài ra nông dân còn tận dụng thân cây đậu phộng sau khi thu hoạch để ủ làm phân hữu cơ, làm thức ăn cho bò để giảm chi phí mua cỏ, thời gian cắt cỏ. Sản phẩm đậu phộng ngoài việc luộc bán tại chợ các địa phương lân cận, trên địa bàn xã có 3 thương lái tổ chức thu mua toàn bộ đậu phộng của các hộ để cung cấp cho thị trường.
Nông dân thu hoạch đậu phộng
Đến trồng sen để tạo sản phẩm tiêu biểu của địa phương
Cây sen “bén duyên” trên các chân ruộng ở xã Hòa Xuân Tây, huyện Đông Hòa từ năm 2010, khi một số hộ dân đã chuyển sang trồng sen trên những diện tích ao, đầm bỏ hoang hay các khu đồng trũng trồng lúa 1 vụ bấp bênh. Sau một thời gian nhận thấy trồng sen cho thu nhập cao, nhiều hộ gia đình trong xã đã mạnh dạn đầu tư, phát triển diện tích.
Đến nay, toàn xã Hòa Xuân Tây có khoảng 73,98 ha sen, trong đó diện tích bầu, đầm là 13,98 ha, đất lúa kém hiệu quả chuyển đổi là 59,22 ha. Bình quân mỗi sào sen cho thu hoạch khoảng 300-350kg gương tươi, với giá 10.000-15.000 đồng/kg gương tươi như hiện nay thì mỗi sào sen cho lãi khoảng 3,5-5 triệu đồng/năm, cứ 2 đến 3 ngày hái một lần, cao gấp 3-4 lần trồng lúa. Theo các hộ trồng sen ở địa phương, cây sen rất dễ trồng, lại ít tốn nhiều chi phí phân, thuốc, làm cỏ như trồng các loại cây khác. Khoảng 4 tháng sau khi trồng, cây sen bắt đầu cho thu hoạch. Chi phí đầu tư trồng sen chỉ mất chi phí đầu tư cho lần xuống giống đầu tiên, còn nhiều năm sau đó chỉ chăm sóc và thu hoạch.
Trồng sen rất thích hợp cho những hộ nông dân có điều kiện kinh tế khó khăn, ít ruộng vì cây sen đầu tư thấp, lại cho thu nhập ổn định và tạo việc làm thường xuyên. Bên cạnh đó việc tiêu thụ cũng dễ dàng, hiện tại ngoài việc bán gương sen tươi, nếu có thời gian sơ chế, bóc lớp vỏ lụa có thể bán với giá 90.000 – 100.000 đồng/kg hoặc làm bột hạt sen cung cấp cho người tiêu dùng. Chính vì trồng sen có hiệu quả cao nên nhiều hộ dân đã bỏ lúa chuyển sang trồng sen, kết hợp đào ao nuôi cá, tạo thu nhập cao hơn so với việc trồng lúa trước đây. Tiềm năng diện tích ở địa phương có thể phát triển mô hình sản xuất.
Cánh đồng trồng sen tại HTX Hòa Xuân Tây 2, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên
Để thực hiện thành công các mô hình chuyển đổi cây trồng và khuyến khích nông dân áp dụng làm theo, ông Huỳnh Văn Bảo cho biết phải nghiên cứu xây dựng và áp dụng các mô hình chuyển đổi cây trồng phù hợp thực tế sản xuất của địa phương và nhu cầu thị trường. Ngoài ra bản thân từng cán bộ HTX mạnh dạn cùng làm với bà con, nông dân địa phương thấy có hiệu quả sẽ học tập làm theo, từ đó nhân rộng ra toàn địa phương. Hướng đi sắp tới của địa phương là đầu tư, xây dựng các cơ sở sơ chế, sản xuất tập trung các loại sản phẩm tươi, khô, tinh chế, ép dầu… sau thu hoạch từ cây sen và cây đậu phộng để nâng cao giá trị thu nhập cho nông dân.
Phạm Minh Nhật - Trung tâm Khuyến nông tỉnh Phú Yên
Huyện Phụng Hiệp (Hậu Giang): Sáu loại nông sản được bao tiêu đầu ra
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Theo ngành nông nghiệp huyện Phụng Hiệp, Hậu Giang đến nay địa phương đã có 6 loại nông sản được ký kết hợp đồng bao tiêu đầu ra, bao gồm: hơn 6.000ha mía, 1.776ha lúa, 10ha khóm MD2 (đang mở rộng thêm 100ha), 78ha mãng cầu xiêm, 22ha chanh không hạt (đang mở rộng thêm 200ha), hơn 1ha dưa lưới.
Chanh không hạt đang được huyện Phụng Hiệp xây dựng để trở thành một trong những loại nông sản chủ lực.
Ông Phan Thành Lâm, Phó phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Phụng Hiệp, cho biết quá trình ký kết và thực hiện các hợp đồng bao tiêu nhìn chung được người dân và các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc. Các nông sản được bao tiêu sẽ giảm thiểu đi rủi ro do giá cả thị trường tác động. Về hiệu quả, hầu như các nông sản được bao tiêu đều cho thu nhập cao hơn từ 20-30% so với hình thức bán như trước đây. Theo kế hoạch, trong giai đoạn 2019-2020, của huyện là sẽ phát triển thêm từ 2-3 loại nông sản được ký kết bao tiêu đầu ra.
Tin, ảnh: DUY KHÁNH
62 hộ tham gia mô hình canh tác cà phê bền vững
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Dự án Chuyển đổi nông nghiệp bền vững (VnSAT) Lâm Đồng đã được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lâm Đồng phê duyệt triển khai 62 mô hình nông hộ sản xuất, tái canh cà phê bền vững và ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm tại 7 huyện, thành trên địa bàn.
Cụ thể, tham gia mô hình canh tác cà phê bền vững với diện tích từ 0,5-1 ha/hộ tại xã ĐamBri, thành phố Bảo Lộc có 12 hộ; tại 2 xã Xuân Trường và Trạm Hành, thành phố Đà Lạt có 10 nông hộ.
Tương tự với diện tích từ 0,5-1 ha/hộ tham gia canh tác cà phê bền vững ở 3 xã Tân Nghĩa, Liên Đầm và Gung Ré, huyện Di Linh có tất cả 10 hộ. Số còn lại gồm 6 hộ ở thị trấn Lộc Thắng, xã Lộc Phú, huyện Bảo Lâm; 4 hộ tại xã Bình Thạnh, huyện Đức Trọng; 13 hộ tại thị trấn Nam Ban và 4 xã Tăn Văn, Tân Hà, Đông Thanh, Mê Linh, huyện Lâm Hà; 7 hộ tại 2 xã Liêng Srônh và Đạ K’Nàng, huyện Đam Rông.
VĂN VIỆT
Tuyên Quang: Gia tăng diện tích keo chết héo
Nguồn tin: Báo Tuyên Quang
Do điều kiện nhiệt độ, độ ẩm cao, nấm phát sinh, xâm nhiễm khiến diện tích keo chết héo đang gia tăng nhanh chóng, gây thiệt hại lớn cho tổ chức, cá nhân trồng rừng.
Diện tích keo hơn 4 năm tuổi của Đội sản xuất 1082, xã Trung Sơn (Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang) bị chết héo gần hết.
Các lô rừng sản xuất của Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Yên Sơn đều xuất hiện những chòm keo bị chết héo. Anh Trần Mạnh Huấn, Trưởng phòng Kế hoạch, Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Yên Sơn cho biết, keo chết héo tập trung nhiều nhất ở diện tích rừng được trồng từ 2-5 năm tuổi. Những năm gần đây, số keo chết có dấu hiệu gia tăng, nhất là từ đầu năm đến nay, do nhiệt độ, độ ẩm cao, keo chết rất nhiều từng vùng, từng khoảnh, có những lô tỷ lệ cây chết lên đến 40-50%.
Cụ thể, tại lô rừng số 9 của Đội sản xuất 974 xã Phú Thịnh có 0,9 ha thì có 0,4 ha cây chết; Đội sản xuất 1082 xã Trung Sơn có 400 ha thì có 10 ha đã chết khô không thể tận thu. Ông Nguyễn Quốc Việt, Đội trưởng Đội sản xuất 1082 xã Trung Sơn cho biết, đang vào mùa mưa khiến dịch lan rộng keo chết rất nhanh, cứ 1 tháng 1 lô rừng có khoảng 20-30 cây chết. Keo chết nhiều khiến cho việc xử lý của đội không thể xuể.
Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Sơn Dương cũng đang thiệt hại lớn do keo chết héo. Tại Đội sản xuất Đông Hữu, xã Đông Thọ (Sơn Dương) đã ghi nhận 500 ha xuất hiện chòm keo bị chết, nếu quy diện tích đông đặc khoảng 4 ha không thể tận thu vì gỗ đã bị đổi màu, kém chất lượng. Anh Lý Văn Đông, Đội trưởng Đội sản xuất cho biết, tốc độ cây bị chết lan rất nhanh, thành vùng, thành khoảnh lớn, chủ yếu ở diện tích rừng trồng từ 1-5 tuổi, trên giống keo hạt và keo hom. Anh Đông lo ngại đang cao điểm mùa mưa, nấm bệnh sẽ tiếp tục phát triển, diện tích keo bị chết sẽ còn lan rộng.
Tổng hợp chưa đầy đủ của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, diện tích keo chết héo đông đặc khoảng 18 ha, trong đó nặng nhất là Yên Sơn với 14 ha, Sơn Dương 4 ha. Đây là năm ghi nhận thiệt hại nặng nhất. Bệnh gây hại nặng trên cây keo trồng năm thứ 2 đến năm thứ 4, đặc biệt là trên diện tích rừng keo trồng chu kỳ 2, chu kỳ 3. Sở đã giao cho Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh lấy mẫu bệnh phẩm, phân tích tìm nguyên nhân. Kết quả cho thấy, hầu hết cây keo chết do thân cây và rễ cây bị tổn thương, nấm xâm nhiễm, gây thối rễ, vỏ cây tại các vị trí xâm nhiễm. Gỗ bị biến màu và cây không có khả năng phục hồi. Bệnh phát triển mạnh và có xu hướng lây lan mạnh trong điều kiện thời tiết mưa ẩm.
Nguyên nhân ban đầu được xác định là do thời gian vừa qua trên địa bàn tỉnh xảy ra các đợt mưa lớn kèm theo dông lốc làm đổ gãy nhiều. Từ các điểm tổn thương trên cây keo nấm, khuẩn đã xâm nhập gây hại và lan rộng. Riêng đối với những diện tích đã trồng rừng lâu năm là do quá trình khai thác, trồng lại nhiều chu kỳ bà con không thực hiện khử trùng vệ sinh rừng cẩn thận, mầm bệnh lưu trú nên gặp điều kiện thời tiết thuận lợi là phát tán gây hại trên cây non. Bên cạnh nguyên nhân do nấm khuẩn gây ra thì một nguyên nhân nữa đang khiến người trồng rừng nghi ngờ đó là nguồn cây giống. Bởi hầu hết diện tích keo chết đều là giống keo lai giâm hom.
Khuyến cáo của Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), bệnh chết héo trên cây keo chưa có loại thuốc bảo vệ thực vật nào chữa khỏi được. Do vậy, các tổ chức, cá nhân trồng rừng cần áp dụng các biện pháp thủ công để khoanh vùng, dập dịch ngăn không cho bệnh chết héo phát sinh lan rộng, tuyệt đối không gây tổn thương cho cây, không tỉa cành vào mùa mưa. Nếu tỉa cành nên dùng cưa cắt và bôi thuốc chống nấm vào các vết cắt; phòng trừ côn trùng đục thân cành; bón đủ phân đa lượng và vi lượng chứa boron cho cây sinh trưởng và phát triển tốt. Bón chế phẩm vi sinh bao gồm vi khuẩn nốt sần cố định đạm, vi sinh phân giải lân và vi khuẩn đối kháng với nấm gây bệnh Ceratocystis manginecans. Đối với những cây đã bị chết héo, bà con nên chặt bỏ, đào được gốc là tốt nhất và di chuyển ra khỏi rừng để tiêu hủy. Những diện tích rừng có mầm bệnh, trong quá trình trồng lại, bà con nên vệ sinh sạch thực bì, cuốc hố và sử dụng vôi bột để khử trước trồng cây non xuống để tránh bệnh xâm nhập.
Bài, ảnh: Đoàn Thư
Quảng Trị: Người đưa chuối Hướng Hóa xuất khẩu ra nước ngoài
Nguồn tin: Báo Quảng Trị
Nhiều năm nay, một số sản phẩm nông nghiệp ở Hướng Hóa (tỉnh Quảng Trị) đã khẳng định được thương hiệu, vươn ra thị trường các nước trong khu vực, quốc tế, trong đó có chuối mật mốc. Người góp sức tiêu thụ, đưa loại chuối này đến với khách hàng trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài, tạo ổn định đầu ra cho sản phẩm của người dân địa phương, đó là chị Lê Thị Thu Diệu, trú tại Khóm 3B, thị trấn Khe Sanh.
Chị Diệu và bạn hàng Lào phối hợp xuất khẩu chuối sang Thái Lan
Bén duyên với... chuối
Sau khi tốt nghiệp dược tá, năm 2000 chị Diệu rời Huế lên Khe Sanh lập nghiệp. Ở quê hương mới, chị xin phụ bán cho một hiệu thuốc Tây. Sống bằng nghề này thu nhập ít ỏi chỉ đắp đủ qua ngày nên sau mỗi buổi chiều đứng quầy bán thuốc, chị xin đi rửa bát thuê cho các quán ăn. Vì không đủ điều kiện để mở quầy thuốc riêng, chị quyết định nghỉ bán thuốc và làm thuê cho một nhà hàng có tiếng ở huyện chuyên về chế biến các món ăn từ con dê. Ít năm sau, khi tích lũy được một số vốn, chị chuyển qua thu mua dê, nông sản ở các xã trong vùng rồi cung cấp dê cho các nhà hàng, cung cấp nông sản cho các chợ đầu mối trong và ngoài huyện. Quá trình làm ăn, chị Diệu nhận thấy chuối Tân Long chất lượng rất tốt, được thị trường biết đến đã lâu nhưng chưa ai có thể tìm đầu ra ổn định cho sản phẩm này. Sau một thời gian tìm hiểu kĩ thị trường và các điều kiện đảm bảo cho việc thu mua chuối, chị quyết định chuyển hướng làm ăn, chuyên kinh doanh loại chuối mật mốc.
Vì gắn bó với người dân vùng Lìa, Tân Long nhiều năm nên việc thu mua, bán chuối ra thị trường trong nước của chị Diệu khá thuận lợi. Năm 2012, có một người quen giới thiệu cho chị tiếp cận với đầu mối mới để xuất khẩu chuối sang Trung Quốc. Quyết định làm ăn lớn hơn, chị bàn với chồng dồn vốn liếng để thực hiện chuyến hàng xuất khẩu đầu tiên. Tháng 8 âm lịch năm 2012, sau khi thu mua 23 tấn chuối mật mốc ở Tân Long và các xã có chuối chất lượng đảm bảo chở ra Lạng Sơn chờ bạn hàng làm thủ tục xuất khẩu sang Trung Quốc thì phía bạn hàng nước bạn từ chối không nhận hàng với lí do
Tết Trung thu họ về nước. Dở khóc, dở cười với số hàng và nguy cơ lỗ vốn cao thì may sao có người mối lái giúp chị qua khâu trung gian xuất khẩu được chuối sang Trung Quốc. Chuyến hàng này chị chấp nhận lỗ 29 triệu đồng. Không chùn bước, chị tiếp tục liên lạc với bạn hàng Trung Quốc để chủ động hơn cho những chuyến xe chuối xuất khẩu tiếp theo. Rất may, sau kì nghỉ Tết Trung Thu, bạn hàng Trung Quốc liên hệ và kí hợp đồng mua chuối của chị. Sau một thời gian xuất khẩu chuối, chị đưa người nhà sang Trung Quốc tìm hiểu thị trường thu mua chuối bên đó và tìm đối tác làm ăn tốt hơn. Nhờ vậy, lượng hàng xuất khẩu của chị tương đối đều, đặc biệt chị đã tạo uy tín cho bạn hàng về chất lượng chuối ở Hướng Hóa.
Mở rộng thị trường xuất khẩu
Từ năm 2013 đến nay, bình quân mỗi năm, chị Diệu xuất khẩu khoảng 300 xe, mỗi xe 20 tấn chuối qua Trung Quốc. Các xã được chị lựa chọn chuối chất lượng để xuất khẩu như: Tân Long, Tân Lập, Tân Thành, Thuận, Thanh, A Dơi và thị trấn Lao Bảo. Tuy nhiên, năm nào cũng có vài tháng chuối Hướng Hóa bị ép giá hoặc tạm thời không xuất khẩu được do miền Bắc được mùa chuối thì Trung Quốc sẽ không mua chuối của Quảng Trị. Trước thực trạng đó, chị Diệu lại tiếp tục tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới, giúp cho người nông dân yên tâm sản xuất.
Từ năm 2015 đến nay, Thái Lan là thị trường thứ 2 chị Diệu giúp chuối Hướng Hóa có nơi tiêu thụ ổn định vào những tháng trong năm Trung Quốc không thu mua chuối của nông dân địa phương. Bình quân mỗi năm, chị xuất hơn 100 xe chuối, mỗi xe 15 tấn chuối sang Thái Lan. Chị Diệu chia sẻ: “Có nhiều lúc mỗi chuyến hàng chúng tôi phải chịu lỗ đến 500 triệu đồng vì khách hàng Trung Quốc khắt khe trong kiểm duyệt hàng (chất lượng chuối, cạnh tranh chuối phía Bắc). Từ tháng 4 - 7 trong năm, Thái Lan thường mất mùa chuối nên tìm đến Hướng Hóa đặt hàng cho chúng tôi. Khách hàng Thái Lan dễ tính hơn so với Trung Quốc, chỉ cần sản phẩm đảm bảo sạch, ngon, không chú trọng nhiều về bề ngoài sản phẩm đẹp hay xấu nên khá thuận lợi khi mua, bán, đặc biệt giá chuối thu mua lúc nào cũng cao hơn giá bạn hàng Trung Quốc. Người trồng chuối nhờ thế không còn lo nhiều về đầu ra cho sản phẩm. Bên cạnh những thuận lợi như có hàng xuất khẩu quanh năm, chính quyền địa phương quan tâm tạo điều kiện cho việc thu mua hàng nông sản, quá trình xuất khẩu chuối tại Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo và phía hải quan Lào chúng tôi gặp không ít khó khăn về thủ tục. Rất mong nhà nước có những chính sách quan tâm, hỗ trợ chúng tôi thuận lợi hơn trong việc xuất khẩu chuối ra thị trường nước ngoài”.
Hiện nay, huyện Hướng Hóa có khoảng 7 thương lái trực tiếp xuất khẩu chuối quả sang Trung Quốc và Thái Lan, trong đó chị Diệu là người luôn dẫn tốp đầu. Từ khi xuất khẩu chuối, chị tạo việc làm và thu nhập ổn định cho khoảng 30 đầu mối chuyên thu gom chuối, 7 nhà xe (14 người), 20 người bốc xếp hàng hóa. Bên cạnh đó, chị sẵn sàng giúp đỡ nhiều nông dân có hoàn cảnh khó khăn ở huyện mượn vốn đầu tư trồng chuối. Anh Nguyễn Trọng Kiên ở xã Ba Tầng cho biết: “Quê tôi ở Thái Bình vào Ba Tầng lập nghiệp. Buổi đầu đến quê hương mới tôi gặp nhiều khó khăn về vốn, đất sản xuất. May mắn là 2 năm nay tôi được chị Diệu cho mượn số vốn 50 triệu đồng để mua đất đầu tư trồng chuối. Chị thường quan tâm, động viên tôi lập nghiệp lâu dài ở Hướng Hóa, chị còn hứa thu mua sản phẩm của tôi xuất khẩu ra nước ngoài. Nhờ số vốn của chị cho mượn, giờ 2 ha chuối của tôi phát triển tốt. Hi vọng không bao lâu nữa sẽ cho thu hoạch và sớm trả hết số tiền mượn chị”. Không chỉ giúp người nông dân giải quyết đầu ra cho sản phẩm, chị Diệu còn tích cực tham gia hỗ trợ kinh phí hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao; giúp đỡ nhiều hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống.
Có thể nói, chuối Hướng Hóa phát triển bền vững, người nông dân gắn bó với cây chủ lực này một phần lớn nhờ những người tâm huyết đưa nông sản của địa phương vươn ra thị trường nước ngoài như chị Diệu.
Kô Kăn Sương
Bắc Giang: HTX Na dai xã Nghĩa Phương (Lục Nam) được cấp Giấy chứng nhận sản xuất na dai theo tiêu chuẩn VietGAP
Nguồn tin: Báo Bắc Giang
Sản phẩm na dai của Hợp tác xã (HTX) Na dai Nghĩa Phương, thôn Suối Ván, xã Nghĩa Phương, huyện Lục Nam (tỉnh Bắc Giang) vừa được Công ty cổ phần Chứng nhận và giám định IQC cấp Giấy chứng nhận VietGAP số: 2086/QĐCN-IQC-VIETGAP ngày 2-8-2019.
Người dân xã Nghĩa Phương vui được mùa na. Ảnh tư liệu
Theo đó, HTX Na dai Nghĩa Phương được phép sử dụng dấu chứng nhận và phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu về chứng nhận VietGAP theo quy định hiện hành của IQC trong thời gian chứng nhận có hiệu lực.
Quyết định này có hiệu lực từ ngày ký đến ngày 01-8-2022. HTX Na dai Nghĩa Phương chịu sự đánh giá giám sát định kỳ 12 tháng/lần.
HTX Na dai Nghĩa Phương được thành lập ngày 27-5-2019 theo chương trình MCT2 (là chương trình hợp tác trung hạn giữa Quỹ phát triển nông nghiệp Quốc tế và các tổ chức nông dân khu vực châu Á -Thái Bình Dương tại Việt Nam) phối hợp với Trung ương Hội Nông dân Việt Nam triển khai tại 15 tỉnh trong cả nước, trong đó có Bắc Giang.
Quyết định công nhận và Giấy chứng nhận sản phẩm Na dai của HTX Na dai Nghĩa Phương.
HTX phát triển dựa trên tổ hợp tác do Hội Nông dân tỉnh Bắc Giang hỗ trợ triển khai thành lập giai đoạn 2017-2019. HTX hiện có 54 thành viên, tổng diện tích na hơn 315 nghìn m2, sản lượng dự kiến 500 tấn/năm.
Được biết, việc hỗ trợ cấp Giấy chứng nhận VietGAP là một trong nhiều nội dung Chương trình MTCP2 do Hội Nông dân tỉnh triển khai tại Bắc Giang.
Đây là cơ sở góp phần để na dai của xã Nghĩa Phương khẳng định giá trị và đến được nhiều thị trường trong, ngoài nước, mang lại giá trị kinh tế cao cho người dân.
Thế Đại
Bến Tre: Xây dựng thương hiệu xoài tứ quý Thạnh Phú
Nguồn tin: Báo Đồng Khởi
Cây xoài ở vùng ven biển Thạnh Phú (tỉnh Bến Tre) giúp nông dân có thu nhập khá.
Cây xoài tứ quý phát triển ở vùng ven biển huyện Thạnh Phú gần chục năm nay nhờ điều kiện thổ nhưỡng thích hợp. Chính quyền địa phương và người dân nơi đây đang xây dựng thương hiệu, từng bước sản xuất theo tiêu chuẩn sạch để giúp tăng thu nhập từ cây xoài.
Nhiều người đến xã Thạnh Phong, Thạnh Hải, Giao Thạnh (huyện Thạnh Phú) không khỏi ngạc nhiên khi vùng ven biển nước mặn, khí hậu khắc nghiệt lại có nhiều vườn xoài xanh ngát, trĩu quả. Bà Nguyễn Thị Thu Ngân - cán bộ phụ trách nông nghiệp - môi trường xã Thạnh Phong lý giải: “Tuy là vùng ven biển, nước mặn nhưng ở những giồng cát thì có nước ngọt. Vào mùa mưa, lượng nước mưa được những lớp cát giữ lại ở tầng nông nên người dân trồng cây ăn quả, hoa màu đều rất tốt. Trong đó, cây xoài từ quý cho quả ngon, tỷ lệ bột, độ ngọt cao nên trở thành đặc sản của địa phương”. Cách đây gần chục năm, nhiều nông dân bắt đầu đem cây xoài từ quý về trồng thử nghiệm. Sau vài năm, cây xoài ra quả nhiều, ngon, hiệu quả kinh tế cao nên nhiều nông dân đã mạnh dạn nhân rộng.
Ông Võ Văn Hiện - Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thạnh Phú cho biết: Hiện nông dân đã mở rộng diện tích xoài lên khoảng 400ha. Địa phương đã xây dựng Hợp tác xã (HTX) dịch vụ nông nghiệp Thạnh Phong để trồng xoài theo tiêu chuẩn GlobalGAP nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cũng vừa cấp chứng nhận nhãn hiệu “Xoài tứ quý Thạnh Phú” nên sắp tới là cơ hội để quả xoài được xuất ngoại, tăng thu nhập cho người nông dân vùng ven biển.
Xã Thạnh Phong có diện tích xoài lớn nhất huyện với gần 300ha. Gia đình ông Mai Thanh Triển, ngụ ấp Thạnh Lộc, canh tác 1ha xoài tứ quý tại địa phương. Năm 2017, ông là một trong 10 hộ dân tại địa phương được Dự án AMD Bến Tre hỗ trợ để đầu tư mô hình tưới tiết kiệm nước và dinh dưỡng trên cây xoài. Thấy hiệu quả, ông Triển tiếp tục đầu tư cho toàn bộ vườn xoài nhằm tăng năng suất và chất lượng. “Xoài tứ quý thích hợp với thổ nhưỡng nên phát triển tốt, hiệu quả cao. Hiện tại, một héc-ta nông dân có thể thu lợi nhuận hơn 100 triệu đồng từ cây xoài, cao hơn nhiều so với trồng các loại cây khác” - ông Triển đánh giá.
Tại xã Thạnh Hải, mấy năm nay nông dân bắt đầu chuyển sang trồng xoài vì hiệu quả kinh tế khá cao. Bà Nguyễn Thị Hoa - Phó chủ tịch UBND xã Thạnh Hải cho biết: Gần đây, tại những giồng cát ven biển người dân đã chuyển đổi sang trồng xoài tứ quý với diện tích 60ha, trong đó khoảng 40ha đang cho quả. Trong điều kiện biến đổi khí hậu như hiện nay thì cây xoài rất thích hợp và đang được địa phương khuyến khích trồng nhằm tăng thu nhập.
Năm 2016, HTX dịch vụ - sản xuất nông nghiệp Thạnh Phong được thành lập với 149 xã viên, diện tích trồng xoài tứ quý 30ha, trong đó có 16ha được bà con xã viên trồng theo tiêu chuẩn GlobalGAP. Hiện tại, xã viên bán sản phẩm xoài cho HTX và ký kết với doanh nghiệp tiêu thụ có giá cao hơn thị trường khoảng 2.000 đồng/kg.
Giám đốc HTX dịch vụ - sản xuất nông nghiệp Thạnh Phong Nguyễn Văn Trường cho biết: “Vừa qua, Dự án AMD Bến Tre đã hỗ trợ HTX hơn 1,3 tỷ đồng để đầu tư nhà xưởng, máy sấy, kho lạnh... và sản xuất thử nghiệm sản phẩm xoài sấy. Sắp tới HTX sẽ chào hàng sản phẩm xoài sấy tại thị trường Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản...”. Ngoài ra, HTX đang nghiên cứu đa dạng các sản phẩm sản xuất từ xoài như: rượu xoài, mứt xoài, bánh tráng...
Bài, ảnh: Hoàng Mai
Trồng chanh tứ quý: Hướng đi mới của nông dân Chư Pưh
Nguồn tin: Báo Gia Lai
Trước tình hình hồ tiêu chết hàng loạt, giá giảm sâu, từ năm 2016 đến nay, nhiều nông dân trên địa bàn huyện Chư Pưh, Gia Lai đã chuyển đổi sang trồng cây ăn quả để nâng cao thu nhập. Trong đó, mô hình trồng chanh tứ quý của nhiều nông dân ở địa phương này bước đầu đã phát huy hiệu quả kinh tế.
Huyện Chư Pưh hiện có gần 20 ha chanh tứ quý thì riêng xã Ia Phang đã có hơn 6 ha. Đây cũng là địa phương có diện tích chanh tứ quý lớn nhất huyện. Ông Nguyễn Viết Lưu (thôn Hòa Sơn) là một trong những hộ tiên phong trồng loại cây này ở xã Ia Phang. Ông Lưu cho biết, năm 2016, khi hơn 3.000 trụ hồ tiêu của gia đình vẫn đang cho thu hoạch ổn định, ông đã đầu tư trồng 214 cây chanh tứ quý. Hơn 1 năm sau, ông tiếp tục trồng thêm 400 cây. “Cây chanh tứ quý rất hợp với khí hậu, thổ nhưỡng ở Chư Pưh nên sinh trưởng nhanh, tỷ lệ đậu quả cao. Trong khi đó, chi phí đầu tư cây giống, phân bón, nhân công không tốn bao nhiêu nếu so với đầu tư cho cây hồ tiêu. Mặt khác, cây chanh lại cho nguồn thu quanh năm chứ không tập trung vào cuối vụ” - ông Lưu chia sẻ.
Ông Nguyễn Viết Lưu (bìa phải) có nguồn thu nhập ổn định từ vườn chanh tứ quý. Ảnh: S.C
Ông Nguyễn Xuân Hùng-Chủ tịch Hội Nông dân huyện Chư Pưh: “Hội Nông dân huyện đã tổ chức cho hội viên tham quan học hỏi các mô hình tiêu biểu, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Đồng thời, định hướng cho hội viên sản xuất cây trồng, vật nuôi mà thị trường cần, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, lấy ngắn nuôi dài để có nguồn thu xoay vòng”.
Mặc dù chỉ trồng hơn 600 cây chanh tứ quý nhưng gia đình ông Lưu có nguồn thu khá đều đặn từ việc bán quả cho thương lái và chiết cành nhân giống. Bình quân mỗi cây chanh tứ quý cho thu hoạch 50-60 kg quả/năm. Với giá thu mua tại vườn bình quân 15 ngàn đồng/kg, ước tính mỗi năm gia đình ông Lưu thu khoảng 400 triệu đồng tiền bán quả. Ngoài ra, gia đình ông còn thu về 60-70 triệu đồng/năm từ bán cây giống (20-25 ngàn đồng/cây). Theo nhẩm tính của ông Lưu, nếu nguồn thu từ vườn chanh ổn định như hiện nay thì chỉ vài năm nữa gia đình ông có thể trả hết các khoản nợ vay ngân hàng trước đây.
Có nguồn thu khá ổn định từ vườn chanh tứ quý nhưng gia đình ông Lưu không ồ ạt mở rộng diện tích mà hướng đến đa dạng hóa cây trồng. Sau khi tìm hiểu kỹ nhu cầu thị trường và tiềm năng của các loại cây ăn quả, gia đình ông quyết định chỉ giữ lại 300 trụ hồ tiêu, chuyển phần diện tích còn lại sang trồng ổi Indonesia, bưởi da xanh, cam, quýt theo hướng chuyên canh. Hiện tại, ngoài mối thương lái thu mua tại vườn, gia đình ông còn chủ động phân phối các loại trái cây qua kênh bán lẻ online cho khách hàng. Từ kinh nghiệm thực tế khi chuyển hướng sang trồng chanh tứ quý và cây ăn quả, ông Lưu cho rằng, nông dân cần nắm chắc nhu cầu thị trường để có kế hoạch đầu tư phù hợp thì hiệu quả kinh tế mới cao.
Trồng chanh tứ quý nhanh được thu là nhận định của ông Hoàng Văn Anh (thôn Hòa Sơn, xã Ia Phang) sau hơn 3 năm chuyển đổi diện tích hồ tiêu sang trồng loại cây này. Năm 2016, nhận thấy trồng cây hồ tiêu không còn cho hiệu quả cao, cây chết vì bệnh ngày càng nhiều, ông Anh đã quyết định chuyển hướng sản xuất. “Tôi thấy bên Đak Lak, bà con trồng chanh tứ quý rất tốt, nhanh có thu. Loại cây này lại dễ trồng, thích nghi với nhiều loại thổ nhưỡng nên tôi quyết định mua giống về trồng”-ông Anh kể. Khác với cây hồ tiêu, đầu tư trồng chanh tứ quý không cần nhiều vốn nên ông Anh đã xuống giống 1.300 cây trên vùng đất đồi sỏi đá. Chỉ sau 15-18 tháng chăm sóc, chanh bắt đầu cho thu bói. Khi tròn 2 năm thì vườn chanh bước vào giai đoạn kinh doanh, bình quân mỗi cây cho khoảng 50-70 kg quả/năm. Theo ông Anh, trồng chanh tứ quý mỗi năm cần bón 3 đợt phân, mùa nắng khoảng 10 ngày tưới 1 đợt thì cây sẽ phát triển tốt, cho quả đều đặn quanh năm. Nếu gặp thời tiết mưa bão, quả chanh tới vụ có thể lưu cây khoảng 2 tháng mới thu hoạch mà chất lượng vẫn đảm bảo. Khi cây chanh bước vào năm thứ 4, cành đủ lớn thì bắt tay thực hiện chiết cành nhân giống để bán.
Từ đầu năm 2019 đến nay, vườn chanh tứ quý của gia đình ông Anh đã cho thu hơn 40 tấn quả, bán với giá bình quân 15 ngàn đồng/kg. Ước tính đến cuối năm 2019, sản lượng chanh tứ quý của gia đình ông đạt khoảng 70 tấn. Bên cạnh đó, gia đình đã bán trên 5.000 cành chanh giống, thu về khoảng 100 triệu đồng. “Nhờ thu nhập từ vườn chanh, gia đình tôi đã trả bớt khoản nợ vay ngân hàng”-ông Anh cho hay. Cũng theo ông Anh, chu kỳ kinh doanh của cây chanh tứ quý kéo dài khoảng 7-8 năm nếu được chăm sóc đầy đủ.
Theo ghi nhận của Hội Nông dân huyện Chư Pưh, từ năm 2018 đến nay, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên địa bàn huyện diễn ra mạnh mẽ. Một số hộ đi đầu chuyển đổi đã có nguồn thu khá tốt. Tuy nhiên, quy mô, mức độ chuyển đổi cây trồng của người dân chỉ mang tính chất đơn lẻ, thận trọng chứ không phát triển đại trà, ồ ạt như cây hồ tiêu trước đây.
SƠN CA
Nông dân trồng sầu riêng ‘than trời’ vì mưa lớn và gió lốc
Nguồn tin: Báo Đắk Lắk
Những ngày qua, do ảnh hưởng của cơn bão số 3, trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk liên tục xảy ra mưa lớn kèm gió giật mạnh làm nhiều diện tích sầu riêng sắp thu hoạch bị gãy đổ, rụng quả gây thiệt hại lớn về kinh tế cho người dân.
Gia đình chị Lê Thị Thảo (ở thôn Ea Chăm, xã Ea Tân, huyện Krông Năng) có 600 cây sầu riêng đang nuôi trái, dự kiến năm nay cho thu khoảng 60 tấn quả. Nhưng sau trận gió lốc xảy ra vào chiều tối ngày 3-8 đến sáng hôm sau thì quả sầu riêng rụng lăn lóc khắp vườn, hàng chục cây sầu riêng bị bật gốc, gãy đổ. Thấy mưa, gió vẫn đang tiếp diễn mạnh, gia đình chị Thảo phải dùng dây buộc trái, giằng, néo cành sầu riêng để tránh bị gãy đổ thêm. Chị Thảo buồn bã: “Chỉ gần một tháng nữa là vào vụ thu hoạch nên hầu hết trái bị gió đánh rụng đều đã đạt trọng lượng 3 - 5 kg, ước thiệt hại khoảng 7 tấn trái non.
Nhiều cây sầu riêng của gia đình chị Lê Thị Thảo (xã Ea Tân, huyện Krông Năng) bị nghiêng cây, gãy cành.
Cùng chung cảnh ngộ, vườn sầu riêng 300 cây trồng xen trong vườn cà phê của gia đình chị Kiều Thị Định ở thôn Ea Chiêu (xã Ea Tân, huyện Krông Năng) cũng bị rụng gần 2 tấn trái non trong đợt giông, lốc vừa qua. Chị Định tiếc nuối: “Chưa năm nào vườn cây của gia đình bị ảnh hưởng bởi thời tiết bất thường như năm nay. Không chỉ rụng trái, nhiều cây sầu riêng còn bị toác cành, bật gốc. Mặc dù được trồng xen nhưng hằng năm mỗi cây sầu riêng cũng phải đầu tư cả triệu đồng, chưa kể công chăm sóc nên thiệt hại đối với gia đình là rất lớn”.
“Gió giật mạnh sau mưa là nguyên nhân khiến bà con nông dân không kịp trở tay. Hơn nữa, sầu riêng đang chuẩn bị bước vào thời kỳ thu hoạch nên sức nặng khá lớn dẫn đến không thể chống chịu trước sức gió của cơn lốc đi qua, gây thiệt hại lớn ”.
Ông Phạm Trung Kiên, Chủ tịch UBND xã Quảng Tiến, huyện Cư M'gar
Ông Lê Rế, Trưởng Phòng NN-PTNT huyện Krông Năng cho biết, trên địa bàn huyện có khoảng 900 ha sầu riêng, trong đó diện tích đang cho thu hoạch khoảng 300 ha. Hiện, con số thiệt hại chưa thể thống kê chính xác do các vườn sầu riêng vẫn tiếp tục rụng trái.
Tại huyện Cư M’gar, mưa gió lớn liên tục những ngày qua cũng khiến cho nhiều hộ dân trồng sầu riêng thiệt hại nặng. Gia đình anh Phan Đình Dương ở thôn Tiến Đạt (xã Quảng Tiến) trồng 5 ha sầu riêng nhưng mưa lớn, gió giật mạnh khiến 3 tấn sầu riêng bị rụng.
Anh Dương thở dài: “Suốt ngày qua, tôi phải thuê 3 nhân công để nhặt sầu riêng rụng, ước tính thiệt hại 150 triệu đồng. Nhưng tiếc nhất là nhiều cây sầu riêng 10 năm tuổi cho thu hoạch 250 kg/vụ bị gãy đổ, đứt rễ, lay gốc, nguy cơ cây bị chết hẳn”.
Chị Kiều Thị Định (xã Ea Tân, huyện Krông Năng) chua xót gom sầu riêng non bị gió lốc đánh rụng.
Toàn tỉnh có khoảng 6.000 ha sầu riêng, trong đó 3/4 diện tích đang cho thu hoạch, tâp trung nhiều tại các huyện: Krông Năng, Krông Pắc, Cư M'gar, Ea H’leo. Do diễn biến thất thường của thời tiết, mưa to kèm gió lốc của cơn bão số 3 hầu hết các vườn sầu riêng trên địa bàn đều bị thiệt hại từ 1 - 2 tạ đến vài tấn/hộ, một số hộ bị ảnh hưởng nặng hơn do gãy cành, đổ cây, bật gốc.
Theo Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn tỉnh, do ảnh hưởng của nhiễu động gió đông trên cao, tình hình mưa gió hiện vẫn còn diễn biến phức tạp, cơ quan chức năng, chính quyền địa phương đang khuyến cáo, hướng dẫn người dân chủ động chăm sóc vườn cây, có biện pháp thích hợp để bảo vệ, che chắn, hạn chế thiệt hại do thiên tai gây ra.
Thùy Linh - Thùy Duyên
Đạ Huoai (Lâm Đồng): Cấp trên 800 ngàn tem truy xuất nguồn gốc
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Thông tin từ UBND huyện Đạ Huoai (tỉnh Lâm Đồng) cho biết, huyện Đạ Huoai vừa hoàn thiện Đề án truy xuất nguồn gốc Sầu riêng Đạ Huoai, trong đó có việc cấp trên 800 ngàn tem điện tử truy xuất nguồn gốc. Theo đó, nhãn hiệu chứng nhận Sầu riêng Đạ Huoai đã được UBND huyện cấp quyền sử dụng cho 3 HTX, 6 tổ hợp tác và 3 nông hộ trồng và kinh doanh sầu riêng trên địa bàn huyện. Tem điện tử truy xuất nguồn gốc cấp cho các tổ chức, cá nhân đã được cấp quyền sử dụng nhãn hiệu giúp trái sầu riêng Đạ Huoai có tấm giấy thông hành đi tới những thị trường xa hơn, không chỉ dừng lại ở thị trường nội địa.
D.Q
Quản lý cơ sở gây nuôi và bảo tồn động vật hoang dã: Cần cơ chế, quy định chặt chẽ hơn
Nguồn tin: Báo Hải Phòng
Hiện nay, trên địa bàn thành phố Hải Phòng có 365 cơ sở nuôi động vật hoang dã được thống kê, quản lý, trong đó có 26 cơ sở nuôi nhốt động vật quý hiếm thuộc danh mục phụ lục 1B, 2B theo Nghị định 06/2019/NĐ-CP, gồm những loài được phép gây nuôi, phục vụ mục đích thương mại. Song việc quản lý cơ sở gây nuôi và bảo tồn chưa hiệu quả, thiếu căn cứ, quy định pháp lý chặt chẽ.
Trang trại nuôi công Việt Nam, gà lôi trắng… của anh Trần Văn Dũng tại xã Phục Lễ, huyện Thủy Nguyên. Ảnh: Trung Kiên
Thiếu quy chuẩn để giám sát, xử lý vi phạm
Anh Nguyễn Văn Dũng, ở xóm Bấc, xã Phục Lễ, huyện Thủy Nguyên chủ trại nuôi công và gà lôi cho biết: trại nuôi của gia đình có quy mô gần 100 con, gồm công Ấn Độ, công Việt Nam, gà lôi trứng, gà lôi tía, gà lôi lam, trĩ 7 màu, trĩ Vân Nam…Con giống ban đầu của gia đình mua ở Hải Dương. Sau một thời gian nuôi, nhận thấy thị trường phát triển, gia đình đầu tư, mở rộng quy mô nuôi.
Việc gây nuôi động vật hoang dã chủ yếu mang tính tự phát nên quy mô nhỏ lẻ, công tác quản lý, phòng ngừa dịch bệnh và điều trị cho vật nuôi chưa chặt chẽ. Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Hải Phòng Phạm Văn Hiển cho biết: Thực hiện công tác quản lý cơ sở gây nuôi và bảo tồn động vật hoang dã, UBND thành phố chỉ đạo cơ quan chuyên môn thường xuyên hướng dẫn các cơ sở trại nuôi động vật hoang dã đăng ký nuôi mới, cấp đổi giấy chứng nhận trại. Chính quyền các địa phương kiểm soát, kiểm tra tình hình mua bán, săn bắt, nuôi nhốt động vật hoang dã trên địa bàn; hướng dẫn các cơ sở thực hiện đúng quy định của pháp luật về nguồn gốc hợp pháp, điều kiện chuồng trại, vệ sinh chăn nuôi. Tuy nhiên, những giải pháp trên chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác quản lý cơ sở gây nuôi và bảo tồn động vật hoang dã thiếu những quy định về quy chuẩn chuồng trại cho từng loài vật nuôi. Điều này gây khó khăn cho công tác thẩm định để chứng nhận đủ điều kiện đăng ký trại nuôi hoặc khi có vi phạm cần phải xử lý. Đồng thời, việc phòng và trị bệnh cho động vật hoang dã chủ yếu dựa vào kinh nghiệm nên hiệu quả chưa cao.
Thiếu quy chuẩn về chăn nuôi khiến việc bảo tồn, bảo vệ động vật hoang dã tại các cơ sở nuôi chưa đạt yêu cầu. Từ năm 2012 đến nay, số lượng gấu nuôi nhốt trên địa bàn thành phố sụt giảm từ hơn 400 xuống 23 cá thể. Từ năm 2012, khi thành phố thực hiện việc quản lý gấu nuôi nhốt bằng cách gắn chíp điện tử theo dõi, việc lấy mật gấu, giết mổ gấu được ngăn chặn triệt để. Người nuôi không còn thu được lợi nhuận từ việc nuôi gấu, nên bỏ bê chăm sóc. Trong khi đó, hiện chưa có những quy định về chế độ dinh dưỡng đối với gấu nuôi nhốt. Do đó, dù phát hiện gấu bị suy kiệt dinh dưỡng, các cơ quan chức năng cũng không có cơ sở xử lý. Thành phố khuyến khích hộ nuôi gấu bàn giao gấu cho trung tâm cứu hộ. Song người nuôi yêu cầu phải chi trả, hỗ trợ kinh phí chăm nuôi mới bàn giao gấu. Nhưng hiện chưa có cơ chế này hỗ trợ, do đó, nhiều người nuôi vẫn chưa đồng thuận việc bàn giao.
Tháo gỡ vướng mắc bằng cơ chế
Theo Phó giám đốc Sở Tài nguyên Môi trường Chu Thanh Lương, hiện việc quản lý cơ sở nuôi bảo tồn động vật hoang dã thuộc về Sở Tài nguyên-Môi trường quản lý; quản lý cơ sở nuôi thương phẩm do Sở Nông nghiệp - Phát triển nông thôn phụ trách. Nếu được quản lý, giám sát chặt chẽ, các cơ sở gây nuôi và bảo tồn động vật hoang dã quý hiếm góp phần thực hiện mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học. Để nâng cao hiệu quả quản lý các cơ sở gây nuôi và bảo tồn động vật hoang dã quý hiếm, cùng với nỗ lực của chính quyền địa phương, các bộ Tài nguyên-Môi trường, Nông nghiệp - Phát triển nông thôn cần sớm ban hành quy chuẩn hướng dẫn việc xây dựng chuồng trại đối với từng loài vật nuôi, tạo thuận lợi cho việc xem xét cấp mã số đối với các cơ sở đăng ký trại nuôi; xem xét hỗ trợ kinh phí thực hiện hoạt động bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học,…Tiếp tục xem xét điều chỉnh, sửa đổi quy định pháp luật về bảo vệ động vật hoang dã theo hướng cụ thể, chặt chẽ hơn, tạo hành lang pháp lý để các lực lượng chức năng đấu tranh hiệu quả cao với các vi phạm về bảo tồn động vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm.
Trước mắt, để khắc phục những bất cập, hạn chế, Chi cục Kiểm lâm tăng cường hoạt động kiểm tra, quản lý địa bàn, xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi quảng cáo, nuôi nhốt kinh doanh, sử dụng các sản phẩm, mẫu vật các loài động vật hoang dã bị cấm theo quy định pháp luật; chỉ đạo các Hạt Kiểm lâm thường xuyên phối hợp với các ngành, đoàn thể ở địa phương tuyên truyền, phổ biến sâu rộng pháp luật về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã. Bên cạnh đó, Sở Tài nguyên-Môi trường phối hợp với các lực lượng chức năng như Hải quan, Công an thành phố kiên quyết ngăn chặn và xử lý đối với trường hợp thực hiện hành vi nuôi nhốt động vật hoang dã, quý hiếm không có hồ sơ nguồn gốc hợp pháp.
Nguyên Mai
Mô hình hỗ trợ bò sinh sản cho hộ nghèo: Ý nghĩa lớn, hiệu quả cao
Nguồn tin: Báo Hà Nội Mới
Thời gian qua, Trung tâm Khuyến nông Hà Nội đã triển khai thực hiện mô hình chăn nuôi bò sinh sản hỗ trợ các hộ dân tộc thiểu số miền núi và hộ nghèo trên địa bàn thành phố. Đến nay, sau 3 năm triển khai, mô hình này đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, có ý nghĩa to lớn đối với các hộ nghèo trong việc cải thiện cuộc sống.
Mô hình chăn nuôi bò sinh sản trên địa bàn huyện Thạch Thất đã giúp nhiều hộ gia đình thoát nghèo, ổn định cuộc sống.
Hộ gia đình chị Đinh Thị Miên ở thôn 4, xã Ba Trại (huyện Ba Vì) là một trong các hộ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn được nhận bò sinh sản miễn phí để chăn nuôi theo mô hình do Trung tâm Khuyến nông Hà Nội triển khai từ năm 2017.
Chị Miên chia sẻ, chồng chị bị mất sức lao động, một mình chị là lao động chính với nghề nông nên cái nghèo cứ đeo bám. Sau khi chị nhận được con bò giống của mô hình về chăm sóc, không bao lâu đã sinh ra bê con.
Về hiệu quả của mô hình, Phó Chủ tịch UBND xã Ba Trại (huyện Ba Vì) Hoàng Văn Chuyển cho hay: "Mô hình này phù hợp với trình độ chăn nuôi và điều kiện kinh tế của nhân dân địa phương, mở ra hướng đi mới cho người dân, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập... Nhờ vậy, góp phần đưa tỷ lệ hộ nghèo của xã từ trên 5,1% năm 2017, xuống còn 2% năm 2019".
Theo Trung tâm Khuyến nông Hà Nội, năm 2017, 2018, triển khai mô hình chăn nuôi bò sinh sản quy mô 170 con (mỗi hộ 1 con) theo phương châm hỗ trợ các hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số miền núi khó khăn trên địa bàn các huyện: Ba Vì, Mỹ Đức, Thạch Thất, Gia Lâm, Sóc Sơn, Quốc Oai đã có hiệu quả tích cực. Năm 2019, trung tâm tiếp tục triển khai mô hình với quy mô 80 con tại 5 xã miền núi thuộc 3 huyện: Thạch Thất, Ba Vì, Mỹ Đức. Qua 3 năm triển khai, số bê con sinh ra từ mô hình hỗ trợ đều sinh trưởng, phát triển tốt, cho thu nhập từ 7 đến 12 triệu đồng mỗi con bê đực.
Đặc biệt, tại huyện Ba Vì, bò cái sinh sản phối tinh bò BBB sinh ra bê đực đã bán được 18 triệu đồng/con, đối với bê cái còn có giá trị cao hơn từ 3 đến 5 triệu đồng/con. Mô hình được đánh giá là một trong 3 mô hình khuyến nông chăn nuôi tiêu biểu, đại diện cho 3 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hà Nam và Hà Giang được nhận Giải thưởng Vietstock 2018 tại hạng mục “Mô hình khuyến nông chăn nuôi hiệu quả nhất”.
Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Hà Nội Vũ Thị Hương cho biết: "Mô hình chăn nuôi bò sinh sản do trung tâm thực hiện đã triển khai đến đúng đối tượng nên được nhân dân, các địa phương, đơn vị đánh giá cao. Tại đợt trao bò hỗ trợ sinh sản năm 2019 mới đây tại huyện Mỹ Đức, ngoài phần hỗ trợ trong mô hình của Trung tâm Khuyến nông Hà Nội, huyện Mỹ Đức và Công ty cổ phần Giống gia súc Hà Nội còn hỗ trợ thêm mỗi hộ 4 triệu đồng. Điểm mới này đã tạo hiệu ứng tích cực, thu hút đông đảo đơn vị, lực lượng xã hội tham gia hỗ trợ hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số...".
Biểu dương tính tích cực của mô hình, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Nguyễn Xuân Đại nhấn mạnh, mô hình có sức lan tỏa lớn không chỉ giúp các hộ nghèo phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập mà còn góp phần tích cực vào công tác giảm nghèo của thành phố và hoàn thành chương trình xây dựng nông thôn mới của các địa phương.
Tuy nhiên, triển khai mô hình năm 2019, việc thu nộp kinh phí đối ứng 30% đối với các hộ nghèo còn khó khăn. Do đó, Sở đề nghị UBND các huyện, cơ quan, đoàn thể của địa phương tiếp tục hỗ trợ kinh phí, giúp đỡ các hộ nghèo...
BẠCH THANH
Thành công với mô hình nuôi gà lôi
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Gà lôi dễ nuôi, thị trường tiêu thụ mạnh, người nuôi có lời... đó cũng là lời chia sẻ của anh Tư Quí (Nguyễn Tấn Quí), ở khu vực Bình Thạnh B, phường Bình Thạnh, thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang đã nhiều năm nuôi thành công giống gà này.
Đàn gà lôi đang trong thời kỳ đẻ trứng tại hộ gia đình anh Quí.
Anh Quí cho biết gà lôi còn có tên gọi khác là gà tây (Meleagris gallopavo), là loài gia cầm có nguồn gốc từ châu Mỹ, gà lớn con, thời gian tăng trưởng dài, thịt ngon. Gà có màu lông bông xám đen hoặc xám trắng, một số ít có màu lông trắng, gà trống có lông màu sặc sỡ, mào và tích tròn dài lòng thòng. Gà con trưởng thành sau 28-30 tuần tuổi có thể đạt trọng lượng từ 5-6kg/con trống và 3-4kg/con mái và bắt đầu đẻ trứng. Gà mái mỗi lứa có thể đẻ từ 10-12 trứng/con rồi tự ấp, sau 28-30 ngày gà nở. Ưu điểm của giống gà lôi là dễ chăm sóc, thức ăn cho gà chủ yếu là lúa, cây cỏ, lục bình, hay chuối cây băm nhuyễn trộn tấm, cám... Đây là những thứ không chỉ dễ tìm trong tự nhiên, mà còn là nguồn thức ăn bổ dưỡng cho gà, người nuôi sẽ tiết kiệm được một phần chi phí, tăng thêm phần lợi nhuận.
Với kinh nghiệm nuôi gà nhiều năm, anh Quí cho rằng nếu muốn nuôi gà lôi theo hướng công nghiệp hoặc nuôi theo dạng gà thả vườn để đạt được hiệu quả cao thì người nuôi cần lưu ý sau khi trứng gà ấp nở thành con nên tách gà con ra nuôi nhốt riêng. Dùng bóng đèn để giữ ấm cho gà con đến khoảng 30 ngày tuổi ở môi trường thích hợp như trong lồng khung tre, gỗ hay trên nền lót trấu khô sạch, dày khoảng 10-15cm. Trong tuần đầu tiên nên thay giấy lót hàng ngày, 3 tuần đầu phải để cho gà đủ ấm và tránh chó, mèo, chuột vào. Mật độ giữ ấm khoảng 50 con/m2 trong 1-2 tuần đầu, từ tuần thứ 2 trở đi cho 25 con/m2. Thức ăn cho gà lôi trong giai đoạn gà mới 1-2 ngày tuổi tốt nhất là cho gà ăn bắp xay nhuyễn, từ ngày thứ ba trở đi bắt đầu cho ăn thức ăn hỗn hợp ít nhất 4-5 lần/ngày, nhưng phải cân đối đầy đủ các chất dinh dưỡng, nhất là đạm, khoáng…
Gà tây có khả năng tiêu hóa và hấp thụ tốt thức ăn thô xanh, cho nên ngay từ giai đoạn này cần tập trung cho gà ăn rau xanh 3-4 lần/ngày và nước uống cũng không thể thiếu đối với gà. Gà lôi thường hay mắc bệnh đường hô hấp, đường tiêu hóa, vì vậy người nuôi cần cho gà ăn sạch, uống sạch, ở sạch. Thường xuyên theo dõi đàn gà để phòng, trị bệnh kịp thời. Trong thời gian này, cần tiêm vắc-xin phòng bệnh theo định kỳ cho gà, bổ sung thêm thức ăn để gà con tăng trọng lượng và tăng sức đề kháng. Tốt nhất là để gà con được 35-40 ngày tuổi mới thả ra vườn nuôi trong môi trường tự nhiên, sau 3 tháng nuôi thì gà đạt trọng lượng từ 3kg trở lên/con và có thể xuất bán.
Với nụ cười như mãn nguyện trên môi, anh Quí tâm sự: “Tôi cũng không ít lần thất bại trong những năm đầu nuôi gà lôi. Nhưng qua tìm tòi học hỏi kinh nghiệm trên báo, đài và sự hướng dẫn của cán bộ ngành chăn nuôi, gần 10 năm qua (2009-2019) tôi luôn ổn định nguồn thu nhập khoảng 100 triệu đồng/năm từ tiền bán con giống và gà thịt”.
Anh Quí cho biết hiện tại anh có gần 100 con gà lôi bố mẹ, mỗi con đẻ từ 10-12 trứng, tỷ lệ ấp nở đạt trên 90%. Nhờ đó, mỗi năm anh Quí bán ra hơn 1.000 con gà giống và gà thương phẩm cho bà con chăn nuôi không chỉ trong tỉnh, mà còn có các tỉnh lân cận như An Giang, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Bạc Liêu… Với giá bán tại chuồng hiện nay là 120.000-130.000 đồng/kg gà thịt, 50.000-90.000 đồng/con gà từ 10-60 ngày tuổi. Bấm đốt ngón tay, anh Quí suy đi tính lại sau khi trừ đi các khoản chi phí mỗi tháng anh có nguồn thu hơn 20 triệu đồng. Anh Quí cho rằng với mô hình nuôi gà lôi thương phẩm theo lối nuôi gà thả vườn nếu được bà con vùng nông thôn, hộ ít đất hoặc hộ có đất vườn trồng cây ăn trái rộng thì rất phù hợp. Bởi nuôi gà trên cùng diện tích đất vườn sẽ ít tốn kém hơn tiền chi phí đầu tư xây cất chuồng trại, lại vừa nhẹ công chăm sóc, lợi nhuận cũng nhiều hơn.
Bài, ảnh: QUANG HẢI
Kiên Giang: Mỗi tháng thu hơn 1 tấn yến sào
Nguồn tin: Nông Nghiệp VN
Phong trào xây nhà dẫn dụ chim yến vào làm tổ đang phát triển rất mạnh ở tỉnh Kiên Giang, với hàng ngàn ngôi nhà đã được đầu tư xây dựng.
Gần chục nhà nuôi yến được đầu tư xây dựng quanh Khu dân cư An Hòa, phường An Hòa, TP Rạch Giá.
Ông Nguyễn Văn Tâm, Giám đốc Sở NN-PTNT Kiên Giang cho biết, toàn tỉnh có 2.202 nhà dẫn dụ, nuôi chim yến đã được người dân đầu tư xây dựng. Trong đó, nhiều nhất là TP Rạch Giá, với 678 nhà, huyện Hòn Đất 579 nhà, Kiên Lương 227 nhà, Hà Tiên 209 nhà và Châu Thành 161 nhà. Sản lượng tổ yến sào thu hoạch trong 6 tháng đầu năm 2019 ước đạt 6.634 kg, doanh thu đạt khoảng 130 - 150 tỷ đồng.
Kiên Giang hiện có hơn 2.200 nhà nuôi yến, ước thu hoạch mỗi tháng hơn 1 tấn tổ yến sào.
Để nghề nuôi yến phát triển bền vững, tỉnh Kiên Giang đã ban hành quy định siết chặt quản lý, nghiêm cấm xây dựng mới nhà nuôi yến trong khu vực nội đô, nhất là các khu vực như điểm chợ, khu hành chính, dân cư, đô thị, du lịch, cửa khẩu, trung tâm thị trấn các huyện. Các tổ chức, cá nhân xây dựng nhà nuôi chim yến phải có giấy phép theo quy định, lập báo cáo đánh giá tác động môi trường…
Đ.T.CHÁNH
Đàn heo toàn tỉnh Khánh Hòa còn hơn 173.000 con
Nguồn tin: Báo Khánh Hòa
Theo số liệu thống kê mới nhất, toàn tỉnh Khánh Hòa hiện có hơn 173.000 con heo. Các doanh nghiệp chăn nuôi heo cho biết, sở dĩ đàn heo trong tỉnh vẫn giữ vững số lượng và được tiêu thụ rộng rãi trên thị trường là nhờ phát triển chăn nuôi khép kín, chăn nuôi công nghiệp.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh còn bệnh dịch tả heo châu Phi tại Diên Khánh và Cam Lâm (TP. Nha Trang đã qua 30 ngày không phát sinh thêm ổ dịch mới). Để kiểm soát và ngăn chặn dịch lây lan, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc phối hợp với chính quyền địa phương hướng dẫn vệ sinh, sát trùng, tiêu độc các địa điểm nuôi, trung chuyển, thu gom, giết mổ, buôn bán heo và sản phẩm heo, gia cầm, các phương tiện vận chuyển động vật, sản phẩm động vật sau mỗi ca sản xuất. Bên cạnh đó, ngành Thú y thường xuyên giám sát dư lượng các chất độc hại đối với sản phẩm động vật thủy sản nuôi, sử dụng chất cấm trong chăn nuôi và tình hình dịch bệnh trên vật nuôi, vùng nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh nhằm bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Ngoài ra, tuyên truyền hướng dẫn cơ sở thu mua động vật giết mổ có nguồn gốc; cải tạo, nâng cấp trang, thiết bị giết mổ, nhà xưởng đảm bảo yêu cầu vệ sinh thú y; vệ sinh tiêu độc khử trùng môi trường chăn nuôi để phòng, chống dịch bệnh gia súc, gia cầm, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm.
P.L
Nuôi dê cho hiệu quả kinh tế cao
Nguồn tin: Báo Vĩnh Phúc
Dù mới hoạt động 3 năm nay nhưng trang trại nuôi dê của gia đình chị Nguyễn Thị Tuyết ở thôn Trại Ngoài, xã Đạo Đức (Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc) được nhiều khách hàng trong và ngoài tỉnh biết đến bởi chất lượng thịt dê thơm ngon; quy mô đầu tư bài bản.
Mô hình nuôi dê của gia đình chị Nguyễn Thị Tuyết ở thôn Trại Ngoài, xã Đạo Đức (Bình Xuyên) mỗi năm thu lãi hàng trăm triệu đồng. Ảnh: Nguyễn Lượng
Bén duyên với nghề nuôi dê từ năm 2012, ban đầu, do điều kiện kinh tế còn khó khăn nên gia đình chị Tuyết chỉ dám nuôi vài chục con. Nhận thấy đàn dê phát triển tốt, mang lại hiệu quả kinh tế cao, năm 2016, vợ chồng chị Tuyết đầu tư hơn 200 triệu đồng xây dựng trang trại nuôi dê với quy mô chuồng trại lên tới 500m2. Để lựa chọn giống dê có chất lượng tốt, chị Tuyết cùng chồng tìm mua dê ở tỉnh Hà Giang, Ninh Bình. Nhờ biết cách chăm sóc nên đàn dê của gia đình chị phát triển tốt. Đến nay, trang trại nuôi dê của gia đình chị Tuyết có khoảng 500 con.
Theo chị Tuyết, nuôi dê không đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, có thể tận dụng được nguồn lao động nhàn rỗi trong gia đình; đầu tư vốn ít hơn các loại vật nuôi khác, đem lại nguồn thu khá ổn định. Để đàn dê của gia đình sinh trưởng, phát triển tốt, chị tích cực tìm hiểu cách làm chuồng nuôi, kỹ thuật chọn giống, cách chăm sóc đàn dê, trồng cỏ, chế biến thức ăn đến phòng bệnh cho vật nuôi… trên các phương tiện thông tin đại chúng và thường xuyên đi tham quan, học hỏi kinh nghiệm một số mô hình nuôi dê thương phẩm quy mô ở các địa phương trong và ngoài tỉnh.
Đến nay, đàn dê của gia đình chị Tuyết không ngừng phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng. Ước tính, mỗi năm, gia đình chị Tuyết thu lãi khoảng 600 triệu đồng từ nuôi dê. Chị Tuyết cho biết, mặc dù con dê đề kháng rất tốt với dịch bệnh nhưng người nuôi không nên chủ quan, cần có chế độ tiêm phòng cho vật nuôi định kỳ. Bên cạnh đó, cần phải làm tốt khâu vệ sinh chuồng trại, chủ động phòng ngừa bệnh thường gặp trên dê và tách riêng những con bị bệnh ra khỏi đàn để theo dõi, phòng trị, tránh lây lan thì mô hình chăn nuôi mới đem lại hiệu quả cao nhất.
Chia sẻ với chúng tôi, chị Tuyết cho biết: "So với nuôi bò, lợn, gà thì nuôi dê cần ít vốn hơn, tốn ít công chăm sóc và phòng dịch. Từ khi chuyển sang nuôi dê, những khoản thu giúp gia đình tôi giải quyết được chi phí sinh hoạt, mua sắm vật dụng và tái đầu tư vào chăn nuôi".
Thời gian tới, gia đình chị Tuyết dự định mở rộng quy mô chăn nuôi; mua thêm giống mới để cải thiện tầm vóc cho đàn dê, tạo ra đàn con lai chất lượng cao với giá thành rẻ hơn.
Bảo Anh
Hiếu Giang tổng hợp