Tin nông nghiệp CN ngày 14 tháng 7 năm 2019

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp CN ngày 14 tháng 7 năm 2019

Thanh long Bình Thuận: Có đang bị ‘bào mòn’ sức sống?

Nguồn tin: Báo Bình Thuận

Giá trái thanh long năm nay được xem là cao hơn những năm trước. Nên dù đang ở chính vụ nhưng nhiều hộ dân ở Bình Thuận đã tiến hành chong đèn để bán vào thời điểm cuối vụ mùa, đầu vụ chong đèn. Theo nhiều nhà nghiên cứu với cách làm này, người dân Bình Thuận đang làm giảm tuổi thọ và sản lượng, “bào mòn” sức sống cây thanh long. Cây trồng vốn được coi là “hái ra tiền” của người dân Bình Thuận.

Chong đèn thanh long. Ảnh: N.L

“Ép” cây ra trái quanh năm

Cách đây khoảng 3 năm, thời điểm này người dân đã dừng chong đèn để cây thanh long lấy chất dinh dưỡng nuôi dây và phục hồi sau nhiều tháng kiệt sức vì ra trái vụ chong đèn. Nhưng năm nay, giá thanh long luôn ở mức cao, người dân liên tục chong đèn, nên cây thanh long không được nghỉ ngơi. Dù đang là mùa mưa - mùa chính vụ, nhưng vẫn có vườn thanh long sáng đèn suốt đêm. Đi dọc quốc lộ 1A đoạn qua huyện Hàm Thuận Nam hay ngược quốc lộ 28 đoạn từ xã Hàm Liêm đến thị trấn Ma Lâm (Hàm Thuận Bắc) vào ban đêm, không khó để thấy cả một vùng thanh long sáng rực. “Giờ giá thanh long không theo quy luật nào cả, chính vụ có khi giá cao nhưng vụ chong đèn giá lại lẹt đẹt. 2 năm nay, lúc giao thời giữa 2 vụ thanh long giá khá cao nên tôi “làm liều”, chong đèn sớm để đón thời điểm đó. Biết đâu trời thương được giá kiếm thêm chút đỉnh cho con ăn học”, anh Định - một hộ dân đang chong đèn thanh long ở xã Hàm Chính (Hàm Thuận Bắc) cho biết.

Cũng theo anh Định, đây là lần thứ 5 anh chong đèn trên diện tích thanh long gần 500 trụ của gia đình. Mấy lần trước, anh bán mỗi lứa dao động từ 30 - 70 triệu đồng, một số tiền không phải nhỏ nhưng vẫn tiếp tục chong đèn bất chấp nhiều dây thanh long có biểu hiện vàng úa. Không chỉ anh Định, mà nhiều hộ trồng thanh long khác đang “chạy đua” chong đèn đón thời khắc giao mùa. Có những hộ vừa cắt trái bán hôm trước, hôm sau đã chong đèn ngay trên diện tích thanh long đó. “Trồng thanh long giờ như chơi số đề, hên thì lãi, xui thì lỗ. Mình “độ” thấy thời điểm đó giá cao thì làm…”, đây là cách lý giải của khá nhiều nhà vườn thường chong đèn thanh long nhiều lần trong năm, bất chấp quy luật.

Được một mất mười

Người trồng vẫn biết chong đèn nhiều lần, ép cây thanh long ra trái quanh năm sẽ ảnh hưởng nhiều đến cây. Nhưng họ vẫn tiếp tục làm, giá thanh long càng cao thì số lần chong đèn thanh long càng nhiều lên. Nhiều hộ nông dân ép đến mức thanh long không kịp tích tụ chất dinh dưỡng để ra trái. Năng suất thấp, trên cây thanh long xuất hiện nhiều loại bệnh lạ là hậu quả mà người nông dân đang thấy rõ những năm gần đây.

Ảnh: ĐH

“Cây thanh long cũng là một loại cây trồng, nó không thể nằm ngoài các quy luật tự nhiên. Chong đèn nhiều đồng nghĩa với thời gian để cây lấy lại chất dinh dưỡng, phát triển cành mới không có và tất yếu cây sẽ kém phát triển. Cây thanh long sẽ yếu thì sức đề kháng trước sâu bệnh sẽ kém, năng suất sẽ không bằng các năm trước. Điều này giải thích vì sao sản lượng thanh long chính vụ năm 2019 thấp hơn hẳn so với những năm trước. Để đảm bảo cây thanh long phát triển tốt và cho năng suất cao, người dân chỉ nên chong đèn 2 lần trong năm. Cùng với đó, có kế hoạch bổ sung chất dinh dưỡng để cây phát triển, ra cành chuẩn bị cho vụ tiếp theo. Làm như vậy, người dân vẫn có thu nhập, cây thanh long sẽ không bị ảnh hưởng nhiều, thời gian cho trái sẽ lâu hơn”, ông Nguyễn Đức Trí, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và phát triển cây thanh long tỉnh cho biết.

Một số hộ dân trồng thanh long lâu năm cũng cho hay: Sử dụng phân bón vô cơ quá nhiều, chong đèn tùy ý, người dân đang làm cho tuổi thọ của cây thanh long ngày càng ngắn. Trước đây, việc chong đèn chưa bị lạm dụng như hiện nay, nên cây thanh long ở độ tuổi từ 4 - 8 năm ra trái khá nhiều. Nhưng hiện nay, cây thanh long chỉ ra trái đều từ năm thứ 4 đến năm thứ 6. Còn ở những năm tiếp theo sản lượng giảm mạnh và khả năng ra trái mỗi lần chong đèn rất thấp. Điều này lý giải vì sao nhiều hộ dân thường xuyên chong đèn bị “gãy” (cây thanh long ra trái hoặc ra trái không nhiều - PV).

Tại huyện Hàm Thuận Nam, Hàm Thuận Bắc, một số nhà vườn đã phải nhổ bỏ thanh long cũ trồng lại trụ mới vì cây thanh long không còn ra trái ổn định. Mặc dù các trụ thanh long đó trồng chưa tới 10 năm. Bên cạnh việc giảm năng suất, khó ra trái trong mỗi lần chong đèn, thì hiện nay cây thanh long rất dễ bị nhiễm bệnh. 2 năm trở lại đây, dịch nấm tắc kè bùng phát mạnh, gây thiệt hại lớn cho người trồng thanh long. Nhiều hộ dân chỉ bán được vài trăm nghìn đồng cho một lứa, dù trong vườn có hàng tấn thanh long.

Lợi nhuận từ việc trồng cây thanh long, thuộc tốp cao nhất của ngành nông nghiệp Bình Thuận hiện nay. Nhưng với tâm lý làm ăn “chụp giật”, dùng mọi cách để “ép” thanh long ra trái như hiện nay, chẳng khác nào người dân đang “bức tử” cây thanh long. Sự phát triển lâu dài và bền vững của cây thanh long đang ở mức đáng báo động…

Nguyễn Luân

Hương vị sầu riêng núi Cấm

Nguồn tin: Báo An Giang

Mùa mưa đến cũng là thời điểm núi Cấm vào mùa trái cây. Các loại trái cây ở đây từ lâu nổi tiếng có vị ngon, ngọt tự nhiên, mang hương vị đặc trưng so với những nơi khác. Đặc biệt, do điều kiện thổ nhưỡng phù hợp nên cây trái phát triển rất tốt, ít bị sâu bệnh phá hoại, do đó rất ít sử dụng thuốc hóa học, trái cây sạch, đáp ứng nhu cầu thưởng thức trái cây sạch của người dân địa phương cũng như du khách tham quan.

Sầu riêng sạch

Thiên Cấm Sơn vào mùa mưa phủ lên một màu xanh của các loại rau màu và cây ăn trái. Ở đây, ngoài các loại cây được người dân trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao như: cam, quýt, bơ, bưởi… thì sầu riêng là loại trái cây rất được ưa chuộng của nhiều du khách. Sầu riêng núi Cấm mang hương vị đặc trưng, ai đến đây tham quan đều muốn thưởng thức 1 lần. Theo anh Đinh Văn Phi Vân (ấp Vồ Bà, xã An Hảo): “Lên núi Cấm mà chưa thưởng thức sầu riêng là coi như chưa đến đây”.

Sầu riêng núi Cấm cho năng suất không cao nhưng chất lượng đảm bảo

Ông Hồ Việt Trung (ấp Vồ Bà, xã An Hảo), người đã trên gắn bó hơn 60 năm với vùng đất núi Cấm cho biết: “Cây sầu riêng xuất hiện trên núi Cấm rất lâu, giống cây là gì tôi không nắm được, chỉ biết mua ở Bến Tre. Sầu riêng ở đây phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, chất lượng trái thơm ngon, mang hương vị đặc trưng”. Đặc biệt, cây sầu riêng ở đây rất cao, có cây cao đến hàng chục mét, nên việc chăm sóc và thu hoạch trái gặp rất nhiều khó khăn. Sầu riêng núi Cấm có trái không to như ở vùng đồng bằng, nhưng trái rất sai nên nông dân có thu nhập, trong quá trình trồng không cần phải tốn công chăm sóc hay sử dụng bất kỳ loại phân hóa học nào để chăm bón cây sầu riêng. Hiện nay vào thời điểm đầu mùa, sầu riêng bán tại vườn giá 70.000-80.000 đồng/kg”.

Sầu riêng núi Cấm được bán rất nhiều ở khu vực chân núi. Tuy nhiên, du khách nên tham quan, thưởng thức ngay tại vườn để cảm nhận hương vị đặc biệt “riêng” của sầu riêng núi Cấm.

Đặc sản non cao

Sầu riêng núi Cấm từ lâu là một trong những món ăn đặc sản của vùng núi Cấm. Chị Nguyễn Thị Thủy Tiên (du khách đến từ huyện Châu Thành) chia sẻ: “Hương vị của trái sầu riêng ở đây khá đặc biệt so với các giống sầu riêng trồng ở nhiều nơi khác. Mặc dù có giá bán hơi cao nhưng chất lượng đảm bảo, không sử dụng thuốc hóa học nên chúng tôi rất an tâm”.

Nhà anh Phạm Hoài Phương (dưới chân vồ Bồ Hong) có khoảng 20 gốc sầu riêng đang cho trái và đang chuẩn bị thu hoạch. Năm nay, do tình hình thời tiết diễn biến thất thường nên năng suất trái không cao. Tuy nhiên, nhờ trồng xen canh với các loại cây trồng khác nên đảm bảo thu nhập cho nông dân ở đây. Anh Phương cho biết, do cây sầu riêng có đặc tính sinh trưởng chủ yếu trên vùng đất đá nghèo dinh dưỡng, nên phải mất 5-10 năm cây mới cho trái. Để thưởng sầu riêng phải chờ cho đến khi trái chín rụng, nên bà con nông dân ở đây có quan niệm “trời cho bao nhiêu thì ăn bấy nhiêu”. “Nhiều trái rụng xuống đất là nát bấy, không thể ăn được. Ngoài ra, còn bị nhiều con vật như: sóc, nhen… cắn phá làm rụng trái, nên số lượng trái có để bán rất ít. Được cái là trái có nhiều múi, cơm nhiều, hạt nhỏ, hương vị không thua kém so với các giống được trồng ở đồng bằng nên có bao nhiêu cũng bán hết” - anh Phương chia sẻ.

Chị Lê Thị Kim Phượng (ngụ ấp Vồ Đầu, xã An Hảo) cho biết thêm, trước đây, sầu riêng trên núi bán với giá khá rẻ, đồng thời do tình trạng sóc, nhen gây hại nên nhiều hộ dân ở đây chặt bỏ, trồng các loại cây ăn trái khác có giá trị kinh tế cao hơn. “Hiện nay, sầu riêng trở thành một trong những loại trái cây đặc sản nên số lượng không đủ để bán. Muốn ăn được trái tại gốc phải đặt trước mới có đủ số lượng để cung cấp” - chị Phượng thông tin.

Hiện nay, một số nhà vườn trên núi Cấm đã phát triển các giống sầu riêng mới cho năng suất cao và ổn định hơn. Phần lớn các nhà vườn trồng sầu riêng trên núi tận dụng diện tích đất trống để trồng xen canh thêm nhiều loại cây trồng khác nhằm đa dạng cơ cấu cây trồng, từ đó nâng cao thu nhập cho gia đình.

Bài, ảnh: ĐỨC TOÀN

Thêm kênh thông tin về thị trường xoài Tây Nam Bộ

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

Thêm kênh thông tin mở ra cơ hội kết nối giao thương cho trái xoài đồng bằng.

Trong khuôn khổ dự án xây dựng chuỗi giá trị xoài Việt Nam phục vụ thị trường trong nước và các thị trường xuất khẩu chủ lực do Trường ĐH Cần Thơ thực hiện, website xoài Tây Nam Bộ (http://xoaitaynambo.info/) ra mắt góp phần cung cấp thông tin về tình hình sản xuất và thị trường xoài.

Đây là kênh thông tin giúp các doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân sản xuất và thương lái kết nối giao thương, đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ của vùng nguyên liệu nhằm nâng cao chất lượng chuỗi giá trị xoài Việt Nam, phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu.

Tin, ảnh: THÀNH LONG

Loại bỏ, xử lý triệt để các loài rệp trên quả trước khi xuất khẩu

Nguồn tin: Báo Bình Thuận

Mới đây, Cục Bảo vệ thực vật tỉnh Bình Thuận đã nhận được thông báo của Tổng cục Hải quan Trung quốc về việc phát hiện lô hàng thanh long nhập khẩu từ Việt Nam bị nhiễm loài rệp Dysmicoccus neobrevipes là đối tượng kiểm dịch thực vật của Trung Quốc.

Xử lý ủ cành thanh long tại Hàm Thuận Bắc

Do đó, để tránh ảnh hưởng đến xuất khẩu nông sản nói chung và quả tươi nói riêng, Cục Bảo vệ thực vật thông báo và đề nghị các Sở Nông nghiệp và PTNT chỉ đạo các đơn vị trực thuộc và các tổ chức, cá nhân trên địa bàn quản lý có hoạt động trồng và xuất khẩu quả tươi sang Trung Quốc biết; thực hiện ngay việc quản lý chặt chẽ tình hình sinh vật gây hại tại các vùng trồng cây ăn quả đã được cấp mã số xuất khẩu sang Trung Quốc. Trong đó, trước mắt đặc biệt chú ý đối với các vùng thanh long và các loài rệp gây hại Dysmicoccus neobrevipes; Pseudococcus jackbeardsleyi. Trường hợp phát hiện các vườn bị nhiễm các loài rệp vừa nêu, bắt buộc phải thực hiện các biện pháp loại bỏ, xử lý triệt để các loài rệp trên quả trước khi xuất khẩu. Thông báo, hướng dẫn các tổ chức, cá nhân xuất khẩu quả tươi sang Trung Quốc biết để thực hiện chọn lọc hàng hóa và có biện pháp xử lý để tránh những rủi ro, thiệt hại từ sự việc trên.

Bình Thuận hiện là thủ phủ của thanh long, với diện tích khoảng 30.000 ha, thị trường chủ yếu xuất khẩu qua Trung Quốc, theo đường tiểu ngạch. Được biết, hiện Chi Cục Trồng trọt và BVTV đang tham mưu Sở văn bản chỉ đạo các địa phương, đơn vị chuyên môn trong tỉnh các biện pháp quản lý chặt chẽ tình hình này trên diện tích thanh long của tỉnh.

K.H

Nâng chất lượng vườn cây ăn trái

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Để mở rộng thị trường tiêu thụ và ổn định giá cả đầu ra cho người dân, thời gian qua xã Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang rất quan tâm tạo điều kiện cho các mô hình kinh tế tập thể phát triển và khuyến khích người dân sản xuất theo hướng nâng cao chất lượng.

Nông dân xã Tân Phú Thạnh sản xuất theo hướng chú trọng chất lượng để nông sản có sức cạnh tranh trên thị trường.

Theo ông Đoàn Thanh Tuấn, Phó Chủ tịch UBND xã Tân Phú Thạnh, trên địa bàn xã đất trồng cây ăn trái chiếm phần lớn, chủ yếu là các loại cam, chanh, xoài, ổi… Hầu hết bà con đều tận dụng diện tích đất sẵn có, chí thú làm ăn, phát triển kinh tế. Thường xuyên cải tạo đất vườn, xóa dần vườn tạp, vườn kém hiệu quả, lựa chọn các loại cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nhờ vậy, đời sống người dân được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người hiện nay đạt gần 43 triệu đồng/người/năm. Tuy nhiên, cái khó là một số diện tích vườn nhãn bị bệnh và cam sành có giá bán không cao, các loại trái cây chủ yếu bán cho thương lái nên giá cả và đầu ra thiếu ổn định.

Ở ấp Thạnh Mỹ, cũng là nơi tập trung nhiều hộ trồng chanh không hạt của địa phương, đa số đã mạnh dạn chuyển đổi từ đất ruộng, cải tạo vườn tạp và thay thế các loại cây trồng phù hợp khả năng canh tác. Ông Nguyễn Văn Đường, ở ấp Thạnh Mỹ, chia sẻ: “Mảnh vườn này 4 năm trước còn trồng xoài cát Hòa Lộc đã lâu năm, tôi thấy năng suất và chất lượng giảm dù tốn nhiều công chăm sóc nên đã chuyển sang trồng chanh không hạt. So với xoài, chanh không hạt nhẹ công chăm sóc hơn, ít tốn phân bón mà cho thu hoạch nhiều đợt trong năm. Từ khi cho trái, vườn chanh diện tích 1ha này đã mang lại thu nhập mỗi năm hơn 150 triệu đồng”.

Được biết, trước khi chanh cho trái, ông trồng bạc hà dọc theo giữa liếp. Bạc hà có giá bán chỉ 2.000 đồng/kg mà mỗi lần thu hoạch cũng bán được cả triệu đồng. Dù có lợi nhuận khá và cải thiện cuộc sống từ chanh nhưng ông Đường cũng trăn trở vì giá chanh trên thị trường dao động bất thường. Có khi giá lên cao trên 25.000 đồng/kg nhưng chỉ trong thời gian ngắn, có khi xuống thấp chỉ còn 7.000 đồng/kg. Do bán cho thương lái nên lỡ xuống thấp quá cũng đành chịu. Nếu liên kết được đơn vị tiêu thụ giá cả ổn định, kế hoạch thu mua rõ ràng thì người dân yên tâm hơn.

Nắm bắt được những lo lắng về khâu tiêu thụ nông sản của người dân, UBND xã Tân Phú Thạnh tiếp tục tuyên truyền, vận động người dân sản xuất theo hướng nâng cao chất lượng gắn với chuỗi giá trị, tham gia kinh tế hợp tác để có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ và đáp ứng các tiêu chuẩn ngày càng cao của thị trường.

Cuối năm 2018, xã đã có thêm 1 HTX nông nghiệp chuyên cung ứng cây giống và thu mua nông sản. Dù mới giai đoạn đầu nhưng hiện nay HTX thu hút được 25 thành viên, tổ chức cho xã viên các buổi học hỏi kinh nghiệm, kiến thức khoa học và liên kết với các đầu mối tiêu thụ nông sản từ các HTX lân cận. Ông Nguyễn Văn Tấn, Giám đốc HTX Nông nghiệp Thạnh Mỹ, tâm sự: Về đường kênh Rạch Đập, thuộc ấp Thạnh Mỹ nơi có nhiều xã viên HTX mới thấy tín hiệu vui từ vườn cây ăn trái của bà con, chủ yếu là vườn chanh không hạt. Chính quyền địa phương luôn quan tâm, tạo điều kiện cho HTX hoạt động và khuyến khích người dân tham gia. Ban chủ nhiệm HTX nhiệt huyết, thường xuyên chia sẻ kinh nghiệm, kỹ thuật cho các xã viên để sản xuất theo hướng nâng chất lượng hơn số lượng. Vừa qua, tin vui là đã có công ty liên hệ để lấy mẫu ngẫu nhiên tại vườn của HTX, kết quả đạt tiêu chuẩn nên đang lập kế hoạch ký kết bao tiêu.

Ông Trần Hoàng Vũ, cán bộ Tổ kỹ thuật xã Tân Phú Thạnh, cho biết: Thời gian qua, cán bộ kỹ thuật xã tiếp tục hỗ trợ người dân kỹ thuật trồng và chăm sóc vườn cây có múi theo hướng an toàn, sử dụng phân hữu cơ, giảm lượng phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật. Phòng NN&PTNT huyện còn hỗ trợ hơn 40 hộ trồng cây có múi ở ấp Thạnh Mỹ và Thạnh Mỹ A, mỗi hộ 6 bao phân hữu cơ. Với cách làm này, bà con có thể so sánh diện tích sử dụng phân hữu cơ so với phần còn lại, từ đó dần đổi mới cách làm, hướng đến sản xuất an toàn. Đây cũng là cơ sở để tạo ra các sản phẩm đạt tiêu chuẩn cao trong tương lai.

Bài, ảnh: THIÊN TRANG

Quảng Ngãi phát triển gần 1.000 ha vùng chuyên canh sản xuất cây dược liệu

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Quảng Ngãi

Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi vừa phê duyệt kế hoạch phát triển các vùng chuyên canh sản xuất cây dược liệu có giá trị kinh tế cao trên địa bàn 06 huyện:Mộ Đức, Ba Tơ, Sơn Hà, Trà Bồng, Tây Trà và Sơn Tây.

Theo kế hoạch, từ đến năm 2020, trên cơ sở xác lập vùng trồng cây gỗ lớn trong Quy hoạch rừng sản xuất và rừng phòng hộ được giao khoán cho các hộ dân theo Quyết định số 2480/QĐ-UBND ngày 31/12/2015 của Chủ tịch UBND tỉnh sẽkết hợp trồng các loài cây dược liệu dưới tán rừng cây gỗ lớn và rừng tự nhiên.

Lập kế hoạch vùng trồng tập trung các loài dược liệu có thế mạnh, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu từng vùng sinh thái mỗi địa phương như Quế, Đinh lăng, Gừng, Nghệ để đáp ứng nhu cầu thị trường. Bên cạnh đó, trồng thử nghiệm các loại cây dược liệu như: Ba kích, Đảng sâm, Sâm Ngọc Linh, Sa nhân để đánh giá chất lượng và khả năng thích nghi với điều kiện khí hậu thổ nhưỡng tại vùng trồng.

Dự kiến, tổng diện tích trồng các loại cây dược liệu đến năm 2020 khoảng 989,1 ha. Cụ thể,14,5 ha Đinh lăng, Kim tiền thảo, Gừng, Nghệ, Ba kích tại các xã Đức Lân, Đức Hòa, thị trấn Mộ Đức (Mộ Đức); 15 ha Ba kích, Sa nhân tại các xã và thị trấn Ba Tơ (Ba Tơ); 46,6 ha Đinh lăng, Ba kích ở xã Sơn Thành, Sơn Cao (Sơn Hà).

Phát triển 155 ha Đinh lăng, Gừng, Sả, Nghệ, Ba kích, Đảng sâm, Sâm Ngọc Linh, Quế tại các xã: Trà Bình, Trà Phú, Trà Sơn, Trà Thủy, Trà Lâm, Trà Giang, Trà Tân, Trà Bùi và thị trấn Trà Xuân (Trà Bồng); 604 ha Gừng, Quế tại xã Trà Quân, Trà Lãnh, Trà Nham (Tây Trà); 154 ha Sa nhân, Ba kích, Đảng sâm, Nghệ, Gừng, Đinh lăng, Quế trên địa bàn xã: Sơn Lập, Sơn Long, Sơn Bua, Sơn Màu, Sơn Liên (Sơn Tây).

Định hướng đến năm 2025 tiếp tục mở rộng diện tích và chủng loại dược liệu hàng hóa có ưu thế trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, tiếp tục trồng thử nghiệm (Kim tiền thảo, Ba kích, Cà gai leo, Lô hội, Đảng sâm, Sa nhân, Sâm Ngọc Linh) và trồng cải tạo, bổ sung, thay thế diện tích cây dược liệu đã khai thác; duy trì, phát triển có hiệu quả diện tích cây dược liệu hiện có trên địa bàn tỉnh.

Xây dựng 1 - 2 vườn nhân giống cây dược liệu trên địa bàn tỉnh, với quy mô đáp ứng khoảng 15%-20% nhu cầu giống tại chỗ (tùy chủng loại); đồng thời, phát triển và quản lý hệ thống thu mua, chế biến, tiêu thụ. Cụ thể, xây dựng vườn ươm, nhân giống, với quy mô 1,0ha, tại xã Sơn Cao, huyện Sơn Hà và quy mô 0,5ha, tại xã Trà Phong, huyện Tây Trà.

P.V

Diện tích mía tại Long An chỉ còn 42% so cùng kỳ 2018

Nguồn tin: Báo Long An

Hiện nay, diện tích mía còn lại của tỉnh Long An chỉ còn lại khoảng 42% diện tích so cùng kỳ năm 2018. Đa số là diện tích mía tự mọc, không trồng mới. Như vậy, với giá thu mua như hiện nay, tình trạng này gây lãng phí hàng ngàn hecta đầu tư cho cây mía.

Nhiều ruộng mía bị bỏ hoang

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Long An - Nguyễn Chí Thiện cho biết: “Diện tích mía còn lại trên địa bàn là những rẫy mía tồn từ những vụ trước. Nông dân tận dụng mía gốc để trồng tiếp nhưng năng suất không cao do thiếu chăm sóc”.

Cũng theo ông Thiện, vừa qua, đại diện một công ty mía đường đến gặp nông dân để ký hợp đồng bao tiêu trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, do công ty chào giá quá thấp nên nông dân không đồng ý hợp tác sản xuất.

Tại xã Lương Hòa, huyện Bến Lức, phần lớn diện tích mía đã chuyển đổi sang cây trồng khác. Anh Đào Văn Giàu, ngụ xã Lương Hòa, đang dọn những liếp mía cũ, khô lá để chờ lứa mía mới lớn lên theo kiểu tự nhiên, không bón phân vì 2 vụ vừa qua, rẫy mía 0,5ha của gia đình anh lỗ hơn 50 triệu đồng.

“Hiện tại, trên địa bàn xã không còn bao nhiêu người trồng mía nữa hoặc có trồng thì thực chất là bỏ hoang rẫy mía cho mọc tự nhiên”, anh bộc bạch.

Nông dân chuyển đổi cây trồng khác

Phó Chủ tịch UBND xã Bình Đức, huyện Bến Lức - Nguyễn Văn Tài cho biết: “Diện tích mía của xã chỉ còn 120ha, giảm nhiều so với trước đây và đa số là mía tự mọc. Những hộ không chuyển đổi trồng loại cây khác chủ yếu vì thiếu vốn.”

Được biết, tại xã Tân Hòa, huyện Bến Lức, diện tích mía cũng chỉ còn hơn 30ha. Diện tích mía tại xã Thạnh Đức, Lương Hòa, Lương Bình và Thạnh Lợi cũng còn không đáng kể.

Trưởng ấp 4, xã Bình Đức - Nguyễn Thanh Tâm thông tin, những vụ mía lỗ trắng trước đây khiến nông dân không còn mặn mà với cây mía. Hiện, trong ấp chỉ còn khoảng 20ha mía. Gọi là "trồng" nhưng thực chất là nông dân chặt hết rẫy mía không bán được trước đó để tự lên từ gốc, không chăm bón.

"Nông dân còn để mía trên đồng là vì chưa có vốn chuyển đổi cây trồng khác. Một số hộ đang làm cuốn chiếu, phá rẫy mía đến đâu thì trồng chanh, thanh long,… đến đó” - ông Tâm cho biết thêm.

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Long An, diện tích mía trên địa bàn tỉnh giảm mạnh so với thời gian trước. Cụ thể, tính đến tháng 6/2019, cây mía niên vụ 2019 - 2020 có diện tích trồng ước đạt 2.908ha, chỉ bằng 42% so với cùng kỳ năm 2018, tập trung rải rác ở các huyện: Bến Lức, Thủ Thừa và Đức Hòa./.

Hải Đăng

Lâm Đồng: Người tiên phong trồng rau VietGAP tại Bảo Lộc

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Với diện tích 1 ha đất nông nghiệp, ông Trần Văn Nhĩ (Tổ dân phố 1A, phường Lộc Tiến, TP Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng) đã mạnh dạn đầu tư, áp dụng khoa học, kỹ thuật (KHKT) vào trồng rau theo tiêu chuẩn VietGAP mang lại thu nhập hơn 700 triệu đồng/năm. Bên cạnh đó, ông Nhĩ còn vận động 16 hộ dân tham gia trồng rau VietGAP với tổng diện tích gần 10 ha.

Ông Nhĩ bên vườn rau VietGAP của gia đình. Ảnh: K.Phúc

Trước đây, cũng như bao hộ dân khác ở địa phương, cuộc sống của gia đình ông Nhĩ dựa vào hơn 1 ha cà phê nên cũng chỉ đủ ăn. Năm 2009, nhận thấy thị trường ở TP Bảo Lộc rất khan hiếm rau sạch, rau an toàn nên ông Nhĩ quyết định chuyển đổi một phần diện tích cà phê sang trồng rau. “Thời điểm tôi quyết định cải tạo đất trồng cà phê chuyển qua trồng rau, rất nhiều bà con ở khu này đều bàn tán xôn xao. Nhưng tôi nghĩ, muốn thành công thì buộc mình phải làm, phải thử mới biết được. Vì thế, tôi quyết tâm tìm hiểu, học hỏi các tiêu chuẩn trồng rau” - ông Nhĩ tâm sự.

Khi mới chuyển qua trồng rau, ông Nhĩ gặp phải rất nhiều khó khăn, thách thức. Do mới bắt tay vào làm, kỹ thuật chưa có nên số rau quả trồng ra có mẫu mã, sản lượng kém, việc tiêu thụ gặp rất nhiều khó khăn. Còn khi ông đã nắm được kỹ thuật gieo trồng, chăm sóc thì lại rơi vào đúng thời điểm dội chợ, giá thấp nên lời lãi chẳng được bao nhiêu. Khó khăn nối tiếp khó khăn, nhưng ông Nhĩ vẫn quyết tâm, kiên trì bám trụ với cây rau. Để giúp gia đình “đổi vận” làm giàu từ cây rau, ngoài việc học hỏi, cập nhật các thông tin trồng rau an toàn, ông Nhĩ còn phải cất công đi tìm mối mua rau để hàng ngày cung cấp rau với số lượng ổn định…

Hiện tại, với diện tích hơn 1 ha trồng các loại như xà lách, cải, mùng tơi, tần ô và dưa leo… theo tiêu chuẩn VietGAP, gia đình ông Nhĩ đang cung cấp cho thị trường từ 500 - 700 kg rau an toàn/ngày.

Thành công với cây rau và có “của ăn, của để”, ông Nhĩ tiếp tục vận động các hộ dân trong khu vực chuyển đổi các loại cây trồng có giá trị thấp sang trồng rau nâng cao thu nhập. Ông Trần Văn Tam - thành viên Tổ hợp tác liên kết trồng rau an toàn phường Lộc Tiến cho hay: “Gia đình tôi chỉ có hơn 5 sao đất, nên trước đây trồng chè thu nhập chẳng được bao nhiêu. Từ năm 2014 đến nay, nhờ nghe theo ông Nhĩ và được ông hỗ trợ vốn, kỹ thuật chuyển qua trồng rau, quả nên cuộc sống đã ổn định hơn nhiều. Hiện nay, sau khi trừ tất cả các chi phí, cây rau đang mang lại cho gia đình tôi nguồn lợi nhuận từ 18 - 20 triệu đồng/tháng”.

Theo ông Trần Văn Nhĩ, việc trồng rau phải thực hiện đúng tiêu chuẩn cũng như kỹ thuật, hoàn toàn không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc hóa học, nước tưới là nước ngầm qua xử lý, không dùng nguồn nước kênh, mương... “Gia đình tôi luôn đặt sự an toàn cho người tiêu dùng lên hàng đầu, không vì chạy theo lợi nhuận nên sản phẩm rau của gia đình tôi bỏ mối tại Siêu thị Coopmart Bảo Lộc hay Chợ Bảo Lộc… đều đảm bảo chất lượng rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP” - ông Nhĩ quả quyết.

Dẫn chúng tôi đi tham quan mô hình trồng rau của nhà mình, ông Nhĩ cho biết, hiện nhà ông đang có hơn 1 ha rau, với các loại như cải ngọt, cải cay, mùng tơi, tần ô, dưa leo, mướp đắng, xà lách… Trong đó, có gần 2.000 m2 nhà kính công nghệ cao.

Còn lại là diện tích nhà lưới được đầu tư bài bản, với hệ thống tưới phun sương tự động thông qua điện thoại. Tất cả sản phẩm rau khi xuất bán ra thị trường đều được ông Nhĩ trồng theo tiêu chuẩn VietGAP và có dán nhãn chỉ dẫn địa lý, hộ sản xuất và ngày thu hoạch…

Cũng theo ông Nhĩ, sau khi trừ hết chi phí đầu tư, mang lại cho gia đình ông nguồn lợi nhuận từ 700 - 800 triệu đồng/năm. Hiện, trang trại trồng rau VietGAP của gia đình đang tạo công ăn việc làm thường xuyên cho 8 lao động địa phương, với mức lương từ 5 - 5,5 triệu đồng/tháng. “Trồng rau VietGAP này không giống như trồng rau thông thường, vì phải đầu tư bài bản nên chi phí đầu tư ban đầu rất lớn, nhưng đổi lại đầu ra ổn định và thu nhập cao hơn so với trồng rau thông thường…” - ông Nhĩ cho biết thêm.

Ông Nguyễn Hoàng Sơn - Phó Chủ tịch Hội Nông dân phường Lộc Tiến cho hay: “Ngoài việc làm giàu cho gia đình, ông Nhĩ cũng đã vận động, giúp đỡ nhiều hộ dân chuyển đổi cây trồng vươn lên làm giàu. Hiện, ông Nhĩ đang là Tổ trưởng Tổ hợp tác liên kết sản xuất rau an toàn tại địa phương với 16 hội viên và có hơn 10 ha rau quả an toàn. Cùng với đó, ông Nhĩ còn tự hiến đất và vận động bà con hiến đất, góp ngày công, kinh phí làm tuyến đường giao thông gần 450 triệu đồng. Với những đóng góp của mình, ông Nhĩ là 1 trong 39 nông dân xuất sắc của TP Bảo Lộc được biểu dương, khen thưởng trong giai đoạn 2013 - 2018”.

KHÁNH PHÚC

Sản lượng hồ tiêu vẫn tăng nhiều dù giá thấp

Nguồn tin: Nông Nghiệp VN

Giá thấp, diện tích trồng tiêu giảm hàng ngàn ha, nhưng sản lượng hồ tiêu 2019 vẫn tăng đáng kể.

Sản lượng hồ tiêu vẫn tăng dù giá thấp, diện tích giảm.

Theo Cục Trồng trọt, giá hồ tiêu từ đầu năm tiếp tục giảm so với những năm gần đây. Đầu vụ, giá khoảng 40.000 đồng/kg. Từ đầu tháng 6 đến nay giá có tăng lên, hiện từ 45.000 - 47.000 đồng/kg.

Do giá hồ tiêu giảm thấp nhiều năm liền làm ảnh hưởng đến thu nhập của nông dân, dẫn đến mức đầu tư chăm sóc giảm, nên nhiều vườn cây hồ tiêu sinh trưởng kém, cây bị suy yếu, bệnh hại tấn công làm cho cây hồ tiêu bị chết.

Dù vậy, sản lượng hồ tiêu vẫn tăng khá nhiều do năng suất chung vẫn tăng. Cụ thể, tổng diện tích hồ tiêu cả nước hiện là 145.447 ha, giảm khoảng 4.000 ha so với năm 2018; năng suất 25.5 tạ/ha, tăng 1,2 tạ/ha và sản lượng khoảng 300 ngàn tấn, tăng 45 ngàn tấn so với năm 2018.

5 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu hồ tiêu ước đạt 144 nghìn tấn và 372 triệu USD, tăng 33,2% về khối lượng nhưng giảm 2,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2018. Giá tiêu xuất khẩu bình quân 4 tháng đầu năm 2019 đạt 2.621 USD/tấn, giảm 25,9% so với cùng kỳ năm 2018.

Giá tiêu đang ở mức thấp so với nhiều năm do nguồn cung lớn. Dự báo trong ngắn hạn, thị trường hạt tiêu toàn cầu vẫn chịu áp lực giảm giá do cung vượt cầu. Thời gian tới, giá hạt tiêu toàn cầu chưa thể phục hồi trở lại, song tốc độ giảm sẽ chậm lại.

SƠN TRANG

Hướng tới sản xuất rau, hoa màu không sử dụng thuốc hóa học

Nguồn tin: Báo Đồng Tháp

Nhằm đánh giá những thực trạng trong sản xuất rau, màu hiện nay và tìm ra những giải pháp để tạo ra sản phẩm chất lượng, đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng, ngày 10/7, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đồng Tháp tổ chức hội thảo tư vấn sản xuất rau, hoa màu không sử dụng thuốc hóa học tại tỉnh Đồng Tháp.

Tại hội thảo, đại biểu được nghe các chuyên gia trình bày về thực trạng sản xuất rau màu hiện nay và giải pháp phát triển sản phẩm an toàn trong thời gian tới như thực trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) không đúng cách của nông dân; hiện trạng sử dụng phân bón hóa học, thuốc BVTV trong nông nghiệp và hướng khắc phục trong sản xuất nông sản an toàn; đánh giá thực trạng vấn đề rau, hoa dư lượng thuốc BVTV, thuốc kích thích, vi khuẩn, hóa chất gây hại hiện nay.

Hội thảo còn được các chuyên gia tập trung đề xuất những giải pháp đảm bảo an toàn thực phẩm ngay trong khâu sản xuất, trồng trọt nhằm tạo ra sản phẩm chất lượng và an toàn như cần sử dụng thuốc BVTV trong nông nghiệp đúng cách; ứng dụng công nghệ cao trong trồng rau, hoa màu; mô hình nông nghiệp cộng đồng cho nền nông nghiệp không dùng hóa chất...

Trang Huỳnh

Trồng khoai môn lấy ngó cho thu nhập cao

Nguồn tin: Báo Ninh Bình

Gần 1 năm trước, anh Phạm Văn Thắng, xóm Thượng 2, xã Khánh Hòa, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình mang giống khoai môn từ Học viện Nông nghiệp Việt Nam về trồng thử nghiệm trên ruộng đất lúa của gia đình. Ngó khoai môn lớn nhanh như thổi, chỉ sau 2 tháng đã cho thu hoạch.

Hiện nay, việc chăm sóc và thu hoạch ngó khoai đã giúp anh Thắng thu nhập trên dưới 6 trăm nghìn đồng/ngày.

Năm 2018, khi công việc trên thành phố gặp nhiều khó khăn, anh Phạm Văn Thắng và vợ quyết định về quê cùng với bố mẹ già chăm lo việc đồng áng. Nhận thấy, với 8 sào ruộng của gia đình nếu chỉ cấy lúa thì không thể nào trang trải cho cuộc sống nên anh đã đi nhiều nơi, tham khảo nhiều nguồn thông tin để tìm cho được loại cây trồng thay thế, có giá trị kinh tế cao hơn.

“Hiện nay, người tiêu dùng có xu hướng quay lại sử dụng và ưa chuộng các món ăn dân dã. Ngó khoai là một trong những loại như vậy, mát, bổ và lạ miệng.

Tuy nhiên, trước giờ loại ngó mà chúng ta hay sử dụng là ngó khoai của cây khoai nước, khoai dại, thân nhỏ, khó chế biến và thường bị ngứa. Riêng khoai môn là một giống cây mới, ăn giòn, ngọt và khắc phục được tính ngứa, do vậy tôi đã quyết định lựa chọn loại cây này để phát triển thành một sản phẩm hàng hóa” – anh Thắng chia sẻ.

Anh kể, ban đầu, bố mẹ phản đối, nhiều người bảo anh khùng, họ nói rằng: “Thứ rau dại đó bán ai mua, chỉ rước mệt vào người”. Bỏ ngoài tai những lời bàn tán, anh vẫn quyết tâm thực hiện ý định của mình.

Anh lên tận Học viện Nông nghiệp Việt Nam để mua được giống khoai môn chuẩn nhất; ghi chép cẩn thận công thức làm đất, bón phân cũng như mật độ trồng. Sau hơn 2 tháng xuống giống, cây khoai môn cho thu hoạch lứa ngó đầu tiên. Sau đó cứ thế cây nảy ngó liên tục nên ngày nào cũng có thể hái tỉa.

Vợ chồng anh mang ngó khoai bán ở chợ gần nhà, giao bán online và đổ buôn cho một số gian hàng nông sản sạch trên địa bàn tỉnh. Ngó khoai ăn lạ miệng nên được bà con ưa chuộng, việc bán cũng dễ dàng. Thương lái biết anh bán ngó khoai nên tới tận ruộng đặt mua. Đơn hàng ổn định nên anh Thắng không lo đầu ra của sản phẩm.

Theo anh Thắng, so với các loại cây trồng khác, khoai môn là loại cây dễ trồng, cách thức chăm sóc cũng đơn giản. Lưu ý bón lót, bón thúc, làm cỏ lúc mới trồng. Còn khi cây đã lên cứng cáp thì chỉ cần bảo đảm cấp đủ nước là có thể sinh trưởng và phát triển tốt. Đặc biệt, với giống cây này không cần sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, thi thoảng xuất hiện con sâu khoai thì bắt là hết.

Được biết, trên diện tích 8 sào đất, ngày nào anh Thắng cũng cắt được khoảng 30 kg ngó, 1 tháng thu được 1 tấn ngó khoai. Với giá bán bình quân 22 nghìn đồng/kg, mỗi tháng anh thu về 20 triệu đồng. Đặc biệt, nhiều khách hàng đang yêu cầu tăng số lượng mua nhưng diện tích trồng khoai của gia đình anh Thắng chưa đủ đáp ứng.

Do vậy, thời gian tới anh Thắng sẽ mở rộng diện tích, hoàn thiện thêm khâu sơ chế, bao gói và xây dựng thương hiệu ngó khoai “Minh Tâm” của riêng mình để đưa sản phẩm vào tiêu thụ trong các cửa hàng, siêu thị.

Bài, ảnh: Hà Phương

Hải Phòng: Hỗ trợ các hợp tác xã liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị: Giải quyết khó khăn ‘đầu ra’ sản phẩm

Nguồn tin:  Báo Hải Phòng

Thực tế hoạt động của nhiều HTX chứng minh, việc liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa và giúp các HTX giải quyết bài toán về tiêu thụ sản phẩm, hướng tới phát triển bền vững, là xu thế tất yếu.

Kết quả hình ảnh cho Hình ảnh máy gặt lúa đẹp

Thu hoạch lúa giống

Rõ hiệu quả từ liên kết sản xuất

Sản phẩm cá vược của HTX nuôi trồng thủy sản Mắt Rồng, xã Lập Lễ (huyện Thủy Nguyên, tỉnh Hải Phòng) nổi tiếng về chất lượng ngon, “sạch”. Trung bình mỗi năm, HTX cung cấp ra thị trường khoảng hơn 300 tấn cá vược thương phẩm. Thế nhưng, lợi nhuận các hộ sản xuất là thành viên HTX thu được không lớn, do sản phẩm chủ yếu bán buôn cho thương lái hoặc bán lẻ tại các chợ, chưa có doanh nghiệp bao tiêu. Giám đốc HTX, Nguyễn Đức Văn cho biết, trước nay, HTX tập trung sản xuất, chưa có kinh nghiệm trong quảng bá sản phẩm, thu hút doanh nghiệp liên kết, bao tiêu. Hơn nữa, HTX không có vốn đầu tư xây dựng khu sơ chế, bảo quản cá sau thu hoạch, nên cá thu hoạch đến đâu, phải bán cất đến đó.

Sau khi tổ chức lại hoạt động theo Luật HTX năm 2012, HTX dịch vụ nông nghiệp Hùng Tiến (huyện Vĩnh Bảo) chú trọng liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị. Từ năm 2016, HTX vận động bà con dồn điền đổi thửa xây dựng vùng sản xuất chuyên canh. HTX liên kết với Công ty CP Giống- Vật tư nông nghiệp công nghệ cao Việt Nam, mạnh dạn đưa giống lúa Nhật J02 vào sản xuất. Đây là giống lúa mới, có sức chống chịu tốt, năng suất cao. Công ty đứng ra cung cấp giống, đồng thời thu mua sản phẩm sau thu hoạch cho bà con. Trong quá trình sản xuất, HTX phối hợp với Trạm khuyến nông, khuyến ngư huyện tập huấn, hướng dẫn bà con lịch gieo cấy, kỹ thuật chăm sóc…. Qua 3 năm, mô hình liên kết sản xuất của HTX dịch vụ nông nghiệp Hùng Tiến khẳng định hiệu quả, đem lại giá trị kinh tế cao. Bình quân, thành viên HTX thu lãi thuần 24 triệu đồng/ha, cao hơn canh tác giống đại trà trước đây 10 triệu đồng/ha. Cũng nhờ liên kết, mô hình nuôi cá giống trong nhà bạt tại HTX dịch vụ nông nghiệp Cao Minh vừa giúp thành viên tiếp cận công nghệ cao trong sản xuất, vừa có thu nhập cao hơn hẳn phương pháp nuôi cá giống truyền thống trước đây.

Từ thực tế hoạt động của HTX nuôi trồng thủy sản Mắt Rồng, các HTX dịch vụ nông nghiệp Hùng Tiến, Cao Minh và nhiều HTX khác trên địa bàn thành phố cũng như các địa phương bạn. Tại hội nghị về xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm của Liên minh HTX 9 tỉnh, thành phố phía Bắc được tổ chức đầu tháng 7 tại Hải Phòng, HTX liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị là giải pháp chính được lãnh đạo liên minh các tỉnh, thành phố đề xuất nhằm thúc đẩy các HTX phát triển bền vững. Trước mắt, giúp các HTX giải quyết khó khăn hàng đầu là khâu tiêu thụ sản phẩm.

Cụ thể chính sách hỗ trợ, khuyến khích

Tuy nhiên, như ý kiến của ông Nguyễn Hữu Đạo, Phó chủ tịch Liên minh HTX và doanh nghiệp thành phố tại hội nghị, các HTX đang gặp rất nhiều khó khăn khi xây dựng và tham gia vào chuỗi giá trị. Khi liên kết, các HTX phải đáp ứng yêu cầu có sản lượng hàng hóa tương đối lớn, sản xuất ổn định, sản phẩm có chất lượng. Trong khi thực tế trên địa bàn thành phố hiện nay, phần lớn các HTX hạn chế về năng lực, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, hiệu quả không cao.

Hỗ trợ các HTX khắc phục khó khăn, ngày 5-7-2018, Chính phủ ban hành Nghị định 98/2018/NĐ-CP về chính sách khuyến khích phát triển HTX, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Các HTX mong chính sách này sớm được các sở, ngành, chính quyền địa phương cụ thể hóa. Cùng với đó, thành phố có cơ chế, chính sách thu hút doanh nghiệp, nhà đầu tư, nhà khoa học cùng với HTX tham gia xây dựng chuỗi giá trị sản xuất. Các HTX cũng mong muốn được các cấp, ngành hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng sản xuất, đặc biệt là các vùng sản xuất tập trung tham gia mô hình chuỗi; hạ tầng phục vụ khâu bảo quản và chế biến sau thu hoạch. Hỗ trợ xây dựng thương hiệu, quảng bá và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Tổ chức các HTX tham gia các hội chợ, hội nghị trong nước, quốc tế để quảng bá, giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm cơ hội hợp tác sản xuất kinh doanh. Tiếp cận với các cơ sở tín dụng có nguồn vay vốn ổn định, lãi suất ưu đãi…Tạo điều kiện để các HTX tham gia các đề án, dự án phát triển của ngành, thành phố và trung ương.

Cùng với các chính sách hỗ trợ của trung ương, thành phố, bản thân các HTX, nhất là HTX nông nghiệp cũng cần chủ động liên kết với doanh nghiệp xây dựng và phát triển các vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa quy mô lớn, sản phẩm mũi nhọn, có thương hiệu và chất lượng tốt. Đồng thời, chú trọng phát triển các sản phẩm phù hợp nhu cầu của thị trường, có lợi thế cạnh tranh để tham gia vào các chuỗi giá trị. 6 tháng đầu năm 2019, toàn thành phố thực hiện được 42 mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị có sự tham gia của các HTX với quy mô 745 ha. Trong đó, có 29 mô hình trong lĩnh vực trồng trọt, 9 mô hình trong lĩnh vực chăn nuôi và 4 mô hình trong lĩnh vực thủy sản.

Bài và ảnh: Ngọc Lan

Phú Yên: Đẩy mạnh sản xuất, nâng cao đời sống người dân miền núi

Nguồn tin:  Báo Phú Yên

Mô hình trồng cam của ông Nguyễn Hữu Bằng ở xã Ea Bar (huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên) cho hiệu quả kinh tế cao - Ảnh: MINH DUYÊN

Vùng miền núi của tỉnh lấy sản xuất nông nghiệp làm tiền đề phát triển kinh tế. Thời gian qua, nhiều mô hình sản xuất theo hướng nâng cao kỹ thuật thâm canh, đa dạng cây trồng để tăng năng suất và chất lượng nông sản đã được triển khai và nhân rộng, giúp người dân vùng miền núi tăng thu nhập.

Hiệu quả từ các mô hình sản xuất

Sau thành công của các mô hình đưa lúa lai lên đất núi, trồng cây ăn trái…, huyện Sông Hinh tiếp tục triển khai các mô hình này theo hướng nâng cao kỹ thuật canh tác, nhân rộng diện tích gieo trồng. Ông Nguyễn Khắc Sự, Trưởng Phòng NN-PTNT huyện Sông Hinh, cho biết: Địa phương đang triển khai mô hình thâm canh cây lúa nước trên đất mới khai hoang tại trạm bơm buôn Học, xã Ea Lâm với quy mô gần 4,4ha, thu hút 16 hộ tham gia, gồm các giống PY13, CH33, VN121…

Đồng thời trồng thử nghiệm một số giống lúa thuần chất lượng cao như Cốm 4, LH12, Hồng Đức 9, Thơm Lài… diện tích khoảng 1,2ha tại các xã Sơn Giang và Đức Bình Tây. Bên cạnh đó, huyện còn nhân rộng diện tích mô hình trồng cây ăn trái tại 11 xã, thị trấn lên 39,3ha, tăng hơn 29ha so với năm 2017 với các giống chủ lực như cam, bơ, sầu riêng, xoài, ổi, bưởi, mít…

Với các mô hình trên cây lúa, đơn vị chuyển giao kỹ thuật sạ hàng, sạ thưa để giảm lượng giống gieo sạ, tiết kiệm chi phí, tăng hiệu quả kinh tế và áp dụng rộng rãi kỹ thuật thâm canh. Sau hơn 1 năm thực hiện, bà con đã giảm dần lượng giống gieo sạ từ 160kg/ha xuống còn 80-120kg/ha.

Diện tích sử dụng giống lúa đạt chuẩn cấp nguyên chủng và xác nhận là 1.150ha, chiếm trên 67% tổng diện tích gieo trồng. Với mô hình cây ăn trái, để hướng tới sản xuất sạch theo chuẩn VietGAP, Phòng NN-PTNT huyện khuyến khích các hộ sử dụng phân hữu cơ, tái tạo đất bằng cách khôi phục môi trường sống cho vi sinh vật có lợi, thu hút thiên địch tấn công vi sinh vật có hại…

Huyện Đồng Xuân cũng triển khai thành công nhiều mô hình sản xuất, từng bước đa dạng cây trồng, tránh rủi ro trong sản xuất. Theo ông Trần Quốc Huy, Trưởng Phòng NN-PTNT huyện, hơn năm qua, ngoài cây lúa, địa phương còn thực hiện các mô hình sản xuất trên các cây trồng khác, như mô hình thâm canh cây đậu phộng với diện tích 21ha tại xã Xuân Phước, thâm canh cây mít tại xã Xuân Sơn Bắc với quy mô 7ha và trồng rừng thâm canh gỗ lớn giống keo lá tràm tại các xã Xuân Quang 1, Xuân Quang 2, Đa Lộc với quy mô 60ha. Qua đó giúp bà con thay thế diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả; chuyển giao kỹ thuật trồng cây ăn trái; và trồng rừng tăng hiệu quả kinh tế.

Ở huyện Sơn Hòa, địa phương cũng triển khai nhiều mô hình sản xuất, trong đó nhiều nhất là các mô hình trên cây mía, từng bước hướng tới xây dựng cánh đồng mía lớn. Ông Trương Văn Tuấn, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông (Sở NN-PTNT), cho biết: Trong năm qua, đơn vị đã triển khai 3 mô hình trên cây mía tại các xã Ea Chà Rang và Krông Pa, chú trọng tới việc đưa cơ giới hóa vào sản xuất.

Theo đó, đơn vị đã hỗ trợ 7 giàn phun mưa cho 7 hộ để tưới nước cho mía trên diện tích 7ha, 4 giàn thiết bị trồng và bón phân cho 8 hộ trên diện tích 8ha. Kết quả mía tưới nước cho năng suất cao hơn trồng mía ăn theo nước trời 18 tấn/ha, cho hiệu quả kinh tế cao hơn 2,4 triệu đồng/ha; còn khâu trồng và bón phân bằng máy tiết kiệm được 2 triệu đồng chi phí cho mỗi hécta.

Mang lại lợi ích cho người dân

Theo ông Phạm Minh Trí ở xã Ea Chà Rang, so với canh tác thủ công, khi trồng và bón phân bằng máy có thể tiết kiệm được 1 lần cày (tương đương 1 triệu đồng) và giảm được 10 công lao động. “Nếu tính ở giá thấp thì 150.000 đồng/công. Nhưng trên thực tế, giá công ngày một cao, có lúc hiếm lao động nông nhàn, tôi phải thuê công từ 200.000-250.000 đồng/công. Việc đưa máy móc vào sản xuất là nhu cầu tất yếu của sản xuất nông nghiệp hiện đại”, ông Trí nói.

Còn ông Nguyễn Hữu Bằng ở xã Ea Bar (huyện Sông Hinh) cho biết: Tôi đã trồng cây ăn trái từ nhiều năm nay nhưng vẫn chưa tự tin vì kỹ thuật trồng chủ yếu học trên mạng và kinh nghiệm của những người đã làm. Cho tới khi tiếp cận những mô hình trồng cây ăn trái ở địa phương với kỹ thuật trồng mới và được chính quyền địa phương khuyến khích trồng theo quy hoạch, tôi đã quyết định mở rộng diện tích với nhiều loại cây trái xen canh. Hiện gia đình tôi tăng diện tích từ 2,3ha lên trên 6ha với đa dạng các loại cây ăn trái gồm cam, sầu riêng, chanh dây và cả hồng xiêm… Thu nhập mỗi năm bình quân trên 1 tỉ đồng.

Ông Nguyễn Dư, Giám đốc HTX Sản xuất kinh doanh dịch vụ Xuân Phước (huyện Đồng Xuân), chia sẻ: Hiện diện tích trồng đậu phộng của bà con tăng lên 30ha. Vụ vừa qua, năng suất đạt 7 tạ/ha, với giá bán 16.000 đồng/kg đậu phộng tươi và 25.000 đồng/kg đậu phộng khô, bà con có thu nhập cao hơn trồng lúa gấp 3 lần. Hiện HTX được các cơ quan, ban, ngành hỗ trợ lắp đặt máy móc, xây dựng thương hiệu độc quyền cho sản phẩm đậu phộng Xuân Phước. Sau khi hoàn thành, diện tích trồng đậu phộng của bà con tăng lên từ 50-100ha, không lo đầu ra tiêu thụ.

Theo ông Nguyễn Trọng Tùng, Giám đốc Sở NN-PTNT, thời gian qua, đơn vị đã triển khai nhiều mô hình sản xuất tại vùng miền núi, giúp thay đổi tập quán canh tác của bà con, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Sở chú trọng tới khâu giống, cơ giới hóa, đa dạng cơ cấu cây trồng, giảm chi phí sản xuất, hướng tới nền nông nghiệp tự động hóa. Đến nay, bà con vùng miền núi đã căn bản nâng cao kỹ thuật canh tác, từng bước hiện đại hóa sản xuất… Thời gian tới, đơn vị tiếp tục triển khai các mô hình sản xuất tại vùng miền núi, trong đó tập trung vào các loại nông sản chủ lực gắn với mỗi xã một sản phẩm làng nghề; thử nghiệm các cây trồng mới, giống mới cho giá trị kinh tế cao…

Ông Nguyễn Trọng Tùng, Giám đốc Sở NN-PTNT Phú Yên: Thời gian tới, Sở NN-PTNT tiếp tục triển khai các mô hình sản xuất tại vùng miền núi, trong đó tập trung vào các loại nông sản chủ lực gắn với mỗi xã một sản phẩm làng nghề; thử nghiệm các cây trồng mới, giống mới cho giá trị kinh tế cao…

MINH DUYÊN

Vĩnh Long: Chú trọng quản lý giống

Nguồn tin:  Báo Vĩnh Long

Theo Sở Nông nghiệp- PTNT tỉnh Vĩnh Long, thời gian qua, nhờ có nhiều giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về giống nên công tác giống đã có những chuyển biến tích cực. Nhờ đó, các tổ chức, cá nhân có điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất kinh doanh. Người dân cũng có cơ hội tiếp cận đa dạng chủng loại giống có chất lượng.

Hệ thống nhân giống lúa thuần của tỉnh ngày càng được củng cố nhân rộng.

Toàn tỉnh hiện có khoảng 300 cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây trồng, trong đó 185 cơ sở sản xuất và kinh doanh giống lúa với sản lượng giống xác nhận 200 tấn, cùng đó là 29 cơ sở giống cây ăn trái và 50 cơ sở giống rau màu.

Trong chăn nuôi, thủy sản, toàn tỉnh hiện có 154 cơ sở sản xuất, kinh doanh giống gia súc, gia cầm, 427 cơ sở giống thủy sản. Trong đó, có 39 cơ sở sản xuất giống thủy đặc sản, với các loại thủy đặc sản như lươn, ba ba, cá chình, cua đinh, ếch, cá chạch lấu, cá bống tượng, với tổng diện tích 7,11ha, sản lượng ước đạt trên 10 triệu tấn giống các loại.

Đánh giá của sở này, tình trạng sản xuất, kinh doanh giống vẫn còn những hạn chế về chất lượng, nguồn gốc giống, nhãn hàng hóa. Một số cơ sở chưa thực hiện tốt các quy định về điều kiện sản xuất, kinh doanh, về khảo nghiệm, kiểm định giống, kiểm dịch vận chuyển, công bố chất lượng, hợp chuẩn, hợp quy,…

Điều này đòi hỏi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phục vụ quản lý giống nông nghiệp phải mang tính khả thi cao, chế tài xử phạt đủ sức răn đe, công tác quản lý chất lượng giống cần đi vào chiều sâu.

Tin, ảnh: LÊ SƠN

Đam mê với nghề trồng lan

Nguồn tin:  Báo Nam Định

Xuôi theo triền đê sông Đào về xóm 8, xã Tân Thành (Vụ Bản, tỉnh Nam Định), hỏi thăm anh Nguyễn Hữu Đông chuyên trồng lan, chúng tôi được người dân tận tình chỉ dẫn. Sau hơn 10 năm gắn bó, nghề trồng lan không chỉ thỏa mãn niềm đam mê với loài hoa này mà còn mang lại cho gia đình anh thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

Anh Nguyễn Hữu Đông, xã Tân Thành (Vụ Bản) chăm sóc lan đai châu trong vườn nhà.

Xuất phát từ thú vui điền viên, từ lâu, anh Đông đã đặc biệt yêu thích các loài hoa, nhất là hoa lan, mỗi lần sà vào hàng lan là mải mê ngắm nghía, mua đến không còn đồng nào trong túi. Ban đầu chỉ là mua chơi vài chục ngồng, sau nhận thấy giá trị kinh tế của cây lan, anh tập trung vào trồng để kinh doanh. Việc trồng lan khá kỳ công, ngoài sự yêu thích còn đòi hỏi sự tỉ mỉ về quy trình chăm sóc và hiểu biết cặn kẽ thuộc tính của từng loài. Khó nhất là thời gian mới trồng, cây chưa ra rễ và thuần với khí hậu nên thường xuyên phải chú ý về sâu bệnh, điều tiết độ ẩm, ánh sáng, nhiệt độ.

Chăm sóc lan hơn chăm con mọn, ngày ngày, anh luôn bám vườn, kịp thời phát hiện các triệu chứng bệnh để điều trị ngay, tránh lây lan; tạo môi trường sạch sẽ, thoáng mát cho cây phát triển. Lúc đầu, do chưa nắm vững về kỹ thuật chăm sóc, thiếu kinh nghiệm nên anh gặp rất nhiều khó khăn. Có những hôm đang nắng gặp mưa, lá và thân lan thối nhũn phải vất đi 6, 7 bệ hoa. Có những cây đã trồng được 7 năm, hoa lá đang vào độ đẹp, phát triển tốt thì phải dỡ ra trồng lại do ký trên gỗ nhãn hay bị mục chân. Ngoài ra, cây lan còn thường gặp một số loại sâu bệnh như: rụt rễ, vàng lá, rệp vảy nhót và phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết nên người trồng phải biết cân đối nắng, mưa… Trước khi mưa, anh thường phải bơm phủ một lớp thuốc cho cây như một lớp áo giáp bảo vệ, sau khi mưa lại lấy nước bơm vào để hoàn tính môi trường của cây trở lại bình thường. Chưa kể những ngày bão gió, mưa dầm, sương muối phải “chạy” cây vào nơi an toàn hoặc phủ bạt để che chắn.

Trải qua không ít thất bại trong suốt quá trình trồng, anh dần dần tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý giá, từ khâu ghép cây, chăm sóc đến khâu chọn gỗ để ghép lan. Nhiều lần, anh kỳ công mua những gốc cây tận chùa Hương về tỉa tót, đưa lên bệ để trồng lan, còn nếu đắt tiền hơn là dùng gỗ lũa, không bao giờ lo mối mọt. Sau những thăng trầm của nghề, đến nay, anh đã thuần thục về kỹ thuật chăm sóc lan đai châu, tạo ra những ngồng lan đẹp nở vào đúng dịp Tết, được người chơi rất ưa chuộng. Khi chọn mua giống cây, anh thường thiên về đai châu rừng Lào, Trường Sơn, không trồng và chơi đai châu cấy mô. Theo anh, đai châu rừng có hương thơm đặc biệt quyến rũ, màu sắc sáng đẹp, chuỗi hoa dài lại có độ bền cao, từ khi bắt đầu có ngồng hoa đến khi nở hết kéo dài khoảng 2,5 tháng. Lan đai châu còn “hay” ở chỗ ngoài cho hoa, chơi lá và rễ cũng rất đẹp bởi lá dày mọng nước, xanh đậm quanh năm, rễ khỏe khoắn, tỏa đều buông rủ. Anh Đông cho biết: “Hầu hết giống hoa lan rừng trong vườn nhà tôi hiện đã được thuần dưỡng, thích nghi với khí hậu nên không quá vất vả khi chăm sóc. Hiện tại, một tháng tôi chỉ cần phun thuốc 2 lần để phòng trừ các loại bệnh cho cây”.

Để cây lan sinh trưởng tốt, anh còn đầu tư hàng trăm triệu đồng làm 4-5 giàn treo, có lưới che mát, đảm bảo cây không bị ánh nắng chiếu trực tiếp mà vẫn hứng được khí trời, sương, gió. Đến nay, vườn lan nhà anh Đông đã có 50 bệ đai châu, mỗi bệ ghép từ 30 ngồng trở lên, cá biệt có bệ ghép tới 40-50 ngồng. Ngoài ra anh còn sở hữu hàng trăm giỏ phi điệp là loài rất được thị trường ưa chuộng hiện nay và nhiều loại lan thân thòng như trầm, long tu, hạc vỹ... Riêng với đai châu, là loài hoa mang ý nghĩa “nghinh xuân” nên vào mỗi dịp Tết, lan đai châu nở rộ, vườn nhà anh lại tấp nập người đến thuê. Với giá cho thuê mỗi bệ từ 5-7 triệu đồng trong khoảng thời gian từ 18 tháng Chạp đến mồng 8 tháng Giêng, hàng năm, anh thu được vài trăm triệu đồng, chưa kể tiền bán các loại lan thòng. Thành công với nghề trồng lan, am hiểu về lan rừng, anh còn luôn sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm, tư vấn, hướng dẫn tận tình kỹ thuật chăm sóc cho người thích trồng và chơi lan.

Hơn 10 năm bén duyên với nghề trồng lan, anh Đông đã thỏa niềm đam mê khi ngày ngày được chăm sóc, ngắm nghía những ngồng lan xanh mướt, những giò lan đung đưa trong gió tỏa hương thơm ngát. Và hơn cả, nghề trồng lan đã góp phần phát triển kinh tế, mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho gia đình anh./.

Bài và ảnh: Lam Hồng

Nuôi dê sinh sản cải thiện kinh tế gia đình

Nguồn tin: Nông Nghiệp VN

Những năm gần đây, thời tiết diễn biến ngày càng phức tạp, để thích ứng với biến đổi khí hậu huyện Thới Bình (Cà Mau) đã chuyển đổi SX chọn giống cây trồng, vật nuôi sao cho phù hợp để phát triển kinh tế gia đình. Trong đó, có mô hình nuôi dê sinh sản.

Anh Ðặng Văn Miên, ở ấp 6, xã Tân Lộc Ðông (huyện Thới Bình), chăm sóc đàn dê.

Anh Danh Tài (người Khmer) ở ấp 7, xã Tân Lộc, huyện Thới Bình, trước đây, do không đất SX nên cuộc sống gia đình anh Tài chỉ biết dựa vào những đồng tiền làm thuê của vợ chồng. Hằng ngày anh Tài đi làm hồ, còn vợ anh thì ai mướn gì làm nấy.

Chính vì thế, dù lao động cật lực nhiều năm liền, vợ chồng anh cũng không sao thoát được cái nghèo. Do ít vốn nên ban đầu anh Tài chỉ mua được 1 con dê đực và 2 con dê cái về nuôi thử.

Thật bất ngờ là dê rất thích nghi với điều kiện thổ nhưỡng địa phương, phát triển tốt. Sau hơn 4 tháng nuôi đàn dê đã cho những lứa dê giống đầu tiên. Thấy mô hình bước đầu mang lại hiệu quả nên anh quyết tâm nhân rộng. Đến nay ngoài việc bán được 10 con dê giống với giá hơn 5 triệu đồng/con, anh Tài hiện nuôi 12 con dê, trong đó có 10 con dê cái, hiện có 6 con đang mang thai.

Anh Tài chia sẻ: “Dê rất dễ nuôi, ít bệnh và phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, thời tiết nơi đây. Do ở ấp 7, bà con chủ yếu nuôi tôm nên các loại cỏ dại, mọc trên bờ bao vuông tôm rất nhiều, từ đó, tạo nguồn thức ăn phong phú cho dê.

Ngoài ra, dê cũng sinh sản khá nhanh, chỉ cần sau 4 tháng nuôi là dê bắt đầu cho sinh sản, giá cả cũng khá ổn định. Hiện dê giống có giá từ 4,5 – 5 triệu đồng/con, còn dê thịt cũng có giá từ 100.000 – 120.000 đồng/kg. Nhờ nuôi dê mà kinh tế gia đình tôi được cải thiện đáng kể”.

Còn anh Ðặng Văn Miên, ở ấp 6, xã Tân Lộc Ðông (huyện Thới Bình), cũng là một trong những hộ nuôi dê thành công. Do nhận thấy sau nhiều năm độc canh con tôm hiệu quả kinh tế gia đình không mấy phát triển, nên anh Miên thực hiện mô hình đa cây, đa con trên cùng một diện tích để phát triển kinh tế gia đình. Ban đầu, anh mua 1 con dê đực và 4 con dê cái về nuôi. Do là giống dê Bách Thảo nên đàn dê phát triển khá tốt. Chỉ sau 4 tháng nuôi đã cho những lứa đầu tiên.

Anh Miên nói: Muốn cho dê đẻ đúng lứa, trước hết mình phải đảm bảo cho dê có sức khoẻ thật tốt, vào mùa hạn ít cỏ nên cần bổ sung nước cám cho dê uống, nhờ thực hiện cách này mà đàn dê nhà tôi đẻ rất sai. Tôi thấy mô hình nuôi dê rất phù hợp với điều kiện của gia đình mình.

“Ngoài ra, sau một thời gian thử nghiệm tôi thấy việc tận dụng phân dê để cải tạo vuông tôm đã mang lại hiệu quả thiết thực. Không chỉ gây màu nước, sinh tảo tốt mà phân dê kết hợp với men sinh học còn tạo điều kiện cho trùn chỉ phát triển, từ đó mà tôm có thức ăn nên mau lớn lắm. Từ những hiệu quả bước đầu này, thời gian tới tôi sẽ tiếp tục ứng dụng và làm lại bài bản hơn, sau khi xử lý phân tại ao có chuồng dê tôi sẽ xả qua ao thứ hai lắng ở đó vài ngày rồi xả ra vuông tôm, tôi nghĩ làm cách này sẽ tốt hơn”, anh Miên chia sẻ.

Ông Phan Chí Công, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Thới Bình: “Qua theo dõi tôi thấy nuôi dê mang lại hiệu quả kinh tế khá cao, không chỉ giúp người dân phát triển kinh tế gia đình mà còn đang mở ra hướng đi mới cho nông dân Thới Bình. Ðây là mô hình phù hợp với nông dân do dễ nuôi, chịu được thời tiết khắc nghiệt, không cần nhiều vốn và đất canh tác, giá cả và đầu ra cũng rất ổn định.

Thời gian tới, Hội sẽ tham mưu cho huyện nhân rộng mô hình, đồng thời phối hợp với các ngành chuyên môn tập huấn cho bà con kỹ thuật chăn nuôi dê, để bà con mạnh dạn nhân rộng, phát triển kinh tế gia đình, từng bước vươn lên khá giàu, góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế và xây dựng NTM ở địa phương”.

PHƯƠNG NGHI

Cần Đước (Long An): Hiệu quả từ đề án nuôi bò thoát nghèo bền vững

Nguồn tin: Báo Long An

Đề án “Nuôi bò thoát nghèo bền vững” do UBMTTQ Việt Nam huyện Cần Đước, tỉnh Long An triển khai thực hiện bước đầu mang lại hiệu quả cao. Đến nay, đề án hỗ trợ 115 hộ vay vốn (mỗi hộ vay 30 triệu đồng, không trả lãi trong 5 năm, lãi suất do UBMTTQ Việt Nam huyện vận động xã hội hóa và từ Quỹ Vì người nghèo của huyện và các xã để chi trả) và 130 con bò cho các đối tượng nằm trong dự án với tổng số tiền gần 5 tỉ đồng.

 Kết quả hình ảnh cho Hình ảnh đàn bò đẹp

Mô hình mang lại hiệu quả cao

Nhờ được hỗ trợ vốn để chăn nuôi bò mà hiện nay có rất nhiều hộ vươn lên thoát nghèo. Đặc biệt, có nhiều hộ tích lũy tiền gửi tiết kiệm hàng tháng theo quy định trong tổ vay vốn. Trò chuyện với chúng tôi, anh Đặng Văn Dũng (xã Tân Lân) vui mừng nói: “Trước đây, gia đình tôi thuộc diện hộ nghèo của xã. Gia đình chỉ có miếng đất nhỏ trồng lúa, trong khi đó, 3 đứa con đang tuổi ăn học nên cuộc sống vô cùng khó khăn. Năm 2017, gia đình tôi được UBMTTQ Việt Nam huyện hỗ trợ vay vốn 30 triệu đồng trong 5 năm không trả lãi và 1 con bò nên mừng lắm! Nhờ chăn nuôi hiệu quả, ngoài tăng thêm số lượng đàn bò, tôi còn mua thêm được 5 con dê. Đến nay, đàn dê được 15 con. Cứ 5 tháng xuất chuồng 1 lần, mỗi lần bán từ 25-30kg, lãi thu được đủ trang trải cuộc sống gia đình”. Không chỉ phát triển kinh tế gia đình, anh Dũng còn chia sẻ kinh nghiệm chăn nuôi với những ai cần học hỏi. Từ mô hình của anh Dũng, nhiều hộ trong và ngoài xã đến học hỏi để phát triển theo, góp phần cùng nhau vươn lên thoát nghèo bền vững.

Gia đình chị Phan Thị Lương, ngụ xã Phước Tuy, cũng vươn lên thoát nghèo nhờ số vốn từ đề án “Nuôi bò thoát nghèo bền vững” của UBMTTQ Việt Nam huyện hỗ trợ. Chị Lương nói: “Gia đình không có đất sản xuất, vợ chồng tôi đi làm thuê để kiếm sống nên cuộc sống gặp rất nhiều khó khăn. Sau khi được hỗ trợ vốn từ đề án “Nuôi bò thoát nghèo bền vững” của UBMTTQ Việt Nam huyện, tôi tận dụng diện tích đất xung quanh nhà để trồng cỏ và nuôi bò. Từ năm 2017 đến nay, nhờ chăn nuôi hiệu quả nên đàn bò tăng lên 4 con. Mỗi năm, khi bò con lớn, chúng tôi bán được hàng chục triệu đồng. Nhờ vậy, gia đình có thu nhập ổn định và thoát nghèo. Thời gian tới, tôi mong chính quyền địa phương tạo điều kiện cho các hộ nghèo, cận nghèo trên địa bàn có vốn để sản xuất, nâng cao đời sống, vươn lên thoát nghèo”.

Chủ tịch UBMTTQ Việt Nam huyện Cần Đước - Nguyễn Văn Hùng cho biết: “Hiện nay, ngoài đề án “Nuôi bò thoát nghèo bền vững” mang lại nhiều hiệu quả, UBMTTQ Việt Nam huyện còn nhân rộng mô hình, mở rộng đối tượng vay vốn như: Các hộ sản xuất, kinh doanh, mua bán nhỏ, làm dịch vụ và học nghề. Ngoài ra, UBMTTQ Việt Nam huyện tiếp tục duy trì sử dụng nguồn vốn của Chính phủ, Ngân hàng Chính sách Xã hội và các nguồn vốn khác hình thành nhiều dự án với số vốn gần 250 tỉ đồng, góp phần giải quyết việc làm cho 1.800 lao động, giảm hộ nghèo còn 725 hộ, cận nghèo còn 1.071 hộ, cố gắng giữ vững hộ nghèo 1,32% (kế hoạch <1,59%) và tạo điều kiện cho các hộ nghèo vươn lên thoát nghèo bền vững, ổn định cuộc sống, góp phần xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh tại địa phương”./.

Huỳnh Phong

Nam Định: Phối hợp lo sinh kế cho người chăn nuôi lợn

Nguồn tin: Báo Nam Định

Trong bối cảnh dịch tả lợn châu Phi vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, cả nước đang phải “gồng mình” chống chọi với dịch bệnh, người nuôi lợn lao đao, không thể và không dám tái đàn. Cùng với yêu cầu chuẩn bị nguồn thịt lợn thiếu hụt vào cuối năm thì việc tìm sinh kế trước mắt cho người nuôi lợn đang là vấn đề cần được ngành chức năng của tỉnh Nam Định và các địa phương quan tâm...

Phát triển nuôi thủy sản thay thế chăn nuôi lợn là một trong những sinh kế được người dân xã Hải Đông (Hải Hậu) lựa chọn nhằm mang lại nguồn thu nhập cao hơn.

Theo đánh giá của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh: Tính đến ngày 1-7-2019, dịch tả lợn châu Phi đã khiến tổng đàn lợn của tỉnh giảm 29,6%; trong đó nhiều nhất là huyện Hải Hậu giảm 42,6% tổng đàn, tiếp đến là Trực Ninh 39,3%, Nghĩa Hưng 32,5% tổng đàn... Ý Yên là địa phương xuất hiện bệnh dịch tả lợn châu Phi chậm nhất vào ngày 14-4-2019, tuy nhiên đến ngày 30-6-2019, tổng số lượng lợn mắc bệnh dịch tả lợn châu Phi phải tiêu hủy là 28.775 con, chiếm trên 20,8% tổng đàn lợn của toàn huyện. Nhiều xã trong tỉnh có số lợn mắc bệnh phải tiêu hủy chiếm tới 70-80% tổng đàn như: Nam Hồng, Nam Hùng (Nam Trực); Trực Thắng (Trực Ninh); Hải Phương, Hải Thanh (Hải Hậu); Tân Thành, Đại Thắng (Vụ Bản); Yên Quang, Yên Lương (Ý Yên)... Trước khi có bệnh dịch tả lợn châu Phi xảy ra, gia đình anh Nguyễn Viết Kiên, ở xóm 5, xã Tân Thành (Vụ Bản) đang có nguồn thu nhập khá ổn định từ nghề nuôi lợn. Khi có dịch mặc dù anh đã thực hiện các biện pháp phòng ngừa nhưng cũng không thể bảo vệ được đàn lợn khi dịch lan rộng. Cả đàn lợn 1 con lợn nái, 7 con lợn thịt và 5 con lợn choai phải tiêu hủy với tổng trọng lượng 1.145kg. Đã 2 tháng nay, cả 3 ô chuồng nhà anh vẫn để trống. Không nuôi lợn cũng đồng nghĩa anh Kiên không có việc làm và cũng chẳng có thu nhập nên đời sống gặp không ít khó khăn. Anh Kiên tâm sự: tôi cũng trăn trở, loay hoay tính toán để chuyển sang nuôi bò nhưng tìm đâu ra vốn? Chỉ đôi ba cặp bò cũng tốn cả trăm triệu đồng mua con giống, rồi chưa kể đến tiền xây chuồng, mua thức ăn. Muốn kiếm việc khác để làm thì không có nghề... Băn khoăn của anh Kiên cũng là khó khăn chung của nhiều hộ chăn nuôi lợn đang bị cơn bão dịch tả lợn châu Phi gây ra. Với những hộ thực hiện mô hình tổng hợp VAC thì việc lo sinh kế, thu nhập trước mắt không quá cấp bách vì còn có cây, con khác nhưng thu nhập giảm mạnh là điều không tránh khỏi, sinh kế lâu dài vẫn là điều trăn trở với người làm chủ gia đình.

Chăn nuôi nông hộ trên địa bàn tỉnh ta chiếm trên 70% trong tổng số hộ chăn nuôi, đây là ngành nghề luôn tiềm ẩn rủi ro. Vì thế, sự cần thiết trước tiên là phải chuyển đổi từ mô hình, phương thức chăn nuôi nhỏ lẻ, tự phát, xen kẹp trong khu dân cư sang mô hình chăn nuôi tập trung, quy mô, được đầu tư bài bản, hiện đại và phát triển tại các vùng quy hoạch dành cho chăn nuôi. Thực tế trong gần 4 tháng kể từ khi tỉnh ta xuất hiện ổ dịch tả lợn châu Phi đầu tiên cho thấy, bệnh dịch tả lợn châu Phi khởi phát từ các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ với quy mô nuôi từ 5-10 con lợn và nhanh chóng lây lan sang hộ khác trên địa bàn. Việc chăn nuôi nhỏ lẻ nên các hộ ít quan tâm đầu tư, áp dụng các biện pháp phòng, chống dịch cũng như công tác vệ sinh tiêu độc, khử trùng chuồng trại không được chú trọng; thậm chí việc triển khai các giải pháp phòng, chống dịch ở một số hộ dân ban đầu còn mang tính hình thức, đối phó và không tuân thủ chặt chẽ hướng dẫn của ngành chuyên môn. Không chỉ là nguyên nhân, tác nhân chính khiến bệnh dịch tả lợn châu Phi lây lan nhanh, mạnh, khó kiểm soát, chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ còn gây rất nhiều khó khăn trong quá trình xử lý khi dịch xảy ra. Bởi trong khu dân cư nhiều đường ngang, ngõ tắt, mặt đường nhỏ hẹp khiến việc đưa phương tiện vào vận chuyển lợn bệnh đi tiêu hủy rất khó khăn. Trong khi tốc độ lây lan nhanh, số lợn phải tiêu hủy lớn, các ổ dịch lại nằm rải rác ở nhiều thôn, xóm và diễn ra trong nhiều ngày… Từ thực tế trên cho thấy, đã đến lúc cần tính toán cụ thể cho việc chuyển đổi mô hình chăn nuôi lợn từ phương thức chăn nuôi nhỏ lẻ, tự phát sang chăn nuôi tập trung theo quy mô trang trại, gia trại với sự đầu tư đồng bộ, bài bản về chuồng trại, kiểm soát quy trình chăn nuôi chặt chẽ từ chọn lựa con giống, thức ăn đến các biện pháp phòng, chống dịch bệnh, tiêu độc, khử trùng và vệ sinh môi trường.

Theo đồng chí Nguyễn Phùng Hoan, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, ngoài việc tiếp tục thực hiện quyết liệt, đồng bộ các biện pháp để từng bước ngăn chặn, khống chế và chấm dứt bệnh dịch tả lợn châu Phi thì ngay từ bây giờ cần phải tính toán và xem đây là “cơ hội” để cơ cấu, quy hoạch lại ngành chăn nuôi theo hướng phát triển tập trung, quy mô trang trại, gia trại, đủ khả năng chống chọi với các loại dịch bệnh cũng như những diễn biến dị thường của thời tiết, biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày càng gay gắt trong những năm gần đây; đồng thời cung cấp cho thị trường những sản phẩm đảm bảo chất lượng, an toàn dịch bệnh, dễ dàng truy xuất nguồn gốc xuất xứ và đáp ứng cả yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hoàng Thị Tố Nga thì cho rằng: Ngoài việc chuyển đổi về quy mô ngành và phương thức chăn nuôi thì việc cơ cấu lại đối tượng con nuôi cũng cần được tính đến, tức là bên cạnh con lợn, cần nghiên cứu định hướng đến những con nuôi khác có giá trị kinh tế cao hơn, phù hợp với khả năng, tập quán, nguồn lực đầu tư của nông dân như: trâu, bò, con nuôi thủy sản... Kiểm soát chặt hoạt động nhập khẩu thực phẩm (thịt gia cầm, trâu, bò, lợn…) để giúp người chăn nuôi trong quá trình chuyển đổi sản xuất.

Tuy nhiên, để việc chuyển đổi ngành chăn nuôi và tạo sinh kế bền vững cho người chăn nuôi đảm bảo thành công rõ ràng rất cần có sự vào cuộc của ngành chức năng, các địa phương và sự tham gia tích cực, chủ động của người chăn nuôi. Có cơ chế, chính sách khuyến khích thúc đẩy chuyển giao tiến bộ kỹ thuật; tạo chuỗi liên kết, hợp tác giữa người chăn nuôi với các doanh nghiệp trong việc cung cấp con giống, nguồn thức ăn và tiêu thụ sản phẩm... Đồng thời cũng cần sự hợp tác của người dân thay đổi thói quen tiêu dùng, không quá thiên về thịt lợn để giảm áp lực lên chăn nuôi lợn cũng như tạo cơ hội tiêu thụ các đối tượng nuôi khác.

Bài và ảnh: Văn Đại

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop