Bắc Giang ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp: Tăng năng suất, giá trị nông sản
Nguồn tin: Báo Bắc Giang
Tích cực ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nông dân nhiều nơi trong tỉnh Bắc Giang thu nhập hàng trăm triệu đồng, thậm chí cả tỷ đồng mỗi năm. Trên cơ sở kết quả đó, nhiều mô hình sản xuất tiên tiến tiếp tục được nhân rộng.
Chủ động đầu ra, tăng giá trị kinh tế
Đang mùa thu hoạch nhưng nhà vườn trồng na tại xã Huyền Sơn (Lục Nam) không còn lo lắng như trước vì đều biết ứng dụng cách thụ phấn nhân tạo, không cho na thu hoạch cùng vào một thời điểm. Vì lẽ đó na kéo dài thời gian ra quả, cho thu hoạch từ tháng 6 đến dịp cận Tết âm lịch.
Nông dân xã Huyền Sơn (Lục Nam) cắt tỉa cành điều tiết cho na ra quả kéo dài.
Đặc biệt, na lại đa phần ra quả từ thân, cành chính khiến khách thăm vườn rất ấn tượng, thích thú. Tính toán của ông Bùi Văn Quang, Giám đốc Hợp tác xã na dai Lục Nam cho thấy, mỗi sào na giờ đây cho thu nhập khoảng 20 triệu đồng/vụ, tăng gấp đôi so với trước vì giá na bình quân luôn cao, đạt 30 nghìn đồng/kg.
Bao năm qua, chăn nuôi gà đã trở thành nghề mang lại thu nhập chính cho gia đình ông Văn Hữu Vượng, thôn Đồng Tâm, xã Thường Thắng (Hiệp Hòa). Người nông dân này có cách làm đặc biệt đó là ứng dụng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho đàn gà. Theo ông Vượng, áp dụng thành công thụ tinh nhân tạo cho lợn, bò và một số loài khác thì cũng có thể thực hiện được cho gà.
Với suy nghĩ đó, năm 2016, ông làm thử nhiều lần và đã thành công trên gà. Bằng phương pháp này, tỷ lệ trứng ấp nở đạt 95%, cao hơn 30% so với trước. Mỗi ngày gia đình ông bán hơn 5 nghìn con giống. Năm nay dự kiến ông thu hơn 4 tỷ đồng. Trang trại ấp nở gia cầm của ông tạo việc làm cho 8 lao động địa phương với mức thu nhập bình quân 5-6 triệu đồng/người/tháng.
Một cách làm mới, mang lại lợi nhuận lớn cho người nuôi chim bồ câu là nuôi trong lồng thay vì thả tự do như trước. Người tiên phong thực hiện phương pháp này là anh Nguyễn Văn Hoàn, thôn Hà Mỹ, xã Chu Điện (Lục Nam). Các cặp chim được nuôi trong lồng có ngăn để đựng trứng. Toàn bộ trứng được gom đưa vào lò ấp, sau đó anh chọn một số cặp bố mẹ khéo nuôi con, cho ăn tăng bữa, bổ sung dinh dưỡng để nuôi chim non mới nở, ghép 4 con non với một cặp bố mẹ.
Trong hai năm gần đây, toàn tỉnh đã xây dựng được hơn 100 mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao với quy mô hơn 2 nghìn m2/mô hình; thu nhập hơn 1,5 tỷ đồng/ha/năm (300 - 500 triệu đồng/mô hình).
Nhờ tách con sớm, những cặp còn lại tiếp tục sinh sản rất nhanh. Thông thường, một cặp chim bố mẹ chỉ nuôi được 2 con non và sau 40- 45 ngày mới tiếp tục đẻ lứa tiếp theo. Trong thời gian đó, chúng tiêu tốn lượng thức ăn rất lớn nên chi phí tốn kém, nếu tính toán sẽ thấy hiệu quả kinh tế thấp.
Thế nhưng tách chim non khỏi mẹ thì chỉ sau 10-13 ngày là chim đẻ một lứa, bằng 1/4 thời gian so với cách nuôi truyền thống. Qua đó giảm chi phí đầu vào, tăng năng suất vật nuôi. Cách làm của anh Hoàn đã được người dân ở nhiều nơi học tập, áp dụng.
Khuyến khích ứng dụng kỹ thuật mới
Theo Sở Nông nghiệp và PTNT, tiến bộ kỹ thuật đã xuất hiện trên tất cả các lĩnh vực của ngành. Điển hình là đưa cơ giới vào khâu làm đất, thu hoạch. Máy gặt cắt một sào lúa trong vài phút, nông dân vào mùa chỉ việc chở thóc về. Toàn tỉnh có khoảng 80% diện tích lúa được gieo sạ, cấy mạ khay; giống cây trồng, vật nuôi mới đưa vào sản xuất chiếm hơn 75% cơ cấu giống, thay thế giống cũ, thoái hóa…
Sản xuất nấm kim châm công nghệ cao tại xã Quang Châu (Việt Yên).
Các loại giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao đã được tỉnh đưa vào sản xuất hiệu quả như giống lúa lai Syn6, TBE1, LC212, các giống lúa chất lượng BC15, TBR225, Bắc Thơm 7...; giống lạc; các giống rau chế biến, lợn ngoại, gia cầm siêu thịt, siêu trứng...
Có được kết quả trên là do cơ quan chuyên môn của tỉnh luôn đồng hành, hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp; tăng cường tổng kết thực tiễn, đánh giá hiệu quả các mô hình để nhân rộng. Ngoài ra, tỉnh ưu tiên phát triển mạnh sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đối với các sản phẩm chủ lực có lợi thế như rau thực phẩm, cây ăn quả, hoa, chè, gà, lợn...
Thực hiện Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, trong hai năm gần đây, toàn tỉnh đã xây dựng được hơn 100 mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao với quy mô hơn 2 nghìn m2/mô hình; thu nhập hơn 1,5 tỷ đồng/ha/năm (300 - 500 triệu đồng/mô hình).
Ông Dương Thanh Tùng, Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT cho biết, việc ứng dụng tiến bộ vào sản xuất luôn được ngành quan tâm. Hằng năm từ kinh phí được phân bổ, Sở, các huyện, TP đều dành một phần để xây dựng mô hình, chuyển giao kỹ thuật mới cho người dân. Từ những mô hình ban đầu, ngành sẽ đánh giá kỹ trước khi khuyến cáo nhân rộng, tránh rủi ro cho nông dân.
Trường Sơn
Bảo vệ thương hiệu bưởi da xanh Bến Tre
Nguồn tin: Báo Đồng Khởi
Bưởi da xanh (BDX) Bến Tre là loại trái cây ngon nổi tiếng cả nước, BDX đã giúp nhiều người dân Bến Tre làm giàu. Người Bến Tre không muốn “cầm vàng lại đánh rơi vàng”, Hiệp hội BDX Bến Tre ra đời với vai trò bảo vệ thương hiệu này trước rất nhiều thách thức, đồng thời góp phần với tỉnh quyết định “vận mệnh” trái BDX Bến Tre.
Bưởi da xanh Bến Tre được người tiêu dùng ưa chuộng.
Ảnh hưởng do biến đổi khí hậu
BDX Bến Tre ngon nức tiếng cả nước phần lớn nhờ thổ nhưỡng, cho đến nay, có thể nói không nơi nào trong cả nước trồng BDX ngon bằng ở Bến Tre. Chính vì thế mà Cục Sở hữu trí tuệ đã cấp chỉ dẫn địa lý “Bưởi da xanh Bến Tre” cho tỉnh. Nay thì món quà thiên nhiên ban tặng đang bị đe dọa do biến đổi khí hậu (BĐKH).
“BĐKH không chỉ ảnh hưởng riêng BDX mà còn đe dọa tất cả lĩnh vực sản xuất khác. Chính vì vậy, việc thành lập Hiệp hội BDX Bến Tre là để chúng ta (nhà nông, nhà kinh doanh, nhà quản lý và nhà khoa học - PV) liên kết lại với nhau để cùng có cái nhìn và có cách ứng phó với BĐKH một cách phù hợp”, ông Huỳnh Quang Đức - Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết. Người Bến Tre đang chung tay tìm giải pháp giảm thiểu những tác động tiêu cực, rủi ro do BĐKH gây ra cho cây BDX, đây là câu chuyện rất quan trọng hiện nay. Theo ông Đức, việc liên kết sẽ giúp các nhà nông hình thành những vùng sản xuất để quản lý tốt về mặt kỹ thuật, canh tác, có giải pháp phù hợp trong điều kiện BĐKH. Về phía doanh nghiệp sẽ có thông tin, hiểu biết và thấy rõ những tác hại của BĐKH lên trái BDX, kịp thời có những tiên liệu về mặt thị trường, sản xuất.
Theo quan sát của ông Đức, hạn mặn là thứ mà BDX “sợ” nhất, đe dọa lớn nhất và trực tiếp nhất đối với BDX. Kế đến là sâu bệnh, do ảnh hưởng BĐKH, diễn biến sâu bệnh rất phức tạp, thậm chí có những loại sâu bệnh mới mà nó “đồng hành” với BĐKH như sâu đục trái, song song đó, BĐKH còn làm chất lượng trái có thể bị ảnh hưởng, kể cả tuổi thọ của cây. Điều đáng nói là “Những tác động của BĐKH nói trên cho cây BDX thì đang diễn ra và có biểu hiện ngày càng gay gắt”, ông Huỳnh Quang Đức khẳng định.
Ở góc độ vừa là nhà quản lý, nhà khoa học, ông Huỳnh Quang Đức cho rằng, có giải pháp để BDX thích ứng BĐKH. Ông nói: “Bên cạnh việc ứng dụng thực hành nông nghiệp tốt, sản xuất hữu cơ để cây BDX có nền tảng bền vững thì Bến Tre đang đẩy mạnh công tác giống. Cụ thể là lựa chọn bộ giống có hệ thống gốc ghép phù hợp với BĐKH (nước mặn, hạn hán) để phổ biến trong Hiệp hội nói riêng và nông dân sản xuất BDX trong tỉnh nói chung”.
Bưởi da xanh được chọn trưng bày, giới thiệu hàng đặc sản trên toàn quốc.
Bảo vệ “mỏ vàng”
Nhiều nông dân ở Bến Tre tự hào, chỉ cần bán một trái BDX là có đủ tiền chợ cho cả gia đình trong một ngày. BDX thật sự chiếm một vị trí quan trọng trong kinh tế hộ gia đình ở nông thôn Bến Tre. Tuy nhiên, Bến Tre không còn là địa phương duy nhất cả nước trồng nhiều BDX mà vùng trồng từ các tỉnh miền Đông cũng đang phát triển ồ ạt diện tích đất trồng BDX.
Người có nhiều năm kinh nghiệm trong việc đưa thương hiệu BDX Bến Tre vươn xa, ông Đàm Văn Hưng - Giám đốc Công ty TNHH MTV Xuất nhập khẩu Hương Miền Tây, huyện Mỏ Cày Bắc chia sẻ: “BDX Bến Tre được đánh giá là ngon số 1 cả nước, thậm chí bạn bè quốc tế cũng công nhận điều đó, nhưng điều đáng lo ngại là danh tiếng ấy đang bị cạnh tranh bởi những vùng trồng khác. Như các tỉnh miền Đông, khoa học kỹ thuật của họ rất phát triển, gần như ngang bằng nông dân Bến Tre, họ chỉ thua chúng ta về thổ nhưỡng. Nông dân miền Đông lại có lợi thế sở hữu nhiều đất đai, mỗi hộ có thể có tới vài chục héc-ta là điều bình thường, họ có vùng trồng rộng lớn, còn ta thì manh mún, canh tác nhỏ lẻ, nhưng ta đang liên kết sản xuất, xây dựng chuỗi liên kết bưởi, từ mảnh vườn nhỏ lẻ ta đang hình thành vùng sản xuất rộng lớn”.
Trong bối cảnh hàng rào kỹ thuật của các nước ngày càng thắt chặt chất lượng nông sản, Hiệp hội BDX Bến Tre ra đời trong vai trò là “bà mẹ đỡ đầu” cho trái BDX vươn cao, vươn xa. Ông Đàm Văn Hưng bày tỏ tin tưởng: “Hiệp hội là tổng lực sức mạnh toàn tỉnh giúp cho trái BDX Bến Tre có sản phẩm tốt, sản lượng lớn và nguồn lực dồi dào thì ta không lo gì tìm được thị trường tiêu thụ”.
Tha thiết với trái BDX, anh Võ Duy Kha, ngụ xã Nhơn Thạnh, TP. Bến Tre tham gia Hiệp hội BDX Bến Tre với vai trò hội viên, bản thân anh Kha mong muốn: “Được kết nối với hiệp hội, tạo ra diện tích lớn, thị trường lớn, tạo ra giá trị cao hơn cho BDX Bến Tre, qua đó, đem lại lợi nhuận cho nông dân tỉnh nhà, để trái BDX Bến Tre được lưu truyền danh tiếng đặc sản tỉnh nhà từ đời này sang đời khác”.
Bôn ba trên thương trường, ông Đàm Văn Hưng cảnh tỉnh: “Người Bến Tre không thể chủ quan mà “ngủ quên trên chiến thắng”, cứ cho mình là số 1 thì không thể tồn tại lâu trên thương trường. Mà chúng ta phải tỉnh táo, luôn luôn sản xuất tập trung và áp dụng khoa học kỹ thuật ứng phó với BĐKH để BDX Bến Tre luôn là số 1”.
Giao nhiệm vụ quản lý và khai thác chỉ dẫn địa lý BDX Bến Tre cho Hiệp hội BDX Bến Tre. Đó là phát biểu của ông Bùi Văn Lâm - Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại Đại hội thành lập Hiệp hội BDX Bến Tre. Ông Lâm cho hay, sắp tới, việc xuất khẩu nông sản, trong đó có BDX vào thị trường Trung Quốc sẽ có nhiều diễn biến khó lường. Hiệp hội cần quan tâm xây dựng nhãn hiệu và truy xuất nguồn gốc nhằm bảo hộ, quản lý sản phẩm BDX, giữ vững danh tiếng và tăng năng lực cạnh tranh của BDX trên thị trường.
Bài, ảnh: Thạch Thảo
Đưa trái nhãn tươi vào thị trường Australia
Nguồn tin: Báo Công Thương
Theo Thương vụ Việt Nam tại Australia, mới đây, Bộ Nông nghiệp và Nguồn nước Australia đã chính thức công bố các điều kiện nhập khẩu quả nhãn tươi từ Việt Nam vào Australia.
Theo đó, trước khi nhập khẩu vào Australia, doanh nghiệp nhập khẩu cần đăng ký giấy phép hợp lệ do Bộ Nông nghiệp Australia cấp. Giấy phép nhập khẩu được cấp khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện nhập khẩu.
Trái nhãn Việt Nam đã được xuất khẩu đến nhiều thị trường
Nếu nhà nhập khẩu nhận biết được các thông tin cung cấp cho nhân viên phụ trách an toàn sinh học là không chính xác hoặc còn thiếu, nhà nhập khẩu đó hoặc đại lý của họ phải thực hiện sớm nhất có thể việc: Thông báo cho Giám đốc cơ quan an toàn sinh học; Cung cấp các thông tin bổ sung hoặc chính xác cho Giám đốc cơ quan an toàn sinh học.
Trước khi xuất khẩu, quả nhãn phải được chứng minh có nguồn gốc, sản xuất và xuất khẩu theo hệ thống quy trình vận hành cần thiết để duy trì và xác minh tình trạng kiểm dịch thực vật. Quả nhãn cũng phải trải qua các biện pháp quản lý rủi ro bắt buộc.
Để chứng minh cho sự phù hợp với các yêu cầu này, trên giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật phải ghi rõ thông tin bổ sung sau: Trái cây trong lô hàng này được sản xuất tại Việt Nam phù hợp với các điều kiện nhập khẩu nhãn tươi vào Australia và phù hợp với Chương trình "Xuất khẩu trái câu tươi của Việt Nam vào Australia"; Quả nhãn được chiếu xạ với liều lượng tối thiểu là 400 Gy…
Quả nhãn xuất khẩu không được lẫn các chất ô nhiễm (ví dụ, các mảnh từ thân và lá, đất, hạt, hoặc các vật liệu ngoại lai khác); Hàng hóa xuất khẩu phải đáp ứng được ít nhất một trong các phương pháp đóng gói an toàn.
Nhãn tươi đóng gói phải được dán nhãn với các thông tin xác minh đầy đủ nhằm mục đích truy xuất nguồn gốc, bao gồm: Sản phẩm của Việt Nam cho thị trường Australia; Loại trái cây; Mã số cơ sở đóng gói (PHC); Mã số cơ sở xử lý (TFC); Số định dạng xử lý (TIN).
Công đoạn đóng gói và vận chuyển không để ô nhiễm bởi kiểm dịch côn trùng hoặc các điều kiện liên quan. Theo đó, tất cả các vật liệu bằng gỗ liên quan đến lô hàng được sử dụng để đóng gói và vận chuyển các sản phẩm tươi phải tuân thủ chính sách về các yêu cầu thông tin phi hàng hóa. Bao bì phải được làm từ vật liệu tổng hợp hoặc vật liệu chế biến cao nếu có nguồn gốc thực vật. Bao bì không được làm bằng nguyên liệu thực vật chưa qua chế biến chẳng hạn như rơm. Đối với vận chuyển bằng đường biển, các container phải được kiểm tra bởi Cục Bảo vệ Thực vật Việt Nam trước khi xếp hàng để đảm bảo không có côn trùng và các lỗ thông hơi phải được phủ kín không cho côn trùng xâm nhập…
Thời gian qua, các cơ quan Việt Nam và Australia đã làm việc thường xuyên nhằm đưa trái nhãn vào thị trường. Nếu xuất khẩu nhãn tươi Việt Nam đi Australia thành công, đây sẽ là trái cây thứ 4 vào nước này tiếp theo trái vải, xoài và thanh long.
Hiện nay, Việt Nam đã xuất khẩu nhãn vào nhiều thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU… và đều đáp ứng chuẩn về sạch dịch hại, an toàn, đồng nhất, chất lượng và có hàng quanh năm.
Bảo Ngọc
Lâm Đồng: Trung tâm sản xuất giống bơ đặc sản vùng Tây Nguyên
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Có tới 20 vườn bơ giống đầu dòng của Lâm Ðồng hiện đang cung cấp giống không chỉ cho nông dân trong tỉnh mà còn xuất bán cho các tỉnh Tây Nguyên, thậm chí cả miền Tây, miền Ðông Nam Bộ.
Giống bơ ghép đầu dòng đang mang lại thu nhập ổn định cho người nông dân. Ảnh: H.Yên
Vài năm trở lại đây, khi giá bơ tăng cao, nhu cầu trồng bơ không chỉ ở Lâm Đồng mà còn lan rộng ra khu vực, đã giúp cho nhiều nhà vườn ương giống bơ đầu dòng ăn nên làm ra. Hiện nay, tại Lâm Đồng, đang có nhiều giống bơ ghép đầu dòng cho năng suất, chất lượng tốt và mang lại hiệu quả cao cho người nông dân. Hầu hết các trung tâm và cơ sở sản xuất giống bơ ghép tập trung chủ yếu ở TP Bảo Lộc, huyện Bảo Lâm (nơi sản xuất bơ giống trọng điểm của Lâm Đồng) đã được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) công nhận là cây giống đầu dòng. Ông Bùi Đình Thám (Thôn 12, xã Lộc Thành, Bảo Lâm) cho biết: Trang trại của ông đang có 2.500 cây bơ trồng xen với 10 ha cà phê và đã cho thu hoạch. Trong đó, có 3 giống bơ ghép BLD/05, BLD/034 và BLD/036 được Sở NN-PTNT công nhận cây bơ đầu dòng để sản xuất giống. Những cây bơ được bình tuyển là cây đầu dòng phải hội đủ các tiêu chí nổi trội như năng suất, chất lượng tốt, có khả năng sinh trưởng và phát triển phù hợp với thực tế sản xuất của các vùng trồng bơ. Năm nay, trang trại của ông đã sản xuất khoảng 24.000 cây bơ giống, cung cấp chủ yếu trong tỉnh, còn lại là xuất bán cho tỉnh Đắk Nông và Bình Phước.
Tương tự, tại cơ sở sản xuất giống bơ ghép của ông Nguyễn Xuân Bách ở huyện Bảo Lâm cũng đã bán trên 100.000 cây giống. Ông Bách cho biết, bơ ghép đầu dòng là cây bơ chuyên dùng để lấy chồi sản xuất giống. Việc tuyển chọn cây đầu dòng rất nghiêm ngặt và căn cứ vào các tiêu chí như sức đề kháng, chống chịu sâu bệnh, sinh trưởng và phát triển tốt. Cùng với bơ ăn quả, gia đình ông Bách còn dành hơn 1 ha đất xây dựng trang trại bơ giống, chuyển giao mô hình trồng xen bơ với cây cà phê, cung cấp giống bơ ghép cho cả khu vực Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ… Hai năm gần đây, ông Bách đã sản xuất và cung cấp cho nông dân quanh vùng trên hàng trăm ngàn cây bơ giống chất lượng đạt doanh thu cả tỷ đồng.
Các loại bơ 034, Pinkerton, Hass, bơ Booth… đã và đang được người dân nhiều địa phương lựa chọn trồng nhiều nhất vì giá trị kinh tế của nó khá cao. Từ năm 2014 trở về trước, trung bình mỗi năm, các vườn giống chỉ cung ứng ra số lượng không lớn, chỉ đủ phục vụ nhu cầu người dân trong tỉnh, tuy nhiên, những năm gần đây, phong trào trồng bơ có giá trị tăng cao, người làm giống bơ cũng đã bắt đầu đầu tư vườn ươm quy mô lớn, vì vậy mà năm 2019, đã cung ứng gần 400.000 giống bơ đầu dòng cho nông dân trong và ngoài tỉnh.
Qua đánh giá của người trồng thì những đặc tính của bơ ghép đầu dòng như năng suất, chất lượng, sự thích nghi, chống chịu sâu bệnh, giá trị kinh tế… đều vượt trội. Ông Lại Thế Hưng, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho biết, để sản xuất được giống bơ ghép đầu dòng có chất lượng, đòi hỏi người sản xuất giống phải có sự hiểu biết và nắm vững các quy trình sản xuất giống bơ đầu dòng. Cây bơ mẹ được công nhận là cây đầu dòng thì phải được ngành chức năng công nhận, việc chọn chồi và khâu ghép quyết định đến sự thành bại của giống bơ. Qua tìm hiểu, chúng tôi ghi nhận, tất cả những vườn bơ được Sở NN-PTNT công nhận bán cho nông dân mua về trồng đều đạt tỉ lệ sống trên 90% và cây phát triển rất tốt. Đặc biệt, nhiều vườn bơ ghép mới được trồng chưa đầy 3 năm đã cho quả bói.
Cũng theo ông Hưng, hiện nay do giá giống bơ đang hút hàng, vì thế các điểm ươm giống “lậu” cứ thế mọc lên mà không có sự quản lý của các ngành chức năng.
Điều này, đang gây khó khăn rất lớn cho nông dân khi mua giống bơ ghép về trồng và làm mất uy tín của bơ đầu dòng. Vì vậy, các nông hộ nên cẩn trọng mua cây giống tại các cơ sở uy tín trên địa bàn đã được Sở NN-PTNT cấp phép và công nhận chất lượng. Vì hiện tại trên thị trường đã xuất hiện nhiều giống bơ ghép không rõ nguồn gốc, giá bán cũng thất thường hoặc chỉ bằng một nửa cây bơ ghép đầu dòng của Lâm Đồng. Được biết, bơ là cây trồng lâu năm và phải mất ít nhất 4 năm mới cho thu hoạch, nên chọn những giống cây bơ có nguồn gốc rõ ràng là chìa khóa mở ra cánh cửa sản xuất ổn định, tránh những rủi ro do giống kém chất lượng phải chặt bỏ, gây thiệt hại kinh tế về sau.
HOÀNG YÊN
Bình Dương: Sức hút măng cụt Thanh Tuyền
Nguồn tin: Báo Bình Dương
Xã Thanh Tuyền, huyện Dầu Tiếng giờ đây không chỉ được biết đến là một địa danh nổi tiếng trong chiến tranh mà còn là vùng đất đang phát triển mạnh về cây ăn trái, nổi bật là măng cụt.
Ông Nguyễn Văn Can bên vườn măng cụt của gia đình. Ảnh: HỒNG NGA
“Tiếng thơm” từ măng cụt
Ông Lưu Vĩnh Quốc, Chủ tịch UBND xã Thanh Tuyền, cho biết thời gian qua xã đã vận động người dân chuyển đổi mô hình kinh tế, cây con phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương. Từ đó, nhiều mô hình kinh tế mới đã được nhân dân trong xã thực hiện hiệu quả, tạo sức bật cho quá trình phát triển kinh tế của địa phương.
Đáng chú ý, mô hình trồng măng cụt tại địa phương đã và đang mang lại “tiếng thơm” cho Thanh Tuyền. Từ cây măng cụt, nhiều gia đình trong xã vươn lên khá giả, có thể kể đến như các gia đình ông Nguyễn Văn Tỵ, Trần Văn Sáu, Lê Văn Mé, Nguyễn Văn Trí, Nguyễn Văn Can… mỗi vụ sau khi trừ chi phí mỗi gia đình có thu nhập 150 triệu đồng.
Trong 3 năm gần đây, tại các hội thi trái cây ngon cụm miền Đông Nam bộ, măng cụt xã Thanh Tuyền đều đoạt giải cao. Cũng chính từ đây, măng cụt Thanh Tuyền đã trở thành một thương hiệu được nhiều người biết đến. Điều đó đã được minh chứng rõ nét qua việc Cục Sở hữu trí tuệ Bộ Khoa học và Công nghệ đã cấp phép “Nhãn hiệu tập thể Măng cụt Dầu Tiếng”.
Hiện trên địa bàn xã có 6,6 ha măng cụt của 9 hộ dân được cấp chứng nhận VietGAP. Xã đã thành lập tổ hợp tác với 10 thành viên, tổng diện tích 3,3ha trồng cây măng cụt. Hoạt động chính của tổ hợp tác là trồng và cung cấp sản phẩm măng cụt ra thị trường tiêu thụ.
Trong 4 năm gần đây, tại các hội thi trái cây ngon khu vực Đông Nam bộ, măng cụt xã Thanh Tuyền đều đoạt giải cao. Theo kinh nghiệm của các nhà vườn ở đây, để đoạt giải cao ở hội thi này là rất khó, bởi yêu cầu trái măng cụt phải đạt rất nhiều tiêu chuẩn khắt khe như: Măng cụt phải to, tròn, đẹp và màu sắc phải tươi; măng cụt được trưng bày trên kệ, bổ ra ruột bên trong phải trắng, vị ngọt thanh và ít hạt. Ngay cả khi được giám khảo chấm điểm cao, quả măng cụt phải được đưa đi xét nghiệm sinh hóa để đo nồng độ thuốc bảo vệ thực vật.
Cú hích phát triển địa phương
Như vậy, trái măng cụt không chỉ ngon, đẹp mà còn phải an toàn cho người dùng mới đoạt giải cao. Điều đó cho thấy, măng cụt Thanh Tuyền giờ đây đã trở thành một thương hiệu thật sự. Đến nay, sau những lần đạt giải cao tại hội thi, măng cụt Thanh Tuyền bắt đầu có sức hút lớn đối với giới kinh doanh trái ăn cây này. Đây là cơ sở để đầu ra măng cụt ở Thanh Tuyền ổn định và bền vững hơn.
Ông Nguyễn Văn Tỵ, Tổ trưởng Tổ hợp tác măng cụt xã Thanh Tuyền, phấn khởi cho biết khi măng cụt được công bố chứng nhận nhãn hiệu tập thể “Măng cụt Dầu Tiếng” là cơ hội lớn để địa phương quảng bá thương hiệu sản phẩm nông nghiệp đặc trưng của mình. Hạnh phúc, niềm vui này không chỉ của riêng tổ hợp tác mà còn là niềm vui, sự phấn khởi của các hộ trồng măng cụt ở Dầu Tiếng. Từ việc chứng nhận nhãn hiệu tập thể “Măng cụt Dầu Tiếng” sẽ góp phần nâng cao giá trị sản phẩm, chất lượng sản phẩm nông nghiệp của huyện Dầu Tiếng.
Đây cũng là cú hích để Thanh Tuyền thực hiện có hiệu quả đề án phát triển vùng chuyên canh cây ăn quả kết hợp phát triển du lịch sinh thái tại xã. Từ đó, khu vực huyện Dầu Tiếng sẽ tạo ra sản phẩm du lịch liên kết vườn cây Thanh Tuyền - Địa đạo Củ Chi - Khu du lịch hồ Dầu Tiếng, núi Cậu, thậm chí cả Khu du lịch núi Bà Đen (Tây Ninh); đồng thời khai thác cả đường bộ và đường thủy, du lịch sông nước-vườn cây - tâm linh.
HỒNG NGA
‘Khắc nhập’ nhãn xuồng cơm vàng với nhãn da bò cho hiệu quả kinh tế cao
Nguồn tin: Báo Sóc Trăng
Cách đây 3 năm, ông Nguyễn Văn Bỉnh ở ấp Chùa Ông, xã Hậu Thạnh (Long Phú, tỉnh Sóc Trăng) trồng nhãn da bò nhưng nhãn hay bị bệnh, giá cả không ổn định nên ông mạnh dạn chuyển đổi bằng cách ghép nhãn xuồng cơm vàng trên gốc của nhãn da bò mang lại hiệu quả kinh tế cao, tiết kiệm chi phí đầu tư, rút ngắn thời gian cho thu hoạch.
Chúng tôi khá ngạc nhiên khi thấy vườn nhãn xuồng cơm vàng được ghép trên gốc nhãn da bò lại phát triển rất tốt, tán cây sum suê và trái sai trĩu cành. Trao đổi với chúng tôi, ông Bỉnh phấn khởi cho biết: “Hơn 16 năm trồng giống nhãn da bò nhưng hiện nay do giống nhãn này hay bị bệnh, giá cả bấp bênh, hiệu quả kinh tế không cao. Qua tìm hiểu thực tế, tôi nhận thấy nhãn xuồng cơm vàng là một trong những giống có chất lượng vượt trội so với các giống nhãn khác, nhu cầu tiêu thụ của thị trường rất lớn, giá bán cao. Năm 2016, tôi quyết định chuyển đổi vườn nhãn bằng cách mướn nhân công ở tỉnh Bến Tre qua ghép nhãn xuồng cơm vàng trên gốc nhãn da bò. Qua thời gian ghép chính bản thân tôi cũng không ngờ thành công khoảng trên 90%, nhãn xuồng cơm vàng sinh trưởng và phát triển hoàn toàn theo tự nhiên. Đến nay, vườn nhãn không chỉ phát triển rất tốt mà năng suất không thua kém nhãn da bò”.
Nhãn xuồng cơm vàng được ông Nguyễn Văn Bỉnh ghép trên gốc cây nhãn da bò phát triển rất tốt.
Theo kinh nghiệm của ông Bỉnh thì kỹ thuật ghép đơn giản, chỉ cần chọn giống nhãn xuồng cơm vàng có năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp thị hiếu thị trường nhưng có khả năng kháng được bệnh để ghép chuyển đổi giống trên những gốc cây nhãn da bò. “Nhãn xuồng cơm vàng nhẹ công chăm sóc nhưng phải đảm bảo đủ phân bón để trái to, mẫu mã đẹp. Do nhãn xuồng cơm vàng có khả năng kháng bệnh tốt nên tôi sử dụng rất ít thuốc bảo vệ thực vật, đặc biệt tưới nước thích hợp thì nhãn ra bông rất nhiều. Từ lúc nhãn ra bông đến khi được thu hoạch khoảng hơn 4 tháng và giá bán nhãn xuồng cơm vàng lại cao gấp 4 lần so với nhãn da bò nên lợi nhuận cao” - ông Bỉnh chia sẻ.
Theo ông Bỉnh, nếu trồng mới thì sau 3 năm đến 4 năm nhãn xuồng cơm vàng mới cho trái nhưng nếu ghép đúng phương pháp thì chỉ đến năm thứ 2 sau khi ghép có thể thu hoạch vụ, chất lượng trái vẫn giữ nguyên mà chi phí đầu tư giảm một nửa so với trồng nhãn da bò. Hiện gia đình ông Bỉnh có 12 công đất, trồng 244 gốc nhãn, mỗi vụ sau khi trừ chi phí lời hơn 200 triệu đồng.
Từ hiệu quả của mô hình ghép nhãn xuồng cơm vàng trên gốc nhãn da bò của gia đình, hiện ông Bỉnh đang hướng dẫn, chia sẻ kinh nghiệm cho nhiều nông dân trồng nhãn cùng làm theo. Đây là phương pháp giúp nhà vườn nâng cao giá trị cây nhãn, góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế trên cùng một diện tích.
K. Thoa
Thu hoạch thảo quả non thiệt hại đủ đường
Nguồn tin: Báo Lào Cai
Những năm qua cây thảo quả đã góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, thay đổi diện mạo các thôn, bản vùng cao của huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Tuy nhiên, thời gian gần đây xuất hiện tình trạng mất trộm thảo quả ở khu vực giáp ranh khiến người dân ở một số thôn, bản phải thu hoạch thảo quả non, gây nhiều thiệt hại.
Thu non vì sợ mất trộm
Cây thảo quả gắn bó với đồng bào các dân tộc vùng cao của huyện Bát Xát hàng chục năm qua, giúp nhiều gia đình thoát nghèo, thậm chí làm giàu. Ông Sùng A Cở, Bí thư Đảng ủy xã Trung Lèng Hồ cho biết: Xã có khoảng 850 ha thảo quả. Những năm được mùa, được giá, cây thảo quả mang lại nguồn thu hàng chục tỷ đồng cho người dân địa phương. Thế nhưng, thời gian gần đây xuất hiện hiện tượng trộm thảo quả ở các khu vực xa dân cư, giáp ranh với các xã khác nên một số hộ phải thu hoạch thảo quả non.
Ông Hạng A S. (ở xã Trung Lèng Hồ), có gần 10 ha thảo quả tâm sự: “Đang là thời điểm quả thảo quả tích tụ dưỡng chất, năng suất và chất lượng chưa ở mức cao nhất nhưng gia đình tôi buộc phải thu hoạch, bởi để thêm thời gian thì rất sợ bị mất trộm”.
Kiểm tra thảo quả ở xã Dền Sáng.
Chỉ trồng gần 2 ha thảo quả nhưng mỗi năm gia đình ông Hầu A D. (xã Pa Cheo) cũng thu về gần 50 triệu đồng từ tiền bán thảo quả khô; có năm được mùa, được giá, con số này lên tới gần trăm triệu đồng. Tuy nhiên, cũng như gia đình ông Hạng A S., thời điểm này khi thảo quả mới chuyển sậm màu, gia đình ông Hầu A D. đã phải đến các vườn thảo quả của gia đình ở giáp ranh với các xã khác để thu hoạch. Ông D. cho biết, vì gia đình neo người nên không trông coi nương thảo quả thường xuyên được, ông đành phải thu hoạch sớm ở những khu vực hay bị mất trộm, đặc biệt là những diện tích giáp ranh với xã khác. Vẫn biết việc này ảnh hưởng nhiều đến năng suất, chất lượng quả thảo quả, song để đến cuối năm có khi còn mất trắng.
Không chỉ ông Hạng A S. và ông Hầu A D., mà rất nhiều người trồng thảo quả ở Bát Xát có chung suy nghĩ như vậy. Điều này tạo nên một phong trào thu hoạch thảo quả non trong vài năm trở lại đây.
Thiệt hại từ thu hoạch thảo quả non
Xã Pa Cheo trồng gần 300 ha thảo quả, trong đó diện tích cây thảo quả mà người dân phải thu hoạch non khoảng 50 - 60 ha. Việc người dân thu hoạch quả thảo quả non sẽ khiến năng suất giảm khoảng 30% so với thu hoạch đúng mùa vụ (tháng 11 - 12). Ông Lê Đức Minh, Bí thư Đảng ủy xã Pa Cheo cho biết, chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể, trưởng các thôn, bản đã tích cực tuyên truyền, vận động người dân không nên thu hoạch thảo quả non để tránh ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và sự phát triển bền vững của cây thảo quả. Tuy nhiên thời gian vừa qua, nhiều hộ trồng thảo quả trên địa bàn xã lo mất trộm nên đã thu hoạch thảo quả non.
Huyện Bát Xát hiện có khoảng 4.500 ha thảo quả, trong đó diện tích cây thảo quả ở khu vực giáp ranh giữa các xã trong và ngoài huyện ước tính hàng trăm ha. Như vậy, nếu người dân đều thu hoạch non ở tất cả các diện tích giáp ranh này thì sản lượng quả thảo quả sụt giảm và thiệt hại về kinh tế là rất lớn. Được biết, nếu thu hoạch đúng thời điểm thì cứ 5 - 6 kg thảo quả tươi đem sấy sẽ được 1 kg thảo quả khô, còn nếu thu hoạch non thì 10 kg thảo quả tươi đem sấy mới thu được 1 kg thảo quả khô.
Không chỉ thiệt hại về năng suất, chất lượng, mà việc thu hoạch thảo quả non còn ảnh hưởng tới sinh trưởng, phát triển của những khu rừng già bởi khi sấy thảo quả non, người dân phải sử dụng một lượng lớn củi lấy từ rừng. Thông thường để sấy được 1 kg thảo quả khô từ quả thảo quả đã đủ độ chín cần 50 - 70 kg củi, như vậy để sấy được 1 kg thảo quả khô từ 10 kg thảo quả non thì lượng củi sẽ phải tăng gần gấp đôi.
Ông Sí Trung Kiên, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Bát Xát cho biết: Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ phối hợp với các xã đến các thôn, bản tuyên truyền, vận động người dân thu hoạch thảo quả đúng thời gian quy định, đảm bảo năng suất, chất lượng. Bên cạnh đó cũng yêu cầu các địa phương tăng cường tuần tra ở các khu vực giáp ranh, kịp thời phát hiện những trường hợp thu hái trộm thảo quả non để xử lý theo quy định.
TRUNG NGUYÊN
7 tháng trồng ớt lời gần 200 triệu đồng
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
“Lấy ngắn nuôi dài”, anh Thạch Sa (ấp Phù Ly 1, xã Đông Bình, TX Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long) đã trồng xen ớt sừng trâu vàng, ớt chỉ thiên trong vườn cây ăn trái và đã đem đến cho anh nguồn lợi nhuận cao.
Giá ớt năm nay khá cao giúp anh Thạch Sa có thu nhập ổn định.
Thông qua sự vận động của chính quyền địa phương về chuyển đổi cơ cấu cây trồng để góp phần nâng cao thu nhập cho nông hộ, nhằm hướng tới mục tiêu đến năm 2020 thu nhập bình quân đầu người tại xã nông thôn mới đạt 50 triệu đồng/năm trở lên; cuối năm 2018, anh Thạch Sa đã chuyển hẳn 2 công đất ruộng lên vườn trồng hơn 500 gốc bưởi Năm Roi và trên 400 gốc mít Thái. Trong thời gian chờ cây cho trái, anh Thạch Sa đã tận dụng đất trống để trồng ớt sừng trâu vàng và ớt chỉ thiên.
Từ lúc gieo hạt tới thu hoạch ớt là 4 tháng, thời gian thu hoạch kéo dài khoảng 3 tháng. Cứ 3 ngày anh Thạch Sa hái trái 1 lần, lúc rộ có thể thu được 300- 400kg.
Năm nay, 2 loại ớt này có giá tương đối cao. Ớt sừng vàng từ hơn 30.000- 40.000 đ/kg, còn ớt chỉ thiên có khi lên đến trên 100.000 đ/kg.
Theo anh Thạch Sa, để bỏ qua khâu trung gian, anh tự thu hái và đem đến tận vựa nên bán được giá cao hơn. Đến nay, anh đã thu hoạch được trên 3 tấn ớt sừng trâu vàng và hơn 2 tấn ớt chỉ thiên. Anh nhẩm tính, sau khi trừ chi phí, anh lời gần 200 triệu đồng.
Anh Thạch Sa cho biết thêm, trước đây khi còn làm ruộng, anh cũng tận dụng bờ bao để trồng các loại ớt và khổ qua để có thêm thu nhập. Nhờ có sẵn kinh nghiệm nên khi chuyển lên vườn trồng ớt khá hiệu quả, năng suất cao.
Sau khi thu hoạch hết ớt, anh Thạch Sa chuyển sang trồng khổ qua. Ngoài ra, ba mẹ anh cũng đã chuyển 3 công ruộng lên vườn trồng bưởi và cho anh mượn đất để trồng xen ớt trong thời gian chờ bưởi lớn. Nếu giá cả tiếp tục ổn định, anh Thạch Sa sẽ có nguồn thu cao, đời sống gia đình được cải thiện.
Ông Vi Ta Va Lay- Bí thư kiêm Trưởng ấp Phù Ly 1- cho biết: Trước tình hình giá lúa bấp bênh, địa phương khuyến cáo nông dân nên chuyển đổi cây trồng từ chuyên canh lúa sang luân canh lúa- màu, chuyên canh màu hoặc lên vườn cây ăn trái để nâng cao thu nhập.
Đến nay, toàn ấp đã chuyển đổi được 3ha đất ruộng lên vườn. Bước đầu, nhiều nông hộ tận dụng “lấy ngắn nuôi dài” và đã có lợi nhuận cao hơn gấp nhiều lần trồng lúa.
Bài, ảnh: THỊNH- TƯƠI
Mắc ca vùng xa xuất ngoại
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Hợp tác xã (HTX) Liên kết Mắc ca xã Đinh Lạc, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng đang đẩy nhanh tiến độ thu mua, chế biến để đạt tổng khối lượng 2.000 kg hạt mắc ca thành phẩm xuất khẩu sang Úc và Hàn Quốc theo hợp đồng. Đây là đơn hàng thứ 2 với khối lượng tăng gấp 10 lần so với đơn hàng đầu tiên thâm nhập vào thị trường hai quốc gia này…
HTX Liên kết Mắc ca Di Linh đang chế biến hoàn thành 2.000 kg thành phẩm mắc ca theo đơn hàng xuất khẩu sang Úc, Hàn Quốc…
Phóng viên gặp ông Lê Văn Trường, Giám đốc HTX Liên kết Mắc ca Di Linh ở xã Đinh Lạc, huyện Di Linh đang lúc ông chuẩn bị xuống thăm vườn thì có hộ thành viên đến cung cấp khoảng 100 kg trái mắc ca vừa thu hoạch. Cân xong, Giám đốc Trường thanh toán ngay bằng tiền mặt với giá cao hơn giá thị trường từ 10% trở lên. “Hàng năm, trong 3 tháng 7, 8 và 9, mắc ca chỉ thu hoạch mùa phụ, sản lượng chỉ bằng 1/3 mùa chính. Mùa chính thu hoạch từ tháng 3 đến tháng 5…”, đại diện một hộ gia đình thành viên HTX Liên kết Mắc ca Di Linh chia sẻ.
Giám đốc Trường còn cho biết, dù trời mưa cũng không ảnh hưởng đến tiến độ chế biến mắc ca tại HTX của mình. Bởi, hệ thống hong khô trái mắc ca chủ yếu thực hiện trong nhà kính, sau đó chuyển sang hệ thống sấy khô, tách vỏ, hút chân không, đóng gói… đưa ra thị trường đều bằng hệ thống tự động. Công suất trong mấy tháng mùa mưa năm nay đều đạt hơn 200 kg thành phẩm mỗi ngày. Tất cả nguyên liệu mắc ca được HTX bao tiêu từ 85 ha trồng thuần và trồng xen với cây cà phê ở xã Đinh Lạc cùng các xã khác trong huyện Di Linh và ở huyện Bảo Lâm, thành phố Bảo Lộc. Tại khu vườn Giám đốc Trường có 750 cây mắc ca từ 5 - 10 năm tuổi với hơn 10 loại giống, sinh trưởng xen canh trên 4 ha cà phê. Nắm trên tay những hạt mắc ca căng tròn, Giám đốc Trường cho biết: “Vườn mắc ca của gia đình đang thu hoạch trung bình 15 kg/cây/năm. Cá biệt có 10 cây đạt năng suất đến 70 kg/cây/năm. Những năm trước đây, hộ gia đình chúng tôi nói riêng, hộ gia đình trồng mắc ca trong và ngoài xã Đinh Lạc, huyện Di Linh nói chung rất bấp bênh về thị trường tiêu thụ, lợi nhuận chỉ ở giới hạn nhất định. Từ 2 năm trở lại đây, khi HTX Liên kết Mắc ca Di Linh được thành lập và đi vào hoạt động, sản lượng mắc ca thu hoạch của nông dân xã Đinh Lạc đều được bao tiêu với số lượng không hạn chế…”.
Trong 2 vụ mùa chính và phụ năm 2019, HTX Liên kết Mắc ca Di Linh ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm với 33 hộ thành viên theo hình thức ấn định giá để cân đối trước lợi nhuận trong cả năm. Cụ thể, giá thu mua trái mắc ca loại 1, loại 2 và loại 3 tại HTX lần lượt mỗi ký là 90.000 đồng, 80.000 đồng và 45.000 đồng. Kết quả đến nay, so với giá thị trường cùng thời điểm, HTX đều thu mua cao hơn 10% như đã nêu trên.
“Ước tính trong năm 2019, trên diện tích 1 ha trồng mắc ca xen với cà phê đạt tổng lợi nhuận khoảng 270 triệu đồng. Trong đó, lợi nhuận từ mắc ca là 200 triệu đồng và lợi nhuận từ cà phê là 70 triệu đồng…”, một thành viên HTX nói thêm.
Những hợp đồng bao tiêu sản phẩm mắc ca của hộ thành viên vừa nêu đều căn cứ trên các đơn hàng của đối tác trong và ngoài nước ký kết với HTX. Bởi vậy lượng cung - cầu đảm bảo thông suốt, tạo động lực để HTX tiếp tục vươn lên nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu mắc ca vùng xa Di Linh. Nếu như toàn bộ sản phẩm mắc ca chế biến của HTX Liên kết Mắc ca Di Linh trong năm 2018 với 100% tiêu thụ trong nước thì năm 2019 bắt đầu thâm nhập, khẳng định chất lượng trên thị trường Hàn Quốc, Úc với khối lượng ban đầu chỉ 200 kg vào tháng 7 và tăng lên 2.000 kg vào tháng 9. Dự kiến trong năm 2020, khối lượng mắc ca chế biến, xuất khẩu từ xã vùng xa Đinh Lạc, huyện Di Linh sẽ còn tăng đột biến hơn nữa, đến nhiều quốc gia khác nhau…
Như vậy, triển vọng lớn về một vùng nguyên liệu mắc ca lợi nhuận cao từ vùng quê xa Đinh Lạc, Di Linh của Lâm Đồng đang hiện lên rõ nét ở tương lai gần...
VĂN VIỆT
Hội thi ‘Gạo ngon Đồng Tháp’ năm 2019 sẽ tổ chức vào tháng 11
Nguồn tin: Báo Đồng Tháp
Sáng ngày 22/8, Hội Nông dân tỉnh Đồng Tháp tổ chức cuộc họp với các đơn vị liên quan thống nhất một số nội dung về công tác tổ chức hội thi “Gạo ngon Đồng Tháp” năm 2019. Hội thi dự kiến diễn ra vào ngày 19/11/2019, tại khuôn viên Nhà thi đấu đa năng - Khu Liên hợp thể dục thể thao tỉnh.
Quang cảnh cuộc họp
Theo đó, đối tượng dự thi là các địa phương, đơn vị, hợp tác xã nông nghiệp; doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất khẩu lúa gạo trên địa bàn tỉnh. Các đơn vị tham gia phải đáp ứng các điều kiện có vùng nguyên liệu, cơ sở sản xuất đóng gói được cấp phép. Đồng thời có quy trình sản xuất lúa đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; sản phẩm gạo được cấp chứng nhận an toàn đang lưu thông trên thị trường; ưu tiên các sản phẩm gạo đạt các tiêu chuẩn VietGAP, GLobalGAP, Organic.
Thời gian Ban tổ chức nhận hồ sơ đăng ký dự thi từ ngày 1/8 đến hết ngày 16/9/2019. Hình thức tổ chức cuộc thi gồm các nội dung: thuyết trình, nấu cơm, trưng bày gian hàng của các đơn vị; dùng thử sản phẩm....
Hội thi nhằm tạo điều kiện để các đơn vị, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh lĩnh vực nông nghiệp nói chung, hàng nông sản và sản phẩm lúa gạo Đồng Tháp nói riêng, quảng bá thương hiệu, sản phẩm. Đồng thời ghi nhận và tôn vinh những thành quả đóng góp của các đơn vị trong hoạt động nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm lúa gạo sạch, chất lượng, thân thiện với môi trường, an toàn đối với sức khỏe người tiêu dùng.
Ngoài ra, hội thi sẽ chọn những giống lúa cho cơm ngon nhất từ các giống lúa trong tỉnh để các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu lai tạo ra các giống lúa mới cho năng suất và chất lượng cao, góp phần xây dựng thành công thương hiệu gạo Đồng Tháp.
MỸ NHÂN
Nỗi đau ‘Cây tỷ phú’
Nguồn tin: Báo Đắk Nông
Từng được ví von là "cây tỷ phú", nhưng vài năm trở lại đây hồ tiêu đã không đem lại sự sung túc cho người trồng, mà thay vào đó là nỗi đau buồn cay đắng vì giá cả xuống thấp; hàng ngàn ha hồ tiêu trên địa bàn tỉnh Đắk Nông chết do dịch bệnh, khiến cho nhiều hộ nông dân rơi vào cảnh trắng tay, nợ nần hoặc phá sản...
Đầu tư tiền tỷ rồi... sạt nghiệp
Chỉ sau hai tháng mùa mưa, hơn 2 ha hồ tiêu của gia đình chị Nguyễn Thị Oanh, ở xã Quảng Tâm (Tuy Đức) đã chết gần như hoàn toàn. Theo chị Oanh, vườn tiêu là nguồn thu nhập chính của cả gia đình nhiều năm qua. Để phát triển được hơn 2 ha hồ tiêu, gia đình chị đã đầu tư hơn 1,4 tỷ đồng, cùng với bao mồ hôi công sức. Nay vườn tiêu chết trắng, coi như mọi chuyện đều đổ ra sông, ra biển. Cay đắng hơn, gia đình phải "gánh" khoản nợ ngân hàng 600 triệu đồng và giờ đây không biết lấy đâu để hoàn trả. Hiện nay, gia đình chị đang phải cật lực đi làm thuê để lấy tiền trả lãi cho ngân hàng và duy trì khoản nợ.
Lãnh đạo địa phương đến tìm hiểu tình hình tiêu chết tại gia đình chị Nguyễn Thị Oanh, xã Quảng Tâm
"Đó chỉ là giải pháp tạm thời. Tới đây, khi đến thời gian đáo hạn ngân hàng, gia đình tôi chỉ còn cách đi "vay nóng" ở ngoài để đắp vào. Nếu trong trường hợp ngân hàng không cho đáo hạn, gia đình tôi chắc chắn sẽ lâm vào đường cùng, không còn cách nào để cứu vãn", chị Oanh buồn bã chia sẻ.
Tượng tự, gia đình anh Trần Văn Cảnh, ở xã Quảng Tâm, cũng phải bỏ xứ tha phương cầu thực vì vườn tiêu chết do bệnh. Vài năm về trước, do chạy theo phong trào trồng hồ tiêu ở địa phương, gia đình anh Cảnh dồn hết vốn liếng và vay thêm ngân hàng 400 triệu đồng để trồng 2 ha tiêu. Thế nhưng, vài năm trở lại đây, 2 ha hồ tiêu của anh Cảnh đã bị nhiễm bệnh và chết hoàn toàn. Lâm vào cảnh trắng tay, cộng thêm khoản nợ ngân hàng 400 triệu đồng, cuộc sống của gia đình anh trở nên bi đát.
Anh Cảnh chua chát: Hiện nay, tôi phải cho đứa con lớn đang học lớp 11 nghỉ học giữa chừng để cùng bố mẹ xuống tỉnh Bình Phước làm phụ hồ để có tiền đóng lãi cho ngân hàng. Điều lo sợ nhất là không trả được nợ cho ngân hàng, toàn bộ nhà cửa, đất đai của gia đình tôi sẽ bị "siết nợ" và không biết bấu víu vào đâu để sống.
Người dân Tuy Đức cay đắng dọn dẹp cây hồ tiêu bị chết trên trụ gỗ
Các đây 2 năm, gia đình chị Nguyễn Thị Đào, ở xã Nâm N’jang (Đắk Song) đã thế chấp ngân hàng 4 ha hồ tiêu cùng với nhà cửa, xe cộ để vay 2,5 tỷ đồng đầu tư phát triển 7 ha hồ tiêu. Đến đầu năm nay, vườn hồ tiêu của gia đình chị Đào bị nhiễm bệnh, chết không còn một cây. Hiện nay, khoản vay 2,5 tỷ đồng của chị Đào đã rơi vào khoản "nợ xấu", gia đình không còn khả năng trả nợ. Vừa qua, chị Đào đã ký bàn giao tài sản cho ngân hàng để chuẩn bị thanh lý, phát mại.
Chị Đào cho biết: Qua phân tích của cán bộ ngân hàng, tài sản của gia đình tôi bán không đủ để trả khoản nợ 2,5 tỷ đồng và lãi phát sinh. Do đó, gia đình tôi sẽ tiếp tục mắc nợ ngân hàng phần còn thiếu. Bàn giao tài sản cho ngân hàng, gia đình tôi mất trắng tất cả, không biết bám vào đâu để sống.
Nhiều người dân phải treo biển bán nhà, bán rẫy để cứu vãn tình hình nợ xấu ngân hàng sau khi vườn tiêu chết
Nông dân chịu tổn thất nặng nề
Qua tính toán của người dân, chi phí để phát triển 1 ha hồ tiêu vào tầm 500 triệu đồng, chưa kể tiền mua đất. Trong đó gồm các khoản đầu tư tốn kém như trụ 250 triệu đồng; giống 20 đồng; phân bón, múc hố, cải tạo đất, thuốc bảo vệ thực vật, công cán 230 triệu đồng. Như vậy, với gần 5.000 ha hồ tiêu bị chết, nông dân trên địa bàn tỉnh đã phải chịu thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng, chưa kể tới các hệ lụy khác như nợ ngân hàng, phá sản, bị siết nợ...
Cụ thể, diện tích tiêu chết tại 3 huyện Đắk R’lấp, Đắk Song, Tuy Đức tổng cộng là 4.475 ha. Còn ở những huyện không phải trọng điểm về hồ tiều chịu thiệt hại ít hơn, như Cư Jút 250 ha; Đắk Glong 81,29 ha; thị xã Gia Nghĩa 46,3 ha; Krông Nô trên 60 ha.
Theo Ngân hàng Nhà nước tỉnh Đắk Nông, tính đến tháng 6/2019, dư nợ mà các ngân hàng đã cho vay đầu tư vào hồ tiêu trên địa bàn Đắk Nông là hơn 4.300 tỷ đồng. Có trên 21.000 khách hàng đã tham gia vay vốn, với diện tích hồ tiêu mà người dân đem ra thế chấp là hơn 26.000 ha. Hiện nay, rất nhiều khoản vay ngân hàng để đầu tư vào cây hồ tiêu đã trở thành "nợ xấu".
Chủ tịch Hội Nông dân huyện Tuy Đức Đoàn Lê Anh cho biết, việc cây hồ tiêu bị nhiễm bệnh, chết hàng loạt đã lặp đi lặp nhiều năm nay, nhưng cơ quan chức năng vẫn chưa tìm ra phương án để đặc trị. Đối với người trồng hồ tiêu, giờ đây ranh giới giữa được và mất là hết sức mong manh. Đây cũng là cái kết đắng lòng của thực trạng chạy theo phong trào trong sản xuất nông nghiệp đã xảy ra trong nhiều năm qua...
Bài, ảnh: Nhóm P.V Kinh tế
Nhà nông trồng điều giỏi
Nguồn tin: Báo Bình Phước
“Trước đây, người trồng điều chủ yếu dựa vào thời tiết, ít áp dụng các biện pháp khoa học, kỹ thuật nên không có nhiều kinh nghiệm ứng phó với sâu, bệnh. Đặc điểm của cây điều là ra bông nhiều đợt, do đó sau những cơn mưa trái mùa rất dễ phát sinh nấm, bệnh và các loại sâu bọ tấn công gây khô cành, khô bông. Nếu không kịp thời chữa trị thì mùa điều thất thu là khó tránh khỏi” - ông Phan Văn Vui, ngụ ấp 3, xã Đồng Tâm (Đồng Phú, tỉnh Bình Phước) cho biết.
Từ trung tâm hành chính huyện Đồng Phú đi gần 50km đến ấp 3, xã Đồng Tâm, chúng tôi tìm gặp ông Phan Văn Vui mà nông dân ở đây thường gọi là “Vua trồng điều”. Bên tách trà nóng, ông Vui cho biết, vụ điều vừa qua nhiều nông dân ở đây bị mất mùa. Nhưng từ 7,5 ha điều cho thu hoạch khoảng 27 tấn hạt điều tươi, trung bình hơn 3,5 tấn điều/ha, gia đình tôi thu khoảng 800 triệu đồng.
Ông Phan Văn Vui, nông dân sản xuất điều giỏi ở ấp 3, xã Đồng Tâm, huyện Đồng Phú
Thời điểm này, ông đang cắt tỉa cành để tạo tán và bón phân đợt 1 cho cây điều. Ông Vui cho rằng, sau khi thu hoạch cần cắt những cành bị bệnh, khô, mục, cành nhỏ. Hoặc những cành quá dày, ông tỉa bớt để tạo tán cân đối, độ thông thoáng giúp cây dễ hấp thụ ánh sáng mặt trời cũng như chống gãy đổ khi có gió lớn hoặc giông lốc. Với những cây sinh trưởng mạnh nhưng ít ra bông đậu trái, có thể cắt tỉa cành lớn để hạn chế sinh trưởng kích thích ra bông. Những cây điều già, cành to, hoặc cành giao nhau giữa các cây có thể cắt tới 2/3 chiều dài cành. Sau khi tỉa cành chú ý làm vệ sinh tốt những vết cắt, nhất là các cành to, nếu không sẽ tạo điều kiện cho bệnh chảy mủ phát triển sẽ làm suy yếu cây. Sau khi cắt cần quét dung dịch lên các mặt cắt lớn của cành để tránh sâu bệnh xâm nhập. Khi tỉa tránh làm tổn thương các cành còn lại. Đợt này mưa nhiều, mỗi cây ông khoan 3 lỗ xung quanh gốc và bón khoảng 2kg phân NPK rồi lấp đất lại, khi mưa xuống phân tan dần, từ đó cây điều sẽ hấp thụ tối đa lượng phân bón, tránh lãng phí và phân không bị trôi khi trời mưa. Mỗi năm ông bón phân 2 lần vào đầu và giữa mùa mưa, khi điều có trái thì tăng lượng phân kali giúp khỏe cây, chắc hạt.
Theo ông Vui, cây điều không kén đất, đặc biệt trồng trên đất đỏ bazan và khí hậu nóng sẽ cho năng suất cao, vì vậy chất đất Bình Phước rất phù hợp cho cây điều phát triển. Tuy nhiên, việc chọn giống điều rất quan trọng, vì quyết định đến năng suất và chất lượng hạt điều. Để có giống điều tốt, từ năm 2010, ông sang tỉnh Đồng Nai tìm hiểu những vườn điều năng suất cao, hạt to, bóng, mẩy..., đặc biệt ông quan tâm đến giống điều cho trái sớm nên khi thu hoạch giá bán cao hơn. Ông mua hạt đem về nhà và liên hệ với cán bộ khuyến nông học hỏi cách ươm giống, trồng 7,5 ha điều của gia đình.
Ông Phan Văn Vui chăm sóc vườn điều sau thu hoạch
Ông Vui cho rằng, chăm sóc điều không dễ như nhiều nông dân vẫn nghĩ, chỉ lơ là cây sẽ bị bệnh và nếu không dùng đúng thuốc, trị đúng cách, bệnh càng nặng thêm và lan nhanh. Do đó, ông thường xuyên theo dõi vườn điều để phát hiện, nhận biết bệnh sớm, chữa trị kịp thời. Đặc biệt, có những loài sâu phải quan sát cả ngày lẫn đêm mới phát hiện được. Cây điều thường bị bệnh khô cành cháy lá do 2 loại nấm gây ra. Bệnh phát triển trong điều kiện nắng mưa xen kẽ, độ ẩm cao, đặc biệt với những vườn cây rậm rạp, bón phân không cân đối. Bệnh lây lan qua gió, nước, xâm nhiễm qua các vết thương trên thân cây. Loại sâu khó trừ và hại nặng là bọ xít thường phá trên chồi non và bông. Khi bị bọ xít chích hút khiến bông mất nhựa, dịch tiết ra của sâu làm bông bị xoăn và khô héo. Tiếp đến là rệp, sâu đục cành, đục trái, bệnh thán thư cũng rất nguy hiểm với cây điều. Thời tiết thay đổi không phù hợp khiến cây yếu, sâu bệnh gây hại phát sinh nhiều. Do đó, người dân cần dùng biện pháp nông học kết hợp phòng trừ, trong đó chăm sóc cho cây khỏe thì khả năng chống chọi sâu bệnh sẽ cao hơn. Vườn điều nào bị nhẹ có thể sử dụng cách ghép chuyển đổi, như: ghép cải tạo để có giống khỏe, năng suất cao; vườn bị nhẹ hơn thì chủ yếu chăm sóc, cắt bớt cành bị sâu bệnh, cành khô, bón thêm phân...
Với bề dày kinh nghiệm cùng việc thực hiện đúng quy trình kỹ thuật nên vườn điều của gia đình ông Vui luôn cho năng suất cao. Năm 2018, ông được Chủ tịch Hiệp hội Điều Việt Nam tặng bằng khen vì có thành tích xuất sắc trong sản xuất điều.
Khắc Bảy
Nuôi thỏ Nhật lãi cao
Nguồn tin: Báo Bắc Giang
Sau gần 3 năm chuyển sang nuôi thỏ, anh Hoàng Văn Quyền (SN 1982) ở thôn Hợp Tiến, xã Ngọc Vân, huyện Tân Yên (Bắc Giang) thu lãi mỗi tháng gần 50 triệu đồng.
Từng chăn nuôi lợn và lỗ cả tỷ đồng nhưng anh Quyền không nản chí mà quyết tâm chuyển sang làm giàu với con thỏ. Năm 2017, sau khi nuôi lợn không thành công, anh và người thân lặn lội đi nhiều nơi để tìm hiểu các mô hình chăn nuôi khác để về áp dụng.
Anh Hoàng Văn Quyền giới thiệu mô hình nuôi thỏ.
Trong một lần về Hải Dương, anh Quyền tiếp cận được với mô hình nuôi thỏ Nhật. Qua tìm hiểu anh nhận thấy thỏ là loại vật nuôi ít bị dịch bệnh, thức ăn đơn giản trong khi thị trường tiêu thụ khá thuận lợi nên quyết định chuyển sang nuôi con vật này. Nghĩ là làm, anh Quyền đầu tư hơn 300 triệu đồng cải tạo khu trang trại nuôi lợn của gia đình thành các chuồng nuôi thỏ, đồng thời mua 250 con thỏ về nuôi.
Để có thêm kinh nghiệm chăm sóc thỏ, anh Quyền tích cực tìm hiểu qua sách báo, tham gia các lớp tập huấn kiến thức, kỹ thuật chăm sóc thỏ rồi đi thực tế tại các mô hình nuôi thỏ cho hiệu quả cao ở trong và ngoài tỉnh. Đến nay, sau gần 3 năm, trang trại của anh có 800 thỏ giống cùng 5 nghìn thỏ thương phẩm. Không dừng lại ở đó, anh còn liên kết với một số người dân địa phương xây dựng trang trại nuôi thỏ để xuất khẩu sang Nhật Bản.
Tại đây, quy trình chăm sóc được thực hiện theo hướng an toàn sinh học và có công nhân kỹ thuật chăm sóc thỏ. Trên các lồng nuôi đều có bảng theo dõi cụ thể từng con. “Ngoài cho thỏ ăn cám, tôi còn bổ sung các loại thức ăn khác như: Lúa, ngô và rau xanh nên thịt thỏ thơm ngon hơn và luôn được khách hàng ưa chuộng. Sản phẩm không đủ cung ứng cho thị trường”, anh Quyền bộc bạch.
So với chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi thỏ có hiệu quả cao hơn, vốn đầu tư ít lại thu hồi nhanh, thức ăn cho chúng chủ yếu là phụ phẩm nông nghiệp có sẵn tại địa phương. Theo lời anh Quyền, mỗi năm một con thỏ mẹ có thể sinh sản từ 6-7 lứa, mỗi lứa từ 6-7 thỏ con.
Nuôi sau 3 tháng trọng lượng thỏ thương phẩm đạt từ 2,5 - 3kg. Với quy mô như hiện nay, trung bình mỗi tháng gia đình anh Quyền xuất ra thị trường khoảng một tấn thỏ thương phẩm, với giá bán từ 75 đến 80 nghìn đồng/kg, trừ chi phí thu lãi gần 50 triệu đồng/tháng. Không chỉ làm giàu cho bản thân, anh Quyền còn sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm, tư vấn kỹ thuật chăm sóc loại vật nuôi này cho một số hộ dân khác quanh vùng, mở ra hướng làm giàu chính đáng cho người dân địa phương.
Giang Thảo
Khát vốn tái đàn gia súc gia cầm
Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng
Thời gian qua, nông dân các tỉnh khu vực Đông Nam bộ phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của dịch bệnh, thiên tai liên tiếp. Nhiều gia đình đã rơi vào cảnh kiệt quệ, nợ nần chồng chất.
Tiêu hủy heo nhiễm bệnh dịch tả heo châu Phi. Ảnh: TIẾN MNH
Lao đao vì dịch tả heo
Tại Bình Phước, vào tháng 5-2019 bệnh dịch tả heo châu Phi xuất hiện đầu tiên tại thị trấn Tân Phú (huyện Đồng Phú), đến giữa tháng 8-2019 đã lây lan ra 10/11 huyện, thị xã, TP với 243 hộ/47 phường, xã, thị trấn, ước với thiệt hại hàng chục tỷ đồng. Trong khi người dân đổ vốn đầu tư lớn vào đàn heo, còn việc hỗ trợ lại “nhỏ giọt” theo từng đợt, nên các hộ chăn nuôi lao đao. Tại huyện Phú Riềng có 84 hộ nuôi heo bị mắc dịch, phải tiêu hủy 1.135 con heo, nhưng đến nay mới có 74 hộ nhận hỗ trợ, với số tiền hơn 575 triệu đồng. Nhiều hộ chăn nuôi cho biết, dịch bệnh đã làm không ít hộ chăn nuôi lâm cảnh bi đát, không biết đến bao giờ mới có thể tái đàn.
Còn ở Đồng Nai, nơi được ví là thủ phủ của ngành chăn nuôi heo cả nước, bệnh dịch tả heo châu Phi đang hoành hành dữ dội. Gia đình Nguyễn Văn Hoàng sinh sống ở thị trấn Vĩnh An, huyện Vĩnh Cửu, cho biết, năm 2017 vợ chồng anh ra xã Vĩnh Tân thuê 2 trang trại để nuôi heo với tổng đàn khoảng 2.000 con. Lứa heo đầu có lãi, lứa sau giá heo hơi bất ngờ giảm xuống tận đáy, gia đình rơi vào cảnh trắng tay, ôm một số nợ không nhỏ. Không để trống trại, vợ chồng anh lại huy động vốn liếng, vay ngân hàng đầu tư thêm lứa heo mới nhưng đến lúc xuất chuồng cả 2.000 con mắc bệnh dịch tả heo châu Phi. “Từ khi nuôi heo đến giờ, chỉ đợt xuất chuồng đầu tiên hiệu quả, còn sau đó là lỗ triền miên, không thể gắng gượng được nữa. Gia đình đang rao bán căn nhà ở thị trấn để trang trải nợ nần”, anh Hoàng buồn bã nói.
Theo thống kê của Sở NN-PTNT tỉnh Đồng Nai, bệnh dịch tả heo châu Phi đã xảy ra trên 3.000 hộ tại 122 xã, tiêu hủy 301.000 con heo nhiễm, chủ yếu tại huyện Trảng Bom, Long Thành, Vĩnh Cửu, Thồng Nhất... thiệt hại ước tính khoảng 405 tỷ đồng. Trong đó, huyện Vĩnh Cửu đứng đầu số lượng heo bị tiêu hủy với hơn 59.000 con, ước thiệt hại khoảng 100 tỷ đồng. Thiệt hại lớn nhưng tỉnh cũng mới hỗ trợ gần 43 tỷ đồng cho các hộ chăn nuôi.
Dịch tả heo châu Phi xuất hiện tại Bà Rịa - Vũng Tàu vào cuối tháng 6-2019, nhưng nay đã lan ra 46 địa phương cấp xã thuộc 7 huyện, thị, thành phố của tỉnh (trừ huyện Côn Đảo). Dịch bệnh không dừng lại ở hộ nuôi heo rừng, chăn nuôi nhỏ lẻ mà xảy ra ở trại chăn nuôi số lượng lớn. Ông Vũ Văn Tiên (ấp 5, xã Hòa Hội, huyện Xuyên Mộc) cho biết, thời điểm đàn heo thịt đạt trọng lượng 20 - 30kg/con thì phát hiện bị nhiễm bệnh, phải tiêu hủy toàn bộ. Đợt dịch bệnh này đã khiến gia đình ông không những không trả được nợ cũ mà còn nợ thêm gần 50 triệu đồng.
Đến cúm A, mưa lũ
Không những phải đối phó với dịch heo, hiện trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã phát hiện 2 ổ dịch cúm gia cầm A/H5N6, buộc phải tiêu hủy 10.500 con gà tại 2 trang trại của huyện Xuyên Mộc. Cúm type A (H5N6) là chủng virus có độc lực rất cao, có tốc độ lây lan nhanh làm chết hàng loạt gia cầm, ở nhiều loại khác nhau và đặc biệt có thể lây lan sang người gây tử vong.
Trong khi người dân đang khốn đốn vì dịch bệnh, vào trung tuần tháng 8, do mưa lớn nên nước lũ từ đầu nguồn đổ về đang khiến cho vùng “rốn lũ” Tân Phú và Định Quán (tỉnh Đồng Nai) chìm trong biển nước, nhiều hoa màu, gia sản của nhiều người dân trôi theo dòng nước. Theo số liệu thống kê ban đầu của UBND huyện Định Quán, mưa lũ đã làm 5.000 tấn cá bè chết hoặc trôi ra sông; khoảng 250ha cây trồng bị ngập úng, gây thiệt hại trên 220 tỷ đồng. Nhiều hộ nuôi cá bè đang rơi vào cảnh kiệt quệ, với món nợ tiền tỷ do cá chết. Theo tính toán sơ bộ của Sở NN-PTNT tỉnh Đồng Nai, từ đầu năm đến nay toàn tỉnh đã có khoảng 1.000 tấn cá bè chết do thiên tai.
Đây là thời điểm tốt nhất để tái đàn phục vụ cho thị trường Tết Nguyên đán 2020. Mặc dù được Nhà nước hỗ trợ nhưng nhiều người dân ở các tỉnh Đông Nam bộ cũng không đủ vốn để tái đàn. Nhiều chủ trại heo, gà phá sản, “treo chuồng” là điều khó tránh khỏi.
NHÓM PV
Chuyển đổi vật nuôi: Không chạy theo phong trào
Nguồn tin: Báo Hà Nội Mới
Do ảnh hưởng của bệnh Dịch tả lợn châu Phi, nhiều nông hộ đang tích cực chuyển đổi sang loại vật nuôi khác nhằm ổn định sản xuất, phục vụ nhu cầu tiêu dùng thực phẩm, đặc biệt là dịp cuối năm. Tuy nhiên, theo khuyến cáo của các ngành chức năng, nông dân không nên tái đàn tự phát và chạy theo phong trào bởi tiềm ẩn nhiều rủi ro, dễ mất cân đối cung - cầu…
Để không bị trống chuồng và dần ổn định sản xuất, nhiều hộ chăn nuôi ở các huyện, thị xã của Hà Nội đang chủ động chuyển sang nuôi đại gia súc (ăn cỏ), gia cầm, thủy cầm... Ông Đôn Văn Đặng ở xã Phượng Cách (huyện Quốc Oai, TP Hà Nội) - chủ hộ chăn nuôi vừa phải tiêu hủy 30 con lợn bởi bệnh Dịch tả lợn châu Phi - cho biết, sau đợt dịch, gia đình ông chuyển sang nuôi ngan thương phẩm.
“Ngan là đối tượng dễ thích nghi, có thời gian sinh trưởng và phát triển ngắn, quay vòng vốn nhanh, phù hợp với chuyển đổi tạm thời. Hơn nữa, việc cải tạo chuồng trại từ chăn nuôi lợn sang chăn nuôi gia cầm cũng đơn giản, chi phí thấp”, ông Đặng chia sẻ.
Do ảnh hưởng của bệnh Dịch tả lợn châu Phi, nhiều nông hộ đang tích cực chuyển đổi sang loại vật nuôi khác nhằm ổn định sản xuất
Tương tự, bà Đặng Thị Minh, ở xã Phú Túc (huyện Phú Xuyên), cho biết: “Sau hơn 2 tháng đàn lợn hàng chục con bị tiêu hủy vì bệnh Dịch tả lợn châu Phi, gia đình tôi vừa vệ sinh chuồng trại, vừa tìm hiểu về mô hình nuôi vịt thương phẩm để "lấy ngắn, nuôi dài". Hiện, gia đình tôi đã gia cố chuồng trại, làm tầng để nuôi vịt. Loài này dễ nuôi, chỉ sau 3 tháng chăm sóc là có thể bán. Gia đình tôi đang có 500 con vịt, dự kiến thời gian tới sẽ nhập thêm để nuôi 1.000 con. Với giá bán hiện nay 40.000-42.000 đồng/kg, mỗi con vịt lãi 15.000-20.000 đồng. Như vậy, mỗi lứa nuôi 1.000 con sẽ lãi khoảng 20 triệu đồng".
Thực tế, chăn nuôi là sinh kế của nhiều hộ dân nên việc chuyển đổi sang vật nuôi khác sẽ giảm gánh nặng về kinh tế, tạo nguồn thu tạm thời cho nông hộ. Trưởng phòng Kinh tế huyện Quốc Oai Nguyễn Quang Thắm cho biết, căn cứ điều kiện từng nơi, huyện khuyến khích các xã vùng trũng, nhiều ao hồ chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản kết chăn nuôi tập trung, như: Cấn Hữu, Sài Sơn; phát triển gà thả vườn ở các xã vùng đồi gò như: Đông Yên, Tân Phú, Hòa Thạch; chăn nuôi bò sữa ở Phượng Cách, Cộng Hòa... Tuy nhiên, người dân cần nuôi theo đúng quy hoạch của huyện, không nên tái đàn với số lượng lớn nếu chưa có đầu ra ổn định.
Để chuyển đổi vật nuôi bảo đảm hiệu quả kinh tế và an toàn, theo Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y Hà Nội Nguyễn Ngọc Sơn, Hà Nội định hướng tập trung phát triển chăn nuôi theo vùng, xã trọng điểm và chăn nuôi quy mô lớn ngoài khu dân cư.
Theo đó, Sở NN&PTNT Hà Nội phối hợp với các địa phương hướng dẫn cơ sở sản xuất giống, doanh nghiệp chăn nuôi lợn trên địa bàn thành phố thực hiện chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học. Những nơi có ổ bệnh Dịch tả lợn châu Phi đã qua 30 ngày mà bảo đảm an toàn sinh học; khi kiểm tra môi trường xung quanh cho thấy điều kiện đáp ứng, có doanh nghiệp liên kết tiêu thụ... thì có thể tái đàn. Tuy nhiên, khi tái đàn, người dân không nên nuôi quá 10% số lượng cũ nhằm kiểm soát chất lượng và bảo đảm đầu ra...
Về lâu dài, Sở NN&PTNT Hà Nội đang xây dựng kế hoạch tái cấu trúc ngành chăn nuôi trên địa bàn thành phố bảo đảm phát huy lợi thế, tiềm năng từng vùng. Sở yêu cầu các đơn vị thống kê, tổng hợp số lượng đàn vật nuôi, sản lượng thịt hơi xuất chuồng, cơ cấu vật nuôi hằng tháng trên địa bàn từ nay đến cuối năm nhằm cân đối cung - cầu thực phẩm.
Về vấn đề này, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Nguyễn Huy Đăng cho rằng, đối với vùng trũng, các địa phương cần hướng người dân chuyển sang nuôi trồng thủy sản kết hợp chăn nuôi tập trung; vùng đồi gò nên phát triển chăn nuôi gia cầm, gia súc ăn cỏ... Đối với các hộ khi nuôi gia cầm hay vật nuôi khác, cần nắm chắc kỹ thuật, bảo đảm vệ sinh khu vực chăn nuôi; các địa phương cần tăng cường vận động hộ dân tham gia hợp tác xã, liên kết với các doanh nghiệp, bếp ăn tập thể... nhằm chủ động bao tiêu sản phẩm trước khi tái đàn.
QUỲNH DUNG
Hiếu Giang tổng hợp