Tập trung gỡ khó cho ngành nông nghiệp những tháng cuối năm
Nguồn tin: Báo Chính Phủ
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) cho biết tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 9 tháng ước đạt 53,2 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu đạt khoảng 30,02 tỷ USD, tăng 2,7% so với cùng kỳ. Tăng trưởng xuất khẩu 9 tháng chủ yếu đạt được từ tăng giá trị xuất khẩu lâm sản chính đạt 7,93 tỷ USD, tăng 18%.
Nhóm ngành hàng rau, quả xuất khẩu đạt 2,15 tỷ USD - Ảnh: VGP/Đỗ Hương
Theo thông tin từ Văn phòng Bộ NN&PTNT, giá trị xuất khẩu ngành nông nghiệp đã tăng 2,7% so với cùng kỳ. Trong đó, xuất khẩu chăn nuôi ước đạt 0,53 tỷ USD, tăng 8,6%. Còn nhóm nông sản chính ước đạt 13,9 tỷ USD, giảm 7,2%; thuỷ sản ước đạt 6,23 tỷ USD, giảm 2%. Có 6 nhóm/sản phẩm có giá trị XK trên 2 tỷ USD, gồm: gỗ và sản phẩm gỗ (7,5 tỷ USD, tăng 16,8%); cà phê (2,1 tỷ USD, giảm 21,8%), gạo (gần 2,24 tỷ USD, giảm 9,8%), hạt điều (2,4 tỷ USD, giảm 5,4%), rau, quả (2,15 tỷ USD, giảm 4,3%), tôm (2,4 tỷ USD, giảm 8,0%). Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 23,16 tỷ USD, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm 2018.
Ngành nông nghiệp cũng thẳng thắn nhìn nhận bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, 9 tháng qua hoạt động của ngành vẫn còn một số tồn tại, vướng mắc.
Tốc độ tăng trưởng của lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi thấp, chưa đạt được mục tiêu đề ra. Nguyên nhân chủ yếu do tác động tiêu cực của thời tiết bất thường làm giảm diện tích gieo trồng và sản lượng cây hàng năm (đặc biệt là lúa, rau màu); ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch tả lợn châu Phi.
Mặc dù Bộ và các địa phương đã chủ động triển khai các giải pháp phòng cháy chữa cháy rừng, nhưng do thời tiết nắng nóng kéo dài nên vẫn xảy ra cháy rừng tại một số tỉnh miền Trung làm thiệt hại 1.900 ha rừng, gấp 5,4 lần diện tích bị thiệt hại năm 2018.
Đặc biệt, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản có dấu hiệu chững lại. Nguyên nhân chủ yếu do giá xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản chủ lực giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2018; kim ngạch xuất khẩu sang một số thị trường giảm, đặc biệt thị trường Trung Quốc (ước giảm 8%), EU (ước giảm 6,5%); giá và kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng: cà phê, gạo, hạt điều, sắn và các sản phẩm từ sắn, tôm, cá tra giảm sâu.
Mặc dù, thời gian qua ngành thủy sản đã nỗ lực thực hiện các biện pháp để khắc phục các khuyến cáo của EC, nhưng tiến độ để giải quyết dứt điểm việc gỡ “Thẻ vàng” của EC đối với đánh bắt hải sản Việt Nam còn chậm, một số tỉnh chưa thực sự quan tâm đến công tác kiểm tra, giám sát tại cảng cá và hệ thống giám sát tàu cá theo yêu cầu,..
Tập trung tháo gỡ rào cản kỹ thuật, giải quyết vướng mắc sản phẩm thuỷ sản trong 3 tháng cuối năm - Ảnh: VGP/Đỗ Hương
Trong 3 tháng cuối năm, Bộ NN&PTNT sẽ tập trung chỉ đạo phát triển sản xuất thúc đẩy các lĩnh vực, sản phẩm có ưu thế, triển vọng thị trường để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng của ngành. Cùng với đó, thường xuyên theo dõi tình hình thời tiết, khí tượng thủy văn dòng chảy và nguồn nước hồ chứa; đôn đốc và hướng dẫn các địa phương thực hiện các giải pháp phòng, chống hạn, xâm nhập mặn...; tăng cường kiểm tra và đảm bảo an toàn đê sông, đê biển, các công trình thuỷ lợi.
Đặc biệt sẽ đẩy mạnh phát triển thị trường, tạo thuận lợi cho tiêu thụ nông sản. Cụ thể là thực hiện các nhiệm vụ của Ban chỉ đạo thị trường, phối hợp với các Hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp theo dõi sát diễn biến cung cầu thị trường lương thực, thực phẩm, tình hình xuất nhập khẩu; tăng cường kiểm soát chặt tình hình nhập lậu vào thị trường nội địa;
Tích cực đàm phán mở cửa thị trường xuất khẩu, giữ ổn định các thị trường truyền thống, tìm kiếm và mở rộng các thị trường tiềm năng; hạn chế tối đa sự phụ thuộc vào một số thị trường nhất định. Triển khai tích cực, khai thác hiệu quả cơ hội của các hiệp định tự do thương mại đem lại, tăng cường các hoạt động phát triển thị trường.
Nâng cao chất lượng thu thập, phân tích thông tin, dự báo thị trường, đặc biệt là những thị trường trọng điểm (Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc...), kịp thời cảnh báo các quy định về rào cản, vấn đề phát sinh có thể gặp đối với hàng xuất khẩu; tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm nông lâm thủy sản tại thị trường nước ngoài.
Tập trung tháo gỡ rào cản kỹ thuật, giải quyết vướng mắc sản phẩm thuỷ sản (đặc biệt đối với việc EU rút thẻ vàng các sản phẩm thuỷ sản Việt Nam); quảng bá sản phẩm thuỷ sản kết hợp giải quyết các vướng mắc, rào cản đối với sản phẩm gạo, thịt lợn, sữa, trái cây với thị trường Trung Quốc.
Đẩy mạnh tiêu thụ nông lâm thủy sản tại thị trường trong nước để tiêu thụ kịp thời nông sản, khắc phục tình trạng dư thừa, giá giảm gây thiệt hại cho người sản xuất. Bộ cũng sẽ đưa ra các dự báo và phối hợp với các địa phương xây dựng phương án hỗ trợ tiêu thụ kịp thời nông sản chính (cam, thanh long... ); xây dựng hình ảnh sản phẩm thông qua nâng cao chất lượng nông sản, đảm bảo an toàn thực phẩm và phù hợp thị hiếu người tiêu dùng.
Đỗ Hương
Xuất khẩu rau quả sang châu Âu cần lưu ý gì?
Nguồn tin: Báo Công Thương
Châu Âu là thị trường có yêu cầu rất khắt khe về an toàn thực phẩm, đó là lý do tại sao việc đối phó với các sản phẩm nông nghiệp tươi phải tuân theo các yêu cầu pháp lý và người mua khác. Tuy nhiên, doanh nghiệp áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng cao hơn hoặc theo yêu cầu của thị trường ngách sẽ có những cơ hội để khẳng định chính mình.
Những yêu cầu pháp lý và phi pháp lý phải tuân thủ
Khi xuất khẩu rau quả tươi sang châu Âu, doanh nghiệp phải tuân thủ các yêu cầu về an toàn thực phẩm, chất lượng sản phẩm; tuân thủ xã hội, môi trường và kinh doanh. Doanh nghiệp có thể cập nhật danh sách đầy đủ các yêu cầu pháp lý tại cổng thông tin trợ giúp thương mại của EU (EU Trade Helpdesk).
Bên cạnh đó, để tránh rủi ro về sức khỏe và môi trường, Liên minh châu Âu (EU) đã thiết lập mức dư lượng tối đa (MRLs) cho thuốc trừ sâu trong và trên các sản phẩm thực phẩm. Các sản phẩm chứa nhiều thuốc trừ sâu hơn mức cho phép sẽ bị rút khỏi thị trường châu Âu.
Lưu ý rằng người mua ở một số quốc gia thành viên như Vương quốc Anh, Đức, Hà Lan và Áo sử dụng các MRL chặt chẽ hơn các MRL được quy định trong luật pháp châu Âu. Chuỗi siêu thị là nghiêm ngặt nhất và yêu cầu 33% đến 70% MRL theo luật.
Ngày càng có nhiều người mua yêu cầu thông tin trước về các chương trình và hồ sơ phun thuốc trừ sâu của nhà nhập khẩu. Các lô hàng được kiểm tra trước khi chúng được gửi đến nhà bán lẻ. Quản lý thuốc trừ sâu đòi hỏi trách nhiệm rất nhiều từ phía nhà sản xuất hoặc nhà xuất khẩu. Do đó, lời khuyên là sử dụng Cơ sở dữ liệu thuốc trừ sâu của EU để tìm ra các MRL phù hợp với sản phẩm. Đồng thời áp dụng quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) để giảm lượng thuốc trừ sâu. IPM là một chiến lược kiểm soát dịch hại nông nghiệp cũng là một phần của GLOBALG.A.P. chứng nhận.
Cùng với quản lý tốt việc sử dụng thuốc trừ sâu, doanh nghiệp xuất khẩu cần lưu ý luôn kiểm tra xem người mua có yêu cầu bổ sung đối với MRL và sử dụng thuốc trừ sâu hay không.
Khi cung cấp trái cây và rau quả cắt sẵn, cũng như nước trái cây chưa được tiệt trùng hoặc hạt nảy mầm, doanh nghiệp còn phải tính đến các mối nguy vi sinh như salmonella và E. coli. Quy định châu Âu (EC) số 2073/2005 sẽ cung cấp thông tin về phương pháp thử nghiệm, kế hoạch lấy mẫu và giới hạn đo.
Ngoài ra, trái cây và rau quả xuất khẩu sang Liên minh châu Âu phải tuân thủ luật pháp châu Âu về tình trạng của thực vật. Liên minh châu Âu đã đặt ra các yêu cầu kiểm dịch thực vật để ngăn chặn sự ra đời và lây lan của các sinh vật gây hại cho cây trồng và các sản phẩm thực vật ở châu Âu. Những yêu cầu này được quản lý bởi các cơ quan an toàn thực phẩm có thẩm quyền tại các nước xuất nhập khẩu. Quan trọng nhất, đất nước của doanh nghiệp xuất khẩu cần phải có thỏa thuận kiểm dịch thực vật với Liên minh châu Âu. Nếu không, sẽ không được phép xuất khẩu sang châu Âu.
Các loại trái cây và rau quả phải được kiểm tra sức khỏe và yêu cầu chứng nhận kiểm dịch thực vật trước khi vận chuyển là rau lá (cần tây, húng quế); trái cây họ cam quýt; quất; cà tím; hồng (kaki); táo; lê; xoài; mận; ổi; cây phúc bồn tử; quả việt quất; một số sản phẩm khác biệt như táo hồng, mãng cầu xiêm (guanábana), mộc qua và mướp đắng.
Lưu ý các tiêu chuẩn tiếp thị
Pháp luật châu Âu đặt ra các tiêu chuẩn tiếp thị chung và cụ thể cho chất lượng và độ chín tối thiểu của tất cả các loại trái cây và rau quả tươi. Một tiêu chuẩn tiếp thị xác định các đặc tính của các sản phẩm của Extra Extra Class, Class I và Class II, các mã kích thước khác nhau và dung sai cho phép về chất lượng và kích thước.
Các kích cỡ ưa thích khác nhau giữa các thị trường châu Âu khác nhau, nhưng chất lượng nói chung là loại Extra Extra hay loại I. Doanh nghiệp có thể tìm thấy thị trường cho các sản phẩm Class II ở một số nước Đông Âu, ngành chế biến hoặc các phân khúc ít chính thức hơn.
Có các tiêu chuẩn tiếp thị cụ thể (MS) cho trái cây và rau quả tươi như táo; trái cây họ cam quýt; trái kiwi; rau diếp, xoăn và lá to; đào và xuân đào; quả lê; dâu tây; ớt ngọt; nho; cà chua. Các sản phẩm này phải được kèm theo giấy chứng nhận hợp chuẩn cho mỗi lô hàng, được cấp bởi các cơ quan kiểm soát châu Âu và trong một số trường hợp bởi nước xuất xứ.
Các sản phẩm tươi không được bao gồm trong một tiêu chuẩn tiếp thị cụ thể phải tuân thủ các tiêu chuẩn tiếp thị chung (GMS) trong Phụ lục I, Phần A của Quy định EU số 543/2011; hoặc là tiêu chuẩn UNECE áp dụng (đôi khi ít nghiêm ngặt hơn tiêu chuẩn EU). Các nhà khai thác có thể tự do lựa chọn làm việc với tiêu chuẩn EU hay UNECE. Nếu sản phẩm không nằm trong bất kỳ tiêu chuẩn cụ thể nào của Châu Âu, dpamj mhjoee[k cũng có thể kiểm tra các tiêu chuẩn tương tự trong Codex Alimentarius.
Nhập khẩu các sản phẩm dùng cho chế biến không chịu sự điều chỉnh các tiêu chuẩn tiếp thị của EU. Tuy nhiên, chúng phải được đánh dấu rõ ràng trên bao bì với dòng chữ "dùng cho chế biến" hoặc từ ngữ tương đương khác.
Lời khuyên cho doanh nghiệp là hãy đứng đầu về chất lượng. Nếu không chắc chắn, đừng giao sản phẩm của mình mà hãy tìm các sản phẩm thay thế địa phương. Nếu quyết định giao sản phẩm của mình bằng mọi giá, hãy minh bạch về chất lượng và thảo luận trước với người mua.
Kiểm soát thực phẩm nhập khẩu vào EU
Để đảm bảo an toàn thực phẩm và tránh thiệt hại cho môi trường, các sản phẩm nhập khẩu vào châu Âu sẽ phải chịu sự kiểm soát chính thức. Các biện pháp kiểm soát này được thực hiện để đảm bảo rằng tất cả các loại thực phẩm được bán trên thị trường châu Âu đều an toàn và tuân thủ tất cả các yêu cầu quy định hiện hành.
Có ba loại kiểm tra, gồm kiểm tra tài liệu; kiểm tra danh tính; kiểm tra sự phù hợp với các tiêu chuẩn tiếp thị. Trong trường hợp không tuân thủ nhiều lần các sản phẩm cụ thể có nguồn gốc từ các quốc gia cụ thể, Liên minh châu Âu có thể quyết định thực hiện các biện pháp kiểm soát ở mức tăng hoặc đưa ra các biện pháp khẩn cấp. Kiểm soát có thể được thực hiện ở tất cả các giai đoạn nhập khẩu và tiếp thị ở châu Âu. Tuy nhiên, hầu hết các kiểm tra được thực hiện tại các điểm nhập khẩu.
Đối với các nhà nhập khẩu rau quả tươi, việc truy xuất nguồn gốc của sản phẩm là bắt buộc. Để thực hiện nghĩa vụ này, các nhà nhập khẩu châu Âu sẽ yêu cầu cung cấp bằng chứng về nguồn gốc cho tất cả các loại trái cây và rau quả. Ngoài Vận đơn, chứng nhận kiểm dịch thực vật, danh sách đóng gói và tài liệu tùy chỉnh, doanh nghiệp cũng phải sử dụng mã truy xuất nguồn gốc duy nhất như số nhiều hoặc GLOBALG.A.P. Số (GGN).
Lời khuyên cho doanh nghiệp là làm quen với các thủ tục. Việc không tuân thủ đúng quy trình có thể làm giảm và trì hoãn các đơn đặt hàng, tăng chi phí và dẫn đến hành động của các cơ quan thực thi châu Âu. Đảm bảo rằng các tài liệu đi kèm (chẳng hạn như Vận đơn) tương ứng chính xác với các sản phẩm thực phẩm có trong lô hàng, bao gồm ghi rõ khối lượng, chủng loại và kích cỡ, số lượng pallet và kiện hàng, và tên của người trồng. Kiểm tra các tài liệu cần thiết cho thủ tục hải quan trong Liên minh châu Âu.
Vì an toàn thực phẩm là ưu tiên hàng đầu trong tất cả các lĩnh vực thực phẩm ở châu Âu, doanh nghiệp có thể phải sẵn sàng là hầu hết người mua yêu cầu có sự bảo đảm thêm từ người bán dưới dạng chứng nhận. Tất cả người mua trong chuỗi cung ứng, chẳng hạn như thương nhân, nhà chế biến thực phẩm và nhà bán lẻ yêu cầu triển khai hệ thống quản lý an toàn thực phẩm dựa trên phân tích mối nguy và các điểm kiểm soát quan trọng (HACCP).
Chương trình chứng nhận được yêu cầu phổ biến nhất, cần thiết để xuất khẩu sản phẩm tươi sang châu Âu là GLOBALG.A.P. Đây là một tiêu chuẩn trước cổng trại bao gồm toàn bộ quá trình sản xuất nông nghiệp từ trước khi đưa vào nhà máy ở dưới đất đến sản phẩm chưa qua chế biến (không kể khâu chế biến). GLOBALG.A.P. tập trung vào an toàn thực phẩm cũng như môi trường, điều kiện lao động và chất lượng sản phẩm. Nó đã trở thành một tiêu chuẩn tối thiểu đối với hầu hết các siêu thị châu Âu.
Ngoài GLOBALG.A.P., các hệ thống quản lý an toàn thực phẩm khác cũng có thể được yêu cầu. Hầu như tất cả người mua trên thị trường Tây Bắc châu Âu sẽ yêu cầu nhà nhập khẩu tuân thủ Tiêu chuẩn toàn cầu BRC, được áp dụng rộng rãi như một tiêu chuẩn về vệ sinh và an toàn.
Hoặc, châu Âu, người mua đôi khi yêu cầu doanh nghiệp tuân thủ chương trình tiêu chuẩn thực phẩm IFS, Thực phẩm chất lượng an toàn (SQF), FSSC 22000 hoặc các tiêu chuẩn phát triển công nghiệp khác.
Tất cả các hệ thống quản lý được đề cập đều được công nhận bởi Sáng kiến An toàn Thực phẩm Toàn cầu (GFSI), có nghĩa là chúng thường được các nhà bán lẻ lớn chấp nhận. Việc tuân thủ các chương trình chứng nhận khác nhau giữa các quốc gia, kênh thương mại và tình hình thị trường. Người mua có thể khoan dung hơn trong thời gian thiếu nguồn cung.
Lời khuyên cho doanh nghiệp là đọc thêm về các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm khác nhau trên Bản đồ Tiêu chuẩn ITC hoặc tham khảo Sáng kiến An toàn Thực phẩm Toàn cầu (GFSI). Trong đó có bộ chuẩn về các tiêu chuẩn bổ sung có liên quan. Làm quen với GLOBALG.A.P. Kiểm tra với người mua của về hệ thống quản lý và chứng nhận an toàn thực phẩm ưa thích của họ, vì những thứ này thường dành riêng cho người mua.
Thương vụ tại Hà Lan
Không để người dân thu hoạch non củ hoàng sin cô
Nguồn tin: Báo Lào Cai
Đó là chỉ đạo của Chủ tịch UBND huyện Bát Xát (tỉnh Lào Cai) với các xã trồng cây hoàng sin cô trên toàn huyện.
Huyện Bát Xát có khoảng 200 ha cây hoàng sin cô.
Hiện, trên địa bàn huyện Bát Xát có gần 200 ha hoàng sin cô, tập trung nhiều ở các xã: A Lù, Ngải Thầu, Y Tý, Trịnh Tường. Củ hoàng sin cô chỉ đảm bảo năng suất, chất lượng nếu được thu hoạch đúng thời vụ (25 – 30/10). Thời điểm này cây hoàng sin cô đang trong giai đoạn sinh trưởng, phát triển, tích tụ dưỡng chất trong củ. Tuy nhiên, qua kiểm tra thực tế, một số hộ dân đã thu non và chọn củ to bán ra thị trường.
Trước thực trạng trên, huyện Bát Xát đã có văn bản chỉ đạo các xã: A Lù, Ngải Thầu, Y Tý, Trịnh Tường tuyên truyền vận động nhân dân không thu non, rồi lựa chọn củ to bán ra thị trường, làm ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng của củ hoàng sin cô; làm giảm giá trị của củ hoàng sin cô trên thị trường...
Củ hoàng sin cô cần thu hoạch đúng thời vụ mới đảm bảo năng suất, chất lượng.
Được biết, cây hoàng sin cô rất phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu của nhiều xã trên địa bàn huyện, năng suất khoảng 15 – 20 tấn/ha, giá bán tại ruộng khoảng 7 – 10 nghìn đồng/kg. Củ hoàng sin cô hiện được thương lái đến tận ruộng thu mua đem đi tiêu thụ ở các tỉnh, thành trong cả nước. Đặc biệt, Công ty TNHH Thạch Râu câu Long Hải cũng đã ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm củ hoàng sin cô với số lượng lớn để chế biến thành nước giải khát...
TRUNG NGUYÊN
Chuyển đổi cây trồng trên đất mía
Nguồn tin: Báo Khánh Hòa
Sau những năm đầu có phần dè dặt, hiện nay, hoạt động chuyển đổi từ cây mía đường sang cây trồng khác đang được nông dân trong tỉnh đẩy mạnh. Bước đầu cho thấy, cây trồng mới trên đất mía đang phát huy hiệu quả.
Tín hiệu lạc quan
Những năm qua, vợ chồng ông Lê Văn Tình (xã Xuân Sơn, huyện Vạn Ninh, Khánh Hòa) liên tục chịu cảnh thua lỗ khi trồng mía. Tuy nhiên, với sự nhanh nhạy, cách đây hơn 4 năm, ông Tình đã trồng 250 gốc dừa xiêm vào rẫy mía. Hiện nay, mỗi tháng, 1 gốc dừa cho ông thu hoạch khoảng 10 quả. Với giá bán tại vườn 10.000 đồng/quả, mỗi tháng ông thu nhập hơn 20 triệu đồng. Ngoài ra, ông còn trồng thêm mít, chuối, hồng xiêm... và hàng trăm cây huỳnh đàn; xây chuồng nuôi 6 con bò vỗ béo xuất bán theo dạng gối đầu quanh năm. Ông Tình chia sẻ, thu nhập từ dừa phù hợp với đa số nông dân vì ổn định và liên tục. Phần lớn số tiền thu được, ông tiếp tục đầu tư mở rộng diện tích cây ăn quả.
Vườn dừa, bưởi, mít xanh tốt tại Diên Đồng.
Ông Đỗ Đức Dương ở thôn Xuân Trang (xã Xuân Sơn) cũng có thâm niên hàng chục năm gắn bó với cây mía đường. Hiện nay, cây mía không hiệu quả, vợ chồng ông chuyển 2ha mía sang trồng 120 cây mít Thái, mít nghệ, gần 300 cây dừa xiêm và 300 cây bưởi da xanh. “Giai đoạn chuyển đổi cây trồng sẽ không tránh khỏi khó khăn về kinh tế, thu nhập chưa có, nhưng còn hơn trồng mía phải bù lỗ hàng năm. Hy vọng 1 đến 2 năm tới, khi cây ăn quả cho thu hoạch sẽ giải quyết được những khó khăn này”, ông Dương nói.
Ở vùng mía thị xã Ninh Hòa, một số xã chuyên canh cây mía như: Ninh Tây, Ninh Xuân, Ninh Tân…, nông dân cũng đang chuyển dần cây mía đường sang trồng cây ăn quả, nhất là ở những nơi có thể khoan giếng, cạnh bờ sông, suối… Theo lãnh đạo xã Ninh Tây, chỉ trong năm 2019, ước diện tích mía giảm hàng trăm héc-ta. Người dân đã mạnh dạn chuyển sang trồng bưởi da xanh, mít, dừa, bơ, hồng xiêm… ở những diện tích chủ động về nước tưới. Ở những khu vực hoàn toàn dựa vào nước trời, nhiều hộ đã chuyển sang trồng keo, bạch đàn.
Hoạt động chuyển đổi từ cây mía sang cây trồng khác cũng diễn ra sôi động ở vùng mía ở 2 huyện Diên Khánh và Cam Lâm. Cách đây 3 năm, tại xã Diên Đồng (Diên Khánh) có 960ha mía, hiện nay chỉ còn khoảng 400ha. Thay vào đó là bưởi, mít, xoài từ 1 đến 3 năm tuổi đang phát triển tốt. Tương tự, lãnh đạo UBND huyện Cam Lâm cho biết, năm 2019, diện tích mía chuyển đổi trên địa bàn huyện là 65ha.
Tiếp tục chuyển đổi
Theo thống kê của Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh, nếu như năm 2016, toàn tỉnh có gần 19.000ha mía đường thì đến năm 2019 chỉ còn khoảng 16.500ha.
Ông Dương chăm sóc cây mít hơn 1 năm tuổi.
Riêng trong năm 2019, hoạt động chuyển đổi đất mía sang cây trồng khác đang diễn ra rất nhanh. Tại Ninh Hòa, thủ phủ của cây mía đường, niên vụ mía 2018 - 2019 đã giảm gần 1.500ha, hiện chỉ còn khoảng 11.000ha, so với lúc cao điểm cách đây khoảng 5 năm là hơn 14.000ha. Theo lãnh đạo Phòng Kinh tế thị xã Ninh Hòa, tại Đại hội Đảng bộ thị xã nhiệm kỳ 2016 - 2020, Ninh Hòa xác định giảm diện tích trồng mía xuống còn 9.200ha vào năm 2020. Tại huyện Diên Khánh, hoạt động chuyển đổi diễn ra mạnh nhất ở xã Diên Đồng. Năm 2019, người dân đăng ký chuyển từ cây mía sang cây ăn quả và dâu tằm vượt kế hoạch hơn 52ha, huyện đã trình UBND tỉnh xin bổ sung diện tích chuyển đổi này.
Điều đáng mừng, khi chuyển đổi cây trồng, nông dân được tỉnh hỗ trợ giống, tưới tiêu, máy móc, tập huấn kỹ thuật… Mức hỗ trợ chi phí mua giống cây trồng 50%; hỗ trợ vật tư xây dựng mới hệ thống tưới nước tiết kiệm 30% (không quá 10 triệu đồng/ha đối với cây lâu năm và không quá 20 triệu đồng/ha đối với cây hàng năm). Với các mô hình công nghệ cao, VietGAP trở lên, Nhà nước hỗ trợ khoảng 50% chi phí đầu tư xây dựng nhà sơ chế đóng gói, nhà lưới, nhà kính, hệ thống tưới tiết kiệm (tối đa 150 triệu đồng/cơ sở)…
Qua ghi nhận về những khó khăn của nông dân trong quá trình chuyển đổi cây trồng, có 2 vấn đề được nhiều địa phương nhắc đến, đó là đầu ra cho các loại nông sản sau chuyển đổi và hệ thống thủy lợi hiện nay chưa thể vươn tới nhiều nơi. Đơn cử như tại Ninh Hòa, hơn 70% diện tích đất mía chưa chủ động được nước tưới; một số cánh đồng khác dù đã có kênh dẫn nước nhưng chỉ để phục vụ cho mục đích sản xuất lúa. Không chỉ vậy, việc xuất hiện thêm hàng nghìn héc-ta dừa, bưởi, mít… trong khi hệ thống phân phối ra thị trường chưa đáp ứng được sẽ dẫn tới nguy cơ “được mùa rớt giá”.
Để tháo gỡ những khó khăn này, theo lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, song song với quá trình chuyển đổi của người dân, các sở, ngành, địa phương đã tham mưu UBND tỉnh sửa đổi, bổ sung chính sách hỗ trợ để phù hợp với thực tế. Cùng với việc tập trung xây dựng thương hiệu, nhận diện sản phẩm, xúc tiến thương mại, giới thiệu, quảng bá sản phẩm ra thị trường…, việc đầu tư cơ sở hạ tầng, đặc biệt là cung cấp nước tưới cho vùng trồng cây ăn quả đã và đang được tỉnh quan tâm thực hiện. Chẳng hạn như hệ thống thủy lợi phục vụ tưới cho vùng xoài Cam Lâm đang được tính toán; hoặc hệ thống kênh tưới sau công trình hồ chứa nước sông Chò 1 để cung cấp nước tưới cho khoảng 5.000ha đất sản xuất nông nghiệp, trong đó chủ yếu là cây ăn quả ở các xã: Khánh Bình, Khánh Hiệp, Khánh Đông (huyện Khánh Vĩnh) và Ninh Sim, Ninh Xuân, Ninh Tân, Ninh Hưng (Ninh Hòa). Đây sẽ là những giải pháp để đánh thức nhiều hơn nữa những vùng đất có giá trị kinh tế cao, mà ở đó, việc thay thế cây mía đường ở những diện tích kém hiệu quả đang được quan tâm nhiều nhất.
Hồng Đăng
Thấp thỏm thanh long cuối vụ mùa
Nguồn tin: Báo Bình Thuận
Đã qua dịp rằm trung thu, không ít hộ trồng thanh long trên địa bàn tỉnh Bình Thuận bắt đầu nhộn nhịp chong đèn. Một số hộ khác còn chần chừ, chờ bán lứa trái cuối vụ mùa, bởi giá bán không như mong đợi...
Vệ sinh vườn thanh long.
Giá thấp bất ngờ
Những ngày cuối tháng 9, đi dọc tuyến quốc lộ 1A qua huyện Hàm Thuận Bắc, Bắc Bình, bạt ngàn thanh long dọc 2 bên đường đang trổ bông trắng mượt. Có lứa hoa là thành quả của đợt chong đèn vừa cắt điện, có lứa lại là sản phẩm cuối đợt hàng mùa… Nhưng đối với chủ nhân của nó, biết bao công sức lao động, tiền đầu tư để tạo ra sản phẩm. Đọng lại lúc này lại là nỗi lo thấp thỏm, khi giá cả vẫn bấp bênh không lường trước…
“Vài ngày qua, giá bán thanh long xuống thấp, loại 1 chỉ còn 7.000 đồng/kg, loại 2 là 5.000 đồng/kg và hàng dạt còn 1.000 đồng/kg, trong khi chỉ 1 ngày trước đó, hàng “xô” vẫn đang bán bình thường 8.000 - 9.000 đồng/kg” - đó là chia sẻ của bà Nguyễn Thị Huyền ở thôn Thái Hòa, xã Hồng Thái, huyện Bắc Bình. Bà Huyền cho biết, gia đình trồng 500 trụ thanh long, đang chong đèn đầu vụ nghịch được 5 đêm. Tuy nhiên, giá bán thanh long đột ngột hạ thấp khiến bà không khỏi lo lỗ vốn. Bởi do số trụ không nhiều, chưa hạ bình điện, nên gia đình phải mua điện với giá thấp nhất là 3.000 đồng/kWh, tổng cộng mỗi lứa chong đèn từ 10 - 12 triệu đồng tiền điện. Do đó, thanh long phải bán với giá từ 15.000 đồng/kg trở lên mới có lãi. Đây cũng là lý do các hộ trồng thanh long trên địa bàn Bắc Bình nói riêng và toàn tỉnh nói chung “mất ăn mất ngủ” những ngày vừa qua.
Cùng nỗi lo với bà Huyền là gia đình bà Nguyễn Thị Thùy Dung ở cùng thôn. Với 460 trụ thanh long đang ở kỳ cuối vụ mùa, bà Dung cho biết hiện vẫn chưa vội chong đèn mà chờ đến tháng 9 âm lịch. Thời điểm này gia đình đang tập trung xử lý dây, bón phân và vệ sinh vườn, hy vọng thời gian tới giá bán thanh long sẽ tăng lên.
Xử lý sâu bệnh
Xã Hồng Thái nói riêng và huyện Bắc Bình nói chung, thời gian gần đây là nơi phát triển nhanh và nhiều diện tích thanh long trồng mới. Đi cùng với đó, do điều kiện thời tiết, nên tình hình sâu bệnh hại trên thanh long xảy ra khá nhiều, khiến nỗi lo của nông dân càng tăng lên.
Theo UBND xã Hồng Thái, trong quý III/2019, toàn xã có 5 ha thanh long trồng mới, nâng tổng diện tích lên 912 ha. Riêng diện tích thanh long VietGAP đạt 29,5 ha/15 ha kế hoạch. Tính chung toàn huyện Bắc Bình hiện đang có khoảng 4.126 ha thanh long đang giai đoạn cuối vụ mùa. Trung tâm Kỹ thuật và Dịch vụ nông nghiệp (trung tâm) huyện nhận định, thời tiết đang giao mùa nên biên độ nhiệt ban ngày tăng cao, xuất hiện một số sâu bệnh hại như vàng cành, thối cành, bọ trĩ, rệp sáp, kiến và nấm bồ hóng phát sinh, phát triển và gây hại. Nhất là từ tháng 5 đến nay, trời bắt đầu có mưa nên bệnh đốm nâu bắt đầu gây hại, tăng cả mật độ, tỷ lệ và diện tích nhiễm bệnh trên các vườn có chồi non và vườn có nhiều vết bệnh cũ, vệ sinh vườn kém...
Vì vậy, trung tâm đã và đang phối hợp với UBND các xã, thị trấn hướng dẫn nông dân vệ sinh vườn, cắt tỉa, tiêu hủy cành trái bị nhiễm bệnh đốm nâu. Đồng thời, tiến hành vệ sinh thu gom cành trái thanh long bị bệnh đổ dọc những tuyến đường giao thông nội đồng và theo kênh, mương, hàng rào… mang đi tiêu hủy theo quy trình phòng trừ bệnh đốm nâu của Cục Bảo vệ thực vật. Trong đó, diện tích chặt tỉa và được vệ sinh 3.950 ha, thu gom, tiêu hủy 3.950 tấn.
Cùng động viên nhau vượt qua kỳ rớt giá thanh long, chịu khó chăm sóc cây, vệ sinh vườn để tăng sức chống chịu sâu bệnh… Đó là những điều các hộ trồng thanh long trên địa bàn tỉnh đang cố gắng thực hiện để vượt qua nỗi lo thấp thỏm trước biến động của thanh long cuối vụ mùa.
K.HẰNG
Phát triển thương hiệu cho mãng cầu Hậu Giang
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Mới đây, dự án “Xây dựng, quản lý và phát triển nhãn hiệu tập thể “Mãng cầu Hậu Giang” do ông Nguyễn Mạnh Tuấn, Công ty TNHH Phát triển tài sản trí tuệ Việt làm chủ nhiệm đã được Hội đồng Khoa học và Công nghệ tỉnh nghiệm thu, đánh giá cao.
Được sử dụng nhãn hiệu, 3 HTX trồng và sản xuất các sản phẩm từ trái mãng cầu xiêm của tỉnh luôn quan tâm gìn giữ chất lượng, phát triển thương hiệu cho mãng cầu Hậu Giang.
Chủ nhiệm dự án Nguyễn Mạnh Tuấn đã xây dựng được bộ quy chế sử dụng chung, chọn mẫu hình ảnh về nhãn hiệu, hình ảnh biểu tượng cho nhãn dán của nhãn hiệu “Mãng cầu Hậu Giang”. Qua các nội dung thực hiện, chủ nhiệm đã tìm đối tác vận hành hệ thống quản lý nhãn hiệu tập thể “Mãng cầu Hậu Giang”. Đó là 3 đơn vị HTX chuyên trồng, kinh doanh sản phẩm mãng cầu trên địa bàn tỉnh gồm: Hợp tác xã Mãng cầu xiêm Thuận Hòa, ở ấp 2, xã Thuận Hòa, huyện Long Mỹ; Hợp tác xã Nông nghiệp và thương mại dịch vụ Thuận Hòa, ở ấp 2, xã Thuận Hòa, huyện Long Mỹ; Hợp tác xã Mãng cầu xiêm Hòa Mỹ, xã Hòa Mỹ, huyện Phụng Hiệp. Các hợp tác xã bước đầu cũng đồng thuận, phối hợp tốt với chủ nhiệm dự án để phát triển thương hiệu cho “Mãng cầu Hậu Giang”.
Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp và thương mại dịch vụ mãng cầu Thuận Hòa, xã Thuận Hòa, huyện Long Mỹ Phạm Thị Lượng vui mừng chia sẻ: “Người dân và thành viên hợp tác xã sống và gắn bó với cây mãng cầu xiêm từ rất lâu đời. Vì vậy, khi tham gia dự án, HTX rất vui vì được chính thức sử dụng nhãn hiệu, có được tên tuổi như những sản phẩm khác. Ngoài ra, được sự giúp đỡ của địa phương, Liên minh Hợp tác xã tỉnh hỗ trợ, HTX luôn tham gia quảng bá cho nhãn hiệu mãng cầu Hậu Giang tại hội chợ, triển lãm trong và ngoài tỉnh. Qua đây, chúng tôi cũng bán được nhiều sản phẩm, mang lại thu nhập thêm cho HTX, thành viên và nông dân trong khu vực”.
Từ đầu năm 2019, trang website mang tên mangcauhaugiang.com đã được hoàn thiện, vận hành khá hiệu quả. “Trên trang website, chúng tôi đã đăng tải rất nhiều hình ảnh về sản phẩm, những chế phẩm từ trái mãng cầu do 3 HTX làm ra, trên đó có kèm theo địa chỉ để người tiêu dùng dễ liên hệ khi có nhu cầu”, chủ nhiệm dự án Nguyễn Mạnh Tuấn cho hay.
Được biết, hiện nay, toàn tỉnh Hậu Giang có hơn 900ha trồng mãng cầu, tập trung nhiều ở huyện Phụng Hiệp, Long Mỹ và thị xã Ngã Bảy. Nhận thấy giá trị kinh tế của mãng cầu, nhiều địa phương như huyện Phụng Hiệp, Long Mỹ đã xây dựng đề án, quy hoạch diện tích để giúp người dân chuyển đổi cây trồng kém hiệu quả sang trồng mãng cầu, từ đó diện tích mãng cầu không ngừng tăng lên theo hàng năm. Đã có nhiều công ty thu mua, bao tiêu sản phẩm mãng cầu để chế biến và xuất khẩu sang nhiều nước như Công ty TNHH MTV Chế biến nông sản Tiến Thịnh, ở xã Tân Phước Hưng, huyện Phụng Hiệp.
Ông Võ Văn Phải, Giám đốc HTX mãng cầu xiêm Hòa Mỹ, xã Hòa Mỹ, huyện Phụng Hiệp, thông tin: “Có được những hợp đồng này, người dân, thành viên trồng mãng cầu không còn lo cảnh “thừa hàng dội chợ” khi vào chính vụ thu hoạch, bởi HTX tham gia đã liên kết với doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thì luôn nắm chắc lợi nhuận trong tay. Niềm vui càng nâng lên khi năm 2019 và những năm tới HTX được công ty ký hợp đồng thu mua khoảng 500 tấn sản phẩm/năm, với giá trung bình 13.000 đồng/kg (loại I) và 9.000 đồng/kg (loại II). Với mức giá này bình quân cao hơn giá thị trường bên ngoài từ 2.000-3.000 đồng/kg”.
Định hướng cho tương lai nhãn hiệu “Mãng cầu Hậu Giang”, ông Trần Văn Thắng, Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh, cho biết: “Chúng tôi đã cử cán bộ phụ trách địa phương kèm cặp, hỗ trợ các HTX luôn sử dụng đúng quy chế theo quy định. Ngoài ra, xây dựng mô hình mỗi xã một sản phẩm thì sẽ phát triển đa dạng sản phẩm của mãng cầu như kẹo, mứt làm từ trái mãng cầu. Để làm được điều này, các HTX phải canh tác đúng kỹ thuật, an toàn sinh học, sản xuất ra trái mãng cầu chất lượng, đúng tiêu chuẩn. Vì sự sinh tồn và thu nhập của nông dân, Liên minh HTX tỉnh cùng bà con, các HTX sẽ quyết tâm gìn giữ và phát triển thương hiệu cho mãng cầu Hậu Giang ngày một nâng cao, nổi tiếng”.
Được sử dụng nhãn hiệu, 3 HTX trồng và sản xuất các sản phẩm từ trái mãng cầu xiêm của tỉnh luôn quan tâm gìn giữ chất lượng, phát triển thương hiệu cho mãng cầu Hậu Giang.
Bài, ảnh: TRÚC LINH
Giải pháp xử lý môi trường chăn nuôi
Nguồn tin: Báo Lào Cai
Những năm gần đây, vấn đề bảo vệ môi trường, xử lý chất thải trong chăn nuôi mặc dù đã được trú trọng nhưng tình trạng ô nhiễm vẫn xảy ra, nhất là ở quy mô hộ gia đình.
Xuân Quang là xã chăn nuôi trọng điểm của huyện Bảo Thắng (tỉnh Lào Cai). Nhớ lại cách đây hơn chục năm, khi xã mới phát triển chăn nuôi quy mô hàng hóa, đi đến đâu cũng thấy chất thải chăn nuôi bốc mùi hôi thối, một số hộ chăn nuôi gần đường giao thông còn để chất thải chảy ra đường gây mất mỹ quan và vệ sinh môi trường. Những hộ lân cận bức xúc và phản ánh đến chính quyền xã gây mất đoàn kết trong khu dân cư. Từ khi các giải pháp xử lý chất thải chăn nuôi được ngành nông nghiệp triển khai trên địa bàn, ô nhiễm chăn nuôi được cải thiện.
Anh Đinh Quang Bảo, thôn Hốc Đá, xã Xuân Quang cho biết: Từ khi xây hầm biogas xử lý chất thải chăn nuôi, gia đình tôi không chỉ xử lý được vấn đề ô nhiễm, mà còn có nguồn nước tưới dinh dưỡng cho 2 ha cây ăn quả và có chất đốt phục vụ sinh hoạt. Như vậy, nước rửa chuồng lợn và chất thải hằng ngày đều được đưa xuống bể biogas, khí tạo ra trở thành chất đốt và nước thải biogas làm nước tưới cho cây trồng, còn chất thải lắng được ủ với chế phẩm vi sinh để tạo nguồn phân bón cho đồng ruộng. Với quy trình khép kín trên, vừa đảm bảo vệ sinh môi trường, vừa đảm bảo an toàn cho việc chăn nuôi của gia đình.
Xử lý chất thải chăn nuôi bằng hầm biogas kết hợp hệ thống tưới nhỏ giọt cho vườn cây ăn quả tại xã Xuân Quang, huyện Bảo Thắng.
Được biết, trong khi dịch tả lợn châu Phi diễn ra tại các địa phương thì chăn nuôi an toàn sinh học, xử lý tốt chất thải trong chăn nuôi đã giúp đàn lợn hơn 50 con của gia đình anh Bảo sinh trưởng tốt.
Đảm bảo vệ sinh môi trường là yếu tố quan trọng để đàn vật nuôi phát triển tốt. Ý thức được điều này, từ khi xây dựng trang trại nuôi gà đen, gia đình chị Nguyễn Lan Anh, ở thôn Na Pắc Ngam, xã Tà Chải (huyện Bắc Hà) đã áp dụng mô hình nuôi giun quế để xử lý chất thải chăn nuôi và có nguồn dinh dưỡng cho đàn gà. Nuôi giun quế mang lại nhiều tác dụng như thức ăn của giun là chất thải trong chăn nuôi. Vì vậy, ngoài tận dụng chất thải từ nuôi gà, gia đình chị còn thu gom chất thải chăn nuôi gia súc của các hộ trong vùng để làm thức cho ăn giun. Giun quế có hàm lượng protein cao và nhiều axit amin, đàn gà được ăn giun quế 1 bữa/tuần sẽ khỏe mạnh, lớn nhanh, sức đề kháng cao, ít mắc bệnh, đặc biệt chịu được thời tiết lạnh, sương muối như ở Bắc Hà.
Toàn tỉnh hiện có hơn 548 nghìn con gia súc, hơn 4 triệu con gia cầm, lượng phân phát thải hằng ngày khoảng 3.697 tấn, khối lượng nước tiểu khoảng 2.283 tấn, chưa kể hàng nghìn tấn nước thải sau tắm và rửa chuồng trại. Nếu không được xử lý tốt, đây sẽ là nguồn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Xử lý chất thải chăn nuôi là vấn đề quan trọng để ngành chăn nuôi phát triển bền vững. Thời gian qua, các cơ quan chuyên môn đã có nhiều giải pháp giải quyết vấn đề này. Từ năm 2014, ngành nông nghiệp triển khai dự án hỗ trợ nông nghiệp các-bon thấp, hỗ trợ các hộ chăn nuôi làm hầm biogas nhằm sử dụng tối ưu phụ phẩm nông nghiệp để sản xuất năng lượng sinh học, xử lý chất thải chăn nuôi, sản xuất phân hữu cơ và một số mô hình xử lý chất thải chăn nuôi như ủ phân bằng chế phẩm sinh học, nuôi giun quế... cũng đang được triển khai tại một số địa phương. Trên địa bàn tỉnh hiện có 7 nghìn hộ chăn nuôi xử lý chất thải trong chăn nuôi bằng hầm bể biogas, còn lại đa số các hộ xử lý chất thải chăn nuôi bằng biện pháp sử dụng hố ủ phân, hố chứa phân hoặc mô hình ủ phân bằng chế phẩm sinh học... Có 504 trang trại chăn nuôi và 8 cơ sở chăn nuôi công nghiệp áp dụng các biện pháp xử lý chất thải chăn nuôi bằng hầm bể biogas, đệm lót sinh học và sử dụng các chế phẩm sinh học. Tuy nhiên, tình trạng xử lý chất thải chăn nuôi vẫn còn nhiều điều đáng bàn.
Trên địa bàn tỉnh hiện có khoảng 115.462 hộ chăn nuôi gia súc, gia cầm, trong đó 65.273 hộ chăn nuôi (chiếm 56,5%) đảm bảo vệ sinh môi trường trong chăn nuôi, còn 50.189 hộ chăn nuôi (chiếm 43,5%) không có biện pháp xử lý chất thải, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe và đời sống của người dân, gây khó khăn trong công tác phòng, chống dịch bệnh, đặc biệt là công tác phòng, chống dịch tả lợn châu Phi.
Nguyên nhân của những hạn chế trên do chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô nhỏ, phân tán còn chiếm tỷ lệ cao (hơn 90% số hộ chăn nuôi toàn tỉnh). Điều kiện cơ sở vật chất, trình độ kỹ thuật chăn nuôi nông hộ còn nhiều hạn chế, nhất là kiến thức về phòng, chống dịch bệnh của một số người chăn nuôi chưa cao. Phát triển chăn nuôi chưa gắn với cơ sở giết mổ tập trung theo quy hoạch. Nhiều trang trại quy mô chăn nuôi còn vượt quá công suất hầm khí biogas. Hệ thống thu gom, xử lý chất thải chăn nuôi chưa phù hợp, dẫn đến quá tải, chất thải được thu gom vào hệ thống xử lý nhưng không lưu đủ thời gian để phân hủy đã thải ra môi trường gây ô nhiễm.
Bà Phạm Thị Hoa, Phó Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh cho biết: Để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi, các cơ quan, ban, ngành của tỉnh cần phối hợp với các địa phương đẩy mạnh thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển chăn nuôi tập trung, hàng hóa; khuyến khích chăn nuôi trang trại công nghiệp; xây dựng phương án giết mổ, gia súc, gia cầm tập trung. Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực chăn nuôi được hưởng các chính sách đất đai theo quy định; có cơ chế, chính sách hỗ trợ vốn, công nghệ, tạo điều kiện cho họ tiếp cận với các phương pháp xây dựng hệ thống xử lý chất thải chăn nuôi. Tăng cường các chế tài xử lý, đủ sức răn đe đối với các cơ sở không thực hiện nghiêm việc bảo vệ môi trường và xử lý chất thải trong chăn nuôi.
KIM THOA
Hiếu Giang tổng hợp