Phát huy tiềm năng cây ăn trái chủ lực
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang
Tiền Giang hiện có trên 77.700 ha vườn trồng cây ăn trái các loại với nhiều chủng loại cây ăn trái đặc sản, có lợi thế cạnh tranh trên thị trường như: Vú sữa Lò rèn Vĩnh Kim, xoài cát Hòa Lộc, sầu riêng Ngũ Hiệp, thanh long Chợ Gạo... Sản lượng trái cây mỗi năm trên 1,5 triệu tấn cung ứng cho thị trường trong nước và xuất khẩu.
Để phát huy tiềm năng kinh tế quan trọng này, giúp nông dân an cư lạc nghiệp và nông thôn đổi mới, giàu đẹp, Tiền Giang đã quan tâm thực hiện nhiều giải pháp tích cực nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng chất lượng và giải quyết đầu ra cho các loại cây ăn trái chủ lực thông qua việc qui hoạch các vùng nguyên liệu, mở rộng liên kết sản xuất, tiêu thụ và bao tiêu sản phẩm.
Trước mắt, trên cây xoài cát Hòa Lộc, tỉnh đã xây dựng được vùng nguyên liệu xoài cát Hòa Lộc đạt tiêu chí VietGAP khoảng 100 ha gắn với Mô hình liên kết sản xuất tiêu thụ xoài tại Hợp tác xã Hòa Lộc (huyện Cái Bè). Thông qua mô hình, hàng năm, hợp tác xã hợp đồng cung cấp từ 100 đến 150 tấn xoài cát Hòa Lộc đạt tiêu chuẩn VietGAP cho các thị trường Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Công ty Hachando để xuất khẩu đi Nhật Bản.
Trên cây thanh long, tỉnh đã xây dựng được 3 mô hình liên kết - tiêu thụ thanh long VietGAP, GlobalGAP tại các doanh nghiệp: Hợp tác xã thanh long Mỹ Tịnh An (huyện Chợ Gạo), Công ty TNHH Long Việt (huyện Chợ Gạo) và Công ty TNHH Sản xuất chế biến nông sản Cát Tường (TP. Mỹ Tho). Tại Hợp tác xã thanh long Mỹ Tịnh An đã xây dựng vùng nguyên liệu 30 ha đạt chứng nhận GlobalGAP liên kết với các doanh nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh cung ứng sản phẩm và đóng gói xuất khẩu theo yêu cầu sang nhiều nước: Trung Quốc, Hoa Kỳ, Hà Lan,… với sản lượng mỗi tháng từ 40 đến 60 tấn.
Công ty TNHH Long Việt thì xây dựng được vùng nguyên liệu thanh long sản xuất theo tiêu chí VietGAP, GlobalGAP trên diện tích khoảng 130 ha. Hàng năm, doanh nghiệp có thể cung cấp từ 3.000 đến 4.000 tấn thanh long sạch, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu sang các thị trường khó tính như: Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Châu Âu,…
Công ty TNHH Sản xuất chế biến nông sản Cát Tường xây dựng vùng nguyên liệu thanh long đạt chuẩn GlobalGAP hàng trăm ha, gắn kết nhà máy đóng gói đạt chuẩn, hệ thống kho mát hiện đại với sức chứa 2.000 tấn và nhà máy xử lý nhiệt hơi nước cho trái cây tươi… đáp ứng nhu cầu xuất khẩu trái cây tươi cho các thị trường: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc,…
Ngoài ra, trên cây vú sữa có mô hình liên kết sản xuất - xuất khẩu vú sữa sang thị trường Hoa Kỳ với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp có tiềm lực lớn: Công ty TNHH Sản xuất chế biến nông sản Cát Tường, Công ty TNHH Thương mại dịch vụ xuất nhập khẩu Đại Lâm Mộc… Trên cây bưởi da xanh có mô hình liên kết sản xuất - tiêu thụ bưởi da xanh ấp Bình Thành, xã Tân Mỹ Chánh, thành phố Mỹ Tho được hình thành từ năm 2016. Thông qua mô hình, trung bình mỗi năm có 400 tấn bưởi da xanh ở vùng chuyên canh Tân Mỹ Chánh được cơ sở Hương Miền Tây (tỉnh Bến Tre) bao tiêu với giá cả hợp lý, nông dân rất phấn khởi.
Từ những thành quả bước đầu với những hạt nhân là các hợp tác xã, tổ hợp tác và doanh nghiệp đi đầu trong xây dựng vùng nguyên liệu trái cây đặc sản, chất lượng, đạt tiêu chí GAP bảo đảm an toàn và truy xuất nguồn gốc, tỉnh tiếp tục nhân rộng, gắn kết với chuyển giao khoa học kỹ thuật thâm canh, kỹ thuật xử lý cho thu hoạch rải vụ, cơ giới hóa các khâu canh tác… giúp tiềm năng kinh tế vườn ở Tiền Giang thăng hoa, đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế, xã hội địa phương một cách bền vững.
Minh Trí
Lạng Sơn: Dưa hấu được giá
Nguồn tin: Khuyến Nông VN
Hiện nay, các hộ nông dân trồng dưa hấu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đang bước vào vụ thu hoạch dưa hấu với niềm vui được giá.
Toàn tỉnh Lạng Sơn năm nay trồng khoảng 150 ha dưa hấu, tập trung chủ yếu ở các huyện Lộc Bình, Cao Lộc, Chi Lăng, Bình Gia, Văn quan… Hiện nay, bà con đang bước vào vụ thu hoạch dưa hấu với niềm vui được giá. Anh Hoàng Văn Thì ở xã Tân Liên (huyện Cao Lộc ) phấn khởi cho biết: Năm nay, gia đình tôi trồng được 3 sào dưa hấu, đến nay đã thu hoạch 3 tấn dưa. Các thương lái đến thu mua tại ruộng với giá 12 nghìn đồng/kg, thu về gần 40 triệu đồng. Hiện dưa hấu vẫn đang cho thu hoạch, ước tính đến cuối vụ sẽ cho thu nhập gần 90 triệu đồng. Cùng diện tích đó, năm ngoái, gia đình chỉ thu được khoảng 25 triệu đồng.
Với năng suất đạt gần 1 tấn/sào, giá bán từ 12- 15 nghìn đồng/kg như hiện nay, trung bình các hộ trồng dưa hấu thu về trên 10 triệu đồng/sào.
Giải thích về tình hình giá dưa hấu năm nay ở mức cao, chị Nguyễn Thị Thiết, một thương lái cho biết: “Giá dưa tăng cao là do nắng nóng, nhu cầu tiêu thụ dưa ở các địa phương trong nước tăng mạnh, thị trường Trung Quốc có nhu cầu nhập khẩu dưa tăng”.
Giá dưa tăng cao là do nắng nóng kéo dài
Theo các hộ trồng dưa ở đây nhận xét, không như lúa, ngô, dưa hấu cho thu hoạch nhanh, ít tốn công chăm sóc, chỉ bón phân, tưới nước theo đúng hướng dẫn kỹ thuật thì sau hơn 2 tháng trồng là cây dưa hấu được hoạch và một năm có thể trồng vài vụ nếu thời tiết thuận lợi.
Tuy nhiên, theo khuyến cáo của ngành chức năng, bà con nông dân không nên thấy giá dưa năm nay tăng cao mà vụ sau ồ ạt xuống giống, mở rộng diện tích vì đầu ra của loại nông sản này bấp bênh, thiếu ổn định, nếu trồng nhiều dễ bị ứ đọng, giá cả sẽ sụt giảm mạnh dẫn đến thua lỗ như đã từng xảy ra ở các niên vụ trước.
Hoàng Văn Hương - Thôn Bản Tẳng, xã Bằng Khánh, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn
Lào Cai: Mường Khương mở rộng vùng trồng quýt
Nguồn tin: Báo Lào Cai
Quýt ngọt là một trong những đặc sản nổi tiếng của huyện Mường Khương (tỉnh Lào Cai). Cây quýt phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng và trình độ canh tác, đã và đang mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân.
Nông dân xã Lùng Khấu Nhin tỉa mầm để kích thích cây quýt ra hoa.
Giống quýt được người dân vùng biên giới thị trấn Mường Khương mang về trồng thử từ việc giao lưu, trao đổi hàng hóa với người dân nước bạn. Với đặc thù khí hậu, thổ nhưỡng của vùng cao, quả quýt Mường Khương to, chắc, nhiều nước và vị ngọt nhẹ, có những đặc tính khác so với giống quýt ban đầu. Ngay từ những vụ đầu tiên đưa ra thị trường, quả quýt ngọt Mường Khương nhanh chóng lấy được cảm tình của người tiêu dùng. Danh tiếng của loại quả ngon, ngọt lại có mẫu mã đẹp dần được nhiều người trong và ngoài tỉnh biết đến. Cũng nhờ đó, việc tiêu thụ quýt những năm gần đây rất thuận lợi, các thương lái từ khắp nơi đến tận vườn thu mua với số lượng lớn, giá bán luôn đạt cao (khoảng 10.000 - 15.000 đồng/kg). Quýt trở thành loại cây xóa đói, giảm nghèo, giúp đồng bào vùng cao biên giới Mường Khương làm giàu.
Nhận thấy tiềm năng và triển vọng phát triển kinh tế bền vững, năm 2013, UBND tỉnh đã phê duyệt Dự án phát triển vùng sản xuất quýt hàng hóa huyện Mường Khương. Dự án được triển khai tại các xã: Thanh Bình, Nậm Chảy, Tung Chung Phố, Tả Ngài Chồ và thị trấn Mường Khương. Đây là khu vực vùng trung của huyện, có khí hậu tương đối mát lành, đất đồi núi cao, phù hợp với điều kiện sinh trưởng và phát triển cây quýt ngọt. Các hộ tham gia dự án được hỗ trợ 100% cây giống, phân bón trong 3 năm đầu, được tập huấn kỹ thuật chăm sóc và bảo quản quýt sau thu hoạch. Quýt được trồng tập trung tại thị trấn Mường Khương và xã Tung Chung Phố, người dân đang mở rộng diện tích trồng loại cây đặc sản này đến các xã lân cận như Tả Ngài Chồ, Lùng Khấu Nhin, Nấm Lư, Nậm Chảy, Thanh Bình. Năm 2017, quýt ngọt Mường Khương đã được cấp nhãn hiệu tập thể, tạo thuận lợi cho sản phẩm khẳng định chỗ đứng trên thị trường. Tính đến hết năm 2018, diện tích quýt tại huyện Mường Khương đạt 488 ha, trong đó 150 ha đến tuổi cho thu hoạch, sản lượng đạt 1.300 tấn. Việc tiêu thụ diễn ra thuận lợi, thậm chí không đủ phục vụ nhu cầu của thị trường.
Vụ quýt năm 2018 là vụ đầu tiên cây quýt của gia đình anh Tráng Văn Hạnh, ở thôn Na Cạp, xã Lùng Khấu Nhin cho thu hoạch. Ngay từ đầu vụ, chỉ sau 1 lần anh mang quýt bán tại chợ phiên, các tiểu thương đã liên hệ và đến tận vườn để đặt hàng. Những ngày sau đó, nhiều người đến tham quan và mua quýt tại vườn nên anh chủ động mở cửa vườn để đón khách với mức giá 20.000 đồng/lượt. Với gần 1 ha quýt, vụ đầu tiên gia đình anh thu lãi 70 triệu đồng. Theo anh Hạnh, nếu chăm sóc tốt và được mùa thì con số này sẽ tăng gấp đôi vào vụ tiếp theo. Sau một vụ quýt thành công, gia đình anh đã mua thêm giống, chuyển đổi toàn bộ diện tích trồng ngô của gia đình sang trồng quýt.
Theo ông Lù Ỉn Sửn, Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Mường Khương, cây quýt phù hợp với khí hậu và thổ nhưỡng của địa phương, sinh trưởng và phát triển tốt, ít sâu bệnh. Năm đầu tiên, quýt có thể cho thu hoạch khoảng 8 tấn/ha và năng suất những vụ tiếp theo sẽ đạt khoảng 10 - 12 tấn/ha, những cây được chăm sóc tốt, lâu năm, có tán rộng thì năng suất có thể đạt 15 tấn/ha. Hiện nay, quýt tiêu thụ rất nhanh do đầu ra tương đối ổn định. Để đảm bảo việc tiêu thụ thuận lợi trong những năm tiếp theo, khi mà sản lượng quýt tăng dần, các cơ quan chuyên môn đang nỗ lực khẳng định uy tín, chất lượng quýt trên thị trường thông qua các hoạt động quảng bá, giới thiệu sản phẩm, đưa quýt đến các thị trường mới như siêu thị, các chuỗi cửa hàng bán lẻ, nhà hàng, khách sạn. “Chúng tôi đang tính đến phương án rải vụ sản xuất, tăng cường các giống chín muộn, nghiên cứu cách bảo quản để giảm áp lực tiêu thụ trong trường hợp quýt chín đồng loạt và việc tiêu thụ gặp khó khăn” - ông Sửn nói.
Cây quýt đang được mở rộng diện tích đến các xã lân cận, những nơi có điều kiện khí hậu tương đồng với thị trấn Mường Khương. Tuy nhiên, việc mở rộng sản xuất và đảm bảo tính hiệu quả, người dân cần được trang bị về kỹ thuật trồng và chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh một cách bài bản. Trên thực tế, nhiều hộ mở rộng diện tích trồng quýt chỉ đơn thuần mua giống ở các buổi chợ phiên về để trồng, kinh nghiệm dừng ở mức “nghe nói” mà chưa được hướng dẫn cụ thể. Để xây dựng vùng trồng quýt ngọt theo hướng hàng hóa, ổn định và bền vững là vấn đề cần được huyện Mường Khương quan tâm.
THÚY PHƯỢNG
Trồng chuối chạy theo phong trào, nguy cơ ‘vỡ trận’ cao
Nguồn tin: Báo Đắk Lắk
Khoảng một năm trở lại đây, nhiều hộ dân ở huyện Krông Búk (tỉnh Đắk Lắk) đổ xô đi trồng chuối với hy vọng thu lợi nhuận kinh tế cao. Tuy nhiên, hiện nay giá chuối quả trên thị trường giảm mạnh, nguy cơ “vỡ trận" cao, khiến nhiều người thấp thỏm.
Cuối năm 2017, Công ty TNHH Nông nghiệp công nghệ cao DRI (phường Tân An, TP. Buôn Ma Thuột) thuê 69 ha đất ở thôn Bình Minh của Nông trường cao su Chư Kbô (xã Cư Kbô) trồng chuối (giống chuối lùn Nam Mỹ theo phương pháp nuôi cấy mô) để xuất khẩu, với giá bán theo hợp đồng thu mua có thời điểm lên đến 14.000 đồng/kg. Còn tại thị trường buôn bán trong nước, nhiều tư thương thu mua chuối với mức 10.000 đồng/kg. Nhận thấy hiệu quả kinh tế cây chuối đem lại cao, một số hộ dân trên địa bàn huyện cũng trồng chuối để cung cấp cho thị trường nội địa.
Anh Nguyễn Văn Hòa ở thôn 14 (xã Pơng Drang, huyện Krông Búk) chăm sóc vườn chuối chuẩn bị thu hoạch.
Đầu năm 2018, gia đình anh Nguyễn Văn Hòa ở thôn 14 (xã Pơng Drang) trồng 2,5 ha chuối lùn giống nhập từ Thái Lan. Chỉ sau khoảng 10 tháng xuống giống, vườn chuối bắt đầu cho thu hoạch. Những ngày đầu mới trồng, giá chuối quả trên thị trường vẫn cao nên nhiều hộ dân trong vùng đã tìm đến vườn của gia đình anh Hòa đặt mua cây con về trồng. Tuy nhiên, từ đầu năm 2019 đến nay, cũng là giai đoạn vườn chuối của gia đình anh Hòa cho thu hoạch rộ thì giá chuối quả trên thị trường giảm mạnh còn 2.000 - 2.500 đồng/kg. Trong 6 tháng đầu năm, vườn chuối cho thu hoạch khoảng 8 tấn quả, anh Hòa phải liên hệ với nhiều đại lý thu mua trái cây ở các tỉnh phía Nam để bán.
Theo anh Hòa, mặc dù chuối là cây dễ tính nhưng phải đảm bảo đủ nước tưới và thường xuyên giữ ẩm đất. Nếu như sầu riêng chỉ cần tưới 10 lít nước/gốc thì cây chuối cần phải tưới với lượng nước gấp đôi, thậm chí gấp 3 lần mới đảm bảo cho cây phát triển ổn định. Ngoài ra, chuối cũng thường mắc các bệnh như: sâu đục làm thối thân, hoặc xoăn lá cây dễ dẫn đến chết cây, vì vậy phải thường xuyên phun thuốc chống sương, thuốc bảo vệ thực vật để cây phát triển, ra quả đều.
Thấy nhiều hộ dân trồng chuối, anh Nguyễn Thành Hưng (trú xã Hòa Thuận, TP. Buôn Ma Thuột) cũng thuê 10 ha đất mới tái canh cao su tại thôn Quảng Hà (xã Cư Kbô) của Nông trường cao su Chư Kbô để trồng xen 10.000 chuối tiêu hồng, với chi phí ban đầu 400 triệu đồng. Từ đầu năm 2019 đến nay, anh Hưng xuất bán khoảng 12,5 tấn chuối/tháng ra thị trường, trừ chi phí nhân công, phân bón… mỗi tháng anh thu lãi khoảng 20 triệu đồng.
Theo anh Hưng, chuối tiêu thụ thị trường nội địa không đòi hỏi các quy trình nghiêm ngặt như trồng chuối để xuất khẩu nên anh chỉ sản xuất theo kinh nghiệm truyền thống. Thương lái thu mua chuối của gia đình anh thường đưa đến các tỉnh Nam miền Trung rồi chia lẻ bán cho các chợ, quán ăn... Tuy nhiên, anh Hưng chia sẻ, dù thu nhập như vậy song đến nay tiền đầu tư ban đầu cho vườn chuối chưa thu hồi lại được, thời gian kinh doanh loại cây trồng này tối đa chỉ khoảng 5 năm thì phải xóa vườn. Trong khi đó, thị trường đầu ra rất “đỏng đảnh”, giá chuối quả những tháng gần đây quá thấp, thương lái hay ép giá nông dân trồng chuối, không biết tới đây khả năng tiêu thụ ra sao.
Vườn chuối trồng xen với cao su mới tái canh của gia đình anh Nguyễn Thành Hưng tại thôn Quảng Hà (xã Cư Kbô).
Chị Nguyễn Thị Nhỏ, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại Diễm Minh - đại lý thu mua trái cây, nông sản ở thôn 14 (xã Pơng Drang) cho hay: "Huyện Krông Búk đang có khá nhiều diện tích chuối kinh doanh. Những hộ trồng chuối quy mô lớn thường phải tìm đến thương lái ngoài huyện thu mua để đưa đến các tỉnh, thành khác bán lẻ, còn các hộ trồng từ dưới 1 ha thì liên hệ các đại lý thu mua trên địa bàn huyện. Mỗi tuần đại lý của tôi cũng chỉ dám thu mua tối đa 5 tạ chuối, trong khi nhu cầu đầu ra của loại trái cây này cao gấp nhiều lần".
Theo chị Nhỏ, khá nhiều tỉnh, thành trong cả nước trồng được chuối, khách hàng tiêu thụ chuối lại không nhiều. Giá cả lại phụ thuộc vào thị trường, cung nhiều hơn cầu dẫn đến giá xuống thấp, thậm chí tư thương không mua. Đã từng có bài học đắt giá về chuối - năm 2017 nông dân tại nhiều tỉnh như: Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây Ninh, Đồng Nai… khóc ròng vì chuối rớt giá thê thảm, thậm chí không tiêu thụ được do xuất phát từ kiểu làm ăn theo phong trào.
Trước tình trạng trên, rõ ràng người dân cần thận trọng với việc trồng chuối chạy theo phong trào để tránh rủi ro.
Theo ông Hoàng Văn Minh, Trưởng Phòng NN-PTNT huyện Krông Búk, ngoài diện tích chuối được Công ty TNHH Nông nghiệp công nghệ cao DRI thuê đất của Nông trường cao su Chư Kbô để trồng theo quy trình xuất khẩu thì đến nay đơn vị vẫn chưa nắm được tình hình người dân mở rộng diện tích trồng chuối vì các xã không báo cáo.
Lê Thành
Phát hiện hơn 1.000ha rừng sâm ba kích tím tự nhiên
Nguồn tin: Tuổi Trẻ
Một rừng sâm ba kích tím tự nhiên rộng hơn 1.000ha vừa được phát hiện ở cánh rừng nguyên sinh thuộc lâm phận rừng phòng hộ Đăk Mi, huyện Phước Sơn, Quảng Nam.
Khu rừng Đăk Mi, nơi có rừng sâm ba kích tím ngự trị - Ảnh: LÊ TRUNG
Ông Lê Trí Thanh (phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam): Cho đến giờ này, có thể nói đây là vườn ba kích tự nhiên lớn nhất của Quảng Nam. Tỉnh yêu cầu phải bảo vệ nghiêm ngặt vườn ba kích này và khoanh định, xác lập thành khu bảo tồn gen gốc ba kích đặc hữu.
Đây được đánh giá là quần thể sâm ba kích tự nhiên lớn nhất của tỉnh Quảng Nam và như một báu vật vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho vùng đất, con người nơi đây.
Tìm vào rừng sâm quý
Từ đập chính thủy điện Đăk Mi 4, chúng tôi xuôi thuyền theo dòng sông Đăk Mi để đến rừng sâm ba kích này. Mùa này, nước sông Đăk Mi xanh màu ngọc bích, hai bên bờ là những cánh rừng nguyên sinh ngút ngàn.
Sáng sớm, sương trắng phủ kín trên các ngọn cây. Phải mất gần một giờ đi thuyền và hơn nửa giờ đi bộ lên đỉnh núi, chúng tôi mới được tận mắt nhìn thấy rừng ba kích tím tọa lạc giữa cánh rừng nguyên sinh nằm ở độ cao khoảng 500m so với mực nước biển.
Ba kích mọc dày đặc dưới những tán rừng cổ thụ, thân cây leo quấn chằng chịt những cây rừng. Lá xanh ngắt, đọt tím, đâu đâu cũng thấy sự ngự trị của chúng. Những bộ rễ, củ của cây ba kích bám sâu lan rộng xuống đất, dưới thảm lá mục. Dưới những tán cây rừng, những cây sâm ba kích như được chở che. Những cây ba kích cho quả đỏ chót, chín mọng.
Càng đi sâu vào khu rừng, lên đến đỉnh, càng thấy cây sâm ba kích mọc nhiều dưới tán rừng, nơi mà ánh nắng mặt trời chỉ khẽ lọt xuống vài tia. Một số nơi ba kích tập trung dày đã được rào bởi thép B40.
Anh Hồ Ngọc Vương - cán bộ ban quản lý rừng phòng hộ Đăk Mi - kể rằng quần thể ba kích tím này được phát hiện bởi một người dân bản địa, là thành viên của tổ bảo vệ rừng cộng đồng vào cuối năm 2017. Những năm trước, anh em cũng hay đi tuần tra ở khu rừng này nhưng không để ý. Phải đến khi người dân này đi rừng, phát hiện và báo thì anh em lên kiểm tra và thấy rừng ba kích tím tự nhiên này với mật độ dày đặc nằm dưới tán rừng.
Rừng sâm ba kích này đến mùa sẽ nở hoa trắng. Đến tháng 5-6, cây sâm ba kích sẽ cho quả chín đỏ chót, tuyệt đẹp. "Chúng tôi khá bất ngờ vì cây sâm này mọc san sát nhau dưới đất với mật độ khá dày" - anh Vương nói.
Các cán bộ kiểm lâm dùng dao đào thử một cây sâm ba kích tím quấn lấy cây cổ thụ để quan sát. Hai cán bộ kiểm lâm phải chật vật đào một hồi lâu mà chưa thể đào hết, vì rễ và củ của cây ba kích này bám thật sâu dưới đất, mọc tua tủa rộng ra xung quanh. Bộ rễ của cây sâm ba kích có nhiều hình thù kỳ dị, có màu vàng nhạt.
Ông Huỳnh Đức Vũ - cán bộ kiểm lâm rừng phòng hộ Đăk Mi - cho biết không thể đếm được số cây sâm tự nhiên ở đây vì khu vực rừng này quá rộng, mật độ mọc của sâm dày đặc. Có rất nhiều cây sâm có độ tuổi từ 5-7 năm. "Có những bộ củ sâm khi đào lên có trọng lượng đến 1kg vì rễ củ mọc sâu và lan rộng dưới đất" - ông Vũ nói.
Cán bộ kiểm lâm tuần tra, kiểm soát tại khu rừng ba kích - Ảnh: LÊ TRUNG
Bảo vệ nghiêm ngặt
Sau khi rừng sâm được phát hiện, chính quyền huyện Phước Sơn đã ráo riết lên phương án bảo vệ, sợ người dân biết sẽ đến khai thác cạn kiệt. Tháng 6-2018, huyện Phước Sơn đã xây dựng một chốt bảo vệ dưới chân khu rừng này, đầu tư gần 300 triệu đồng làm một ngôi nhà cho cán bộ ở. Chốt này luôn có bốn cán bộ của ban quản lý rừng phòng hộ Đăk Mi túc trực, canh giữ rừng sâm bất kể ngày đêm.
Anh Cao Văn Long - thành viên chốt bảo vệ - cho biết ngày trước tổ làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát trên lòng hồ, bảo vệ rừng phòng hộ, nhưng từ khi rừng sâm ba kích tím được phát hiện thì tổ có thêm một nhiệm vụ nặng nề hơn, đó là bảo vệ rừng sâm tự nhiên này. "Rừng sâm được bảo vệ nghiêm ngặt, các cán bộ túc trực ngày đêm để ngăn không cho người lạ vào rừng đào bới củ sâm" - anh Long nói.
Ông Nguyễn Văn Tình - giám đốc Ban quản lý rừng phòng hộ Đăk Mi - cho biết sau khi phát hiện khu rừng ba kích này đã lấy mẫu đem đi kiểm tra và được các cơ quan đánh giá chất lượng tốt, một số hoạt chất vượt trội so với sâm ba kích ở những khu vực khác trong tỉnh. Sau đó UBND huyện Phước Sơn, Chi cục Kiểm lâm tỉnh đã giao cho ban để quản lý, bảo vệ và bảo tồn rừng ba kích quý giá này.
Bảo tồn, nhân giống cho dân trồng
Ông Tình cho hay đơn vị ông đang xây dựng kế hoạch bảo tồn và nhân giống đại trà để cung cấp cho người dân trồng ở những khu rừng khác trên địa bàn huyện, từ đó phát triển vùng dược liệu kết hợp với việc bảo vệ rừng. Cây sâm ba kích thuộc loại dây leo có thể nhân giống bằng thân, dây bám vào những cây nhỏ nên không ảnh hưởng đến sự phát triển của hệ sinh thái rừng.
"Giá sâm ba kích tím tự nhiên hiện nay khoảng 400.000-500.000 đồng/kg, nếu nhân giống, mở rộng diện tích trồng sau này sẽ mang lại giá trị kinh tế cao cho dân, xóa đói giảm nghèo" - ông Tình nói.
Ông Nguyễn Quảng - phó chủ tịch UBND huyện Phước Sơn - nói rằng khu rừng sâm này như "báu vật" mà thiên nhiên ban tặng cho địa phương nên phải ra sức bảo vệ nghiêm ngặt. Từ khi phát hiện rừng sâm quý này, huyện cũng đã lập đề án quy hoạch rừng sâm ba kích với diện tích gần 9.000ha ở rừng phòng hộ Đăk Mi để bảo tồn, nhân giống, cấp phát cho người dân trồng, bên cạnh đó phát triển du lịch.
Lý lịch khoa học
Một củ sâm ba kích tại khu rừng - Ảnh: LÊ TRUNG
Cây sâm ba kích có tên khoa học là Morinda officinalis How, thuộc họ nhà cà phê, có hai loại là ba kích trắng và ba kích tím. Cây thảo, sống lâu năm, leo bằng thân quấn, có vị cay ngọt, tính hơi ấm.
Trong củ ba kích có chứa gentianine, carpaine, choline, trigonelline, díogenin, vitamin B1, morindin, vitamin C... Rễ chứa antraglycozid, đường, nhựa, axit hữu cơ, phytosterol và ít tinh dầu. Ba kích có tác dụng ôn thận, tráng dương, ích tinh, mạnh gân cốt, khử phong thấp, gân cốt yếu, lưng, gối mỏi đau, hóa đờm... Ba kích là vị thuốc bổ trí não và tinh khí, chữa di mộng tinh, phụ nữ kinh nguyệt không đều.
Theo y học hiện đại, loài sâm này tăng cường đề kháng, chống viêm, tăng sức dẻo dai. Sâm ba kích có thể bào chế thuốc nhưng thông dụng nhất vẫn là dùng để ngâm rượu.
LÊ TRUNG
Chư Pưh (Gia Lai): Sâu keo gây hại nhiều diện tích bắp
Nguồn tin: Báo Gia Lai
Trước tình hình sâu keo mùa thu hại bắp xuất hiện và lây lan khá nhanh trên diện rộng, ngành Nông nghiệp huyện Chư Pưh (tỉnh Gia Lai) đang tập trung triển khai các giải pháp phòng-trừ nhằm giảm thiểu thiệt hại cho nông dân.
Dẫn chúng tôi tham quan ruộng bắp, chị Rmah H’Hoen-Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Ia Le-cho biết: Vụ mùa năm 2019, toàn xã gieo trồng 600 ha bắp, tập trung nhiều ở các thôn: Kênh Săn, Phú Bình, Phú An. Hiện nay, trên địa bàn xã có hơn 438 ha bắp bị sâu keo gây hại, nhiều cây bắp non đã bị sâu ăn đứt nõn. Trước tình hình đó, Hội Nông dân xã phối hợp với Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện tổ chức tập huấn hướng dẫn người dân cách nhận biết sâu keo mùa thu gây hại và biện pháp phòng trừ.
Cán bộ Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện Chư Pưh kiểm tra tình hình sâu keo mùa thu gây hại trên bắp. Ảnh: Huyền Trân
Chỉ tay về phía ruộng bắp của gia đình bị sâu keo phá hoại gần như hoàn toàn, chị Nguyễn Thị Thúy Kiều (thôn Phú An) buồn bã cho biết: “Tôi trồng bắp đã 10 năm nay nhưng chưa thấy năm nào sâu lại xuất hiện nhiều như vậy. Sức phá hoại của sâu keo mùa thu khá mạnh, cây lớn, cây nhỏ đều bị tấn công, nếu không có biện pháp xử lý kịp thời thì cây bắp sẽ bị sâu ăn mất lá, đứt ngọn dẫn đến không phát triển được nữa. 2 ha bắp của gia đình tôi đã bị sâu phá hại gần hết. Gia đình cũng chưa biết khắc phục như thế nào”. Tương tự, anh Siu A Lân (thôn Kênh Săn) cho hay: Năm nay, gia đình anh trồng 1 ha bắp. Hiện ruộng bắp đã được 20 ngày tuổi nhưng bị sâu keo phá hoại. “Mới đầu, sâu chỉ xuất hiện trên diện tích nhỏ, sau 1-2 ngày đã phát triển trên diện rộng”-anh Lân nói.
Không chỉ tại Ia Le, hiện nay, sâu keo mùa thu hại bắp đã xuất hiện ở tất cả 9 xã, thị trấn trong huyện Chư Pưh với tổng diện tích bắp bị gây hại là 1.008 ha, chiếm gần 1/3 diện tích bắp vụ mùa trên địa bàn toàn huyện. Trong đó, thiệt hại nặng nhất là tại các xã: Ia Le, Ia Blứ, Ia Phang, Chư Don và thị trấn Nhơn Hòa. Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện đã phối hợp với Công ty cổ phần Tập đoàn Lộc Trời An Giang tổ chức tập huấn hướng dẫn người dân cách phòng trừ sâu keo mùa thu. Sau khi được tập huấn, bà con nông dân đã biết sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để hạn chế sâu gây hại.
Trao đổi với chúng tôi, ông Hoàng Văn Hoan-Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện-cho biết: Nếu không được phòng trừ sớm thì sâu keo sẽ phá hoại giai đoạn bắp non, ăn hết phần lá của bắp và đục vào phần nõn làm ảnh hưởng đến sự sinh trưởng. Hiện nay, có 2 cách diệt trừ sâu keo là dùng thuốc bảo vệ thực vật phun thẳng vào nõn của cây bắp, sử dụng bẫy bả chua ngọt hay bẫy đèn diệt sâu trưởng thành. Một cách nữa là dùng tay vạch nõn bắp để bắt từng con, phương pháp này tuy mất nhiều thời gian nhưng bảo vệ được môi trường. “Loài sâu này phát triển rất nhanh và khó kiểm soát nên bà con cần thường xuyên kiểm tra đồng ruộng để phát hiện ổ trứng nhằm có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Đồng thời, cần làm sạch cỏ dại xung quanh ruộng bắp để hạn chế nơi cư trú của sâu”-ông Hoan khuyến cáo.
Huyền Trân
Cả nước chuyển đổi 51.450ha đất lúa sang cây trồng khác
Nguồn tin: Hà Nội Mới
Theo Bộ NN& PTNT, từ đầu năm đến nay, các địa phương đã chuyển đổi được 51.450ha đất lúa kém hiệu quả sang các loại cây trồng khác như: Rau, quả, cây công nghiệp lâu năm, nuôi trồng thủy sản có hiệu quả kinh tế cao, tăng 18.650ha so với cùng kỳ năm 2018.
Mô hình trồng bưởi Quế Dương (huyện Hoài Đức) cho hiệu quả kinh tế cao. Ảnh: Bá Hoạt
Trong đó, các tỉnh phía Nam chuyển đổi được 39.950ha, các địa phương phía Bắc 11.500ha. Nhiều địa phương tích cực xây dựng cánh đồng mẫu lớn sản xuất lúa gạo, rau, hoa... gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị.
Các vùng sản xuất cây công nghiệp tập trung quy mô lớn được duy trì, thâm canh cao; nhiều vùng sản xuất cây ăn quả tập trung phát triển đem lại giá trị cao gấp 5-6 lần so với cấy lúa.
Bộ NN&PTNT yêu cầu các địa phương tiếp tục rà soát, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, sản phẩm phù hợp với lợi thế và nhu cầu thị trường, thích ứng với biến đổi khí hậu từng vùng, miền; đồng thời, khuyến khích phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ.
NGỌC QUỲNH
Tây Ninh: Ít người trồng, giá ớt tăng cao kỷ lục
Nguồn tin: Báo Tây Ninh
Thời gian gần đây, giá ớt liên tục tăng cao, có lúc lên đến hơn 100.000 đồng/kg. Nhiều nông dân trúng lớn, thu lãi vài trăm triệu/ha.
Ông Hồ Văn Trung có khoảng 0,6 ha ớt tại ấp Long Hưng, xã Long Thuận, huyện Bến Cầu (tỉnh Tây Ninh) phấn khởi cho biết, hiện giá ớt được thương lái thu mua tại ruộng dao động từ 70.000 – 80.000 đồng mỗi kg ớt tươi, đây là mức giá khá cao so với nhiều vụ trước. Thậm chí có lúc giá ớt đã leo qua ngưỡng hơn 100.000 đồng/kg, tăng gấp 2,5 lần so với vụ trước. Với mức giá trên, sau khi trừ hết chi phí nhân công, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật, ông Trung tính sơ sơ cũng thu lãi hơn 130 triệu đồng.
Chị Như tranh thủ hái ớt.
Còn theo chị Như (ngụ ấp Long Hưng), vụ ớt năm nay tuy gia đình chị trồng có 2 công (0,2 ha) nhưng nhờ giá ớt tăng cao nên sau khi trừ hết chi phí đầu tư, chị cũng thu về hơn 50 triệu đồng lợi nhuận. “Vì sợ lỗ nên năm nay gia đình tôi trồng ít, với giá này cũng tiếc lắm, những hộ khác trồng vài ha thì thu lợi nhuận đến hơn nửa tỷ đồng”- chị Như chia sẻ thêm.
Bà N.T.G, một thương lái thu mua ớt cho biết, vụ Hè thu năm nay diện tích ớt giảm mạnh, nhiều nơi chuyên trồng ớt như xã Long Vĩnh (Châu Thành), xã Long Phước (Bến Cầu) và nhiều nơi khác người dân đã chuyển sang trồng lúa và các loại hoa màu khác. Trong khi giá ớt xuất khẩu tăng cao mà không đủ nguồn cung nên đẩy giá ớt tăng, có lúc trên 100.000 đồng. Có thể nói, đây là mức giá cao nhất nhiều năm qua.
Theo nhiều nông dân tại ấp Long Hưng, nhiều năm trở lại đây giá ớt thất thường, cộng với tình hình thời tiết bất lợi, mưa lớn kéo dài và bệnh thối trái trên ớt lan rộng nên nhiều người không còn mặn mà với cây ớt mà chuyển sang trồng cây khác. Đó cũng là nguyên nhân khiến giá ớt bị đẩy lên cao chóng mặt như hiện tại.
Ông Hồ Văn Trung gieo hạt giống dưa leo ngay tại ruộng ớt đã thu hoạch xong.
Ông Trung cho biết, hiện ớt tại Long Hưng đã đến cuối vụ, tuy năng suất không cao nhưng nhờ giá này nên nông dân vẫn có lãi. Tuy nhiên, ông Trung dự định vụ sau sẽ chuyển sang trồng dưa leo, vì nếu tiếp tục trồng thì bệnh thối trái sẽ không cắt được; hơn nữa với giá ớt hiện tại, khả năng vụ sau nhiều người ồ ạt trồng thì giá ớt sẽ bị kéo xuống thấp.
Dù niềm vui vì giá ớt tăng cao nhưng nhiều người dân lại cho rằng, đầu ra cây ớt và nhiều loại nông sản vẫn là nỗi lo lắng đối với bà con trước mỗi mùa vụ, nó như một canh bạc mà ở đó, nông dân là người chơi có thể trắng tay, bán đất trả nợ bất kỳ lúc nào. Do vậy, các ngành chức năng cần có giải pháp lâu dài để người nông dân yên tâm bám lấy đồng ruộng.
Minh Dương
Đồng Tháp: Lúa hè thu giảm giá mạnh, khó tiêu thụ
Nguồn tin: Báo Đồng Tháp
Lúa hè thu (HT) trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp chuẩn bị vào thu hoạch rộ, tuy nhiên nông dân đang lo lắng vì áp lực thu hoạch và khâu tiêu thụ lúa.
Nông dân đang lo lắng về việc tiêu thụ lúa
Mưa nhiều cơn trong những ngày qua làm nông dân trồng lúa không khỏi lo lắng khi nhiều ruộng lúa đang chín vàng mà tiến độ thu hoạch khá ì ạch, bởi giá lúa đang giảm. Toàn huyện Tân Hồng thu hoạch hơn 6.500ha lúa HT, năng suất 6 tấn/ha (giảm 0,2 tấn/ha so với cùng kì năm trước), tập trung nhiều tại các xã: Tân Hộ Cơ, Tân Công Chí, Bình Phú... Dự kiến, huyện sẽ thu hoạch dứt điểm trong tháng 7. Đang có lúa sắp thu hoạch, gia đình ông Đoàn Văn Vũ ngụ ấp Chiến Thắng, xã Tân Hộ Cơ lo lắng vì trời hay mưa và giá lúa liên tục giảm trong những ngày qua. Ông Vũ cho biết: “Thời tiết xấu, thu hoạch lúa phải tốn nhiều công sức, chi phí để thuê máy gặt đập liên hợp. Nam nay, năng suất lúa của gia đình chỉ đạt 700kg/công, giảm gần 100kg/công so với năm trước”.
Bà Nguyễn Thị Bé ngụ xã Tân Hộ Cơ nói: “Hơn 1 tháng trước, khi lúa gần chín đã có thương lái hỏi mua lúa nhưng ít ai chịu bán, bởi kì vọng giá lúa sẽ cao hơn. Vậy mà gần đến thu hoạch thì lúa tươi giống OM 4900 có giá 4.900 đồng/kg; Đài thơm 8 giá 4.900 - 5.000 đồng/kg; OM 5451 giá 4.550 đồng/kg; IR 50404 chỉ còn 3.900 - 4.000 đồng/kg... Mức giá này giảm khoảng 400 đồng/kg so với cùng kỳ năm trước. Không những thế, thương lái cũng chẳng thèm đến thu mua lúa. Cùng với việc giá lúa giảm thì năm nay sâu bệnh phức tạp khiến chi phí sản xuất cũng tăng cao, do đó nông dân chỉ mong huề vốn chứ không dám nghĩ tới lãi!”.
Theo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Đồng Tháp, hiện toàn tỉnh đang thu hoạch hơn 84 ngàn/196.615ha lúa hè thu, năng suất bình quân 6,03 tấn/ha.
Theo ông Hồ Văn Lý - Phó Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) huyện Tân Hồng, việc tiêu thụ lúa đang gặp khó do tình hình xuất khẩu tiểu ngạch bị ngưng trệ từ vụ đông xuân vừa qua. Điều này dẫn đến lượng lúa của các doanh nghiệp còn tồn kho nên chậm thu mua cho nông dân. Trước tình hình này, ngành nông nghiệp huyện sẽ tìm hiểu để có tham mưu lãnh đạo huyện sớm tháo gỡ cho nông dân”.
Tại huyện Hồng Ngự, nhiều nông dân cũng đang ngậm ngùi thu hoạch lúa HT với mức giá thấp. Ông Trần Văn Hòa ngụ ấp Trung, xã Thường Thới Tiền bộc bạch: “Vùng này mỗi năm chỉ sản xuất 2 vụ lúa, vì vậy nông dân đều kì vọng vào từng mùa. Không ngờ giá lúa HT năm nay quá bèo bọt khiến nông dân bị mất đồng lời. Cùng với đó, tiêu thụ cũng đang là vấn đề cấp bách mà chúng tôi rất cần được hỗ trợ từ phía Nhà nước”.
Đến nay, toàn huyện Hong Ngự có hơn 1.230ha lúa liên kết tiêu thụ với đơn vị, doanh nghiệp bao tiêu. Ông Nguyễn Hoàng Nhung - Trưởng Phòng NN&PTNT huyện Hồng Ngự nói: “Trong tháng 7, toàn huyện sẽ thu hoạch rộ vụ lúa HT 2019. Trước những khó khăn của nông dân, ngành nông nghiệp huyện sẽ phối hợp với các đơn vị liên quan để liên hệ các đơn vị, doanh nghiệp thu mua nhằm đảm bảo tốt khâu tiêu thụ”.
Tại huyện Thanh Bình, hiện có hơn 800ha lúa HT đang thu hoạch. Vấn đề đáng lo là giá lúa xuống thấp; thương lái bẻ kèo không thu mua lúa. Ông Nguyễn Văn Kẹm - Phó Phòng NN&PTNT huyện Thanh Bình cho biết: “Chuẩn bị vào vụ thu hoạch rộ lúa HT, nhưng giá lúa liên tục giảm khiến nông dân gặp khó khăn. Ngành nông nghiệp sẽ cùng với các ngành liên quan tìm hiểu nguyên nhân để cùng tháo gỡ khó khăn cho nông dân. Trong đó, giải pháp cấp thiết nhất là kêu gọi doanh nghiệp, công ty liên kết thu mua”.
Khánh Phan
Phòng trị mọt đục trái cà phê bằng giấm gỗ Biffaen
Nguồn tin: Khoa Học Phổ Thông
Viện khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI) tiến hành khảo nghiệm giấm gỗ sinh học Biffaen phòng trừ mọt đục trái cà phê, kết quả bước đầu được đánh giá rất hiệu quả.
WASI đã tiến hành khảo nghiệm dùng chế phẩm sinh học Biffaen của Công ty cổ phần phân bón và dịch vụ tổng hợp Bình Định để phòng trừ. Địa điểm thực hiện khảo nghiệm là lô cà phê 7 năm tuổi đang trong giai đoạn kinh doanh của bà Huỳnh Thị Kim Thương, xã Hòa Thắng, TP. Buôn Mê Thuột, Đắk Lắk. Đây là khu vực chuyên canh cà phê và thường bị sâu mọt đục trái. Điều kiện khảo nghiệm chưa sử dụng bất kỳ loại thuốc sinh học hay hóa học nào để phòng trừ. Phương pháp khảo nghiệm diện rộng, không lặp lại, bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên gồm 3 công thức, mỗi công thức từ 30 - 40 cây. Thời điểm xử lý thuốc khi có các trái xanh già hoặc chín bói bị mọt đục trái gây hại từ 1 - 2 trái/chùm và đang có xu hướng phát triển mạnh. Số lần xử lý thuốc là 3 lần cách nhau 7 ngày, lượng dung dịch tưới 2 lít/cây với nồng độ giấm gỗ 1%, 2% và 3%.
Theo TS. Nguyễn Xuân Hòa, chuyên viên WASI, trước khi sử dụng giấm gỗ sinh học Biffaen phun cà phê thì tỷ lệ chùm trái bị mọt đục trái/cành từ 26 - 28% và tỷ lệ này tăng ở tất cả các công thức khảo nghiệm. Sau 36 ngày xử lý, công thức đối chứng có tỷ lệ chùm trái bị nhiễm mọt cao nhất với tỷ lệ 59,49%, công thức giấm gỗ 3% đạt tỷ lệ thấp nhất 44,13%. Trước khi xử lý, tỷ lệ số trái cà phê bị mọt đục từ 13,57 - 15,98%, tỷ lệ này tăng dần qua các kỳ theo dõi và tăng cao thời kỳ cuối cùng khi cà phê bước vào giai đoạn trái chín. Kết quả khảo nghiệm cho thấy tại công thức có nồng độ xử lý giấm gỗ càng cao thì mức tăng trái bị nhiễm mọt càng thấp (chỉ bị 23,64%) đối với nồng độ giấm gỗ 3%, trong khi đó tỷ lệ bị mọt ở công thức đối chứng lên tới 46,96%. Hiệu lực phòng trừ của giấm gỗ đạt cao nhất tại thời điểm sau xử lý 14 ngày là 56,88%.
Để đánh giá về sự sinh trưởng và phát triển của mọt đục trái gây hại cà phê, các nhà khoa học đã thu hái 50 trái bị mọt gây hại trong các ô công thức khảo nghiệm để đánh giá số lượng, sự sinh trưởng của ấu trùng và con trưởng thành trong trái, hạt. Trước xử lý bằng giấm gỗ, tổng số mọt gây hại dao động từ 67 - 160 con. Tại các công thức có xử lý thuốc, số mọt gây hại giảm mạnh so với trước xử lý và đối chứng.
Tại công thức giấm gỗ có nồng độ 3% thì sau 36 ngày, số mọt giảm xuống còn 59 con, trong khi số mọt tăng lên 275 con tại mô hình đối chứng. Hiệu lực phòng trừ mọt đạt 84,98% ở công thức giấm gỗ 3% và đạt 78,64% ở công thức giấm gỗ 2%.
Trước xử lý, số lượng ấu trùng gây hại cao hơn số lượng mọt trưởng thành gây hại. Tại công thức giấm gỗ 3%, trước xử lý ấu trùng có 135 con/50 trái cà phê, sau 36 ngày số ấu trùng giảm xuống còn 34 con, trong khi đó mô hình đối chứng trước xử lý có 87 con/50 trái cà phê, sau 36 ngày số ấu trùng tăng lên 224 con. Vì vậy công thức giấm gỗ 3% cho hiệu lực phòng trừ cao nhất, đạt 90,22%. Đây là mức hiệu lực lý tưởng đối với hiệu quả của việc xử lý bằng chế phẩm sinh học.
H. NAM
Nhiều nông dân vẫn chưa quen với kê khai sản xuất ban đầu
Nguồn tin: CTV Cà Mau
Do tình hình thời tiết, dịch bệnh ngày càng diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, vì vậy ngành Nông nghiệp tỉnh Cà Mau tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền để nông dân thực hiện nghiêm việc kê khai sản xuất ban đầu, trường hợp nếu xảy ra rủi ro sẽ được hỗ trợ một phần để tái đầu tư sản xuất. Hiện tại, phần lớn nông dân đã nhận thức được tầm quan trọng của việc kê khai sản xuất ban đầu. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, trong đó có thói quen nên việc lưu giữ hóa đơn, chứng từ đầu vào phục vụ sản xuất vẫn chưa được quan tâm đúng mức.
Qua tìm hiểu thực tế tại một số địa phương trong tỉnh, đến thời điểm này, tỷ lệ đăng ký kê khai sản xuất ban đầu đạt từ 70 – 90% trên các lĩnh vực ngư, nông, lâm nghiệp. Đã qua, khi bước vào đầu vụ, ngành Nông nghiệp phối hợp với chính quyền địa phương tuyên truyền bằng nhiều hình thức, thậm chí đến tận hộ gia đình hoặc tại cuộc họp dân để phát phiếu và thu ngay tại chỗ mà không cần đến xã để đăng ký.
Song, việc này chỉ dễ dàng thực hiện khi hộ dân có diện tích hoặc quy mô sản xuất lớn, còn đối với những hộ canh tác ít hoặc quy mô nhỏ họ chưa mặn mà với việc này.
Mặc khác, trong những hộ đã đăng ký kê khai sản xuất ban đầu vẫn còn nhiều trường hợp không lưu giữ hóa đơn, chứng từ đầu vào, nên khi xảy ra rủi ro đề nghị Nhà nước hỗ trợ lại gặp khó khăn.
Theo quy định, trước mỗi vụ, nông dân phải đăng ký kê khai sản xuất lại; trong khi đó mỗi năm sản xuất từ 2 – 3 vụ nên nông dân mất nhiều thời gian và chi phí đi lại đăng ký, vì vậy việc đăng ký cũng chưa mang tính thường xuyên, nghiêm túc.
Để nông dân được hưởng lợi đầy đủ chính sách này của Nhà nước, bên cạnh tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền của ngành chức năng cần phải có sự phối hợp tích cực từ phía nông dân, nhằm đạt tỷ lệ cao, và thực chất hơn từ việc kê khai sản xuất ban đầu./.
PV: Tuyết Anh
Nông sản Việt Nam: Nỗ lực đạt mục tiêu xuất khẩu
Nguồn tin: Hà Nội Mới
Nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức, 6 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản cả nước tăng 2,2% so với cùng kỳ năm 2018. Để đạt mục tiêu tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 43 tỷ USD của năm 2019, ngành Nông nghiệp đang nỗ lực tập trung thực hiện nhiều giải pháp.
Xuất khẩu có dấu hiệu chững lại
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, 6 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt gần 19,8 tỷ USD, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm 2018. Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ N&PTNT) Nguyễn Văn Việt cho hay, nửa đầu năm nay, Bộ NN&PTNT và các bộ, ngành liên quan đã tích cực phối hợp, đẩy mạnh xúc tiến thương mại mở cửa thị trường, giải quyết vướng mắc trong hoạt động xuất khẩu nông sản như: Xuất khẩu xoài sang Mỹ, Anh, Australia; măng cụt vào thị trường Trung Quốc...
Dù đạt được những kết quả nhất định, song tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nông sản 6 tháng đầu năm 2019 vẫn khá khiêm tốn so với cùng kỳ năm 2018 và có dấu hiệu chững lại. Nguyên nhân là bởi nông sản nước ta chủ yếu xuất khẩu dưới dạng thô nên giá trị gia tăng không nhiều...
Trái xoài của Việt Nam được người tiêu dùng nhiều nước ưa chuộng. Ảnh: Hải Anh
Nhìn nhận về thực trạng này, Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN& PTNT) Nguyễn Quốc Toản cho biết, 6 tháng đầu năm nay, nhiều mặt hàng nông sản chủ lực giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2018, đơn cử: Hạt tiêu giảm 26,5%, gạo 16,7%, cà phê 11,8%... Trong khi đó, một số thị trường truyền thống như: Philippines, Indonesia đều đã nhập khẩu nông sản trong năm 2018 và hiện chưa có nhu cầu nhập khẩu thêm...
Nói về những khó khăn trong tình hình hiện nay của đơn vị, Tổng Giám đốc Công ty Lương thực miền Nam (Vinafood 2) Nguyễn Ngọc Nam chia sẻ, từ tháng 6-2018 đến nay, Trung Quốc áp thuế nhập khẩu gạo Việt Nam lên mức 50%, nên ảnh hưởng đến xuất khẩu mặt hàng này. Trong khi đó, sản phẩm gạo xuất khẩu của Việt Nam khó cạnh tranh về giá so với Thái Lan, Ấn Độ…
Với những tác động từ thực tiễn, bà Trần Thị Diệu Cương, Phó Giám đốc Công ty TNHH một thành viên Thương mại Minh Nghĩa Thịnh (tỉnh Đồng Nai) cũng nhận định: Gần 2 tháng qua, các đơn hàng xuất khẩu nông sản của nhiều doanh nghiệp gần như bị đình đốn bởi một số nước hạn chế nhập khẩu và đưa ra yêu cầu khắt khe hơn về chất lượng. Trong khi đó, sản xuất nông nghiệp của Việt Nam vẫn nhỏ lẻ, công nghệ bảo quản sau thu hoạch kém, nên một số đơn hàng chưa đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu.
Chú trọng xuất khẩu mặt hàng thế mạnh
Với diễn biến hiện nay, Bộ NN&PTNT nhận định, từ nay đến cuối năm 2019, xuất khẩu nông sản tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Theo bà Nguyễn Thị Thành Thực, Chủ tịch Công ty Bagico Bắc Giang, để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản, các bộ, ngành cần làm tốt hơn nữa công tác nghiên cứu, dự báo, cảnh báo về các biện pháp phòng vệ thương mại áp dụng lên hàng hóa nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Các bộ, ngành cần theo dõi biến động của tình hình thế giới, đặc biệt là quan hệ thương mại Mỹ - Trung Quốc để có biện pháp thúc đẩy xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế, đặc biệt là thủy sản và đồ gỗ.
Cùng quan điểm, Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng nông, lâm sản và thủy sản (Bộ NN&PTNT) Nguyễn Như Tiệp cho rằng, để hoàn thành mục tiêu kim ngạch xuất khẩu nông sản năm 2019 đạt 43 tỷ USD, ngành Nông nghiệp cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để tác động vào những sản phẩm xuất khẩu chủ lực có triển vọng và giá trị gia tăng cao. Trong đó, hai mặt hàng lâm nghiệp và thủy sản sẽ là “cứu cánh” của ngành Nông nghiệp trong 6 tháng cuối năm 2019. Vì thế, các doanh nghiệp xuất khẩu, nhất là gỗ và thủy sản cần chú trọng sản xuất những mặt hàng bảo đảm chất lượng mà các nước nhập khẩu yêu cầu.
Để hoàn thành mục tiêu của ngành Nông nghiệp đề ra, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường cho biết, sẽ chỉ đạo các đơn vị trực thuộc Bộ tập trung phối hợp xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu quốc gia cho một số mặt hàng nông sản chủ lực, nhất là đồ gỗ và thủy sản, trái cây…; đồng thời đẩy mạnh thực hiện các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển công nghiệp chế biến sâu để nâng cao giá trị gia tăng và hạ giá thành sản phẩm…
Riêng về thị trường xuất khẩu, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường khẳng định, Hiệp định Thương mại tự do và Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA và IPA) được ký kết vào ngày 30-6 sẽ góp phần mở ra cơ hội, triển vọng lớn cho nông sản Việt Nam.
Để có nhiều mặt hàng được xuất khẩu, Bộ đang phối hợp với các bên liên quan tích cực đàm phán mở cửa thị trường xuất khẩu, giữ ổn định thị trường truyền thống, tìm kiếm và mở rộng ở những thị trường tiềm năng; đồng thời tháo gỡ rào cản kỹ thuật, giải quyết vướng mắc... Chẳng hạn, đối với thủy sản sẽ thúc đẩy xuất khẩu sang các thị trường tiềm năng, còn nhiều dư địa như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga...
Đáng chú ý, Bộ NN&PTNT đang thực hiện đồng bộ, quyết liệt việc khắc phục cảnh báo “Thẻ vàng” của Ủy ban châu Âu. Đẩy mạnh hợp tác thương mại lâm sản với các thị trường Hàn Quốc, Australia, Nga, Hoa Kỳ; hợp tác lâm nghiệp và thương mại dược liệu với Trung Quốc; hoàn tất thủ tục xuất khẩu sữa và thịt lợn sữa sang Malaysia...
Bên cạnh đó, Bộ còn đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến quảng bá nông sản; kết nối doanh nghiệp xuất khẩu trong và ngoài nước thông qua các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản. Đồng thời, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia các hội chợ quốc tế lớn tại các thị trường trọng điểm để quảng bá, giới thiệu nông sản của Việt Nam với thế giới...
NGỌC QUỲNH
Vĩnh Long: Rào cản dịch bệnh vật nuôi, cây trồng
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Nhiều nơi trong tỉnh đang thu hoạch lúa Hè Thu trong điều kiện thời tiết bất lợi.
Ông Nguyễn Minh Tho- Giám đốc Sở Nông nghiệp- PTNT đánh giá, bức tranh sản xuất nông nghiệp 6 tháng đầu năm còn nhiều “gam màu đen”. Dịch bệnh xuất hiện trên nhiều loại cây trồng, vật nuôi, dù được khống chế kịp thời nhưng nguy cơ bùng phát cao. Sự sụt giảm của ngành hàng lúa gạo, chăn nuôi heo là khó bù đắp nếu không tập trung phát triển các sản phẩm thế mạnh.
Sâu bệnh hại cây trồng
Theo bà Huỳnh Kim Định- Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, từ đầu năm đến nay, thời tiết nắng nóng kéo dài, xâm nhập mặn xảy ra ở một số nơi, xen kẽ mưa giông đã khiến các loại sâu bệnh hại trên cây trồng liên tục xuất hiện.
Đối với cây lúa, thường xuyên xuất hiện các đối tượng gây hại phổ biến như rầy nâu, sâu cuốn lá, bệnh đạo ôn, đốm vằn, cháy bìa lá, lem lép hạt… trong đó đáng kể nhất là rầy nâu đã và đang có chiều hướng xuất hiện thành dịch theo chu kỳ lặp lại từ 10- 12 năm.
Tuy nhiên, thông qua việc khuyến cáo nông dân tuân thủ lịch thời vụ, hướng dẫn kỹ thuật sản xuất, phòng trừ sâu bệnh… nên các loại sâu bệnh hại đã được phát hiện và ngăn chặn kịp thời, hạn chế thiệt hại. Tình hình sâu bệnh hại trên cây màu cũng đã xuất hiện nhưng đều được theo dõi, quản lý kịp thời, nằm trong phạm vi được khống chế nên mức độ gây hại chỉ từ nhẹ đến trung bình.
Hiện sâu keo mùa thu đã xuất hiện tại một số tỉnh. Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật lưu ý người dân phát hiện loài sâu này cần thông báo kịp thời cho chính quyền địa phương và các cơ quan chuyên môn
Tổng diện tích cây ăn trái và cây lâu năm nhiễm bệnh trong kỳ cao nhất là 8.422ha. Các đối tượng gây hại xuất hiện phổ biến như chổi rồng trên nhãn, sâu đục nhánh xoài, cháy lá sầu riêng, sâu đục trái và bệnh vàng lá thối rễ trên cây có múi…
Xét về bình diện chung, do tình hình sâu bệnh hại trên cây ăn trái luôn được kiểm soát tương đối tốt bởi nông dân được khuyến cáo thăm vườn thường xuyên để phát hiện, quản lý kịp thời sâu bệnh hại.
Đồng thời thay đổi dần tập quán sản xuất theo hướng an toàn, hạn chế thuốc bảo vệ thực vật, đảm bảo thời gian cách ly. Nhờ đó, thời gian gần đây, tình hình tiêu thụ các sản phẩm trái cây của tỉnh ngày càng khởi sắc.
Đặc biệt, thời gian gần đây, để chủ động ứng phó với sâu keo mùa thu- một loài sâu hại mới xâm nhập có khả năng di trú xa- gây hại nặng cho bắp và nhiều loại cây trồng khác, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cũng đã tập trung mở các cuộc tập huấn hướng dẫn người dân nhận diện và áp dụng quy trình kỹ thuật phòng chống loại sâu này nhằm phát hiện kịp thời và tránh lây lan trên diện rộng.
Hiện lúa Hè Thu đã thu hoạch 24.289ha (chiếm tỷ lệ trên 45%), năng suất đạt 6,1 tấn/ha với sản lượng 146.961 tấn. Diện tích lúa còn lại giai đoạn từ đòng trổ đến chín sinh trưởng tốt. Trong tuần qua, do ảnh hưởng mưa giông nên 291ha lúa Hè Thu giai đoạn chín sắp thu hoạch bị ảnh hưởng năng suất. Đáng kể là Vũng Liêm 265ha, tỷ lệ ảnh hưởng từ 30- 40%.
Dịch bệnh trên vật nuôi
Theo Chi cục Chăn nuôi và Thú y, từ đầu năm đến nay, ngành chuyên môn phát hiện 3 ổ dịch cúm gia cầm H5N1 tại TP Vĩnh Long, Long Hồ và Tam Bình với tổng đàn gà bị bệnh và tiêu hủy 4.200 con. Bệnh tai xanh và dịch tả heo cũng xảy ra 1 ổ dịch ở huyện Trà Ôn trên tổng đàn 67 con, bệnh chết và tiêu hủy 35 con.
Đáng kể nhất là sự hoành hành của bệnh dịch tả heo Châu Phi thời gian gần đây. Từ ngày 11/5- 27/6, toàn tỉnh đã phát hiện 105 ổ dịch tại 30 xã thuộc 7 huyện, số lượng heo phải tiêu hủy là 2.785 con, tổng trọng lượng 158.432kg.
Theo ông Lê Thanh Tùng- Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y, diễn biến bệnh dịch tả heo Châu Phi ngày càng phức tạp, thời tiết chuyển mùa, chăn nuôi không an toàn sinh học, sử dụng thức ăn thừa chưa được xử lý… là điều kiện để mầm bệnh phát triển gây bất lợi cho đàn vật nuôi.
Mặc dù các ổ dịch đã được phát hiện và xử lý nhanh nhưng do tính chất đặc biệt nguy hiểm của vi rút gây bệnh không có vắc xin phòng, không có thuốc điều trị, vi rút lại có thể tồn tại lâu trong môi trường… nên việc phòng chống dịch gặp rất nhiều khó khăn.
Song song đó, việc vận chuyển heo giữa các vùng nhằm giải phóng số lượng heo có thể tạo điều kiện cho mầm bệnh phát tán không kiểm soát. Việc lập chốt kiểm soát gặp khó do có nhiều lối đi ngang qua ổ dịch. Chưa kể, xử lý tiêu hủy heo vào ngày nghỉ, khó khăn trong công tác tiêu hủy như thuê mướn nhân công, vị trí tiêu hủy, không lường được những chi phí phát sinh trong quá trình chống dịch.
Việc tiêu thụ heo trong vùng dịch phải lấy mẫu xét nghiệm, giá heo giảm dần do ảnh hưởng dịch bệnh, hiện giá còn ở mức 35.000 đ/kg, không có thương lái mua heo khi heo đến tuổi xuất bán ngày càng nhiều, tạo áp lực lớn trong công tác phòng chống dịch.
Đánh giá tình hình bệnh dịch tả heo Châu Phi trong thời gian tới, ông Lê Thanh Tùng cho rằng, dịch bệnh nhiều khả năng sẽ tiếp tục lan rộng đến các cơ sở chăn nuôi chưa mắc bệnh, các cơ sở chăn nuôi lớn cũng như tái phát ở những nơi đã hết dịch. Hiện rất khó để xác định thời điểm khống chế hoàn toàn bệnh dịch tả heo Châu Phi nên công tác phòng chống dịch sẽ còn lâu dài và người chăn nuôi không tái đàn trong thời gian này.
Bài, ảnh: THÀNH LONG
6 tháng 2019: Việt Nam chi 1,894 tỷ USD nhập khẩu thức ăn chăn nuôi
Nguồn tin: Báo Công Thương
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, 6 tháng năm 2019, kim ngạch nhập khẩu thức ăn và nguyên liệu về Việt Nam ước đạt 1,894 tỷ USD, giảm 4,2% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo số liệu thống kê chính thức của Tổng cục Hải quan, ước kim ngạch nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu tháng 6/2019 đạt 280 triệu USD, giảm 20,8% so với tháng 5/2019 và giảm 23,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2019, kim ngạch nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu về Việt Nam ước đạt 1,894 tỷ USD, giảm 4,2% so với cùng kỳ năm ngoái.
6 tháng 2019: Việt Nam chi 1,894 tỷ USD nhập khẩu thức ăn chăn nuôi
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi và thức ăn hỗn hợp trong nước tháng 6 tương đối ổn định so với tháng trước. Hiện, giá thức ăn hỗ hợp cho gà thịt (lông trắng) ở mức 9.830 đồng/kg, giá thức ăn hỗ hợp lợn thịt ở mức 9.085 đồng/kg. So với vùng kỳ năm trước, giá thức ăn hỗn hợp cho gà thịt tăng 6,27%, trong khi giá thức ăn hỗn hợp cho lợn thịt giảm 0,6%.
Trong 6 tháng năm 2019, do ảnh hưởng bởi giá thế giới nên giá hầu hết các nguyên liệu thức ăn chăn nuôi đều có xu hướng giảm, riêng mặt hàng cám gạo và lysine tăng. Đồng thời, kết hợp với việc dịch bệnh tả lợn châu Phi lan rộng khiến việc tái đàn gặp khó khăn nên giá thức ăn hỗn hợp cho lợn thịt giảm 1,14% so với cuối năm 2018 nhưng giá thức ăn hỗn hợp cho gà thịt lại tăng 1,2% do việc chăn nuôi thuận lợi.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn dự báo, giá thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu trong nước tháng 7/2019 có thể sẽ tăng nhẹ.
Nguyễn Hạnh
Bến Tre: Xuất hiện ổ dịch tả heo châu Phi tại xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm
Nguồn tin: Báo Đồng Khởi
Ngành chức năng tiêu hủy đàn heo nhiễm dịch tả heo châu Phi tại xã Thạnh Phú Đông.
Sáng 2-7-2019, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Văn Buội cho biết: Tối 1-7-2019, Bến Tre nhận được thông tin từ Chi cục Thú y vùng VI xác định, hai mẫu (máu kháng đông) trên đàn heo của hộ ông Nguyễn Văn Tiển (ngụ ấp 1A, xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre) dương tính với vi-rút tả heo Châu phi. Hiện cơ quan chức năng đang tiến hành tiêu hủy và thực hiện các giải pháp cấp bách nhằm tránh lây lan”.
Được biết, hộ ông Nguyễn Văn Tiển có tổng số heo được tiêu hủy là 54 con, trong đó, có 7 heo nái và 47 heo thịt.
Trước đó, ngày 1-7-2019, hộ ông Nguyễn Văn Tiển phát hiện hai con heo nái chết bất thường, với biểu hiện sốt và sùi bọt mép. Gia đình và cơ quan thú y đã tiến hành chôn số heo này và lấy mẫu gửi xét nghiệm.
Sau khi có kết quả dương tính với vi-rút tả heo châu Phi, UBND tỉnh, ngành nông nghiệp và chính quyền địa phương đã khẩn trương thực hiện các giải pháp theo kịch bản phòng chống dịch tả heo châu Phi đã xây dựng trước đó.
Ngay trong sáng 2-7-2019, cơ quan chức năng đã tiến hành tiêu độc, khử trùng, tiêu hủy toàn bộ đàn heo của gia đình ông Tiển. Đồng thời, địa phương tiến hành lập năm chốt kiểm soát dịch bệnh động vật trên cạn tại vùng xảy ra dịch tả heo châu Phi và ban hành quyết định công bố dịch, tiến hành tiêu độc, khử trùng tại vùng dịch, các xã lân cận nhằm tránh lây lan.
Tin, ảnh: Thạch Thảo
Thu nhập trăm triệu nhờ đàn gà thả vườn
Nguồn tin: Báo Gia Lai
Chỉ với gần 170 m2 chuồng và 1 sào đất vườn nuôi gà, gia đình anh Trịnh Xuân Tuyên (tổ 10, thị trấn Phú Túc, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai) đã có nguồn thu nhập ổn định khoảng 100 triệu đồng/năm.
Qua sự giới thiệu của ông Trịnh Thanh Khiết-Chủ tịch Hội Nông dân huyện Krông Pa, chúng tôi tìm đến nhà anh Trịnh Xuân Tuyên để tham quan mô hình nuôi gà thả vườn. Anh Tuyên cho biết: Trước đây, cuộc sống của gia đình anh gặp nhiều khó khăn vì thiếu đất sản xuất. Vợ chồng anh thường phải đi làm thuê, làm mướn để trang trải cuộc sống nhưng vẫn luôn thiếu trước hụt sau. Anh cũng đã cố gắng dành dụm mua 2 con bò cái về nuôi để phát triển kinh tế gia đình. Tuy nhiên, thời điểm mua thì giá bò giống khá cao nên việc chăn nuôi không có lãi. “Tình cờ vào cuối năm 2017, khi sang nhà chú ruột chơi, tôi thấy mô hình nuôi gà thả vườn của chú cần ít vốn đầu tư, dễ chăm sóc mà hiệu quả kinh tế lại cao. Vì vậy, tôi về bàn với vợ thử nuôi gà. Ban đầu, do chưa nắm vững kỹ thuật chăm sóc, cũng chưa xác định được đầu ra nên tôi chỉ nuôi thử 500 con. Sau đó, tôi vừa nuôi vừa rút kinh nghiệm và học hỏi thêm kiến thức trên sách, báo, internet về cách chăn nuôi gà, đồng thời đầu tư mở rộng quy mô trang trại. Hiện nay, bình quân mỗi lứa, tôi nuôi 700-800 con gà. Riêng lứa gà phục vụ Tết Nguyên đán vừa rồi, tôi nuôi 1.500 con”-anh Tuyên nói.
Anh Trịnh Xuân Tuyên cho gà ăn. Ảnh: G.H
Theo anh Tuyên, khi bắt tay triển khai mô hình này, gia đình anh được Hội Nông dân huyện Krông Pa cho vay 50 triệu đồng. Có vốn, anh đầu tư xây chuồng có diện tích khoảng 170 m2, được chia thành nhiều ngăn để vừa làm kho chứa thức ăn, vừa làm nơi cho gà ăn uống, ngủ ban đêm. Đồng thời, anh mua lưới B40 quây 1.000 m2 vườn để thả gà. Hiện anh đang nuôi giống gà ri được mua từ Đak Lak. Đây là giống gà vừa khỏe, vừa cho chất lượng thịt thơm ngon, được khách hàng ưa chuộng. Anh Tuyên chia sẻ: “Nuôi gà ri thả vườn rất dễ chăm sóc, ít dịch bệnh và phù hợp với khí hậu của địa phương. Mỗi lứa, tôi nuôi khoảng 4 tháng là có thể xuất chuồng, gà đạt trọng lượng 1,5-1,7 kg/con. Hiện nay, với giá gà thương phẩm bình quân 90-100 ngàn đồng/kg, sau khi trừ chi phí, tôi thu lãi khoảng 30 triệu đồng/lứa. Mỗi năm, từ chăn nuôi gà, gia đình tôi có thu nhập ổn định 80-100 triệu đồng”.
Cũng theo anh Tuyên, nuôi gà thả vườn mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nuôi bò, heo mà lại không tốn nhiều công chăm sóc. Thức ăn cho gà chủ yếu là cám, lúa, bắp được anh mua về rồi xay nhỏ trộn với nhau. Ngoài ra, anh còn bổ sung thêm nguồn rau xanh hoặc tận dụng cây cỏ trong vườn cho gà ăn nhằm tăng thêm chất xơ. Để đàn gà phát triển tốt, không dịch bệnh, nguồn thức ăn phải đảm bảo sạch, chuồng trại khô ráo và phải phòng bệnh cho gà, nhất là khi thời tiết giao mùa hoặc khi mới đưa con giống về nuôi. Tuy nhiên, điều anh lo nhất đó là đầu ra cho sản phẩm vẫn chưa được ổn định.
Nhận xét về mô hình nuôi gà thả vườn của gia đình anh Tuyên, ông Trịnh Thanh Khiết cho biết: Đây là một trong những mô hình có hiệu quả thiết thực. Hội Nông dân huyện cũng thường xuyên động viên gia đình cố gắng duy trì mô hình, từng bước mở rộng thêm quy mô chăn nuôi và liên hệ các nhà hàng để có thị trường tiêu thụ ổn định, bền vững. “Hàng năm, Hội Nông dân huyện có nguồn quỹ khoảng 1,2 tỷ đồng để giúp cho các hội viên vay vốn phát triển kinh tế. Thông qua mô hình của gia đình anh Tuyên, thời gian tới, Hội sẽ tuyên truyền để hội viên tới tham quan, học hỏi và làm theo, giúp hội viên tăng thêm thu nhập, nâng cao đời sống. Đồng thời, Hội mong muốn các hội viên khi triển khai mô hình chăn nuôi cần đầu tư theo hình thức khép kín, cho ra sản phẩm an toàn, gắn với xây dựng thương hiệu để phát triển bền vững”-ông Khiết nói.
Gia Hưng
Nhân rộng quy trình công nghệ vi sinh trong chăn nuôi lợn hữu cơ
Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế
Trong khi cả nước đang đối phó với với dịch tả lợn châu Phi, thì ngược lại Tập đoàn Quế Lâm cùng một số hộ chăn nuôi liên kết đã thành công khi ứng dụng quy trình công nghệ vi sinh trong mô hình chăn nuôi lợn hữu cơ.
Đoàn công tác của Bộ NN&PTN do Thứ trưởng Phùng Đức Tiến dẫn đầu đang tham quan một gia trại ứng dụng quy trình công nghệ vi sinh trong mô hình chăn nuôi lợn hữu cơ ở xã Thủy Bằng, TX Hương Thủy
Ngày 30/6, đoàn công tác của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) do Thứ trưởng Phùng Đức Tiến dẫn đầu vào kiểm tra thực tế một số hộ chăn nuôi áp dụng mô hình này và làm việc với Tập đoàn Quế Lâm. Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế Bùi Thanh Hà cùng đại diện các sở ngành liên quan đã tham dự.
Đoàn đã đi thực tế và kiểm tra tình hình chăn nuôi các gia trại, trang trại áp dụng quy trình công nghệ vi sinh trong mô hình chăn nuôi lợn hữu cơ của Tập đoàn Quế Lâm tại thị xã Hương Thủy và huyện Phong Điền. Đoàn tỏ ra vui mừng khi mô hình này được áp dụng một cách thành công trước tình hình dịch tả lợn châu Phi, cung cấp cho thị trường một nguồn thịt lợn với chất lượng được đảm bảo, mức giá ổn định.
Tại trại heo của hộ ông Lê Văn Hoàng (xã Phong Thu, huyện Phong Điền) đoàn kiểm tra đã khá bất ngờ dù các hộ lân cận bị ảnh hưởng bởi dịch tả lợn châu Phi nhưng đàn lợn hơn 70 con của ông không bị ảnh hưởng. Ông Hoàng cho hay, đã áp dựng quy trình công nghệ vi sinh này 2 năm, được hỗ trợ từ khâu con giống, thức ăn, đầu vào và đảm bảo đầu ra ổn định. “Nhờ áp dụng công nghệ này mà đàn lợn của gia đình đã tăng sức đề kháng, không bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Vì thế dù giá thị trường lên xuống nhưng Tập đoàn Quế Lâm vẫn thu mua với mức giá ổn định, mỗi lứa xuất chuồng khoảng 30 con, trọng lượng khoảng 85kg/con, lời khoảng 20 triệu đồng” – ông Hoàng khoe.
Báo cáo với đoàn công tác, ông Tôn Thất Các, Trưởng ban Kỹ thuật miền Trung của Tập đoàn Quế Lâm cho hay, việc phát triển chăn nuôi hữu cơ theo công nghệ vi sinh của Tập đoàn Quế Lâm được ứng dụng từ năm 2013, đã liên kết với các hợp tác xã, bà con nông dân. Thời gian đầu, chỉ nuôi một mô hình 20-30 con, đến nay đã phát triển chăn nuôi hữu cơ lên hàng ngàn con có sự kiểm soát từ đầu vào đến đầu ra, đã được ngành nông nghiệp đánh giá và chứng nhận chuỗi sản xuất chăn nuôi hữu cơ an toàn.
Đến thời điểm hiện tại, tập đoàn đã liên kết với nhiều hộ/gia trại tại các huyện Phong Điền, Phú Vang, Phú Lộc, TX Hương Trà, TX Hương Thủy… và một số huyện của Quảng Trị. Trong đó, có hộ đã nuôi 50-100 con/mô hình, tổng đàn quy mô trên 1.200 con.
Phó Bí thư Thường tỉnh Tỉnh ủy Bùi Thanh Hà cùng đoàn công tác của Bộ NN&PTNT kiểm tra một hộ chăn nuôi lợn ở xã Phong Thu, huyện Phong Điền ứng dụng quy trình công nghệ vi sinh trong mô hình chăn nuôi
Để có được thành công nay, Tập đoàn Quế Lâm chú trọng từ khâu giống sạch, thức ăn chất lượng tốt, chuồng nuôi phải đảm bảo an toàn với diện tích hợp lý, nơi thải chất thải được ủ với men vi sinh phân giải tốt đảm bảo yêu cầu đông mát, hè ấm… Ngoài ra, việc sử dụng công nghệ vi sinh làm gia tăng sức đề kháng, tăng hiệu suất sử dụng thức ăn, lợn ăn hết khẩu phần, vừa đạt hiệu quả kinh tế, vừa giảm phát thải tối đa khí độc, chất thải ra môi trường làm lây lan dịch bệnh như nuôi truyền thống phải đặt ra.
Ông Nguyễn Văn Hưng, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi - Thú y tỉnh cho hay, trước tình hình dịch tả lợn châu Phi, ngành chăn nuôi thú ý tỉnh nhận thức rằng giải pháp về củng cố an toàn sinh học là giải pháp duy nhất, và sắp tới sẽ nhân rộng trên địa bàn. Mô hình của Tập đoàn Quế Lâm đã áp dụng rất thành công, không sử dụng thức ăn tận dụng, con giống đưa từ vùng dịch vào. Thay vào đó, áp dụng mô hình con giống, thức ăn khép kín ngay tại chỗ.
Ngoài ra, đảm bảo được việc chăn nuôi không bị ô nhiễm, tăng cường sức đề khán, giảm mùi hôi… “Vì thế mà lợn từ các mô hình chăn nuôi này dù giá cao nhưng vẫn được thị trường ưa chuộng, chấp nhận bởi đảm bảo nguồn gốc rõ ràng”, ông Hưng nói và cho biết đang tập trung tuyên truyền mạnh đến với hộ chăn nuôi để áp dụng mô hình này.
Kết luận trong chuyến làm việc lần này, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến cho rằng việc ứng dụng quy trình công nghệ vi sinh trong mô hình chăn nuôi lợn hữu cơ của Tập đoàn Quế Lâm và những hộ chăn nuôi liên kết là rất tốt. Từ nguồn giống, thức ăn, nước uống, không gian chuồng nuôi đều được vệ sinh, sát trùng theo một quy trình khép kín rất chuẩn.
Dù dịch tả lợn châu Phi lan nhanh, ngay tại Huế cũng không tránh khỏi nhưng mô hình của Tập đoàn Quế Lâm áp dụng vào chăn nuôi lợn không bị ảnh hưởng. “Từ mô hình này, Bộ sẽ cùng Tập đoàn Quế Lâm đặt đề tài nghiên cứu khoa học, một khi đã có luận cứ khoa học rõ ràng cùng tập đoàn triển khai mô hình này nhân rộng ra toàn quốc”, thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.
Bài, ảnh: NHẬT MINH
Nuôi vịt dưới tán dừa xiêm
Nguồn tin: Báo Khánh Hòa
Đây là mô hình làm kinh tế giỏi của bà Hà Thị Tiền, ở thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, Khánh Hòa.
Những năm trước đây, kinh tế gia đình của bà Hà Thị Tiền gặp vô vàn khó khăn. Nhưng bằng sự cần cù, chịu thương chịu khó của người phụ nữ, bà Tiền tích cóp dần dần để tìm hướng đi mới. Nhận thấy khuôn viên nhà có đất rộng, bà Tiền nghĩ đến việc trồng dừa xiêm. Nghĩ là làm, bà dành dụm tiền tích cóp gần 5 triệu đồng mua 80 cây dừa xiêm về phủ xanh trên khuôn viên đất hơn 1.500m2. 4 năm sau, dừa xiêm phát triển tươi tốt và cho trái ngọt. Bình quân 1 tháng, tiền bán dừa được hơn 3 triệu đồng. Có tiền, bà lại nghĩ đến việc chăn nuôi dưới tán dừa xiêm. Bà đầu tư vốn mua 300 con vịt về nuôi. Sau 6 tháng, vịt bắt đầu đẻ trứng; một ngày bà thu khoảng 250 quả trứng vịt, thương lái đến tận nhà thu gom. Việc nuôi vịt bước đầu có hiệu quả, bà Tiền tiếp tục đầu tư thêm 20 triệu đồng mua lưới quây sân vườn, xây máng nước uống, nơi tắm cho vịt. Bà đầu tư mua 400 vịt con về nuôi thịt, sau 2,5 tháng vịt phát triển khỏe mạnh xuất bán.
a
Mô hình nuôi vịt dưới tán dừa xiêm của bà Tiền.
Hiện tại, mô hình nuôi vịt dưới tán dừa xiêm của bà Tiền có hơn 700 con gồm 300 con vịt đẻ, hơn 400 con vịt tơ. Mỗi ngày, vịt đẻ thu về được hơn 250 quả trứng. Và mỗi lứa vịt tơ sau khi nuôi gần 3 tháng xuất bán, trừ chi phí bà thu lãi 20.000 đồng/con, khoảng 8 triệu đồng/1 lứa. Bà Tiền cho biết, đang đầu tư xây chuồng trại bài bản để nuôi thêm gà. Bà mong muốn được Ngân hàng Chính sách xã hội cho vay vốn thông qua tổ vay của chi hội phụ nữ thôn để phát triển, mở rộng nghề chăn nuôi.
Bà Nguyễn Thị Thu Thảo - Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Vạn Khánh cho biết, mô hình kinh tế chăn nuôi vịt dưới tán dừa xiêm của hộ bà Hà Thị Tiền là một trong những mô hình kinh tế tiêu biểu của hội viên phụ nữ xã Vạn Khánh. Từ mô hình của bà Tiền, Hội Phụ nữ xã sẽ khuyến khích các hội viên tham quan, học tập để phát triển kinh tế gia đình, từng bước ổn định đời sống. Đồng thời, hội sẽ chú trọng tuyên truyền đến cán bộ, hội viên phụ nữ hưởng ứng theo đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp” (Đề án 939) của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Vạn Ninh nhằm khuyến khích chị em phụ nữ mạnh dạn khởi nghiệp, suy nghĩ tìm tòi và phát triển các mô hình kinh tế hiệu quả, nâng cao thu nhập cho gia đình; đóng góp tích cực vào chương trình xây dựng nông thôn mới tại mỗi địa phương.
HOÀI DUY
Hiếu Giang tổng hợp