Việt Nam phấn đấu vào top 15 về nông nghiệp hữu cơ
Nguồn tin: Báo Chính Phủ
Bộ NN&PTNT đang xây dựng dự thảo Đề án “Phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020 – 2030”. Mục tiêu của đề án là đến năm 2030 Việt Nam đứng trong top 15 của thế giới về nông nghiệp hữu cơ. Dự kiến trong quý IV/2019, dự thảo Đề án sẽ được trình Thủ tướng Chính phủ.Việt Nam hiện có 40 tỉnh thành có trồng trọt hữu cơ với gần 23.400 ha. Diện tích sản xuất theo các tiêu chuẩn của EU, Mỹ, Nhật Bản… chiếm 97,5% diện tích trồng trọt hữu cơ; sản phẩm chủ yếu là rau, quả, chè.
Chăn nuôi lợn hữu cơ có 12 tỉnh thành có khoảng 64.200 con, sản lượng thịt hơi gần 6.000 tấn; chăn nuôi gà hữu cơ có ở 6 tỉnh với 273.000 con, sản lượng thịt hơi 922 tấn; chăn nuôi bò hữu cơ có 2 tỉnh là Nghệ An và Lâm Đồng được các tổ chức quốc tế công nhận với sản lượng 3.500 con.
Nuôi trồng thủy sản hữu cơ mới chỉ có rất ít địa phương triển khai và chủ yếu theo hướng hữu cơ và sinh thái, đối với khai thác và đánh bắt chủ yếu dựa vào tiềm năng mặt nước ao hồ tự nhiên. Hiện tại, cả nước có 4 tỉnh có mô hình nuôi trồng thủy sản hữu cơ với tổng diện tích 134.800 ha.
Ngày 5/9, Bộ NN&PTNT tổ chức hội thảo đề xuất giải pháp phát triển nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam. Hội thảo được tổ chức với mục đích định hướng, đề ra mục tiêu phát triển sản xuất hữu cơ, thương mại hóa sản phẩm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang xây dựng dự thảo Đề án “Phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020 – 2030”. Mục tiêu của dự thảo đề án là đến năm 2030 Việt Nam phấn đấu đứng trong top 15 của thế giới về nông nghiệp hữu cơ. Dự kiến trong quý IV/2019, dự thảo sẽ được trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và ban hành.
Theo bà Trần Thị Loan, Phó giám đốc Trung tâm Phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn (Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp), quy mô sản xuất nông nghiệp hữu cơ mới chỉ ở dạng mô hình nhỏ lẻ, quy mô nhỏ, chưa có vùng tập trung, sản phẩm ở dạng đơn lẻ…
Hiện, Việt Nam có tiêu chuẩn chung đối với sản xuất, chế biến, ghi nhãn sản phẩm hữu cơ; trồng trọt, chăn nuôi hữu cơ cho một số sản phẩm như: gạo, chè, sữa nhưng chưa có tiêu chuẩn đối với các sản phẩm: thủy sản, dược liệu, mỹ phẩm, rau, quả, cà phê, hồ tiêu… Bên cạnh đó, Việt Nam chưa có danh mục vật tư nông nghiệp đầu vào như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi… được phép sử dụng trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
Từ kinh nghiệm phát triển nông nghiệp hữu cơ của các nước EU, ông Olivier Catrou, Viện Quốc gia về Xuất xứ và Chất lượng (INAO), Bộ Nông nghiệp Pháp khuyến nghị cần có quy trình sản xuất nông nghiệp hữu cơ để nông dân có thể sản xuất với số lượng lớn. Người nông dân có thể sản xuất đúng quy trình nhưng nếu chưa được chứng nhận thì cũng rất khó bán ra thị trường. Vai trò quản lý nhà nước là cung cấp thông tin, hệ thống cấp, quản lý chứng nhận; hỗ trợ nông dân sản xuất và chứng nhận sản phẩm đạt tiêu chuẩn.
Năm 2018, EU nhập khẩu trên 3 triệu tấn sản phẩm hữu cơ. Việt Nam đứng ở vị trí thứ 39 về khối lượng xuất khẩu sang châu Âu với gần 13.000 tấn. Tỷ trọng sản phẩm hữu cơ EU nhập khẩu với 24% là trái cây, các loại hạt và gia vị; 22% là ngũ cốc và 11% là bánh khô dầu…
Theo ông Olivier Catrou, tiềm năng Việt Nam xuất khẩu nông sản hữu cơ sang châu Âu rất lớn vì các sản phẩm hai bên bổ sung cho nhau. Thị trường nông sản hữu cơ ở châu Âu rất lớn nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào để người tiêu dùng tin tưởng sử dụng để có thể xuất khẩu vào châu Âu. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) sẽ mở ra tiềm năng để phát triển mạnh lĩnh vực này cho cả hai bên. Điều quan trọng là các nhà xuất khẩu cần trực tiếp đến châu Âu để tìm hiểu, biết được họ cần gì và cần phải đáp ứng như thế nào.
Việc chứng nhận sản phẩm hữu cơ ở Việt Nam có 3 hình thức chứng nhận là: Chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế, chứng nhận PGS, chứng nhận TCVN. Việt Nam có 50 doanh nghiệp đạt chứng nhận hữu cơ USDA với nhiều sản phẩm như trà, hạt điều, dừa, artiso...; 18 doanh nghiệp được chứng nhận theo tiêu chuẩn USDA – NOP và 12 doanh nghiệp được chứng nhận theo tiêu chuẩn EC 834/2007.
Theo dự thảo Đề án “Phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020 – 2030”, đến năm 2025, diện tích cây trồng hữu cơ đạt khoảng 1,5 - 3% tổng diện tích gieo trồng; chăn nuôi có 5 - 10% sản phẩm hữu cơ (riêng đối với ong và sản phẩm từ ong khoảng 40 – 50% hữu cơ); khoảng 2 - 3% diện tích nuôi trồng thủy sản đạt tiêu chuẩn hữu cơ tương đương với 60.000 ha.
Đến năm 2030, diện tích cây trồng hữu cơ đạt khoảng 7 - 10% diện tích gieo trồng (riêng đối với các cây dược liệu, hương liệu và các sản phẩm từ thiên nhiên, diện tích hữu cơ đạt khoảng 40 - 50%), năng suất cây trồng hữu cơ đạt khoảng 95 - 100% năng suất cây trồng thường; vật nuôi có 5 - 10% sản phẩm hữu cơ; thủy sản có khoảng 7 - 8% diện tích tương đương với 100.000 ha cho sản lượng khoảng 500.000 tấn.
Theo Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam, trong các giải pháp triển khai đề án sẽ chú trọng đến giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân tham gia phát triển nông hữu cơ. Cùng với đó là xây dựng được hệ thống phân phối sản phẩm trên phạm vi cả nước để đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước đang tăng cũng như hướng đến xuất khẩu.
“Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu sản phẩm hữu cơ, đặc biệt là sang thị trường lớn châu Âu. Chính vì vậy, cần có sự tham gia của các doanh nghiệp vào lĩnh vực này. Bên cạnh đó, cần có sự quản lý chặt chẽ các tổ chức chứng nhận, đơn vị được giao trong việc giám sát kết quả chứng nhận”, Thứ trưởng Trần Thanh Nam nhấn mạnh.
Theo các đại biểu, hệ thống canh tác nông nghiệp hữu cơ đã và đang là xu hướng phát triển của nhiều quốc gia thế giới khi áp lực về lương thực giảm, áp lực vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng nông sản và môi trường tăng. Tuy nhiên, nông nghiệp hữu cơ Việt Nam vẫn đứng trước những thách thức, bởi chưa có cơ chế, chính sách đặc thù đủ mạnh để khuyến khích phát triển. Hệ thống chứng nhận, tiêu chuẩn, quy chuẩn, giám sát chưa hoàn chỉnh; các hộ sản xuất vẫn là tự nguyện…
Đỗ Hương
Nhân rộng diện tích trồng cam hữu cơ ở Quảng Trị
Nguồn tin: Báo Quảng Trị
Được khuyến khích, hỗ trợ tích cực của chính quyền, ngành nông nghiệp địa phương, thời gian gần đây nhiều hộ dân trên địa bàn tỉnh đầu tư chuyển đổi từ trồng cam theo phương thức truyền thống sang mô hình cam hữu cơ. Việc trồng cam theo hướng hữu cơ không chỉ mang lại thu nhập cao cho người dân mà còn tạo ra sản phẩm an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng và đảm bảo môi trường.
Mô hình trồng cam hữu cơ đem lại hiệu quả cao ở vùng đồi K4, xã Hải Phú, huyện Hải Lăng
Trước đây, gia đình anh Trần Kim Phúng ở K4, xã Hải Phú, huyện Hải Lăng trồng cam theo phương thức truyền thống nên hiệu quả kinh tế mang lại không cao. Hơn 1 năm nay, anh đầu tư xây dựng mô hình thâm canh cam theo hướng hữu cơ trên diện tích 0,7 ha. Quá trình trồng, chăm sóc cam, anh thực hiện đúng quy trình kĩ thuật theo hướng dẫn của cán bộ nông nghiệp tỉnh, huyện, tuyệt đối không sử dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật hóa học, chất kích thích sinh trưởng, thuốc trừ cỏ, mà chỉ sử dụng phân bón hữu cơ theo công nghệ Obi - Ong biển. Nhờ vậy, vụ cam năm nay vườn cam của gia đình anh năng suất lẫn chất lượng vượt trội những vụ trước khi còn trồng cam theo truyền thống, ước tính bình quân mỗi gốc cam cho thu hoạch từ 60 - 70 kg quả, đặc biệt giá cam từ 25.000 - 30.000 đồng/kg, cao hơn giá cam trồng theo phương thức truyền thống từ 5.000 - 10.000 đồng/ kg.
Trước tình trạng nhiều địa phương phát triển cây cam nhưng không đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật nên quả cam kém chất lượng, nhiều lúc tiêu thụ rất khó khăn nhưng những người trồng cam hữu cơ như gia đình anh Phúng vẫn yên tâm về đầu ra cũng như giá sản phẩm. Anh Phúng chia sẻ: “So với trồng cam theo phương thức tự nhiên thì trồng cam theo hướng hữu cơ có nhiều ưu điểm. Sau khi tôi sử dụng loại phân bón hữu cơ theo công nghệ Obi - Ong biển thì cây phát triển rất tốt, lá dày, bóng, không có bệnh, ít sâu bệnh. So năm nay với năm ngoái, ước tính năng suất vườn cam của gia đình tôi tăng khoảng hơn 7 tấn. Do thị trường rất ưa chuộng loại cam hữu cơ nên thương lái đến tận vườn thu mua với giá cao nên chúng tôi không phải lo lắng nhiều trong việc tìm cách tiêu thụ sản phẩm. Thời gian tới, gia đình tôi sẽ mở rộng diện tích trồng cam hữu cơ theo hướng bền vững”.
Hiện nay, toàn tỉnh có hơn 160 ha cam, trong đó huyện Hải Lăng có 60,5 ha; có 10 ha cam trồng theo mô hình hữu cơ, trong đó riêng huyện Hải Lăng 7,7 ha canh tác hữu cơ theo công nghệ Obi - Ong biển. Mô hình canh tác cam theo hướng hữu cơ đã thực hiện được 2 vụ, sản phẩm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và đạt chất lượng cao. Quyền Chủ tịch UBND huyện Hải Lăng Phạm Đình Lợi cho biết: “Thời gian qua, huyện khuyến khích người dân chuyển đổi diện tích cây trồng kém hiệu quả sang trồng các loại cây phù hợp, hiệu quả. Trong đó, cây cam được người dân trên địa bàn lựa chọn đầu tư và phát triển, đặc biệt một số hộ dân đã tự tin chuyển đổi từ trồng cam thông thường sang trồng cam hữu cơ mang lại giá trị kinh tế cao trên một đơn vị diện tích. Hiện nay, huyện đang tiếp tục chỉ đạo mở rộng vùng trồng cam ở K4, đồng thời hướng người dân chuyển từ mô hình canh tác bình thường sang canh tác hữu cơ và kí liên kết giữa nhà nông, nhà doanh nghiệp, đăng kí mẫu mã, chất lượng sản phẩm theo chuỗi VietGAP”.
Để giúp người dân yên tâm sản xuất, hiện nay Sở Nông nghiệp và PTNT đang hỗ trợ các gia đình trồng cam làm thủ tục truy xuất nguồn gốc, giấy chứng nhận vùng an toàn thực phẩm cho vùng cam hữu cơ trên địa bàn tỉnh. Dự kiến, mùa thu hoạch cam năm nay bắt đầu vào tháng 9. Theo đánh giá sơ bộ niên vụ năm 2019, năng suất cam hữu cơ bình quân dự kiến đạt 60 - 70kg quả/ gốc (30 - 35 tấn/ha), trồng cam bình thường có năng suất khoảng 15 tấn/ha. Giá cam hữu cơ bán cao hơn canh tác truyền thống từ 5.000 - 10.000 đồng/ kg, bình quân 1 kg cam hữu cơ bán tại vườn giá 25.000 đồng. Như vậy, nếu trồng cam hữu cơ, nông dân có thu nhập khoảng 750 triệu đồng/ha, trừ chi phí cho lãi 300 - 350 triệu đồng/ha (cao hơn sản xuất cam truyền thống 50 - 100 triệu đồng/ha). Có thể nói, phát triển trồng cam hữu cơ sẽ đưa người nông dân hướng đến sản xuất một nền nông nghiệp bền vững, đảm bảo môi trường. Sau thành công mô hình cam hữu cơ sạch ở vùng đồi xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, theo kế hoạch trong thời gian tới toàn tỉnh sẽ mở rộng hơn 100 ha cam hữu cơ.
Nhân chuyến kiểm tra thực địa sản xuất vụ hè thu 2019 tại Hải Lăng, tại vùng cam sản xuất theo hướng hữu cơ K4, xã Hải Phú vừa qua, Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đức Chính đánh giá cao việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất cam của địa phương trong thời gian qua, đồng thời yêu cầu huyện Hải Lăng tiếp tục chú trọng, nhân rộng sản xuất theo hướng nông nghiệp sạch, đặc biệt là chuyển đổi diện tích để trồng một số loại cây theo hướng hữu cơ organic phù hợp theo từng vùng, miền như lúa, cam, chanh leo… Thời gian tới, UBND tỉnh sẽ tiếp tục hỗ trợ cho huyện và nông dân canh tác hữu cơ organic; hỗ trợ xây dựng thương hiệu, liên kết đầu ra cho sản phẩm.
Kô Kăn Sương
Nông dân hối hả ‘phục hồi’ cây nhãn sau thu hoạch
Nguồn tin: Báo Hưng Yên
Tỉnh Hưng Yên hiện có diện tích nhãn khoảng 4.470ha, các giống nhãn chủ yếu là: nhãn Hương Chi, Miền Thiết, T1, T2, T6, siêu ngọt, đường phèn... Thời điểm này, hầu hết người trồng nhãn trong tỉnh đã hoàn thành thu hoạch và bước vào giai đoạn chăm sóc để cây mau chóng “phục hồi”. Để tránh tình trạng “Năm ăn quả, năm trả cành” thì đây là thời điểm quan trọng, đòi hỏi người trồng phải có kinh nghiệm và nắm vững khoa học kỹ thuật để chăm sóc cho cây.
Anh Nguyễn Công Hoan ở xã Vĩnh Xá (Kim Động) cắt tỉa cành cho nhãn
Sau thu hoạch, cây nhãn thường có những cành cao, cành vượt, đặc biệt là những cành không còn có khả năng cho ra quả vụ sau. Lúc này, anh Nguyễn Công Hoan ở xã Vĩnh Xá (Kim Động) tiến hành ngay biện pháp cắt tỉa, tạo tán cho cây thông thoáng để cây hấp thu và quang hợp ánh sáng được tốt nhất.
Anh Hoan cho biết: “Gia đình tôi có tổng số 2ha trồng nhãn, tôi đã kết thúc thu hoạch vụ nhãn năm nay. Muốn cây nhãn cho năng suất quả cao vào năm sau thì công việc cắt tỉa cành sau khi thu hoạch là khâu rất quan trọng và phải tiến hành càng sớm càng tốt. Với diện tích nhãn lớn nên tôi phải thuê thêm lao động để tập trung cắt, tỉa đồng loạt, kịp thời, hoàn thành muộn nhất là sau khi thu hoạch 10 ngày. Việc tỉa cành, tạo tán làm cho cây thông thoáng, tán rụt lại không để vươn quá cao để phân hóa mầm nhanh, đồng thời còn có tác dụng làm giảm sự gây hại của sâu bệnh cho cây nhãn. Đối với những cây nhãn năm nay không cho quả thì chỉ cần cắt, tỉa cành, không cần bổ sung thêm phân bón”.
Với trên 20 năm kinh nghiệm và biết cách áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật vào việc thâm canh nhãn, anh Trần Văn Mý ở thôn Quyết Thắng, xã Tân Hưng (thành phố Hưng Yên) đã “làm chủ” được việc ra hoa đậu quả của cây nhãn. Chính vì vậy, năm nào diện tích nhãn của gia đình anh cũng cho sản lượng khá. Năm 2017, anh Mý cùng 16 nông dân trong xã đã thành lập Hợp tác xã cây ăn quả đặc sản Quyết Thắng và thực hiện chăm sóc nhãn theo quy trình VietGap.
Anh Trần Văn Mý ở xã Tân Hưng (thành phố Hưng Yên) chăm sóc cho nhãn sau thu hoạch
Những ngày này, anh Mý dành phần lớn thời gian ở ngoài vườn để chăm sóc nhãn sau thu hoạch. Với khoảng 1ha trồng nhãn theo quy trình VietGap, các khâu, các bước trong quá trình sản xuất được kiểm soát chặt chẽ. Sau một vụ nuôi quả, cây gần như kiệt quệ nên sau khi thu hoạch, cần nhanh chóng giúp cây phục hồi bằng cách bón phân sau khi tỉa cành tạo tán. Mặt khác, cũng như cành lá, sau một thời gian bộ rễ của cây cũng bị già đi và cần có những tác động để kích thích bộ rễ phát triển mới.
Nói về sự khác biệt giữa chăm sóc nhãn theo quy trình VietGap và chăm sóc nhãn truyền thống, anh Mý cho biết: “Trong quá trình chăm sóc cây nhãn, bất kể thời điểm nào thì việc sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật phải được áp dụng nguyên tắc “4 đúng” (đúng thuốc, đúng liều lượng, đúng thời điểm, đúng phương pháp). Chỉ sử dụng những loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật trong danh mục cho phép. Cùng với đó, người trồng phải ghi chép đầy đủ quá trình chăm sóc cây vào sổ nhật ký”.
Anh Nguyễn Quang Khánh, Phó Trưởng Phòng chuyển giao kỹ thuật Trồng trọt (Trung tâm Khuyến nông tỉnh Hưng Yên) cho biết: Sau khi thu hoạch nhãn xong thì đây là thời kỳ cây nhãn bị tổn thương lớn nhất trong năm, giai đoạn này cây yếu nhất để cây sinh trưởng phát triển tốt tạo tiền đề cho năm sau chúng tôi khuyến cáo người trồng nên áp dụng một số biện pháp kỹ thuật như sau:
Một là cắt tỉa tạo tán: cắt bỏ toàn bộ những cành ở nơi mọc um tùm, cành sâu bệnh, cành trong thân nhằm mục đích tạo cho cây thông thoáng, tập trung dinh dưỡng nuôi những cành thu, hạn chế sâu bệnh.
Hai là vệ sinh vườn: thu gom cành lá tiêu hủy tiêu diệt những mầm bệnh năm trước gây hại cho cây; khơi thông các rãnh thoát nước.
Ba là bón phân, tưới nước cho cây: tùy thuộc vào độ tuổi, thực tế sinh trưởng, phát triển của cây cũng như sản lượng quả thu hoạch của năm trước để xác định liều lượng bón cho cây thích hợp.
Hương Giang
Mắc ca đang... ‘mắc cạn’. Kỳ 3: Phát triển bài bản, mắc ca sẽ có vị thế
Nguồn tin: Báo Đắk Nông
Dù đang ở vào thế "mắc cạn", nhưng cũng không thể phủ nhận cây mắc ca có nhiều tiềm năng to lớn về kinh tế. Nếu làm tốt công tác quy hoạch, bảo đảm về nguồn giống, tạo được tính bền vững trong sản xuất, cây mắc ca sẽ có được vị thế và có thể giúp nông dân làm giàu...
Mặc dù năng suất không cao, nhưng bù lại giá trái mắc ca thường ở mức cao, gần 100 nghìn đồng/kg
Còn thiếu sự đồng bộ
Đề án phát triển cây mắc ca trên địa bàn huyện Tuy Đức (tỉnh Đắk Nông) đến năm 2020 đặt ra mục tiêu: Công ty Cổ phần mắc ca Nữ Hoàng sẽ xây dựng nhà máy chế biến công suất 18.800 tấn/năm; hình thành vùng trồng mắc ca...
Tuy nhiên, đại diện Công ty Cổ phần mắc ca Nữ Hoàng cho biết, đến nay do vướng khâu giải phóng mặt bằng, nên đơn vị mới trồng được 65 ha mắc ca. Trước đó, cuối năm 2013, Công ty đã được tỉnh Đắk Nông đồng ý chủ trương giao gần 200 ha đất trồng mắc ca. Ngoài trồng mắc ca, Công ty cũng đã nỗ lực xây dựng vườn ươm giống, vườn thực nghiệm, viện nghiên cứu…
Công ty Cổ phần mắc ca Nữ Hoàng được kỳ vọng là đơn vị “đầu tàu” trong phát triển cây mắc ca ở Tuy Đức, thế nhưng cho đến nay, các khâu quan trọng như giống, kỹ thuật chăm sóc, chế biến sản phẩm hầu như vẫn đang ở vào giai đoạn... nghiên cứu. Điều này đã phần nào cho thấy, việc phát triển mắc ca ở Tuy Đức còn chưa được chuẩn bị một cách căn cơ.
Còn theo đại diện Công ty TNHH MTV mắc ca Đắk Nông, khâu liên kết (Nhà nước-nhà nông-nhà khoa học-ngân hàng-doanh nghiệp) trong sản xuất mắc ca chưa được thực hiện. Công ty đã tìm được thị trường tiêu thụ mắc ca rất lớn, nhưng mỗi năm nguồn nguyên liệu trên địa bàn chỉ cung cấp được chừng 100 tấn, chỉ đủ cho đơn vị sản xuất trong 3 tháng. Toàn huyện mới chỉ có 194 ha mắc ca tại xã Quảng Trực được cấp chứng nhận hữu cơ tiêu chuẩn châu Âu (Organic EU). Chất lượng và số lượng hạt mắc ca cũng chưa đủ điều kiện để có thể xuất khẩu vào EU và các thị trường khó tính khác…
Cũng theo lãnh đạo Công ty TNHH MTV mắc ca Đắk Nông, để phát triển tốt cây mắc ca và nông dân làm giàu được với loại cây này, đòi hỏi phải có sự phát triển đồng bộ từ khâu quy hoạch, kiểm soát nguồn giống, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ chế biến, tạo thị trường đầu ra... Muốn được như vậy, ngành chức năng trước hết cần cơ cấu lại khâu tổ chức sản xuất theo hướng liên kết, sớm đưa ra kết quả khảo nghiệm giống, nghiên cứu và phổ biến các kỹ thuật chăm sóc để sớm giúp bà con duy trì được diện tích mắc ca hiện nay trước khi tính tới chuyện mở rộng thêm diện tích.
Không hiểu rõ về quy trình sản xuất, nên mọi khâu chăm sóc cây mắc ca được nhiều nông dân Tuy Đức làm theo kinh nghiệm
Tiếp tục phát triển, nhưng cần thận trọng hơn
Qua thời gian phát triển cây mắc ca ở huyện Tuy Đức cho thấy, công tác quy hoạch phát triển cây mắc ca trên địa bàn cần phải có sự nhìn nhận một cách cẩn trọng hơn. Ngay trong đánh giá thực trạng phát triển cây mắc ca, kể cả ngành Nông nghiệp lẫn UBND huyện Tuy Đức cũng chỉ mới khẳng định, cây trồng này đang ở dạng “tiềm năng phát triển ở một số vùng sinh thái”. Thế nhưng, với những lợi thế về khí hậu, phù hợp với điều kiện chăm sóc của đồng bào dân tộc thiểu số, nên cây mắc ca vẫn cần được khuyến khích trồng ở một số vùng tại Tuy Đức.
Đến năm 2020, cả nước chỉ trồng 10.000 ha mắc ca
Ngày 6/4/2015, Bộ Nông nghiệp và PTNT có công văn gửi các tỉnh có phát triển cây mắc ca. Bộ khẳng định, chưa có căn cứ khoa học để quy hoạch phát triển loại cây này, đồng thời chỉ cho phép trồng tối đa 10.000 ha mắc ca từ năm 2015 đến 2020. Bộ Nông nghiệp và PTNT yêu cầu tổ chức đánh giá kết quả khảo nghiệm cây mắc ca tại địa phương; xác định cụ thể quy hoạch chi tiết từng tiểu vùng khí hậu đối với phát triển cây mắc ca. Việc phát triển mắc ca trên quy mô lớn nhất thiết phải bảo đảm các điều kiện này và khi tổ chức phát triển trồng mới phải gắn với cơ sở chế biến, đảm bảo tiêu thụ sản phẩm…
Nói về cây mắc ca ở Tuy Đức, theo Tiến sỹ Hoàng Mạnh Cường, Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên, trước mắt, đối với những diện tích cho năng suất thấp thì địa phương nên khuyến khích nông dân cải tạo, ghép những giống đã cho trái ổn định. Mặt khác, địa phương cần có chính sách cụ thể để hỗ trợ doanh nghiệp, nông dân liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Về lâu dài, các ngành có liên quan và địa phương phải đánh giá lại công tác quy hoạch.
“Có thể khẳng định, khi phát triển cây mắc ca hay các cây trồng khác thì việc quy hoạch phải làm bài bản và lô-gíc. Lô-gíc ở đây là sinh thái có trồng được mắc ca hay không. Ngoài việc xác định được giống thì phải làm rõ được quy trình chăm sóc và sau đó là bán cho ai”, Tiến sỹ Hoàng Mạnh Cường phân tích.
Tiến sỹ Hoàng Mạnh Cường cho biết thêm, quy hoạch ở đây không phải là quy hoạch đất đai. Quy hoạch phải hiểu đó là quy hoạch vùng sinh thái. Bởi vì, với vùng sinh thái đó thì trồng giống đó, quy trình chăm sóc đó. Mặt khác, khâu thị trường phải xác định cụ thể là thị trường nào (Trung Quốc, Trung Đông, EU…).
Cũng theo Tiến sỹ Hoàng Mạnh Cường, thông thường chúng ta hay có suy nghĩ, cứ trồng trước, còn việc bán sản phẩm mới tính sau. Tuy nhiên, cách nghĩ này lại đi ngược với thế giới. Ngay như cây bơ, cây sầu riêng vốn đã quen thuộc với vùng đất Tây Nguyên thì Bộ Nông nghiệp và PTNT vẫn chỉ đạo Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên nghiên cứu sâu về chuỗi giá trị, chứng nhận vùng trồng, xuất xứ hàng hóa… Chỉ có như vậy mới xuất khẩu hàng hóa chính ngạch được. Tương tự, đối với cây mắc ca cũng vậy, không làm tốt được vấn đề này thì khó mà xuất khẩu được.
Bài, ảnh: Công Tính - Phan Tuấn
Huyện Phụng Hiệp (Hậu Giang): Thu hoạch được 700ha mía bán chục
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Nông dân huyện Phụng Hiệp (tỉnh Hậu Giang) đã thu hoạch được 700ha mía bán chục, tăng gần 300ha so với năm trước, giá dao động từ 1.500-1.700 đồng/kg, hoặc từ 17-20 triệu đồng/công, thương lái tự thuê nhân công thu hoạch. Với giá bán và năng suất dao động từ 9-10 tấn/công, trừ hết chi phí người trồng mía đạt lợi nhuận hơn 8 triệu đồng/công.
Nông dân bán mía chục cho thương lái.
Theo ngành nông nghiệp huyện Phụng Hiệp, đến thời điểm này, nông dân trong huyện đã bán mía chục tăng khoảng 300ha so với năm 2018. Nguyên nhân là do hiện nay ngành mía đường đang gặp khó khăn, nhiều nông hộ trồng mía sợ thua lỗ nên đã chủ động bán mía chục.
Tin, ảnh: DUY KHÁNH
Chăn nuôi lợn: Thay đổi để thích ứng
Nguồn tin: Báo Bắc Giang
Thời điểm này, số lợn mắc bệnh dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giảm rõ rệt, đã có hơn 150 xã, phường, thị trấn qua 30 ngày không có lợn chết vì dịch bệnh. Nhiều hộ chăn nuôi lợn đã rục rịch tái đàn. Để chăn nuôi hiệu quả, buộc các hộ phải chuyển đổi phương thức, thói quen chăn nuôi.
Liên kết vượt qua dịch bệnh
Mấy năm gần đây, hình thức chăn nuôi lợn tại Bắc Giang đã có sự chuyển đổi khá rõ từ chăn nuôi nhỏ lẻ quy mô hộ sang chăn nuôi gia trại, trang trại, chăn nuôi công nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Trên địa bàn tỉnh đã hình thành những vùng chăn nuôi tập trung tại các huyện Hiệp Hòa, Tân Yên, Lạng Giang với hơn 350 trang trại, có trang trại số đầu lợn lên đến hàng nghìn con/lứa.
Ông Nguyễn Ngọc Hải (bên trái), Giám đốc HTX Nông nghiệp hữu cơ Bình Minh (Hiệp Hòa) giới thiệu cơ sở chăn nuôi an toàn dịch bệnh.
Năm 2014, hộ anh Nguyễn Văn Vích và Nguyễn Văn Chuyết, thôn Khánh, xã Lương Phong (Hiệp Hòa) chuyển nghề sang chăn nuôi lợn. Do thiếu kinh nghiệm chăn nuôi, lơ là kiểm soát dịch bệnh lại gặp thời điểm giá lợn xuống thấp nên năm 2016, các anh bị thua lỗ hàng trăm triệu đồng.
Trong lúc khó khăn, hai anh mạnh dạn tham gia HTX Nông nghiệp hữu cơ Bình Minh, thôn Nam Đồng, xã Danh Thắng (Hiệp Hòa); đồng thời chung vốn hơn 450 triệu đồng xây dựng gần 1 nghìn m2 chuồng trại, 3 hầm chứa biogas lớn và hệ thống bể tràn chứa chất thải chăn nuôi.
Anh Chuyết chia sẻ, vào HTX các hộ được đầu tư lợn giống, cám và hướng dẫn chăm sóc thú y, bao tiêu toàn bộ lợn thương phẩm với điều kiện phải thực hiện nghiêm ngặt quy định về an toàn dịch bệnh, được cấp chứng nhận “Cơ sở an toàn dịch bệnh (ATDB)”. Nhờ đó, trong suốt thời gian bệnh DTLCP bùng phát, đàn lợn trong trang trại của hai anh cũng như các thành viên HTX được bảo vệ và liên tục tái đàn hiệu quả.
Ông Nguyễn Ngọc Hải, Giám đốc HTX Nông nghiệp hữu cơ Bình Minh cho biết, HTX hiện có 7 thành viên, tổng đàn lợn gần 4,5 nghìn con, trong đó có 350 lợn nái. Trong HTX có những hộ chuyên nuôi lợn nái sinh sản cung cấp con giống cho các thành viên, còn lại nuôi lợn thương phẩm. Để tạo nguồn thức ăn ổn định, tăng sức đề kháng cho lợn, HTX đã tự sản xuất cám cung cấp cho thành viên với các thành phần dinh dưỡng riêng.
Ông Dương Thanh Tùng, Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT: Quan điểm chỉ đạo của ngành nông nghiệp là các trang trại, cơ sở chăn nuôi đủ điều kiện ATSH mới được tái đàn. Không khuyến khích các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, chăn nuôi hở tái đàn bởi nhiều địa phương đã qua 30 ngày không có lợn mắc bệnh DTLCP nhưng nay đã tái phát trở lại”.
Ngoài ra, HTX còn cung cấp chế phẩm sinh học để khử mùi hôi từ chất thải, hạn chế ô nhiễm môi trường. Nhằm ổn định đầu ra, HTX duy trì một lò mổ công suất 50 con/ngày đêm (hiện lò mổ giết thịt 30 con/ngày), hợp đồng cung cấp thịt lợn cho Công ty Hương Việt Sinh tại Hà Nội và 5 cửa hàng bán lẻ thịt lợn tại Hiệp Hòa, tạo thành chuỗi liên kết khép kín.
Theo khảo sát, trên địa bàn tỉnh có khá nhiều trang trại, gia trại chăn nuôi theo kiểu hợp đồng gia công với các công ty lớn như CP, Dabaco… Các công ty đều đề ra những biện pháp chăn nuôi nghiêm ngặt như: Chuồng trại phải cách xa khu dân cư, được bảo vệ phòng dịch bệnh nhiều lớp, hạn chế người lạ và phương tiện ra vào trại… Do đó tỷ lệ lợn mắc dịch bệnh rất thấp, ít bị rủi ro.
Chuyển đổi phương thức chăn nuôi
Tuy vậy, hình thức chăn nuôi nhỏ lẻ vẫn phổ biến tại Bắc Giang hiện nay với hơn 63 nghìn hộ (tính ở thời điểm cuối tháng 4-2019). Các hộ nuôi nhỏ lẻ thường xây chuồng trại ngay tại khuôn viên gia đình, số lợn ít, việc đầu tư cho chăn nuôi lợn không nhiều và thường tận dụng thức ăn thừa để chăn nuôi. Việc vệ sinh phòng dịch cũng chưa được quan tâm đúng mức.
Chăm sóc đàn lợn tại gia đình anh Nguyễn Văn Chuyết, thôn Khánh, xã Lương Phong (Hiệp Hòa).
Do vốn đầu tư thấp nên khi có dịch bệnh, đa phần các hộ có tâm lý bán tháo hoặc bỏ mặc đàn lợn. Mật độ chăn nuôi dày đặc cũng là nguyên nhân khiến dịch bệnh lây lan nhanh. Tuy nhiên, để các hộ từ bỏ thói quen, hạn chế chăn nuôi nông hộ không thể đạt được trong một sớm một chiều. Ngay thời điểm này, mặc dù tỉnh đã có văn bản hướng dẫn, khuyến cáo các hộ dân không tái đàn khi chưa đủ điều kiện chăn nuôi ATDB nhưng thực tế vẫn có không ít hộ vẫn vào đàn.
Theo ông Lương Đức Kiên, Chi cục phó Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh, để chăn nuôi lợn phát triển hiệu quả, các hộ phải bỏ tư duy được ăn, thua bỏ; đầu tư nâng cấp chuồng trại. Nếu chăn nuôi trong khu dân cư phải bảo đảm an toàn sinh học tối thiểu như phát quang cây cối, bụi rậm, vệ sinh chuồng trại thường xuyên, có hầm biogas. Kiểm soát, xử lý nhiệt nguồn thức ăn trước khi đưa vào khu chăn nuôi.
Đặc biệt, các hộ cần liên kết với nhau để cùng chia sẻ thông tin dịch bệnh, thị trường và thực hiện các quy ước trong bảo vệ đàn vật nuôi; cùng nhau hợp đồng mua thức ăn chăn nuôi từ nhà máy, không qua đại lý nhằm giảm chi phí vận chuyển. Đồng thời tạo thành vùng chăn nuôi tập trung, thuận tiện khi xuất bán lợn cũng như quản lý dịch bệnh… “Các chủ hộ phải mua giống ở những cơ sở uy tín, có bảo hành. Trước khi nhập đàn phải nuôi cách ly tối thiểu 21 ngày”, ông Kiên nói.
Được biết, từ 1-1-2020, Luật Chăn nuôi có hiệu lực, các hộ nuôi từ một con lợn trở lên cũng phải kê khai, đăng ký chăn nuôi với UBND cấp xã. Các trang trại lớn phải được thẩm định đủ tiêu chuẩn an toàn sinh học mới được cấp phép chăn nuôi. Trang trại thành lập mới phải được thẩm định các điều kiện trước khi cấp phép hoạt động.
Cùng với thay đổi tư duy và thói quen trong chăn nuôi để thích ứng với những diễn biến khó lường của tình hình dịch bệnh, việc thực hiện nghiêm Luật là yếu tố quan trọng nhất, bảo đảm cho chăn nuôi lợn phát triển bền vững, đạt hiệu quả cao.
Thế Đại
Hiếu Giang tổng hợp