Cây chuối sáp ‘vững chân’ trên vùng đất lúa
Nguồn tin: Báo Sóc Trăng
Với nhiều nông dân vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp, cây lúa được xem là cây trồng “độc tôn” đem về nguồn thu nhập chính. Nhưng khi canh tác lúa không hiệu quả, nông dân mới mạnh dạn chuyển đổi cây trồng. Để cây trồng mới “đứng vững” trên đất lúa được xem là vấn đề không dễ. Một trong những hộ nông dân đã chuyển đổi cây lúa sang cây chuối sáp thành công là ông Lê Văn Tư ở Ấp 1, thị trấn Long Phú (Long Phú, tỉnh Sóc Trăng).
Ông Tư cho biết: “Cây chuối sáp rất dễ trồng nhưng không vì thế mà bỏ đại cho nó phát triển mà phải thường xuyên chăm sóc. Vườn chuối có tổng diện tích 17 công, toàn bộ diện tích này trước đây tôi canh tác mía, hơn 10 năm gắn bó, cây mía thất thu. Tôi chuyển sang làm lúa 3 vụ/năm cũng hơn 15 năm nhưng vẫn không đem lại lợi nhuận tốt như mong muốn. Vì vậy, tôi nghĩ tới trồng cây ăn trái. Thấy trái cây quá nhiều loại không biết phải chọn loại nào phù hợp thì tình cờ nhìn thấy bà con gần nhà trồng chuối sáp chỉ vài ba bụi, bán lợi nhuận rất tốt”.
Cũng theo lời tâm tình từ ông Tư, thấy tiềm năng của cây chuối sáp, sau vụ thu hoạch lúa Đông - Xuân 2018, ông đã mạnh dạn chuyển đổi 13 công đất lúa trồng chuối. Ban đầu việc tìm cây giống chuối sáp khó khăn, chỉ thu mua được một ít của bà con xung quanh xóm rồi nhân giống trồng từ từ, đợt thu hoạch đầu tiên của 13 công chuối thu về số tiền hơn 80 triệu đồng, lời được chút đỉnh do chi phí đầu tư lên vườn và mua cây giống. Hiện tại số chuối trồng cũ 13 công đang tiếp tục thu hoạch mỗi tháng 1,5 tấn chuối, trừ chi phí lợi nhuận 8 triệu đồng/tháng. “Tôi trồng mới thêm 4 công chuối sáp, sẽ thu hoạch trong tháng 11 tới” - ông Tư chia sẻ thêm.
Ông Tư bên vườn chuối sáp với cây chuối cho quầy rất cao.
Cây chuối sáp có 2 loại, đó là: chuối sáp trắng và chuối sáp nghệ, chất lượng chuối cũng có sự khác nhau đôi chút. Sáp trắng trái to, phần thịt trái màu trắng, còn sáp nghệ thịt vàng, ăn dẻo, rất ngọt. Tuy nhiên, giá bán của các loại chuối trên được thương lái mua bằng giá, không có sự chênh lệch. Đưa tay chỉ những buồng chuối cao khỏi đầu ở phía khá xa, ông Tư tiếp lời: “So với chuối xiêm, chuối sáp dễ trồng hơn nhiều và giá trị kinh tế cao hơn gấp 2 lần. Chuối sáp từ lúc xuống giống cây cho đến thu hoạch là 11 tháng, mỗi cây chuối cho quầy khoảng 7 đến 8 nải chuối, trọng lượng 10kg - 12 kg/buồng, giá bán 9.000 đồng/kg, tính sơ buồng chuối bỏ túi số tiền hơn 100.000 đồng”.
Cây chuối sáp dễ trồng, nhẹ công chăm sóc, bón phân thoải mái không sợ bị sùng, không cần phải dùng thuốc bảo vệ thực vật, thậm chí không cần bón phân chuối vẫn cho năng suất tốt. Nhưng để cây khỏe, nuôi dưỡng trái tốt hơn thì chỉ cần bón một ít phân hạt, có thể bón 50kg phân/10 công, 2 tháng bón lần, rải phân quanh gốc, sau đó xới đất trữ phân lại để phân không bị trôi đi nếu gặp trời mưa hay trời nắng phân bốc hơi. Đồng thời, để cây chuối phát triển tốt thì 1 bụi chuối chỉ nên chừa 3 cây và khu vực quanh gốc chuối dọn cỏ sạch, tạo độ thoáng cho cây. Trồng chuối theo khoảng cách nhất định, cây cách cây hàng cách hàng 3m. Mùa nắng tưới nước 2 tuần/lần và phải có mương thoát nước tốt để mưa xuống không đọng lại nước nhiều trên vườn chuối. Để cây tiếp tục cho buồng tốt, sau khi trồng 3 - 4 năm nên bồi thêm sình non vào gốc, đảm bảo chuối luôn xanh tốt. Ngoài trồng chuối sáp, ông Tư còn xen canh cây đu đủ lúc chuối còn nhỏ để tăng thêm lợi nhuận, lấy ngắn nuôi dài, qua đợt chuối thì vườn đu đủ cũng thu số tiền hơn 20 triệu đồng. Bên cạnh đó, hàng tuần ông cũng có nguồn thu đều đều nhờ tiền bán bắp chuối khoảng 300.000 đồng.
Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Long Phú Lâm Văn Vũ cho biết: “Cây chuối sáp trên địa bàn huyện được nông dân trồng trong nhiều năm qua, nhưng số lượng chỉ vài ba công/hộ, có hộ trồng chuối xen canh và chỉ có vài hộ có diện tích trồng nhiều như hộ ông Tư. Thống kê diện tích chuối các loại của toàn huyện là 400ha, trong đó chuối sáp ước 50ha, tập trung nhiều tại các xã: Song Phụng, Phú Hữu và thị trấn Long Phú. Hướng tới, để tăng thu nhập cho hộ dân, đơn vị khuyến cáo bà con tận dụng diện tích bờ bao vườn hay các khu vực quanh nhà trồng chuối sáp để tạo nguồn thu tại hộ cũng như hướng người dân chuyển đổi cây trồng kém hiệu quả sang trồng chuối sáp nếu vùng đất trồng phù hợp sự sinh trưởng của cây chuối”.
Thúy Liễu
Trồng dưa lưới trong nhà: Hiệu quả bất ngờ
Nguồn tin: Báo Ấp Bắc
Ths. Trần Lê Vinh (giảng viên Trường Đại học Tiền Giang) đã nghiên cứu ứng dụng hệ thống tưới nhỏ giọt kết hợp đầu tư nhà màng để canh tác dưa lưới khá thành công.
Nhận thấy mô hình trồng dưa lưới mang lại hiệu quả kinh tế cao, nên từ 1.000 m2 đất trồng thử nghiệm ban đầu, đến nay Ths. Vinh đã mở rộng diện tích canh tác dưa lưới lên 3.000 m2.
Ths. Vinh kiểm tra dưa lưới chuẩn bị thu hoạch.
Nhận thấy thời gian gần đây, phong trào trồng dưa lưới trên địa bàn tỉnh phát triển khá mạnh, thị trường tiêu thụ không ngừng được mở rộng, Ths. Vinh quyết định thuê 1.000 m2 đất ruộng tại ấp Nam, xã Long Hưng, huyện Châu Thành để trồng dưa lưới. Tháng 8-2018, Ths. Vinh bắt đầu xuống giống vụ dưa lưới đầu tiên.
Ths. Vinh cho biết, để canh tác dưa lưới đạt hiệu quả, cần đầu tư nhà lưới đạt chuẩn kết hợp hệ thống tưới nhỏ giọt. Theo tính toán của Ths. Vinh, chi phí đầu tư ban đầu cho 1.000 m2 đất trồng dưa lưới khoảng 300 triệu đồng (bao gồm tiền thuê đất, đầu tư nhà lưới và hệ thống tưới nhỏ giọt); còn chi phí đầu tư sản xuất cho một vụ dưa lưới khoảng 75 triệu đồng.
Về kỹ thuật canh tác, sau 10 ngày ươm, cây giống được trồng lên mô đất có phủ ni lông với mật độ 2.500 - 2.700 cây/1.000 m2, sử dụng hệ thống tưới nhỏ giọt kết hợp bón phân mỗi ngày (phân được pha vào nước tưới như trồng thủy canh). Sau 28 ngày trồng, dưa được tiến hành thụ phấn. Về sâu bệnh, dưa lưới thường bị một số bệnh như: Phấn trắng trên lá, thối dây, nhũn dây, nứt thân, chảy nhựa…
Đối với bệnh phấn trắng, Ths. Vinh sử dụng thuốc đặc trị để phun xịt. Theo kinh nghiệm của Ths. Vinh, nếu thực hiện tốt công tác tiêu độc, khử trùng (dọn rác, rải vôi, phun thuốc sát trùng…) vào đầu vụ; đồng thời, thường xuyên theo dõi, kiểm tra và có biện pháp xử lý kịp thời, có thể hạn chế thấp nhất một số bệnh còn lại trên dưa, nhất là bệnh hại dây, bệnh thối trái.
Để làm tốt công tác này, Ths. Vinh thuê 2 lao động thường xuyên kiểm tra, theo dõi sâu bệnh, tưới phân, tỉa lá chân, tỉa trái…
Thời gian từ khi xuống giống đến thu hoạch dưa lưới từ 65 - 70 ngày, do áp dụng đúng quy trình kỹ thuật canh tác nên tỷ lệ trái dưa lưới đạt loại 1 (trên 1,2 kg/trái) chiếm trên 80%. Vụ đầu tiên, Ths. Vinh thu hoạch được 3 tấn trái, bán với giá 27.000 - 35.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí thu lãi khoảng 30 triệu đồng.
Về giống, Ths. Vinh sử dụng giống dưa lưới TL3 của Công ty TNHH Nông nghiệp Chánh Phong (TP. Hồ Chí Minh) với nhiều ưu điểm như: Năng suất cao, kháng bệnh tốt, dưa có ruột màu cam, vị ngọt thanh nên rất được thị trường ưa chuộng.
Sau khi canh tác thành công liên tiếp 3 vụ dưa lưới trên thửa đất thuê đầu tiên, Ths. Vinh tiếp tục thuê thêm 2.000 m2 để mở rộng diện tích canh tác. Hiện tại, nhà lưới thứ hai chuẩn bị thu hoạch vụ đầu tiên, nhà lưới thứ ba đang được triển khai thi công.
Theo Ths. Vinh, khi hết thời gian khấu hao 5 năm (tương ứng với thời gian thuê đất), khung sườn thép nhà lưới cũ có thể được tận dụng để tái đầu tư nhà lưới mới với chi phí chỉ bằng 40% - 50% so với đầu tư mới, nên từ vòng đầu tư thứ hai (năm thứ sáu), hiệu quả đầu tư sẽ tăng lên do giảm được chi phí đầu tư ban đầu.
“Canh tác dưa lưới trong nhà màng giúp hạn chế sâu bệnh, nên việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật cũng được giảm thiểu. Từ đó giúp nâng cao hiệu quả sản xuất, đảm bảo an toàn sức khỏe cho người tiêu dùng.
Tuy nhiên, trên thực tế có không ít trường hợp, người trồng không áp dụng đúng quy trình kỹ thuật canh tác cũng như không thực hiện tốt khâu chăm sóc dẫn đến thất bại, thua lỗ” - Ths. Vinh chia sẻ.
HUỲNH VĂN XĨ
Khuyến cáo chăm sóc cây trồng sau mưa lũ
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Theo khuyến cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lâm Đồng, các loại cây trồng hàng năm và lâu năm sau mưa lũ cần tích cực chăm sóc, bón phân cân đối trên từng khu vực sản xuất.
Cụ thể, với cây hàng năm như bí, ớt, cà chua, tỏi, hành, dưa leo…, nông dân cần pha loãng 300g super lân/10 lít nước cùng các chế phẩm sinh học tưới vào gốc cây để phục hồi và kích thích ra rễ. Khi cây phục hồi và đất đã khô ráo, nông dân tưới phân loãng khoảng 300g super lân + 300g Ure/10 lít nước. Riêng cây bắp, đậu phộng, đậu tương, khoai lang… cần bón bổ sung phân lân, NPK tăng dần theo khả năng phục hồi.
Về các loại cây lâu năm được khuyến cáo phun phân bón lá có chứa Fe, Bo, Cu, Zn, B… nhằm tránh hiện tượng nứt, rụng quả. Ngoài ra, nên sử dụng thuốc trừ nấm phòng trừ kịp thời hiện tượng long gốc do bộ rễ bị nhiễm bệnh…
VŨ VĂN
Mô hình tưới ướt khô xen kẽ: Giải pháp tiết kiệm nước ngọt trong sản xuất
Nguồn tin: Báo Bạc Liêu
Mô hình tưới ướt khô xen kẽ được ngành chức năng và Dự án GIZ (Tổ chức Hợp tác phát triển Đức) triển khai trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu đã mang lại hiệu quả thiết thực. Đây được xem là lời giải cho bài toán thiếu nước ngọt, nhất là trong vụ lúa đông xuân.
Nông dân xã Vĩnh Hưng (huyện Vĩnh Lợi) kiểm tra lượng nước trên ruộng lúa áp dụng theo kỹ thuật tưới ướt khô xen kẽ.
Mô hình tưới ướt khô xen kẽ lần đầu tiên được ngành Nông nghiệp tỉnh và Dự án GIZ triển khai tại Hợp tác xã (HTX) Nam Hưng (xã Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Lợi) với tổng diện tích hơn 50ha (hơn 40 hộ tham gia).
Ông Nguyễn Hoàng Hương, Giám đốc HTX Nam Hưng, cho biết: “Áp dụng kỹ thuật tưới lúa ướt khô xen kẽ thì chỉ cần bơm nước ngập 5cm trên ruộng. Vì vậy vừa tiết kiệm nước vừa giảm chi phí sản xuất. Đồng thời lúa rất cứng cây và ít bị đổ ngã ở cuối vụ”.
Kỹ thuật tưới ướt khô xen kẽ giúp hạn chế nước bị thấm và bốc hơi gây tổn thất nước trên mặt ruộng; ruộng khô, ráo nước thì hạn chế được nhánh đẻ muộn, tập trung chất dinh dưỡng cho các nhánh lúa hữu ích; phơi ruộng, tạo điều kiện phân giải các chất hữu cơ làm tích lũy các chất dinh dưỡng trên ruộng. Ngoài ra, ánh sáng chiếu vào gốc lúa làm hạn chế số rễ đen, tăng số rễ trắng làm tăng khả năng hút nước của cây lúa. Áp dụng kỹ thuật tưới ướt khô xen kẽ vừa tiết kiệm được nước, vừa giúp lúa cho năng suất cao.
Theo ông Nguyễn Hồng Khiêm, cán bộ Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (TT&BVTV) tỉnh: “Mô hình tưới ướt khô xen kẽ sẽ giúp giảm từ 20 - 30% lượng nước tưới mà không ảnh hưởng tới năng suất. Ngoài ra, giai đoạn ruộng khô (cây lúa ở thời điểm 30 - 40 ngày sau gieo sạ) sẽ tạo điều kiện thuận lợi để rễ lúa ăn sâu vào đất và hút chất dinh dưỡng. Cây lúa có bộ rễ khỏe, thân cứng sẽ ít bị ảnh hưởng bởi sâu bệnh và giảm tỷ lệ đổ ngã. Áp dụng kỹ thuật tưới ướt khô xen kẽ kết hợp với chương trình “1 phải - 5 giảm”, “3 giảm - 3 tăng”… cho nông dân tăng thêm lợi nhuận từ 5 - 7 triệu đồng/ha”.
Ông Nguyễn Hoàng Hương, Giám đốc HTX Nam Hưng (huyện Vĩnh Lợi) hướng dẫn các nhà báo tham quan cánh đồng áp dụng mô hình tưới ướt khô xen kẽ. Ảnh: M.Đ
Mô hình tưới ướt khô xen kẽ được triển khai từ vụ đông xuân 2011 - 2012 trên cánh đồng lúa lớn. Sau thời gian thực hiện, cuối vụ, nông dân thu lãi cao hơn 5 triệu đồng/ha so với phương pháp canh tác truyền thống. Kỹ thuật này giúp nông dân ứng phó với việc thiếu nước trong sản xuất lúa, đặc biệt là vụ đông xuân.
Vụ lúa đông xuân năm nay, toàn tỉnh có hơn 80% diện tích áp dụng mô hình tưới ướt khô xen kẽ. Chi cục TT&BVTV tỉnh phối hợp với Dự án GIZ triển khai thực hiện nhiều điểm trình diễn kỹ thuật mô hình này và đều đạt hiệu quả cao. Ông Nguyễn Minh Thắng (xã Vĩnh Hưng) cho biết: “Trước đây, chi phí trồng lúa từ 22 - 23 triệu đồng/ha. Từ khi áp dụng mô hình tưới ướt khô xen kẽ thì chỉ còn khoảng 17 triệu đồng/ha. Năng suất lúa từ 6 - 7 tấn/ha tăng lên 10 tấn/ha, lợi nhuận tăng thêm hơn 5 triệu đồng/ha”.
Mô hình tưới ướt khô xen kẽ đang được nông dân các huyện: Phước Long, Hồng Dân, Vĩnh Lợi, Hòa Bình và TX. Giá Rai thực hiện với diện tích hàng ngàn héc-ta. Kỹ thuật này đã giúp người trồng lúa tiết kiệm chi phí, giảm từ 3 - 4 lần bơm nước/vụ, tăng năng suất và chất lượng lúa. Đồng thời giảm lượng lúa giống, phân bón và giảm từ 2 - 4 lần phun thuốc trừ sâu, góp phần bảo vệ môi trường nông thôn.
Minh Đạt
Đang tăng và còn tiếp tục tăng
Nguồn tin: Báo Sóc Trăng
Đó là nhận định của các doanh nghiệp chế biến thủy sản trong tỉnh Sóc Trăng về thị trường tôm từ nay đến cuối năm 2019. Tuy nhiên, đó không phải do tác động từ mức thuế chống bán phá giá tôm vào Hoa Kỳ 0%, mà chủ yếu là do những diễn biến có liên quan từ cung – cầu tôm trong nước và thế giới.
Bước vào đầu tháng 9, mặc dù thời tiết mưa bão nhiều, nhưng giới sản xuất, kinh doanh tôm vẫn cảm nhận được sức nóng từ sự tăng giá tôm ở hầu hết các kích cỡ, đặc biệt, giá tôm thẻ và tôm sú cỡ lớn có mức tăng mạnh nhất. Khảo sát bảng giá thu mua của các doanh nghiệp từ tuần cuối tháng 8 sang đầu tháng 9 cho thấy, giá tôm thẻ loại 100 con đã tăng lên mức 92.000 đồng/kg, con tôm thẻ cỡ lớn chẳng những tăng khá mạnh mà còn thiếu hụt nghiêm trọng. Ông Võ Văn Phục – Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Thủy sản sạch Việt Nam cho biết: “Như tôi đã nhận định trước đây, sang tháng 8 giá tôm thẻ sẽ tăng trở lại và hiện đang tăng rất mạnh, nhất là tôm thẻ loại lớn. Hiện tôm thẻ loại 35 con/kg đang có giá 160.000 đồng/kg, còn nếu về lớn hơn nữa, giá sẽ còn tăng mạnh hơn”.
Ngay cả các farm nuôi lớn cũng đang hết sức dè dặt trong việc thả nuôi do lo ngại thời tiết cuối năm thất thường và nhất là dịch bệnh vi bào tử trùng đang bùng phát, nên khả năng thiếu hụt nguồn nguyên liệu, đẩy giá tăng cao là rất lớn.
Tôm thẻ cỡ lớn tăng giá mạnh, theo các doanh nghiệp chủ yếu là do vùng nuôi của Ấn Độ bị bệnh phân trắng nên không thể nuôi tôm về cỡ lớn được, gây thiếu hụt nguồn cung ở phân khúc này. Ngoài ra, giá tôm thẻ cỡ lớn được dự báo sẽ còn tăng là do sản lượng tôm nuôi trong nước không nhiều như dự kiến, trong khi từ nay đến cuối năm, nhu cầu thu mua chế biến trả nợ các hợp đồng đã ký kết của các doanh nghiệp lại tăng mạnh. Đây mới chính là điều doanh nghiệp cảm thấy lo lắng nhất, bởi ở vụ tôm năm 2018 phải đến giữa tháng 9, sản lượng tôm mới bắt đầu giảm, nhưng năm nay mới giữa tháng 8, lượng tôm về nhà máy đã bắt đầu giảm mạnh. Trong khi đó, bước vào tháng 9, các doanh nghiệp sẽ tăng tốc mua vào chế biến phục vụ các hợp đồng lớn dịp lễ, tết cuối năm, nên mặt bằng giá tôm nguyên liệu sẽ có xu hướng tăng dần từ nay đến cuối năm.
Theo các doanh nghiệp chế biến tôm xuất khẩu, từ giữa tháng 8 đến nay, lượng tôm mua vào đã giảm từ 10% đến 15% so với thời điểm tháng 7 mà nguyên nhân là do năm ngoái, tháng 7, tháng 8, diện tích thả tôm vẫn còn nhiều, nên bước sang tháng 10, lượng tôm về nhà máy vẫn còn khá. Riêng năm nay, do ảnh hưởng giá tôm xuống thấp, kéo dài, cùng với đó là dự báo thời tiết mưa bão nhiều trong tháng 9, 10 nên diện tích thả nuôi thấp, sản lượng từ nay đến cuối năm chắc chắn sẽ giảm mạnh. Một nguyên nhân khác cũng tác động đến giá tôm trong nước tăng mạnh đó là do một số doanh nghiệp đẩy mạnh thu mua, chế biến xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc do sản lượng tôm tại TP. Trạm Giang - thủ phủ tôm của Trung Quốc đang thiếu hụt tôm nghiêm trọng, buộc các nhà sản xuất, phân phối phải tăng cường nhập khẩu từ các nước, trong đó có Việt Nam.
Giá tôm nguyên liệu trong nước tăng mạnh nhưng theo các doanh nghiệp, giá xuất khẩu chỉ tăng nhẹ khoảng 50 cent/kg. Trong khi đó, từ nay đến cuối năm, các doanh nghiệp buộc phải trả nợ hợp đồng đã ký kết, trong khi sản lượng tôm giảm sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng tranh mua đẩy giá mua tiếp tục tăng cao, khó khăn sẽ càng lớn hơn cho doanh nghiệp.
Liên quan đến thương chiến Mỹ - Trung mà cụ thể là tỉ giá USD và nhân dân tệ so với đồng Việt Nam đang giảm, theo các doanh nghiệp, đồng nhân dân tệ Trung Quốc mất giá sẽ khiến tôm Việt Nam sẽ khó bán vào đây. Tương tự, nếu đồng USD giảm giá so đồng Việt Nam cũng là một bất lợi cho việc xuất hàng vào Hoa Kỳ, dù mức thuế chống bán phá giá tôm Việt Nam vào Hoa Kỳ vừa được DOC công bố là 0%. Nguyên nhân chủ yếu là do tôm nguyên liệu trong nước hiện không còn nhiều, giá cao, trong khi giá mua tôm Việt Nam ở thị trường Hoa Kỳ hiện không tốt vì phải cạnh tranh với tôm giá rẻ của Ấn Độ được chào bán tràn lan ở thị trường này.
Với những diễn biến thị trường tôm vừa qua, cùng những dự báo lạc quan về giá tôm từ nay đến cuối năm có thể thấy cơ hội là rất lớn cho người nuôi tôm. Tuy nhiên, liệu người nuôi tôm có nắm bắt được cơ hội này hay không vẫn còn phải chờ, bởi bên cạnh các yếu tố thuận lợi về giá, khả năng tiêu thụ lớn, người nuôi vẫn phải đối mặt với những khó khăn nhất định về thời tiết, dịch bệnh và nhất là nguồn vốn để đầu tư thả nuôi.
Tích Chu
Khánh thành trung tâm chế biến rau quả lớn nhất Tây Nguyên
Nguồn tin: Báo Chính Phủ
Trung tâm chế biến rau quả Doveco Gia Lai là tổ hợp nhà máy chế biến nông sản hiện đại lớn nhất khu vực Tây Nguyên, với công suất 52.000 tấn sản phẩm/năm.
Khu sản xuất của Trung tâm chế biến rau quả Doveco Gia Lai. Ảnh: Báo Gia Lai
Ngày 9/9, tại Gia Lai, Công ty cổ phần Xuất khẩu Đồng Giao đã khánh thành Trung tâm chế biến rau quả Doveco Gia Lai - tổ hợp nhà máy chế biến nông sản hiện đại lớn nhất khu vực Tây Nguyên, với công suất 52.000 tấn sản phẩm/năm.
Trung tâm có 3 dây chuyền sản xuất tự động hóa, công nghệ hiện đại của Nhật Bản, Italy, Thụy Điển, gồm dây chuyền sản xuất nước quả cô đặc và nước quả tự nhiên, công suất 20.000 tấn sản phẩm/năm; dây chuyền sản xuất rau quả đông lạnh, công suất 22.000 tấn sản phẩm/năm và dây chuyền sản xuất rau quả đồ hộp, công suất 10.000 tấn sản phẩm/năm.
Song song với chế biến, Trung tâm cũng sơ chế, đóng gói, bảo quản và xuất khẩu nhiều sản phẩm rau quả tươi ra thị trường thế giới. Từ tháng 4 đến nay, Trung tâm đã sản xuất ra những lô hàng đầu tiên xuất khẩu sang thị trường châu Âu, Israel, Mỹ, Nhật Bản…
Trung tâm đi vào hoạt động sẽ góp phần tạo đầu ra ổn định cho nông sản của tỉnh Gia Lai và cả khu vực Tây Nguyên, tạo ra kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 100 triệu USD/năm, doanh thu hàng năm 2.000 tỷ đồng và ổn định công ăn việc làm, thu nhập cho hàng chục nghìn lao động nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, bán hàng, vận tải...
Với quy mô chế biến 500 tấn nguyên liệu mỗi ngày, Trung tâm chế biến rau quả Doveco Gia Lai sẽ xây dựng và hình thành vùng liên kết sản xuất hàng hóa tập trung theo chuỗi giá trị bền vững quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao với diện tích liên kết sản xuất đạt từ 10.000-15.000 ha tại Gia Lai và các tỉnh Tây Nguyên.
Qua đó, sẽ giới thiệu sản phẩm rau quả, đặc biệt là các loại quả đặc sản, lợi thế của khu vực Tây Nguyên như chanh dây, bơ, chuối, sầu riêng… từng bước định vị và khẳng định thương hiệu rau quả của Gia Lai, Tây Nguyên nói riêng và Việt Nam nói chung trên thị trường thế giới.
Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai Võ Ngọc Thành cho biết, Trung tâm chế biến rau quả Doveco Gia Lai đi vào hoạt động, đánh dấu thời kỳ đẩy mạnh khai thác tiềm năng, thế mạnh vốn có; mở đầu cho thời kỳ bùng nổ về phát triển nông nghiệp công nghệ cao gắn với công nghiệp chế biến các sản phẩm từ nông nghiệp; đẩy mạnh công nghiệp hóa nông thôn, thu hút các nhà đầu tư mới.
Sự ra đời của nhà máy bước đầu đã xây dựng được các mô hình liên kết, đỡ đầu giữa nhà máy với HTX, tổ sản xuất và người dân trong việc xây dựng chuỗi giá trị với hiệu quả được nâng lên.
Công ty cổ phần Xuất khẩu Đồng Giao là một trong những doanh nghiệp hàng đầu của cả nước trong lĩnh vực sản xuất, chế biến và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là trái cây. Đây cũng là một trong những đơn vị đầu tiên của Việt Nam phát triển chuỗi giá trị cây ăn quả chủ lực, chủ động tạo ra giống mới mang bản quyền Việt Nam, sản xuất được cây giống sạch bệnh, năng suất, chất lượng cao.
BT
Cổ vũ cho doanh nghiệp nông nghiệp ĐBSCL
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Thời gian qua, nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã có bước phát triển vượt bậc và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Các dự báo về thị trường của nhiều tổ chức trong và ngoài nước cho thấy ĐBSCL có cơ hội lớn để mở rộng thị trường cho các sản phẩm mà vùng có lợi thế, đặc biệt là gạo, tôm, cá tra, trái cây. Song, để nắm vững cơ hội này cần cổ vũ và hỗ trợ kịp thời cho doanh nghiệp (DN) ngành nông nghiệp, bởi đây là lực lượng quyết định thị trường và sức tiêu thụ sản phẩm.
DN vẫn tự bơi là chính
Sản phẩm chế biến từ cá tra đem về kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỉ USD hằng năm. Ảnh: N.S
Toàn vùng ĐBSCL hiện có khoảng 55.000 DN, trong đó khoảng 7.100 DN lĩnh vực nông lâm thủy sản (1.203 DN trực tiếp sản xuất), chiếm 16,62% số DN sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản cả nước. Giai đoạn 2007-2017, số DN kinh doanh bán buôn nông lâm thủy sản tăng mạnh nhất từ 804 DN lên 2.943 DN, lĩnh vực chế biến nông lâm thủy sản tăng từ 382 DN lên 2.209 DN. Bên cạnh sự tăng lên của DN nhỏ và vừa, một số DN, tập đoàn lớn cũng đẩy mạnh đầu tư vào nông nghiệp ĐBSCL, như: Tập đoàn Minh Phú, Tập đoàn Lộc Trời… Những đơn vị này không chỉ đầu tư bài bản mà còn đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, kinh doanh. Đồng thời tạo hiệu ứng lan tỏa, thu hút nhiều DN đầu tư, đổi mới công nghệ.
Thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), giai đoạn 2016-2018, nông nghiệp ĐBSCL đạt tốc độ tăng trưởng GDP 3%/năm, cao hơn mức tăng bình quân cả nước (2,67%/năm); đóng góp khoảng 34,6% GDP toàn ngành nông nghiệp cả nước và chiếm 33,5% GDP chung vùng ĐBSCL. Mức tăng trưởng này phần đóng góp rất lớn từ DN. Hơn nữa, thị trường trong nước và quốc tế có nhiều thuận lợi cho DN ngành nông nghiệp phát triển.
Theo dự báo đến năm 2020, thị trường tiêu dùng thực phẩm của Việt Nam tăng trưởng cao nhất so với các nước trong khu vực. Ngành chế biến và phân phối sản phẩm nông nghiệp được coi là một trong những ngành có nhiều tiềm năng và dư địa về thị trường để thu hút đầu tư trong, ngoài nước. Đây là cơ hội cho ngành nông nghiệp vùng ĐBSCL tạo thêm nhiều giá trị gia tăng mới, tạo thêm việc làm và nâng cao thu nhập, đời sống cho người dân. Song để đạt mục tiêu này, cần một cộng đồng DN chung sức trong đầu tư, kết nối với nông dân tạo nên những vùng nguyên liệu rộng lớn và cần lực đẩy từ chính sách, sự vào cuộc của ngành ngân hàng trong cung ứng vốn cho DN.
Ông Vũ Đức Hùng, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ NN&PTNT), cho rằng sự phát triển của các DN nông nghiệp có vai trò quan trọng và đóng góp lớn cho sản xuất, xuất khẩu nông sản ĐBSCL. Các DN nông nghiệp tại ĐBSCL đang tạo ra nhiều việc làm hơn so với trung bình cả nước. Nhưng có tới 95% số DN nông lâm thủy sản với quy mô nhỏ và vừa đang là thách thức lớn trong nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển liên kết chuỗi sản xuất nông nghiệp. Các DN vẫn đang loay hoay chưa thể thoát ra được những máy móc có công nghệ lạc hậu 2-3 thế hệ. Nông nghiệp có nhiều lợi thế trong hội nhập quốc tế, nhất là những ưu đãi từ các FTA thế hệ mới, nhưng khó khăn lớn là DN và nông dân còn khó tiếp cận vốn. “Phải khơi thông dòng vốn cho DN và nông dân. Bởi hiện nay xuất khẩu chính ngạch nông sản cũng gặp rất nhiều khó khăn, các tiêu chuẩn của nước nhập khẩu cũng khắt khe hơn, đòi hỏi DN và nông dân phải có nguồn lực đầu tư để sản xuất, để cạnh tranh”.
Mới đây, trong hội nghị kết nối ngân hàng-DN do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức tại TP Cần Thơ, nhiều DN ngành nông nghiệp cho biết, cơ hội tiếp cận vốn cho DN đã được ngân hàng mở hơn, nhiều DN được cấp hạn mức rất cao, có DN được cấp hơn 1.000 tỉ đồng. Song, cũng không ít DN không tiếp cận được vốn, do vướng tài sản thế chấp, phương án kinh doanh khả thi, tài chính minh bạch... Nhiều DN cho biết vẫn tự bơi và chấp nhận rủi ro vay ngoài với lãi suất cao để kinh doanh, còn ngân hàng thì khẳng định thừa vốn.
Đối thoại để cùng gỡ khó
Nói về tiếp cận vốn ngân hàng, lãnh đạo tỉnh An Giang, ví von: “Chỉ cần cái lắc đầu, cái gật đầu của cán bộ tín dụng khi thẩm định hồ sơ cho vay là dấu chấm hết hay sự hồi sinh của DN”. Nhiều DN cũng khẳng định điều này là đúng thực tế, do đầu tư vào nông nghiệp rất rủi ro, cán bộ tín dụng cẩn trọng là đúng, nhưng nếu không xem xét thấu đáo và không thể tin tưởng lẫn nhau thì DN sẽ rất khó khăn. Thực tế, tín dụng ngân hàng đang chiếm 80% vốn đầu tư của nền kinh tế, hầu hết DN đều cần vốn ngân hàng để hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ông Lê Văn Nưng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang, khẳng định: Chúng tôi xem DN là động lực phát triển, vì có DN mới có thêm nguồn thu ngân sách, giải quyết việc làm, tiêu thụ sản phẩm nông sản cho nông dân và đầu tư khoa học công nghệ, đào tạo nguồn lực… Vì vậy, tỉnh rất quan tâm đến việc kết nối với ngân hàng đang hoạt động tại địa phương để hỗ trợ DN. Tỉnh cũng thành lập Ban hỗ trợ DN đặt tại UBND tỉnh, với các thành viên là lãnh đạo UBND tỉnh và các sở, ngành. Ban giải quyết tất cả các khó khăn, vướng mắc của ngân hàng và DN vào sáng thứ Sáu hằng tuần, sau cuộc họp khoảng 30 phút sẽ có thông báo kết luận giải quyết vấn đề. Trong tiếp cận vốn, nếu có vướng mắc, UBND tỉnh và NHNN chi nhánh sẽ tổ chức cho hai bên đối thoại với nhau để làm rõ các vấn đề chưa đồng thuận. Đối thoại cũng để giải quyết câu chuyện ngân hàng nói thừa vốn, trong khi DN không tiếp cận được vốn.
Theo ông Lê Văn Nưng, thời gian qua, hầu hết các địa phương vùng ĐBSCL đều tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư quy mô lớn và nhiều DN đăng ký đầu tư, nhưng nếu không có ngân hàng đứng phía sau cho vay vốn thì những hội nghị xúc tiến này cũng khó thành công. UBND tỉnh không có quyền chỉ đạo ngân hàng cho DN nào vay vốn, mà chỉ đóng vai trò trung gian kết nối. Để hai bên thấu hiểu nhau, ngân hàng cần minh bạch thông tin, cán bộ thẩm định ngân hàng phải có tâm, có tầm và có niềm tin vào DN. Còn DN phải nâng cao năng lực quản trị của mình, thuyết phục DN cho vay vốn. Có như vậy, vốn mới khơi thông, nông nghiệp vùng mới có những bước chuyển mình mạnh mẽ hơn.
Từ thực tế này, lãnh đạo NHNN khẳng định sẽ tăng cường các chương trình kết nối ngân hàng-DN, khơi thông dòng vốn tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn, vì nông nghiệp ĐBSCL đang có những cơ hội chuyển mình rất lớn, thị trường đang rộng mở.
Gia Bảo
Hậu Giang: Giá trứng vịt tăng nhẹ
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Nếu vào giữa cuối vụ thu hoạch lúa Hè thu 2019, giá trứng vịt trên địa bàn sụt giảm nhiều làm người chăn nuôi rơi vào cảnh khó khăn thì hiện nay giá trứng đã tăng nhẹ trở lại. Cụ thể, hiện nay trứng được các thương lái thu gom ở mức 1.300-1.400 đồng/trứng. Mức giá bán tại các chợ dao động khoảng 18.000-20.000 đồng/chục (tương đương 1.800-2.000 đồng/trứng. So với thời điểm nửa đầu tháng 7 giá trứng thu gom và bán tại các chợ tăng khoảng 2.000-3.000 đồng/chục.
Giá trứng vịt tăng nhẹ, hiện được bán khoảng 18.000-20.000 đồng/chục.
Bà Nguyễn Thị Pha, tiểu thương mua bán ở chợ Phường IV, thành phố Vị Thanh (tỉnh Hậu Giang), cho biết: “Người nuôi vịt cho biết từ đầu năm đến nay giá trứng vịt luôn giữ mức thấp, dù có tăng nhưng mức giá hiện nay vẫn chưa có lời”.
Tin, ảnh: KỲ ANH
Hợp đồng truy xuất nguồn gốc sản phẩm tổ yến
Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng
Hiệp hội Yến sào Việt Nam (VSFA) và Công ty cổ phần Giải pháp và dịch vụ truy xuất nguồn gốc (TraceVerified) vừa ký hợp đồng truy xuất nguồn gốc sản phẩm tổ yến. Theo ông Phạm Thế Ruân, Chủ tịch VSFA, mục tiêu việc ký kết này là định vị bản đồ nhà yến, từ đó thống nhất quản lý sản phẩm tổ yến từ gốc.
Từng bước nâng cao chất lượng, thiết lập tiêu chuẩn đưa sản phẩm yến được VSFA bảo đảm đến người tiêu dùng trong và ngoài nước. Hợp đồng truy xuất nguồn gốc sản phẩm tổ yến còn giúp kiểm soát và xây dựng kế hoạch phòng ngừa dịch bệnh, đảm bảo an toàn cho người dùng và giảm rủi ro cho người nuôi yến.
Theo đó, 2 bên phối hợp thiết lập chuỗi cung ứng, xây dựng quy trình truy xuất nguồn gốc toàn chuỗi. Xây dựng quy chế quản lý sản phẩm truy xuất nguồn gốc, bộ quy tắc ứng xử và hình thành cơ chế kiểm tra giám sát giữa các thành viên.
Phát triển app điện thoại (mobile app) để quản lý nhà yến, quản lý sản lượng và kiểm tra, giám sát chéo. Phát triển bản đồ thống kê toàn bộ nhà yến, đàn yến và sản phẩm yến. Ứng dụng blockchain trong phân tán dữ liệu, nâng cao bảo mật và thúc đẩy giao dịch thương mại, trao đổi thông tin truy xuất nguồn gốc.
Xây dựng tiêu chuẩn, phân loại và đảm bảo chất lượng sản phẩm. Thiết lập chương trình phòng ngừa rủi ro dịch bệnh và an toàn thực phẩm. Thúc đẩy việc xây dựng thương hiệu, nâng cao uy tín sản phẩm tổ yến Việt trên thị trường quốc tế.
CÔNG PHIÊN
Giá lợn hơi duy trì mức cao
Nguồn tin: Hà Nội Mới
Theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN&PTNT), ngày 8-9, trên địa bàn cả nước, giá lợn hơi tiếp tục duy trì mức cao.
Tại miền Bắc, giá lợn hơi khoảng 45.000-50.000 đồng/ kg; cụ thể, tại các tỉnh: Hà Nam, Nam Định, Phú Thọ, Thái Nguyên... có mức 48.000 đồng/kg, một vài khu vực 50.000 đồng/kg. Khu vực miền Trung, Tây Nguyên, giá lợn hơi khoảng 35.000-47.000 đồng/kg, tăng 5.000-8.000 đồng/kg so với cuối tháng 7 vừa qua. Tại miền Nam, giá lợn hơi cũng đạt mức giá 33.000-45.000 đồng/kg, tăng 6.000-8.000 đồng/kg so với cuối tháng 7...
Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản dự báo, trong những tháng cuối năm 2019, giá thịt lợn tiếp tục tăng, đặc biệt là dịp Tết Nguyên đán. Nguyên nhân do nguồn cung thịt lợn sụt giảm bởi ảnh hưởng từ bệnh Dịch tả lợn châu Phi.
Thời điểm này, bệnh Dịch tả lợn châu Phi đã phủ kín 63/63 tỉnh, thành phố với 4,5 triệu con lợn buộc phải tiêu hủy. Ngoài ra, hiện Trung Quốc dừng nhập khẩu thịt lợn của Hoa Kỳ và chuyển hướng nhập khẩu ở các nước khác, trong đó có Việt Nam...
QUỲNH DUNG
Phát triển chăn nuôi gia cầm: Cân nhắc quy mô hợp lý
Nguồn tin: Báo Hải Phòng
Theo báo cáo của Chi cục Chăn nuôi- Thú y TP. Hải Phòng, 8 tháng năm 2019, đàn gia cầm trong các hộ chăn nuôi đạt hơn 8,5 triệu con, tăng 11% so với cùng kỳ năm 2018. Việc phát triển quy mô đàn, tăng số lượng trong khi chưa lường trước hết những khó khăn khiến việc chăn nuôi gia cầm sẽ khó ổn định, bền vững…
Người dân xã An Tiến (An Lão) phát triển chăn nuôi gia cầm.
Giá gia cầm giảm, người chăn nuôi lãi ít
Theo phản ánh của một số người chăn nuôi, vào thời điểm này, mặc dù giá lợn nhúc nhích tăng nhưng giá gà có chiều hướng giảm. Giảm mạnh nhất là giá gà công nghiệp. Giá bán hiện nay chỉ dao động 25-26 nghìn đồng/kg. Giá gà ri-lai giảm nhẹ hơn. Anh Phạm Văn Mạnh ở xã Chiến Thắng huyện An Lão cho biết, lứa gà ri lai trước, gia đình xuất bán cho thương lái tại chuồng được 56-57 nghìn đồng/kg. Nhưng lứa gà vừa bán chỉ được 52-53 nghìn đồng/kg. Thời gian gần đây, một số hộ đàn lợn bị dịch tả lợn châu Phi làm thiệt hại nhiều đàn lợn ở các xã, huyện. Bà con tính nếu giá bán, người chăn nuôi sẽ tăng lợi nhuận, mỗi lứa gà sau khi trừ chi phí cũng có lãi 45-50 triệu đồng. Tuy nhiên, gần đây, giá gà giảm, khiến người chăn nuôi có lãi ít hơn. Người chăn nuôi lo lắng nếu gà cứ đà giảm giá tiếp, chăn nuôi gia cầm sẽ không có lãi.
Phó chủ tịch UBND huyện Kiến Thụy Phạm Phú Xuất cho biết, tổng đàn gia cầm của huyện có 57 nghìn con, 60 trang trại nuôi gia cầm với quy mô lớn và vừa. Trong mấy tháng gần đây, một số hộ chăn nuôi lợn bị dịch tả lợn châu Phi phải tiêu hủy đàn lợn, trong lúc phải chờ tái đàn đã tranh thủ chuồng trại để nuôi gia cầm, trong đó chủ yếu là nuôi gà. Tuy nhiên, do các hộ tự phát mở rộng nuôi gia cầm nên khó ổn định, lâu dài. Bên cạnh đó, việc sử dụng thịt gà trong bữa ăn hằng ngày thay thế thịt lợn chỉ có hạn. Một số hộ chăn nuôi gia cầm tăng quy mô đàn song không cân đối được cung, cầu thị trường. Sản phẩm từ một số vùng nuôi gia cầm nổi tiếng của các tỉnh Bắc Giang, Hưng Yên, Hải Dương…; nhập khẩu từ nước ngoài cũng tràn về bán tại địa phương, tăng sức cạnh tranh với gà nuôi tại các địa phương trên địa bàn thành phố… Các hộ chăn nuôi chủ yếu bán gà qua thương lái hoặc người mua nhỏ, lẻ; chưa vào được các siêu thị lớn hay cửa hàng kinh doanh nông sản, thực phẩm an toàn…
Mở hướng sản xuất bền vững
Vào thời điểm này, người chăn nuôi lợn chưa được tái đàn mặc dù dịch tả lợn châu Phi có diễn biến chậm hơn song nguy cơ tái phát dịch khá cao. Vì vậy, việc đầu tư vào chăn nuôi gia cầm là hướng thiết thực để ổn định phát triển chăn nuôi từ nay đến cuối năm 2019. Theo trưởng Phòng Nông nghiệp - Phát triển nông thôn huyện An Dương Bùi Xuân Khải, người chăn nuôi gia cầm phải bảo đảm an toàn cho đàn gia cầm không bị dịch bệnh thì sản xuất mới ổn định và có lãi. Muốn vậy, trong những tháng cuối năm 2019, thành phố nên hỗ trợ thêm cho các hộ chăn nuôi vắc xin phòng, chống các loại dịch bệnh khác bên cạnh vắc xin phòng chống cúm gia cầm. Bên cạnh đó, các khu giết mổ gia súc, gia cầm tập trung cần quy hoạch lại để bảo đảm đáp ứng yêu cầu lưu thông thịt gia cầm ra thị trường. Hiện, huyện An Dương đề xuất thành phố cho phép hình thành 2 khu giết mổ gia súc, gia cầm tập trung…
Thời gian tới, để bảo đảm việc phát triển đàn gia cầm không rơi vào tình trạng “cung vượt quá cầu”, Sở Nông nghiệp-Phát triển nông thôn, chính quyền các địa phương nên khảo sát lại quy mô đàn gia cầm, cơ cấu lại số lượng đàn nuôi cho phù hợp. Đặc biệt, cần chú ý quy hoạch vùng chăn nuôi gia cầm theo hướng tập trung, xa khu dân cư; giám sát chặt chẽ dịch bệnh trên đàn gia cầm. Tuyên truyền, vận động các hộ chăn nuôi gia cầm thận trọng trong việc mở rộng số lượng hoặc ồ ạt chuyển các chuồng trại chăn nuôi lợn thành chuồng nuôi gia cầm; thực hiện hướng chăn nuôi an toàn sinh học; tích cực liên kết sản xuất với doanh nghiệp; cửa hàng tiêu thụ sản phẩm sạch để bảo đảm đầu ra ổn định, dần khắc phục tình trạng giá gà bấp bênh, lên xuống thất thường…
Trưởng Phòng Kỹ thuật nông nghiệp Sở Nông nghiệp-Phát triển nông thôn Hải Phòng Nguyễn Hữu Quảng cho biết, trong lúc người chăn nuôi lợn chưa được tái đàn, để chăn nuôi gia cầm an toàn, đạt hiệu quả, người chăn nuôi cần có kỹ thuật chăn nuôi tốt, hướng đến hình thành chuỗi khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ. Hiện, trên địa bàn thành phố mới có Công ty CP giống gia cầm Lượng Huệ và các hộ sản xuất vệ tinh cho công ty này tổ chức sản xuất theo chuỗi.
Bài và ảnh: Hương An
Hiếu Giang tổng hợp