Nông dân thua lỗ gần 10 triệu đồng/công gừng
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Giá gừng tại nhiều địa phương tỉnh Hậu Giang hiện nay ở mức rất thấp. Tại huyện Vị Thủy, gừng tươi được nhiều nông dân bán cho thương lái chỉ còn 3.000 - 4.000 đồng/kg, đây là mức giá thấp nhất trong nhiều năm qua. Với mức giá này, mỗi công gừng, bà con thua lỗ gần 10 triệu đồng.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do năm trước giá gừng tăng cao lên mức 20.000 - 40.000 đồng/kg, nên nhiều nông dân “bung” diện tích để trồng gừng. Từ đó, diện tích tăng cao, sản lượng gừng nhiều trong khi nhu cầu tiêu thụ giảm dẫn đến giá giảm và đầu ra gặp khó. Để giảm bớt thua lỗ, nhiều nông dân không thu hoạch để chờ giá lên.
THU HIỀN
Nông dân lo lắng vì cây ớt chết hàng loạt
Nguồn tin: Báo Đồng Tháp
Những ngày này, trên những cánh đồng ớt thuộc địa bàn huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp, nông dân đang tất bật thu hoạch ớt vụ đông xuân 2015 - 2016. Tuy nhiên, nhiều hộ trồng ớt thuộc địa bàn khóm Phú Mỹ, thị trấn Thanh Bình đang rất lo lắng vì cây ớt bị chết hàng loạt.
Nông dân phải nhổ bỏ những cây ớt đã chết để tránh ảnh hưởng đến vụ sau
Theo nhiều hộ trồng ớt thuộc địa bàn khóm Phú Mỹ, dạo gần đây nhiều diện tích ớt đang vào thời điểm hơn 100 ngày thì đột nhiên chết. Số diện tích bị ảnh hưởng trên 1,5ha.
Gia đình anh Nguyễn Văn Thanh ngụ khóm Phú Mỹ, thị trấn Thanh Bình cho biết, vụ đông xuân này canh tác hơn 2.500m2 ớt, nhưng từ Tết Nguyên đán trở lại đây cây ớt cứ héo úa và chết dần.
Xót ruột, gia đình anh Thanh mua một số loại thuốc về xử lý kích thích rễ, diệt khuẩn và nhổ bỏ những cây bị chết tránh lây lan nhưng cũng không cứu vãn được. Đến nay, diện tích ớt bị chết tăng lên 2.000m2. Anh Thanh buồn bã nói: “Cây ớt bị chết hàng loạt khi đã cho thu hoạch 2 đợt (khoảng hơn 90 ngày). Sau đó ớt vẫn xanh tốt nhưng đột nhiên gặp nắng gắt lá bị héo khô và bị chết sau 10 ngày. Tôi nhổ ớt lên kiểm tra thì phần gốc và thân không phát hiện sâu hại hay côn trùng tấn công”.
Tương tự, gia đình anh Nguyễn Văn Hùng ngụ khóm Phú Mỹ cũng lâm vào hoàn cảnh khó khăn do ớt bị chết. Biết hiện tượng này không thể cứu vãn được, anh Hùng cùng gia đình cố gắng thu hoạch số ớt tươi còn lại. Anh Hùng tâm sự: “Tôi nghĩ cây ớt bị chết do những năm gần đây, nước lũ thấp khiến đất mất đi lượng phù sa, nên cây không phát triển tốt. Việc cây ớt bị chết gia đình tôi không thể lường trước được do xảy ra quá nhanh. Ban đầu, chỉ một vài cây bị chết nhưng dần lan rộng ra hơn nửa diện tích. Ớt chết cây gây thất th
u sản lượng khoảng 2 tấn ớt, tương đương hơn 25 triệu đồng”.
Theo Trạm Bảo vệ thực vật huyện Thanh Bình, vụ đông xuân 2015 - 2016, toàn huyện xuống giống hơn 30ha ớt. Trong đó, ớt đang giai đoạn 100 - 130 ngày chiếm hơn 23ha, số còn lại là giai đoạn 150 ngày trở lên.
Theo nhận định, số diện tích ớt chết phần lớn vào thời điểm cây 150 ngày mang trái. Khi đó nguồn nấm bệnh đã có sẵn trong đất ngay từ đầu vụ, gặp điều kiện thuận lợi bệnh phát triển. Triệu chứng nhận dạng bệnh là phần thân sát mặt đất có vết nấm tạo thành mảng trên bề mặt thân, làm phá hủy hệ thống mạch dẫn của cây khiến cho lá dưới bị vàng rồi lan dần lên các lá trên, cây héo dần rồi chết.
Nguyên nhân gây ảnh hưởng đến cây ớt có thể trong giai đoạn chuẩn bị xuống giống, nông dân không chú trọng nhiều khâu làm đất, không bón phân hữu cơ ngay từ đầu vụ. Phần lớn nông dân sử dụng nhiều phân hóa học khiến cây không kịp hấp thu và phát triển không bình thường, dẫn đến bệnh phát triển vào giai đoạn sau. Mặt khác, mật độ trồng khá dày đặc khiến sự phát triển của cây ớt không đồng đều.
Song song đó, giai đoạn cây ớt 150 ngày trở lên, cây đã già, chuẩn bị tàn nên đa số nông dân không quan tâm chăm sóc vì bón phân, phun thuốc bảo vệ thực vật cũng không tăng năng suất hay lợi nhuận. Nông dân chỉ tập trung thu hoạch ớt cho đến hết đợt trái và nhổ cây, xử lý đất chuẩn bị cho vụ tiếp theo.
Ông Lê Đức Hiền - Phó trưởng Trạm Bảo vệ thực vật huyện Thanh Bình cho biết: “Trong thời gian tới, ngành nông nghiệp huyện sẽ tập trung hướng dẫn nông dân chú trọng khâu chuẩn bị đầu vụ từ vệ sinh đồng ruộng, xử lý đất để diệt nấm bệnh, đến chọn hạt giống khỏe, sạch bệnh để canh tác. Trong quá trình canh tác, hướng dẫn người dân tạo sự thông thoáng cho cây ớt như lên liếp với độ cao phù hợp nhằm hạn chế ngập úng đối với những vùng trũng thấp. Khuyến cáo người dân phải theo dõi và kiểm tra đồng ruộng thường xuyên, nhất là khi vào mùa mưa để có những biện pháp xử lý kịp thời”.
Khánh Phan
Lúa “kiện” tôm
Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng
Trên địa bàn tỉnh Cà Mau hiện nay, tình trạng nông dân chuyển dịch tự phát đưa nước mặn vào vùng đất trồng lúa để nuôi tôm diễn ra phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro…
Những ngày gần đây, nhiều nông dân sản xuất lúa 2 vụ trên địa bàn xã An Xuyên (TP Cà Mau, tỉnh Cà Mau) gửi đơn đến cơ quan chức năng “tố” một số hộ dân tự ý đưa nước mặn vào đất trồng lúa để nuôi tôm. Việc làm này có nguy cơ phá vỡ vùng sản xuất nông nghiệp vốn đã tồn tại nhiều năm nay. Bà Châu Thị Trinh (một trong nhiều hộ dân ký đơn yêu cầu) ở ấp Tân Thời, xã An Xuyên, TP Cà Mau, phản ánh: “Trước tết mấy ngày, một số người đã lén phá đập ngăn mặn tại đầu kênh Ông Đại để lấy nước mặn vào nuôi tôm. Khi phát hiện con đập bị phá, UBND An Xuyên đã cử lực lượng xuống đắp lại. Tuy nhiên, sau đó con đập lại bị phá thêm lần nữa khiến đất của nhiều hộ trồng lúa bị nhiễm mặn. Quá bức xúc, tôi và các hộ dân làm đơn gửi các cơ quan chức năng đề nghị có biện pháp ngăn chặn và xử lý”. Còn tại khu vực kênh Bà Triệu (ấp 4, xã An Xuyên), trước đây khi mưa quá lớn gây ngập úng lúa, chính quyền địa phương đã đặt ống bọng cho nước thoát ra sông Bạc Ngưu. Sau khi thu hoạch lúa xong, một số hộ dân gần nơi đặt ống bọng đã bơm nước mặn vào để nuôi tôm và làm nước tràn sang khu vực lân cận nên đất lúa bị nhiễm mặn.
Người dân Cà Mau tự ý đào ao đưa nước mặn vào nuôi tôm trên đất lúa
Huyện Thới Bình (Cà Mau) cũng là một trong những điểm nóng về việc người dân tự ý đưa nước mặn vào khu vực trồng lúa để nuôi tôm. Không những thế, tại xã Tân Lộc Bắc (được chọn làm nơi thực hiện cánh đồng mẫu lớn của tỉnh Cà Mau) cũng bị người dân phá vỡ quy hoạch. Việc sản xuất lúa theo cánh đồng mẫu lớn đem lại nhiều cái lợi cho nông dân như: giảm giá thành sản xuất, được hỗ trợ về khoa học kỹ thuật, giống, phân bón… Tuy nhiên, nhiều hộ dân có diện tích trồng lúa đã “quay lưng” với cánh đồng mẫu lớn và tự ý đưa nước mặn vào ruộng để nuôi tôm.
Qua khảo sát thực tế, trong quá trình chuyển dịch tự phát không phải ai cũng thành công, như trường hợp bà Dương Thị Ráng (xã Biển Bạch Đông, huyện Thới Bình) sau hơn hai năm phá bỏ ruộng mía để nuôi tôm, bà Ráng cho biết: “Ban đầu cứ nghĩ nuôi tôm sẽ đem lại lợi nhuận cao hơn trồng mía. Tuy nhiên, tôi thất bại. Tôm nuôi được 1 - 2 vụ đầu có trúng nhưng gần đây thời tiết bất lợi nên tôm chết liên miên. Thêm nữa, khu vực này chủ yếu trồng lúa và mía nên nuôi tôm đan xen hiệu quả không cao. Chưa kể nhiều dịch bệnh xảy ra do ảnh hưởng môi trường nước, thuốc bảo vệ thực vật…”.
Theo quy hoạch, vùng Bắc Cà Mau gồm: huyện Thới Bình, U Minh và một phần huyện Trần Văn Thời là vùng sản xuất theo hệ sinh thái ngọt. Tuy nhiên, do hệ thống thủy lợi chưa được đầu tư hoàn thiện nên không đáp ứng được nhu cầu sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, những khu vực trồng lúa, nhất là nơi đất trũng, nhiễm phèn chỉ trồng được một vụ lúa nên nông dân chuyển sang hình thức sản xuất luân canh lúa - tôm và hiệu quả kinh tế mang lại cao hơn. Trước thực tế này, người dân cho rằng cần quy hoạch sát với thực tế nhu cầu sản xuất hiện nay và khi quy hoạch vùng sản xuất thì cần thiết đầu tư hệ thống thủy lợi phù hợp, đáp ứng nhu cầu sản xuất của dân, tránh tình trạng dân sản xuất tự phát.
Liên quan đến việc người dân tự ý đưa nước mặn vào vùng đất lúa để nuôi tôm, UBND tỉnh Cà Mau đã nhiều lần chỉ đạo xử lý. Mới nhất, đầu tháng 3-2016, ông Nguyễn Tiến Hải, Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, một lần nữa yêu cầu các huyện và cơ quan chuyên môn tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát để kịp thời phát hiện, ngăn chặn xử lý tình trạng tự phát đưa nước mặn vào vùng ngọt hóa, vùng sản xuất lúa hai vụ để nuôi tôm. Tiến hành điều tra, xác định, xử lý nghiêm đối với những đối tượng lôi kéo người dân tham gia.
Theo Sở NN-PTNT tỉnh Cà Mau, từ năm 2013 đến nay có trên 2.670ha được người dân chuyển đổi tự phát, trong đó đa số chuyển sang nuôi tôm. Điều đáng nói, diện tích chuyển đổi sản xuất tự phát cũng xảy ra tại cánh đồng mẫu lớn với gần 170ha.
NGỌC CHÁNH
Đắk Lắk: Hàng nghìn ha cà phê, hồ tiêu 'khát nước'
Nguồn tin: Báo Chính Phủ
Mặc dù chưa đến cao điểm mùa khô nhưng tình trạng khô hạn, thiếu nước sinh hoạt và sản xuất đã xảy ra tại nhiều địa phương của tỉnh Đắk Lắk với khoảng 10.000 ha cây trồng bị hạn, 5.300 hộ dân bị thiếu nước sinh hoạt. Theo nhận định đợt hạn hán này còn kéo dài trong 1 - 2 tháng tới với mức độ khốc liệt.
Hàng nghìn ha cà phê tại Đắk Lắk đang trong tình trạng thiếu nước tưới. Ảnh: VGP/Thế Phong
Nguồn nước suy giảm nhanh
Theo ghi nhận tại xã Ea Dăh (huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk), người dân trồng cà phê, hồ tiêu đang rất khó khăn về nguồn nước tưới. Tất tả kéo ống nước chống hạn cho cây, ông Lê Văn Tâm, người trồng cà phê tại đây cho biết, hạn hán kéo dài từ Tết Nguyên đán 2016 đến nay khiến nguồn nước trên sông, suối chảy qua địa bàn xã cạn kiệt, mực nước ngầm suy giảm mạnh gây khó khăn cho sản xuất, nhất là việc tưới tiêu cho cây cà phê, hồ tiêu.
“Gia đình tôi có 1,5 ha cà phê đang giai đoạn đơm trái, nếu không bảo đảm nước tưới, năng suất sẽ giảm mạnh, thậm chí có nhiều cây sẽ chết héo. Trong khi đó, do nắng hạn, sông Ea Dăh phục vụ tưới tiêu cho hàng trăm ha cây cà phê, hồ tiêu trên địa bàn xã đã cạn từ 10 ngày trước. Chúng tôi huy động máy bơm, đấu nối thêm đường ống tranh thủ vét nước vũng còn ứ đọng ở lòng sông để chống hạn cho cây, nhưng nguồn nước này chỉ duy trì được vài ngày”, ông Tâm lo lắng.
Trường hợp của gia đình ông Tâm cũng là tình trạng chung của nhiều hộ dân trồng cà phê, hồ tiêu trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Qua khảo sát tại các khu vực khác, người dân còn đầu tư hàng trăm triệu đồng để đào, khoan thêm giếng lấy nước, tuy nhiên không phải ai cũng may mắn tiếp cận được nguồn nước ngầm, có hộ khoan đến 3 - 4 địa điểm vẫn không đủ nước.
Còn tại huyện Krông Buk, không chỉ thiếu nước tưới tiêu cho cây trồng mà hàng nghìn hộ dân rơi vào cảnh thiếu nước sinh hoạt do hạn hán. UBND huyện Krông Buk cho biết hiện có 1.000 hộ dân thiếu nước sinh hoạt, tập trung chủ yếu ở các xã Ea Sin, Cư Pơng, Cư Né, Chư Kbô…
Nếu không bảo đảm nước tưới, năng suất cà phê sẽ giảm mạnh, thậm chí nhiều cây sẽ chết héo. Ảnh: VGP/Thế Phong
Trao đổi với phóng viên, bà Phạm Thị Thu Hiền, Chánh Văn phòng Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai - Tìm kiếm cứu nạn tỉnh Đắk Lắk cho biết: Tại Đắk Lắk, hiện nay dòng chảy các sông, suối ở mức rất thấp, nguồn nước ngầm, mực nước giảm sâu và lưu lượng nhỏ, dung tích các hồ chứa giảm nhanh. Dự kiến đến cuối tháng 3/2016, trên địa bàn Đắk Lắk sẽ có khoảng 250 hồ chứa nhỏ khô cạn và nhiều trạm bơm không còn nguồn để bơm tưới, nhiều vùng thậm chí không còn nước ngầm khai thác.
Theo báo cáo sơ bộ của các địa phương, đến nay toàn tỉnh Đắk Lắk có 9.272 ha cây trồng bị hạn, 5.300 hộ dân thiếu nước sinh hoạt. Tình trạng thiếu nước xảy ra chủ yếu đối với các hộ sử dụng nước từ giếng đào, giếng khoan do mực nước ngầm giảm nhanh. Tại địa bàn TP. Buôn Ma Thuột, do nguồn nước cạn kiệt, từ ngày 5/3 đã phải áp dụng lịch cấp nước luân phiên. Các địa phương đang bị khô hạn, thiếu nước nghiêm trọng gồm các huyện Ea H’leo, Krông Buk, Cư Mgar, Buôn Đôn...
Tăng cường quản lý nước
Theo nhận định của tỉnh Đắk Lắk, dự báo mức độ hạn hán trong vụ Đông Xuân năm 2015 - 2016 là hết sức khốc liệt. Dự kiến toàn tỉnh có khoảng 80.000 ha cây trồng bị hạn, trong đó khoảng 70.000 ha cà phê, hồ tiêu và 10.000 ha lúa nước; số hộ dân bị thiếu nước sinh hoạt khoảng 25.000 hộ.
Trong chuyến kiểm tra công tác chống hạn mới đây, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát đã đề nghị UBND tỉnh Đắk Lắk tăng cường phổ biến tình hình hạn hán nghiêm trọng đến các cấp ngành, địa phương và người dân để chủ động triển khai biện pháp ứng phó. Trọng tâm là tiếp tục tuyên truyền, vận động người dân sử dụng nguồn nước tiết kiệm, rà soát các nguồn nước để có biện pháp bảo vệ, chống thất thoát nước. Trong vụ Hè Thu tới, tỉnh cần chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu cây trồng ở những vùng thiếu nước sang trồng cây hoa màu, phát triển chăn nuôi.
Người dân nỗ lực chống hạn cho cây trồng. Ảnh: VGP/Thế Phong
Về phía tỉnh Đắk Lắk, các địa phương, đơn vị trên địa bàn đã triển khai nhiều biện pháp quản lý, điều tiết nguồn nước phục vụ sản xuất. Đồng thời, huy động nguồn lực trong nhân dân tích cực chống hạn, bảo vệ sản xuất và bảo đảm nước sinh hoạt.
Để ứng phó với nắng hạn được dự báo sẽ khốc liệt hơn trong thời gian tới, lãnh đạo UBND tỉnh đã chỉ đạo các địa phương, các sở, ngành, đơn vị triển khai vận hành công trình tưới tiết kiệm, khuyến cáo nhân dân chuyển đổi mùa vụ gieo trồng sớm, sử dụng giống cây ngắn ngày, chịu hạn hoặc chuyển đổi số diện tích lúa không bảo đảm nguồn nước sang cây trồng cạn, thực hiện phủ gốc hoặc phủ màng nilon nhằm hạn chế bốc hơi …
Đối với các khu vực khan hiếm nguồn nước, công tác chống hạn rất khó khăn, cần phải phân phối nguồn nước chống hạn ưu tiên theo thứ tự: Nước phục vụ sinh hoạt, nước uống cho gia súc gia cầm, nước tưới cho cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao. Khi nguồn nước quá khó khăn, có thể chỉ tưới cầm chừng để bảo vệ toàn bộ diện tích cây cà phê, hồ tiêu trong vùng không bị chết. UBND tỉnh chỉ đạo tuyệt đối không để xảy ra tình trạng người dân không có nước sinh hoạt.
Cuối tháng 2 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định hỗ trợ 85,1 tỉ đồng từ nguồn dự phòng ngân sách Trung ương năm 2015 cho 6 tỉnh khắc phục hậu quả hạn hán và xâm nhập mặn vụ Hè Thu năm 2015. Trong đó, tỉnh Đắk Lắk được hỗ trợ 22,4 tỉ đồng.
Thế Phong
Thuần hóa nhiều giống lúa chịu hạn, mặn
Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng
Hiện nay, tại ĐBSCL đã có khoảng 160.000ha lúa bị thiệt hại (tương đương 5.000 tỷ đồng) do hạn, mặn. Hạn, mặn sẽ tiếp túc gia tăng trong 1 - 2 tháng tới và tình hình này có thế tái diễn với mức đô khốc liệt hơn. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu, lai tạo các giống lúa có khả năng chống chịu với hạn, mặn được xem là lối ra cho người trồng lúa. Công việc này đã và đang được các nhà khoa học ở các viện, trường, các địa phương trong vùng âm thầm thực hiện trong nhiều năm qua.
Lúa thơm cũng thích nghi
Tại trang trại Vườn Me ở ấp Chợ Cũ, thị trấn Mỹ Xuyên (huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng), Anh hùng lao động - kỹ sư Hồ Quang Cua, nguyên Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Sóc Trăng cùng các cộng sự tất bật ra ruộng xem lúa, lại vào nhà quây quần bên các nồi cơm điện để so sánh chất lượng các giống lúa do mình lai tạo ra. Hơn 20 năm qua, kỹ sư Hồ Quang Cua cùng các đồng sự đã dày công sưu tầm và tiếp nhận các giống lúa thơm Khao Dawk Mali từ các nhà khoa học của Đại học Cần Thơ.
Từ đó, âm thầm tuyển chọn và lai tạo cho ra đời hàng chục loại lúa thơm mang thương hiệu ST (Sóc Trăng) nổi tiếng không chỉ trong nước mà còn vươn ra nhiều nước trong khu vực. Hiện tại, diện tích lúa thơm chiếm 1/3 diện tích gieo trồng của toàn tỉnh, tức khoảng 100.000ha, đưa Sóc Trăng trở thành địa phương đi đầu trong cả nước về sản xuất lúa thơm đặc sản. Kỹ sư Hồ Quang Cua cho biết: Mặc dù các giống lúa thơm được gieo trồng thời gian qua đã có sẵn gen chịu mặn, tuy nhiên trước những diễn biến bất lợi về thời tiết như hiện nay nên 5 năm gần đây, nhóm của ông điều chỉnh phương hướng nghiên cứu: Vẫn nghiên cứu giống lúa thơm, chọn tạo những giống chất lượng để nông dân bán giá cao nhưng đồng thời chú ý những tổ hợp lai tạo ra những giống lai có chu kỳ ngắn và mức độ chịu mặn tương đối cao để đảm bảo an toàn sản xuất. Hiện nay ông đang chọn lọc khoảng 20 dòng của một tổ hợp lai với những phẩm chất ưu việt.
“Về nghiên cứu, chúng tôi vẫn tiếp tục chọn tạo các giống lúa thơm mới và xác định hướng nghiên cứu rất rõ ràng, đó là những giống lúa thơm có chu kỳ ngắn dưới 100 ngày. Thứ hai, những giống lúa này phải đảm bảo tiêu chí chất lượng để có thể phù hợp với thị trường tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu để nông dân có thu nhập cao, còn về độ mặn thì hầu hết lúa thơm này đều thừa hưởng gen lúa Khao Dawk Mali của Thái Lan, nên chịu đựng độ mặn 3 phần ngàn không thành vấn đề”, kỹ sư Hồ Quang Cua cho biết.
PGS-TS Võ Công Thành (giữa) và niềm vui lai tạo thành công giống lúa chịu mặn trên 12‰. Ảnh: TẤN ĐẠT
Chịu được mặn trên 12‰
Hiện nay, ĐBSCL có một bộ giống lúa chịu được mặn ở nồng độ 4‰ - 8‰ giai đoạn cây con, nhưng điều quan trọng là nông dân cần giống lúa chịu mặn trong giai đoạn trổ, cuối vụ. Theo PGS-TS Mai Thành Phụng, nguyên Trưởng bộ phận Thường trực phía Nam Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, cái khó là trong số những giống lúa chống mặn, kháng mặn do các viện, trường, địa phương nghiên cứu, lai tạo… đa số chịu được mặn ở giai đoạn đầu, tức giai đoạn mạ, có rất ít giống lúa chịu được mặn giai đoạn trổ cho đến chín. Hầu hết các giống lúa hiện có, khi trổ đều chịu độ mặn dưới 2‰. Nếu bơm nước mặn hơn 2‰ vào, lúa bị thiệt hại năng suất ít nhất 30%, thậm chí 50% trở lên. Do đó, trong tình hình hiện nay cần phải nghiên cứu, lai tạo ra những giống lúa chẳng những chịu được độ mặn cao ở giai đoạn trổ mà còn được thị trường chấp nhận.
Tại ĐBSCL, thời gian qua nhiều địa phương đã phối hợp với các nhà khoa học ở một số viện, trường nghiên cứu lai tạo một số giống lúa chịu được độ mặn từ lúc trổ cho đến khi chín. Cách đây 4 năm, huyện Hồng Dân (Bạc Liêu) đã liên kết với Trường Đại học Cần Thơ nghiên cứu, thử nghiệm giống lúa chịu mặn. Đến nay huyện đã có 2 giống lúa gieo sạ ở những vùng phèn mặn cao sản xuất. Trong đó giống lúa Một Bụi Đỏ cải tiến lần 2 được canh tác từ 6.000 - 15.000ha/vụ, năng suất khá cao gần 6 tấn/ha. Giống này có khả năng chịu mặn từ 6‰ - 8‰ vào giai đoạn đầu và giai đoạn cuối vụ chịu mặn từ 5‰ - 6‰. Riêng giống lúa Sỏi có thời gian sinh trưởng từ 95 - 110 ngày với khả năng chịu mặn giai đoạn đầu rất cao trên 10‰, giai đoạn trổ đến chín chịu mặn 4‰ - 5‰.
Theo PGS-TS Võ Công Thành, Trưởng bộ môn Di truyền giống nông nghiệp (Khoa nông nghiệp và sinh học ứng dụng - Trường Đại học Cần Thơ), ông cùng các cộng sự vừa nghiên cứu thành công một giống lúa mới. Qua trồng thử nghiệm ở huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau, giống lúa này chịu được độ mặn 12,7‰ ở giai đoạn cuối, có thể sống thiếu nước trong 15 ngày và bị ngập khoảng 1 tuần. Nhiều địa phương chịu tác động của hạn - mặn đã chủ động chuyển đổi một số cây trồng cho phù hợp với điều kiện thiếu nước ngọt hiện nay. Song trên diện rộng, diện tích đất trồng lúa vẫn chiếm cao nhất trong sản xuất nông nghiệp của vùng (với khoảng 1,6 triệu ha và mỗi năm sản xuất 3 vụ/4 triệu ha). Chính vì vậy, việc lai tạo được “giống lúa siêu chịu mặn” ở ngưỡng trên 12‰ đáng gọi là kỳ tích. Nghiên cứu này cần được ở rộng để có thể sản xuất nhân rộng nguồn lúa giống cho nông dân sản xuất để thích ứng với biến đổi khí hậu đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất của vựa lúa ĐBSCL.
PHONG TẤN - VĨNH TƯỜNG
Bát Xát (Lào Cai): Người dân không thu hoạch mủ cao su vì giá thấp
Nguồn tin: Báo Lào Cai
Năm 2006, ông Hoàng Mộc Lan, thôn Châu Giàng, xã Bản Qua (Bát Xát, Lào Cai) đầu tư gần 1 tỷ đồng san gạt mặt bằng, trồng 12 nghìn cây cao su. Giống cây cao su được ông Lan mua từ huyện Hà Khẩu (Trung Quốc), dễ trồng và chăm sóc, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu ở Bản Qua nên sinh trưởng và phát triển tốt.
Ông Lan không dám thu hoạch mủ cao su vì giá xuống thấp.
Sau 9 năm trồng và chăm sóc, năm 2014, gia đình Hoàng Mộc Lan thu hoạch được 2 tấn mủ đầu tiên, với giá bán 30 nghìn đồng/kg. Năm 2015, giá mủ cao su bán cho thương lái Trung Quốc giảm mạnh, chỉ từ 8 – 9 nghìn đồng/kg, nên gia đình ông Lan không dám thu hoạch mủ. “Nếu năm 2016 giá mủ cao su vẫn giữ ở mức thấp, gia đình sẽ không thu hoạch mủ cao su, vì số tiền thu được sẽ không đủ để thuê nhân công, mua phân bón bổ sung cho cây…” – ông Lan cho biết.
Hiện, trên địa bàn xã Bản Qua có nhiều hộ dân trồng cao su tự phát, với số lượng hàng nghìn cây chuẩn bị đến thời kỳ thu hoạch mủ. Trước tình trạng giá mủ cao su thấp, người dân đang rất lo lắng.
TẤT ĐẠT
Trại nấm mỡ triệu đô của đôi vợ chồng Việt kiều
Nguồn tin: VnExpress
Được Chính phủ Canada vinh danh là người trồng nấm mỡ số một, khi có tuổi, vợ chồng ông Tăng Thành Đức quyết định về Việt Nam và chọn xã N’thôn Hạ ở Lâm Đồng mở trại nấm kiểu mẫu để nông dân và doanh nghiệp học tập cách làm.
Ông Tăng Thành Đức và vợ là bà Huỳnh Thị Nghiêm định cư ở Canada năm 1981. Ông Đức vốn tốt nghiệp ngành cơ khí trước 1975. Với kiến thức chuyên môn sẵn có nên khi định cư ở Canada, ông Đức đi làm cho hãng xe GMC, nhưng chỉ 4 năm sau ông bỏ việc chuyển qua trồng nấm mỡ và nhanh chóng trở thành nông gia số một tại đây trong lĩnh vực này.
Bà Huỳnh Thị Nghiêm cho biết, vợ chồng bà người gốc Sài Gòn, có chung với nhau 6 người con, nay đã trưởng thành và đều đang sinh sống tại Canada. Thời hoàng kim với nghề làm nấm của gia đình là vào những năm 1996 - 1997, lúc đó vợ chồng bà sở hữu 3 trang trại trồng nấm mỡ tại Canada, với diện tích gần 100 hecta. Lúc đó ông Đức là Chủ tịch Hội những người trồng nấm mỡ nổi tiếng Canada và được Chính phủ trao tặng danh hiệu người trồng nấm mỡ số một vì trang trại của gia đình đứng đầu về cả sản lượng và chất lượng.
Nấm mỡ, hay còn gọi là nấm trắng, có hình thù đặc trưng cả cuống và mũ nấm đều trắng toát và có hình tròn như nửa quả cầu, đường kính 3 - 8cm, ưa khí hậu mát mẻ, giai đoạn phát triển hệ sợi cần khoảng 24 - 28 độ C và giai đoạn ra nấm cần lạnh (từ 15 đến 18 độ C).
Ông Tăng Thành Đức tâm sự, trước đây vợ chồng ông thường về Việt Nam để làm từ thiện và đi chùa, bản thân ông nhận thấy nông nghiệp Việt Nam vẫn còn nhiều tiềm năng nhưng có phần hạn chế về trình độ phát triển. Từng đi rất nhiều nơi trong nước, nhưng cuối cùng ông chọn xã N’thôn Hạ, thuộc huyện Đức Trọng tỉnh Lâm Đồng để sinh sống. Nơi đây khá xa trung tâm huyện và dân cư phần lớn là người dân tộc bản địa nhưng có khí hậu mát mẻ, trong lành, yên bình và phù hợp để phát triển cây nấm mỡ.
Năm 2010, vợ chồng ông Đức tiến hành mua 5 hecta đất ở xã N’thôn Hạ, sau đó lập Công ty Hoa Sen và xin giấy phép đầu tư trồng nấm mỡ. Dự án được tỉnh Lâm Đồng ủng hộ vì trước đó nhiều công ty của Nhật và Đài Loan đã đầu tư trồng ở Lâm Đồng nhưng chưa thành công. Riêng ông nhận thấy, ở miền Bắc nông dân có làm nấm mỡ nhưng ở dạng thủ công nên chỉ tiêu thụ nội đia và khó được các thị trường lớn chấp nhận. Còn tại miền Nam gần như chưa có nơi nào sản xuất, trong khi thị trường nấm mỡ trên thế giới đang rộng mở.
"Canada đất rộng nhưng có chưa tới 30 triệu dân. Hội những người trồng nấm ở đây có trên 60 người chủ, mỗi ngày sản xuất ra hàng nghìn tấn, chủ yếu xuất khẩu sang Mỹ và một số thị trường khác", ông Đức nói và giải thích sở dĩ các nông gia tại đây tập trung phát triển cây nấm mỡ vì đây là loại nấm cao cấp, được các nhà hàng Mỹ ưa chuộng.
Ông Đức phải ghi chú các hướng dẫn cụ thể cho các công nhân vận hành máy.
Theo ông Đức, năm 2010, ông nhận được giấy chứng nhận đầu tư trồng nấm mỡ nhưng mãi đến tháng 7/2014, vợ chồng ông mới bắt tay vào sản xuất. Tỉnh Lâm Đồng có lúc tưởng vợ chồng ông không triển khai dự án nên nhiều lần đốc thúc và tham quan thực tế thì thấy công việc chuẩn bị trang trại vẫn rất tích cực. Trên thực tế, ông Đức chỉ muốn làm dự án này để chuyển giao mô hình và kỹ thuật vì khu sản xuất của ông hiện chưa tới 3.000m2, chỉ bằng một phần rất nhỏ so với trang trại ở Canada. Với chuyên môn là một kỹ sư cơ khí, trong suốt 4 năm đó, ông Đức miệt mài làm việc, tự tay làm ra những chiếc máy công cụ và nhà xưởng bằng chính sắt thép mua tại địa phương.
Giai đoạn thi công nhà sản xuất nấm, ông Đức thuê thêm 3 thợ hàn phụ. Sau khi ông đo vẽ, ra sắt, thợ hàn cứ việc theo chỉ dẫn để thực hiện từng chiếc máy. Ông chỉ về Canada mua những chiếc đồng hồ đo nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm, sức gió… và bộ điều khiển trung tâm, do đó giá thành giảm một nửa.
Theo tính toán của ông Đức, dây chuyền vận hành trại nấm của ông ở N’thôn Hạ tốn một triệu USD. Tuy nhiên, do diện tích cả khu sản xuất và chứa nguyên liệu chỉ rộng chưa tới 3.000m2 nên nhiều loại máy móc hoạt động chưa hết công suất. Hiện tại trại nấm sử dụng 4 lao động thường xuyên tại địa phương, sản lượng nấm đạt 10 tấn mỗi tháng, với giá bán tại trại là 100.000 đồng một kg. Ông Đức cho biết, sản lượng có thể đạt tới 15 tấn mỗi tháng mà chất lượng vẫn đảm bảo nếu dùng các biện pháp kỹ thuật, nhưng do bạn hàng tìm đến ông chỉ chừng đó nên ông chưa tăng sản lượng.
"Vợ chồng tôi thực hiện dự án này với mục đích chuyển giao kỹ thuật, nên khi trại nấm đi vào hoạt động, nhiều bà con địa phương tới tham quan, tôi rất mừng và hy vọng họ sẽ làm theo được, nhưng thực tế không phải vậy. Để vận hành và biết cách làm đòi hỏi người trồng phải có trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên vì cần phải xem được các bảng ghi chép, công thức hoá học, thành phần hoà trộn", ông Đức chia sẻ và cho biết thêm, ngay cả 4 công nhân của ông dù làm việc rất tốt, nhưng vẫn phải chỉ như học thuộc lòng khi vận hành hệ thống máy, còn đến khâu đòi hỏi kiến thức, kỹ thuật thì họ không làm được.
Vì áp dụng công nghệ, nên công việc tại trang trại khá nhẹ nhàng, ông Đức và 2 công nhân có thể vận chuyển 60 tấn giá thể vào giàn trồng nấm trong thời gian chỉ một buổi, sau đó chỉ việc vận hành máy móc.
Theo nhận định của ông Đức, ở Việt Nam có nhiều nhà đầu tư dư vốn để thực hiện các dự án thế này, nhưng họ chưa thực sự đam mê, hoặc còn dè dặt về khâu kỹ thuật. Còn các hộ gia đình cũng khó liên kết thành tổ hợp để làm thành dự án công nghiệp công nghệ cao một cách bài bản. Thời gian trước, một đoàn ở Củ Chi lên tham quan và đề nghị chuyển giao kỹ thuật làm nấm rơm, nhưng ông Đức trả lời nấm rơm rất dể làm và cả nước đã làm, nên khuyên nên làm dự án nấm mỡ theo công nghệ Canada của ông. Dù đoàn Củ Chi rất tâm huyết và tiếp tục liên lạc một thời gian, cuối cùng phải dừng lại vì không có vốn…
Tiến sĩ Lê Xuân Thám, Giám đốc Sở Khoa học công nghệ tỉnh Lâm Đồng nhận định, trại nấm của ông Tăng Thành Đức là một trại nấm có kỹ thuật tiến tiến nhất ở Việt Nam hiện nay. Sản phẩm nấm ở đây không chỉ đạt tiêu chuẩn VietGap mà chất lượng tương đương với loại nấm mỡ sản xuất tại Canada đang được nhiều nước nhập khẩu
Riêng vợ chồng ông Đức cho biết, sở dĩ họ chọn Lâm Đồng để mở trại nấm, ngoài lý do khí hậu thích hợp, ở Đà Lạt còn có Viện nghiên cứu hạt nhân. Khi bắt tay vào làm, vợ chồng ông đã liên hệ với Viện để mua giống nấm mỡ có nguồn gốc Bắc Mỹ. Hiện mỗi tháng 2 lần, vợ chồng ông Đức lại lái xe 50km lên Viện để lấy giống nấm về gieo trồng, mỗi lần trên 300kg. Giá ở Viện hạt nhận giao là 40.000 đồng một kg. Còn tại Canada thì khâu này rất thuận tiện vì có nhiều công ty chuyên chung cấp giống chuyên nghiệp. Các chủ trang trại chỉ việc đặt hàng, báo ngày giờ cụ thể sẽ được giao hàng tận nơi.
Quốc Dũng
Tưới nhỏ giọt – công nghệ thích ứng với hạn hán
Nguồn tin: Báo An Giang
Với ưu thế là tiết kiệm nước, tiết kiệm nguồn nhân lực, rút ngắn thời gian tưới, hoa màu không đổ ngã… công nghệ tưới phun, tưới nhỏ giọt của Israel đang được nông dân đẩy mạnh áp dụng, góp phần chống hạn hiệu quả cho cây trồng.
Tiết kiệm
Anh Nguyễn Đức Phương (ấp Thạnh Nhơn, xã Bình Thạnh, Châu Thành, An Giang) sản xuất 8.000m2 rẫy, chủ yếu trồng cải bắp, cải dún, ớt, ngò rí... Đây là những loại cây trồng cần tưới nước thường xuyên nhưng khi tưới, giọt nước tưới phải có hạt rất mịn và nhỏ để không làm cho cây đổ ngã. Trước đây, khi tới kỳ tưới nước cho rẫy, anh Phương dùng máy đuôi tôm gắn bơm 2 vòi để tưới. Bình quân mỗi ngày, anh tốn hết 5 lít xăng và 2 lao động. Mỗi lao động thuê tưới rẫy, anh phải trả tiền công 100.000 đồng/ngày, cộng với tiền xăng hơn 300.000 đồng/ngày. Chi phí cao dẫn đến giá thành sản xuất tăng nhưng khi thu hoạch, gặp phải tình trạng “thừa hàng, dội chợ” thì xem như lỗ nặng. “Hạ giá thành sản xuất đối với các mặt hàng đồ rẫy là vấn đề sống còn của nông dân chúng tôi. Kể từ khi có công nghệ tưới phun hay tưới nhỏ giọt, giá thành sản xuất ra sản phẩm của nông dân vùng này giảm xuống hơn phân nửa nên sức cạnh tranh của sản phẩm rất tốt. Nếu gặp phải tình trạng “thừa hàng, dội chợ’, nông dân lỗ cũng không nhiều. Phương pháp này giúp nông dân tiết kiệm rất nhiều thứ” – anh Phương khẳng định.
Lắp đặt tưới nhỏ giọt 1 lần, sử dụng trên 8 năm mới thay dây
Vẫn trên diện tích 8.000m2 rẫy của mình, nếu trước đây anh Phương phải tốn hơn 300.000 đồng mỗi ngày thì nay chi phí đó giảm xuống còn 84.000 đồng. Thấy cách làm của anh mang lại hiệu quả cao, nông dân vùng này đã áp dụng theo, vì vậy sản xuất ngày càng hiệu quả. “Bà con nông dân vùng này đã áp dụng triệt để công nghệ tưới phun, tưới nhỏ giọt cho cây cam xoàn và cây xoài 3 màu, mang lại hiệu quả rất cao. Thứ nhất là tiết kiệm được một lượng nước rất lớn. Thứ hai, thời gian tưới được rút ngắn (chỉ có 15 phút) nhưng nước thấm sâu vào rễ cây, làm cho cây tươi tốt. Áp dụng công nghệ này, giá thành sản xuất còn dưới 1/3 so với trước, từ đó sản phẩm có sức cạnh tranh cao trên thị trường. Đây là công nghệ mà Hội Nông dân khuyến khích bà con áp dụng” – ông Bùi Thanh Cần, Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã An Thạnh Trung (Chợ Mới) nhấn mạnh.
Dễ thực hiện
Hiện nay, giá thành lắp đặt hệ thống tưới phun cho 1.000m2 rẫy chỉ 1,5 triệu đồng nhưng thời gian sử dụng được 8 năm. Nông dân các địa phương trong tỉnh đang đẩy mạnh áp dụng công nghệ này cho cây trồng, nhất là trong thời điểm hạn hán như hiện nay. “Mỗi công rẫy, chúng tôi sử dụng 4 bành dây. Mỗi bành dây dài 100m, đường kính ống 16mm, bề dầy thành ống 1,2mm, áp suất nước là 4 bar. Dây màu đen và chống được tia cực tím nên rất bền. Trên diện tích 1.000m2, chúng tôi phân ra làm 4 làn để tưới. Trên ống dây, nhà sản xuất đục 3 lỗ để nước phun ra. Khi dây được bơm nước căng lên thì nước bắt đầu phun ra 2 bên, giọt nước vừa nhỏ lại vừa đều. Mỗi lao động có thể chăm sóc được từ 2 – 3 héc-ta rẫy. Công nghệ này dễ thực hiện, tính tiện ích rất cao” – ông Trần Thanh Nam (xã Khánh Hòa, Châu Phú), thông tin.
Lắp đặt một lần nhưng thời gian sử dụng khoảng 8 năm giúp giá thành và chi phí sản xuất của nông dân giảm đáng kể. Công nghệ này đã thực sự có ý nghĩa khi hiện tượng El Nino còn đang tiếp diễn, giúp cây trồng chống được hạn. “Cái quan trọng của công nghệ này là vừa tiết kiệm, lại vừa dễ thực hiện. Đây là mô hình nông dân cần nhân rộng để giảm chi phí sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Từ đó, chúng ta mới có thể cạnh tranh được trong bối cảnh hội nhập như hiện nay” – ông Trần Thành Tài (xã Vĩnh Mỹ, TP. Châu Đốc) khẳng định.
“Năm nay đại hạn, nhiệt độ môi trường tăng cao, lượng nước bốc hơi rất lớn, số lần tưới cho 1 vụ trồng tăng lên từ 5 – 6 cữ nước làm phát sinh thêm chi phí. Giá thành sản xuất rau xanh hoặc các loại cây trồng khác cũng tăng lên, sản phẩm khó cạnh tranh trên thị trường. Nhờ công nghệ tưới nhỏ giọt đã giúp tiết kiệm được nhiều thứ, nên giá thành sản phẩm thấp nhưng chất lượng rau lại tăng lên, sản phẩm rất dễ tiêu thụ” – ông Dương Văn Ten (xã Kiến An, Chợ Mới) phân tích.
MINH HIỂN
U Minh (Cà Mau): Hơn 13.000 ha lúa bị thiệt hại
Nguồn tin: CTV Cà Mau
Theo Phòng NN&PTNT huyện U Minh (Cà Mau): do ảnh hưởng của nắng hạn gay gắt, trên địa bàn huyện đã có hơn 13.000 ha lúa bị thiệt hại.
Thiệt hại được ghi nhận tại tất cả các xã, thị trấn trên địa bàn; trong đó, xã Nguyễn Phích là xã có diện tích lúa bị thiệt hại nặng nhất với gần 3.500 ha, kế đến là xã Khánh Tiến với hơn 3.200 ha. Trong hơn 13.000 ha lúa thiệt hại có đến 4.500 ha thiệt hại từ 30 đến 70%; trên 9.300 ha thiệt hại từ 70 đến 100%.
Phòng NN&PTNT huyện U Minh đã rà soát, thống kê diện tích lúa bị thiệt hại theo chỉ đạo của UBND tỉnh nhằm kịp thời hỗ trợ cho người dân khôi phục hoạt động sản xuất./.
PV: Diễm My
Tăng độ màu mỡ cho đất từ rơm, rạ
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Với sản lượng trên 20 triệu tấn lúa/năm, mỗi năm khu vực ĐBSCL có trên 20 triệu tấn rơm rạ. Rơm rạ là nguồn phụ phẩm giá trị, góp phần tăng lợi nhuận cho nông dân nếu được thu gom, khai thác, sử dụng đúng cách. Rơm rạ ở ĐBSCL chủ yếu được sử dụng trong chăn nuôi, làm nguyên liệu trồng nấm, ủ gốc cây trồng, dùng làm vật liệu chèn lót vận chuyển củ, quả, làm phân bón... Theo Tiến sĩ Martin Gummert, Chuyên gia Nghiên cứu cao cấp (Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế IRRI), hiện nay, việc thu hoạch lúa cơ bản tại Việt Nam nói chung và vùng ĐBSCL nói riêng chủ yếu sử dụng máy gặt đập liên hợp. Rơm rạ sau thu hoạch được xả ngay trên đồng nên khó thu gom và nông dân thường có thói quen đốt đồng. Việc làm này đã gây nên những tác động tiêu cực đến môi trường như ô nhiễm môi trường, gây ra hiệu ứng nhà kính và ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Trình diễn máy thu gom rơm tại Viện Lúa ĐBSCL. Ảnh: CTV
Theo phân tích của các nhà khoa học, trong rơm rạ có chứa nhiều chất dinh dưỡng, nếu nguồn rơm rạ được vùi trả lại cho đất sẽ làm gia tăng năng suất lúa và độ màu mỡ của đất theo thời gian. Tuy nhiên, rơm rạ tươi chôn vùi vào trong đất sẽ dễ gây ngộ độc hữu cơ cho lúa nếu xuống giống sớm do rơm rạ không có thời gian để phân hủy. Ngoài ra, nếu đốt rơm, rạ trực tiếp trên đồng ruộng, các chất hữu cơ trong rơm rạ và trong đất sẽ biến thành các chất vô cơ và chỉ cung cấp một lượng chất dinh dưỡng rất nhỏ cho đồng ruộng. Trong khi đó, việc đốt đồng sẽ làm một lượng lớn nước trong đất bị bốc hơi, đồng ruộng bị khô kiệt, đất trở nên chai cứng và khô cằn.
Nhằm hạn chế tình trạng đốt rơm ngay trên đồng do khó thu gom và tận dụng nguồn rơm phụ phẩm, nhiều doanh nghiệp đã nghiên cứu, chế tạo các loại máy móc, thiết bị dùng để thu gom rơm, như: DNTN Tư Sang 2 (Tiền Giang), Cơ sở Cơ khí Hai Tính (An Giang), Công ty TNHH MTV Cơ khí nông nghiệp Phan Tấn (Đồng Tháp), Công ty TNHH Thương mại-Sản xuất - Đầu tư Giang Lan (Nhà phân phối của IHI STAR Machinery Corporation - Nhật Bản tại TP Hồ Chí Minh), Công ty Yanmar (Việt Nam)... Các loại máy thu gom rơm có khả năng vận hành trên đồng ruộng với tốc độ từ 3 - 8km/h, cuộn rơm với khối lượng từ 12 - 18kg/cuộn, giá bán từ 153 - 689 triệu đồng/máy. Khi đó, nông dân có thể đầu tư máy để làm dịch vụ thu gom rơm và bán nguồn rơm đã thu gom cho các đơn vị có nhu cầu sử dụng. Hiện nay, các nhà khoa học và các doanh nghiệp kinh doanh máy thu gom rơm cũng mong muốn đẩy mạnh chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật, tổ chức trình diễn các mẫu máy thu gom rơm, cuộn rơm phù hợp với điều kiện sản xuất. Từ đó, khuyến cáo người dân sử dụng có hiệu quả máy móc và tận dụng tốt nguồn rơm thu gom được.
Phó Giáo sư - Tiến sĩ Dương Văn Chín, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Định Thành (DTARC)- Tập đoàn Lộc Trời, chia sẻ: Một trong những giải pháp để trả lại độ màu mỡ cho đất là tận dụng nguồn rơm sẵn có trên đồng ruộng đúng cách. Bởi lẽ, nếu rơm không đưa tập trung về để trồng nấm hoặc chăn nuôi thì giải pháp khả thi khác là biến rơm rạ thành phân bón tại ruộng, gia tăng độ phì của đất, cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng. Do đó, trong quá trình cày xới chôn vùi rơm rạ, làm đất cho vụ sau, nông dân có thể phun nấm trichoderma nhằm giúp phân hủy rơm rạ hoai mục nhanh chóng, giảm ngộ độc hữu cơ, tăng độ phì cho đất, giúp giảm lượng phân bón sử dụng và chi phí sản xuất.
THANH ĐÌNH
Thích - trồng, chán - bỏ (!?)
Nguồn tin: Báo Công Thương
Hàng chục năm qua, hiện tượng trồng gì, chặt gì theo “tâm lý đám đông” đã để lại nhiều bài học cay đắng cho nông nghiệp Việt Nam. Nhưng chừng đó vẫn không đủ để thức tỉnh bao người nông dân hiện đang chặt cây thế mạnh để chạy theo “mốt” trồng chanh.
Nhiều người dân ở huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai và một số vùng lân cận đã hối hả chặt cây cà phê để trồng chanh dây. Lãnh đạo huyện này cho biết, chỉ từ đầu năm 2016 đến nay, diện tích chanh dây đã tăng thêm 50 ha và có xu hướng tăng mạnh trong thời gian tới. Đổi lại, hàng chục hecta cà phê của Mang Yang đã bị đốn hạ. Huyện Mang Yang chỉ là một trong những ví dụ điển hình về việc người dân từ bỏ cà phê - cây loại cây trồng thế mạnh của đất nước, vốn đã mệnh danh là cây tiền tỷ ở Tây Nguyên.
Câu chuyện này cũng đang diễn ra tại những miệt vườn ở Đồng bằng sông Cửu Long. Gần đây, giá chanh không hạt lên cao ngất ngưởng đã khiến nhiều nông dân chặt nhãn, chôm chôm để chuyển sang trồng giống chanh này. Theo các nhà vườn, với giá chanh ở mức 20.000 đồng/kg, mỗi ha sẽ đem về thu nhập trên 150 triệu đồng.
Thấy “ngon ăn”, hàng loạt nhà vườn ở miền Tây đua nhau tăng diện tích. Long An và Tiền Giang là 2 tỉnh có diện tích trồng chanh dẫn đầu khu vực với gần 5.000 ha mỗi tỉnh. Tại Bình Phước, thời gian qua đã có tới hơn 1.800 ha cao su bị chặt bỏ để chuyển sang trồng các loại cây trồng khác như điều, cây ăn trái…
Tuy nhiên, các vùng trồng mới đều có một điểm chung: Đầu ra của các loại trái cây này phụ thuộc hoàn toàn vào thương lái Trung Quốc. Nếu nhìn lại vài năm qua, chuyện thương lái Trung Quốc tranh mua nông sản, đẩy giá lên cao vút rồi đột ngột biến mất, khiến cây và người cùng “ngẩn ngơ” cũng diễn ra hầu hết ở các địa phương kể trên.
Lỗi có thể đổ cho thị trường lên xuống, đổ cho người nông dân chỉ mải làm ăn theo tâm lý “bầy đàn”, nhưng trách sao được khi bà con luôn ở thế “thân cô thế cô”, thiếu “vòng tay” che chở của nhà nước trong bảo đảm quy hoạch; vắng “hơi ấm” sẻ chia của doanh nghiệp.
Cây ngắn ngày bỏ đi không khó, nhưng cây công nghiệp lâu năm như cà phê, cao su, chặt rồi trồng bao giờ mới lại? Đầu tháng 3/2016, các nhà sản xuất lốp xe thế giới đã lên tiếng dự báo giá cao su sẽ tăng cao trở lại do thiếu hụt nguồn cung. Lúc đó, nông dân Việt có kịp trồng cây mới và doanh nghiệp có đủ hàng để xuất?
Diễm Phương
Trồng vải thiều VietGAP ở Đông Triều (Quảng Ninh)
Nguồn tin: Báo Quảng Ninh
Trồng vải thiều theo hướng VietGAP nhằm tạo ra sản phẩm quả vải có năng suất, chất lượng cao để nâng cao giá trị, đồng thời phát triển vùng sản xuất vải thiều bền vững là mục tiêu của TX Đông Triều (Quảng Ninh). Từ tháng 4-2015 mô hình này đã được áp dụng quy trình kỹ thuật sản xuất theo hướng VietGAP tại xã Bình Khê.
Vườn vải thiều của ông Vũ Văn Túc (thôn Đồng Đò, xã Bình Khê, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh) được thâm canh theo tiêu chuẩn VietGap.
Thôn Đồng Đò, một trong những thôn có số hộ cũng như diện tích trồng vải thiều lớn nhất của xã Bình Khê được thị xã chọn làm mô hình thí điểm. Cả 41 hộ nông dân trong thôn với hơn 20ha cây vải được thị xã hỗ trợ 50% chi phí phân bón, thuốc trừ sâu; được tham gia các lớp tập huấn chuyển giao KHKT từ khâu chăm sóc, tỉa cành để vải ra hoa, ra quả đúng thời điểm, đến cách bón phân, phun thuốc trừ sâu, kỹ thuật thu hái cũng như bảo quản, để sản phẩm có chất lượng cao nhất. Ông Vũ Văn Túc, một trong những hộ nông dân trồng vải lâu năm và có nhiều kinh nghiệm nhất của thôn Đồng Đò và xã Bình Khê, tham gia mô hình thí điểm VietGAP, cho biết: Khi mô hình trồng vải theo tiêu chuẩn VietGAP được triển khai, gia đình rất phấn khởi. Mặc dù có kinh nghiệm trong thâm canh cây vải, nhưng việc ứng dụng KHKT vào chăm sóc vải hầu như chưa có. Vì thế, đây là cơ hội để mọi người nắm bắt được những tiến bộ kỹ thuật tiên tiến trong thâm canh cây vải.
Đông Triều hiện có trên 2.000ha vải thiều, trong đó riêng xã Bình Khê có trên 300ha. Nhiều năm trước đây, vải thiều trở thành một loại cây trồng chủ lực của thị xã khi mang lại giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, việc trồng cây vải thiều mang tính tự phát, gần như không có ứng dụng KHKT. Do vậy khi cây trồng xuất hiện sâu bệnh, nông dân lúng túng, chỉ biết phun các loại thuốc bảo vệ thực vật thông thường, làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng sản phẩm. Thời gian thu hoạch ngắn, kỹ thuật bảo quản sản phẩm sau thu hoạch chưa có nên chất lượng quả vải xuống cấp nhanh. Đặc biệt việc phát triển vải thiều theo phong trào, không có chiến lược rõ ràng đã dẫn tới việc “được mùa thì mất giá”, như câu chuyện của năm 2008, với giá bán 1.000 đồng/kg, 2kg vải thiều chỉ ngang giá 1 bó rau.
Đứng trước thực trạng trên, chủ trương sản xuất vải thiều theo hướng VietGAP đã hình thành. Hiện thị xã tiếp tục phối hợp với Viện Cây ăn quả (Bộ NN&PTNT), Sở KH&CN, Sở NN&PTNT tiến hành các bước để triển khai mô hình “Áp dụng quy trình kỹ thuật sản xuất vải thiều theo hướng VietGAP” vào vụ vải năm 2016. Với sự vào cuộc tích cực của thị xã, của các nhà khoa học và nông dân, hy vọng quả vải thiều sẽ là một sản phẩm đặc trưng nổi bật khác của Đông Triều.
Bảo Thắng (CTV)
Triển vọng xoài Xiêm núm chuẩn VietGAP
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
47,56ha xoài Xiêm núm ở 2 xã Quới An, Trung Chánh (Vũng Liêm - Vĩnh Long) đang được các nhà vườn trồng theo hướng GAP.
Và mới đây, Tổ hợp tác Sản xuất xoài Xiêm núm Vũng Liêm được Trung tâm Chất lượng nông lâm thủy sản Vùng 6 (Cục Quản lý chất lượng nông lâm thủy sản) cấp giấy chứng nhận VietGAP. Đạt chuẩn VietGAP, xuất ngoại, mô hình trồng xoài Xiêm núm đang mở cơ hội vươn xa cho chính loại trái cây này.
Xoài Xiêm núm đạt tiêu chuẩn
Xoài VietGAP xuất ngoại
Hiện nông dân áp dụng canh tác theo VietGAP với xoài Xiêm núm tại 2 xã Quới An (37,56ha, 63 tổ viên), Trung Chánh (10ha, 17 tổ viên).
Phó Chủ tịch UBND xã Quới An Nguyễn Quang Khiêm cho biết, từ khi triển khai trồng xoài Xiêm núm hướng GAP với dự án hỗ trợ của Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Vĩnh Long (Sở Nông nghiệp- PTNT), triển vọng giá cả, đầu ra trái xoài chuyển biến rõ nét.
Xoài của bà con được công ty thu mua hỗ trợ bao trái để tránh sâu bọ, hư hao, giữ “da, dáng” bắt mắt hơn, đẹp hơn. Trước đây, giá xoài Xiêm núm chưa canh tác theo quy trình tiêu chuẩn VietGAP, nhà vườn bán khoảng 17.000 - 18.000 đ/kg.
Nay làm theo GAP, chất lượng trái xoài tăng lên, giá bán cao hơn: xoài loại I giá 30.000 đ/kg, xoài loại II giá 22.000 - 25.000 đ/kg. Theo các nhà vườn, hiện khoảng 4 trái xoài vô 1kg.
Nhà ông Lê Văn Điền (ấp Phước Trường, xã Quới An) canh tác 0,8ha xoài Xiêm núm. Tham gia tổ hợp tác này, ông thấy công cán đổ vào vườn xoài “cũng vậy”, nhưng được cái xịt thuốc giảm. Ông đúc kết: Mùa xoài rồi, sản lượng mặc dù trung bình, nhưng chất lượng xoài tăng lên rõ rệt. Do chất lượng trái xoài tốt hơn nên giá bán cao.
63 nhà vườn đang canh tác xoài Xiêm núm ở xã Quới An, người ít thì hơn 0,2ha, người trồng nhiều khoảng 2ha.
Theo các tổ viên, canh tác theo quy trình đã đăng ký, cái lợi lớn nhất là việc phun thuốc khi đến mùa làm trái cho xoài giảm đáng kể, giảm chi phí sản xuất. Còn theo ông Nguyễn Quang Khiêm, trái xoài làm ra đảm bảo an toàn, không dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, bán được giá hơn.
“Từ hồi áp dụng sản xuất theo VietGAP đến nay, thông qua doanh nghiệp thu mua, xã đã xuất 20 tấn xoài Xiêm núm đi Hàn Quốc, với giá bán 30.000 đ/kg”- ông Khiêm cho biết.
Theo ông, toàn xã Quới An có khoảng 150ha trồng xoài Xiêm núm, trong đó vào VietGAP hiện có hơn 37ha, nên “nếu thuận lợi, được bà con đồng tình, chúng tôi phối hợp ngành chức năng thực hiện dự án tiếp tục mời gọi họ tham gia sản xuất theo quy trình đã được công nhận”.
Góp mô hình tái cơ cấu nông nghiệp
Ước tính với diện tích xoài Xiêm núm được công nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP tại 2 xã Quới An, Trung Chánh, thời gian đầu mỗi năm có thể xuất đi trên 560 tấn trái. Chính quyền các xã này cho hay sẽ tiếp tục mở rộng tiếp cận doanh nghiệp thu mua, từ đó tìm vào các thị trường mới, để tăng tính cạnh tranh, góp phần tăng lợi nhuận cho bà con trồng xoài.
Theo bà Phan Thị Cẩm Vân- Trưởng Phòng Trồng trọt thuộc Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Sở Nông nghiệp- PTNT), đến nay có 2 mô hình trồng xoài được công nhận VietGAP: mô hình xoài Tứ quý ở Tam Bình và mô hình ở Vũng Liêm trồng xoài Xiêm núm ở trên. Tới đây đơn vị tiếp tục phối hợp triển khai dự án sản xuất xoài theo VietGAP và xúc tiến đầu ra với xoài cát chu ở xã Quới Thiện, bước đầu dự kiến 10ha.
Bao trái xoài Xiêm núm là một khâu quan trọng để đạt chuẩn xuất khẩu. Trong ảnh: Cán bộ nông nghiệp và bà con nhà vườn trồng xoài Xiêm núm.
UBND huyện Vũng Liêm mới đây chỉ đạo ngành chức năng huyện tiếp tục theo dõi, chăm sóc các mô hình tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp để làm tăng giá trị sản xuất, lợi nhuận cho nông dân.
Đến nay, huyện có các mô hình cánh đồng lớn sản xuất lúa (2.847ha, Tân An Luông, Hiếu Phụng, Hiếu Nhơn, Trung Hiếu...), trồng bưởi da xanh (40,5ha, Thanh Bình, Quới Thiện), trồng bắp lai dưới ruộng (1,8ha, Tân Quới Trung), trồng xoài Xiêm núm (gần 50ha, Quới An, Trung Chánh) và dự án chăn nuôi bò cũng ở 2 xã này dành cho hộ nghèo, cận nghèo. Trong đó mới nhất là trồng bắp lai và trồng xoài Xiêm núm.
“Đảng ủy, UBND xã sẽ đưa mô hình sản xuất xoài Xiêm núm, cùng với bưởi da xanh vào kế hoạch tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở địa phương trong năm nay”- ông Nguyễn Quang Khiêm thông tin thêm.
Tuy vậy, đối với xoài Xiêm núm cũng như các mô hình vùng sản xuất cây ăn trái sản xuất quy mô lớn theo hướng GAP, gắn với nhãn hiệu hàng hóa và tiêu thụ nông sản, theo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, cái khó hiện nay là nông dân đa phần còn thiếu vốn đầu tư cho sản xuất và tái sản xuất. Và vấn đề cũng đáng quan tâm là “có khả năng tổn thương cao do tác động của biến đổi khí hậu”.
Vùng nguyên liệu xoài Xiêm núm đạt tiêu chí cánh đồng lớn
Theo bà Huỳnh Kim Định- Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, đến nay đã xây dựng được 6 vùng nguyên liệu (năm 2015) thuộc Dự án “Xây dựng vùng sản xuất cây ăn trái quy mô lớn theo hướng GAP, gắn với nhãn hiệu hàng hóa và tiêu thụ nông sản giai đoạn 2015 - 2020”.
Trong đó có một vùng nguyên liệu đạt tiêu chí cánh đồng lớn, là vùng nguyên liệu xoài Xiêm núm 47,56ha và được chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP.
Các vùng nguyên liệu được doanh nghiệp, công ty thu mua nông sản đặt hàng vì sản phẩm kiểm tra đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm, chất lượng ngon, mẫu mã hàng hóa đẹp. Các mặt hiệu quả xã hội, kinh tế, môi trường cũng được ghi nhận từ các vùng nguyên liệu sản xuất này.
MINH THÁI
2 nông dân vươn lên khá, giàu nhờ trồng thanh long
Nguồn tin: Báo Ấp Bắc
Từ hiệu quả kinh tế cao của cây thanh long, nông dân Tân Phước (Tiền Giang) đã và đang đốn bỏ một số cây trồng hiệu quả thấp, đầu tư phát triển diện tích trồng thanh long. Nhiều nông dân đã vươn lên khá, giàu từ cây thanh long.
Chú Lương Văn Nhu, ấp 2, xã Tân Lập 1: “Triệu phú” thanh long
Nhờ áp dụng các biện pháp khoa học - kỹ thuật trong trồng và xử lý thanh long cho trái nghịch vụ, nhiều năm liền thanh long trúng mùa được giá, giúp gia đình chú Lương Văn Nhu, ấp 2, xã Tân Lập 1 có thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm.
Trước đây, gia đình chú Nhu trồng khóm. Thấy nhiều người trồng thanh long có hiệu quả, chú Nhu quyết định chuyển sang trồng thanh long gần 4 năm nay. Cô Nguyễn Thị Sô (vợ chú Nhu), vui vẻ cho biết: “Mới đầu cô chú trồng có 4 công, sau đó vay thêm vốn mở rộng diện tích. Đến nay, toàn bộ 2,5 ha đất khóm cô chú đã chuyển sang trồng thanh long ruột đỏ. Trồng thanh long tuy công chăm sóc nhiều hơn khóm, nhưng lợi nhuận từ cây thanh long cao gấp 5 - 6 lần cây khóm”.
Được biết, 2 người con trai của cô chú cũng trồng thanh long. Người con trai lớn học Đại học Công nghệ thông tin nhưng cũng về quê trồng thanh long. Vừa tưới vườn thanh long đang cho trái, cô Sô khoe với chúng tôi: “Cô chú vừa mới xông đèn gần 1 tháng, hơn 20 ngày nữa thanh long sẽ cho thu hoạch. Đợt Tết Nguyên đán vừa rồi cô chú bán gần 5 tấn thanh long, lãi hơn 200 triệu đồng”.
Ông Nguyễn Văn Đức, Chủ tịch Hội Nông dân xã Tân Lập 1 cho biết: “Gia đình ông Lương Văn Nhu là một trong nhiều gia đình nông dân của xã đã mạnh dạn chuyển đổi giống cây trồng, vượt khó phát triển kinh tế. Ông Nhu nhiều năm liền được công nhận danh hiệu nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi các cấp. Bằng ý chí, nghị lực, chịu khó làm giàu từ chính đôi tay của mình, gia đình ông Nhu thật sự là tấm gương sáng trong phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi”.
Ông Võ Duy Thanh, ấp Hưng Quới, xã Hưng Thạnh: Mỗi ha thanh long lãi hàng trăm triệu đồng
Len lỏi trên con đường ô đê bao uốn lượn, rộng chưa đến 1m, chúng tôi không khỏi ngạc nhiên khi tận mắt nhìn thấy vườn thanh long xanh um đang cho trái. Đó là vườn thanh long của ông Võ Duy Thanh, được trồng cách đây 4 năm.
Ông Thanh kể lại: “Trước đây, hơn 3 ha của gia đình chủ yếu trồng khóm, nhưng nhận thấy hiệu quả kinh tế không cao, cuộc sống không ổn định, vả lại cứ đến mùa thu hoạch thì điệp khúc “được mùa - rớt giá” cứ tái diễn. Thời gian đó, được bạn bè ở huyện Chợ Gạo khuyên nên tôi trồng thanh long”. Ban đầu từ một vài trụ thanh long ruột đỏ trồng thử nghiệm, đến nay ông đã nhân rộng trên 3.500 gốc. Thấy đạt hiệu quả kinh tế cao nên ông mạnh dạn chuyển đổi hơn 3 ha khóm sang trồng thanh long ruột đỏ.
Ông Thanh thường xuyên tham gia các cuộc hội thảo do khuyến nông xã tổ chức, học hỏi kinh nghiệm từ các nhà vườn ở huyện Chợ Gạo để áp dụng vào diện tích thanh long của gia đình. Ông Thanh chia sẻ: “Đợt vừa rồi tôi bán thanh long với giá trên 60 ngàn đồng/kg, thu lãi hàng trăm triệu đồng; vụ này khoảng 20 ngày nữa sẽ cho thu hoạch, hiện giá bán gần 30 ngàn đồng/kg. Trồng thanh long cho thu nhập gấp nhiều lần so với trồng khóm hay khoai mỡ”.
Nông dân Võ Duy Thanh được xem là người đầu tiên trồng thanh long ở xã Hưng Thạnh. Ngoài phát triển diện tích cây thanh long của gia đình, ông Thanh còn khuyến khích người dân xung quanh trồng thanh long.
Ông Thanh cho biết: “Tôi sẵn sàng chia sẻ cây giống cũng như kỹ thuật cho người dân trong xã, ấp muốn trồng thanh long. Nếu so với vùng đất Chợ Gạo, trồng thanh long ở Tân Phước đỡ vất vả hơn, vì Tân Phước là vùng đất thịt pha cát nên có độ ẩm cao, nhiều khi 3 - 4 ngày hoặc cả tuần không tưới cây thanh long vẫn tốt. Còn ở Chợ Gạo là vùng đất thịt nên phải tưới thường xuyên, nhất là khi cây thanh long cho trái cần nhiều nước”.
MAI HỒNG
Châu Thành (Đồng Tháp): Ra mắt Tổ hợp tác sản xuất thanh long ruột đỏ
Nguồn tin: Báo Đồng Tháp
Tổ hợp tác thanh long ruột đỏ xã An Phú Thuận, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp có 15 thành viên, với tổng diện tích sản xuất là 5,2ha (diện tích này đang trong giai đoạn cho trái). Bước đầu, các thành viên trong tổ hợp tác sẽ liên kết về quy trình sản xuất, kỹ thuật sản xuất, lịch thời vụ và tiêu thụ sản phẩm.
Đến nay, huyện Châu Thành đã thành lập được 2 tổ hợp tác sản xuất thanh long ruột đỏ tại xã Phú Hựu và xã An Phú Thuận, có tổng số 46 thành viên với tổng diện tích 17,7ha.
Đăng Phúc