Tuyên Quang: Cam Hàm Yên Hướng tới giá trị ‘vàng’
Nguồn tin: Báo Tuyên Quang
Trong bối cảnh cây có múi, nhất là cây cam trở thành cây trồng chủ lực của nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước, cam Hàm Yên buộc phải phát triển theo hướng nâng cao chất lượng, hướng đến mục tiêu sản xuất sạch - sản phẩm ngon.
Mở rộng diện tích cam sạch
Theo Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, Hàm Yên (tỉnh Tuyên Quang) là địa phương đầu tiên của cả nước sản xuất cam theo hướng hữu cơ. Đến thời điểm này, toàn huyện đã có gần 25 ha cam trồng theo tiêu chuẩn này, chủ yếu ở Tân Thành và thị trấn Tân Yên.
Ủ đỗ tương, cá, chuối thay cho phân hóa học; ủ thuốc lào, tỏi, ớt, gừng… thay cho thuốc trừ sâu, là những công đoạn mà khi tham gia vào nhóm sản xuất cam hữu cơ, anh Tô Văn Quảng, thôn Đồng Lệnh, xã Tân Thành mới biết và làm theo. Quả cam phát triển đều, chất lượng quả thơm, ngọt và đậm đà hơn so với cam thông thường, nên mặc dù sản lượng thấp hơn, nhưng được các doanh nghiệp đặt mua tại vườn ổn định 25 nghìn đồng/kg, sức khỏe người trồng cũng được đảm bảo tuyệt đối, nên gia đình anh yên tâm sản xuất theo hướng này từ 2 năm nay.
Người dân xã Phù Lưu (Hàm Yên) thu hoạch cam. Ảnh: Nguyễn Việt
Tổ dân phố Đồng Bàng, thị trấn Tân Yên có 3 hộ tham gia mô hình trồng cam hữu cơ chuyển đổi với tổng diện tích 7 ha. Gia đình chị Lê Thị Chuyên, tổ dân phố Đồng Bàng tham gia mô hình trồng cam hữu cơ từ cuối năm 2017, với diện tích 4,5 ha. Trồng cam hữu cơ, các quy trình chăm sóc, bón phân, phòng trừ sâu bệnh đều có sự hướng dẫn, giám sát của cán bộ và thành viên tổ cam hữu cơ. Chị Chuyên cho biết, so với trồng cam thông thường, chi phí và công bỏ ra nhiều hơn. Tuy nhiên, khi sản xuất sạch, sản phẩm bán ra thị trường mình thấy lương tâm mình cũng “sạch”.
Cùng với cam hữu cơ, cam VietGAP hiện cũng đang dần mở rộng diện tích ở vùng cam Hàm Yên. Theo Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện, từ năm 2016 đến năm 2019, trên địa bàn huyện đã có 24 nhóm hộ được công nhận sản xuất VietGAP với 413 hộ, diện tích xấp xỉ 860 ha, chiếm 11,8% tổng diện tích cam toàn huyện.
Vào mùa thu hoạch, hàng trăm lao động đi hái cam thuê cho các chủ vườn. Ảnh: Hải Lâm
Phù Lưu hiện có hơn 2.400 ha cam, trong đó có hơn 300 ha cam sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Ông Đỗ Hữu Ước, Chủ tịch UBND xã Phù Lưu cho biết, xã vận động các hộ sản xuất theo nhóm hộ, trong đó các thành viên giám sát lẫn nhau. Phù Lưu hiện có 5 nhóm hộ sản xuất cam VietGAP, mỗi nhóm hộ có từ 5 - 7 thành viên. Gia đình ông Nông Văn Nghiệp, thôn Mường là một trong những hộ tiên phong trồng cam VietGAP ở Phù Lưu, với hơn 5 ha.
Ông Nghiệp là Giám đốc Hợp tác xã dịch vụ Phong Lưu - một trong những hợp tác xã bao tiêu cam sành đầu tiên của huyện Hàm Yên. Sau nhiều năm đưa sản phẩm cam Hàm Yên tham gia các hội chợ, tìm kiếm thị trường vào các siêu thị lớn, nhỏ, ông Nghiệp nhận thấy, nhu cầu sử dụng cam sạch của người tiêu dùng các thành phố lớn rất cao. Ngoài diện tích cam của gia đình, ông cũng vận động các thành viên trong hợp tác xã cùng tham gia. Hợp tác xã hiện có 10ha cam được cấp chứng nhận VietGAP. Trong những năm gần đây, sản phẩm cam sành của Hợp tác xã dịch vụ Phong Lưu đã có mặt tại các siêu thị lớn như siêu thị BigC, Metro, Fivimart, Liên Hiệp Hợp tác xã TP Hồ Chí Minh... với trên 50 tấn mỗi năm.
Anh Tô Văn Quảng, thôn Đồng Lệnh, xã Tân Thành thu hoạch cam hữu cơ. Ảnh: Cảnh Trực
Đa dạng thời điểm thu hoạch
Cam Hàm Yên giờ không chỉ gói gọn trong cam sành, mà đã mở rộng ra rất nhiều giống cam mới, từ cam Vinh, cam Xã Đoài, đến cam canh, cam V2… Nhờ thế, cam Hàm Yên được thu hoạch kéo dài từ tháng 9, tháng 10 đến sau Tết Nguyên đán.
Theo Trung tâm Cây ăn quả huyện Hàm Yên, trong hơn 7.000 ha, thì diện tích cam chín sớm chiếm trên 17%. Trong đó chủ yếu là cam Xã Đoài, cam chanh với gần 1.195 ha. Trung tâm Cây ăn quả huyện cũng đang thực hiện Dự án Nghiên cứu chọn lọc một số giống cam mới thu hoạch rải vụ có năng suất và chất lượng cao cho vùng cam trên địa bàn huyện với 6 giống cam được thực hiện tại 4 xã: Tân Thành, Bằng Cốc, Nhân Mục, Yên Phú. Trong đó, giống chín muộn là cam V2; giống chín trung bình là CT36, CT9 và giống chín sớm là cam BH, cam CS1. Sau khi nghiệm thu, đơn vị sẽ chọn lọc ra 2 - 3 giống cam phù hợp với điều kiện huyện Hàm Yên để bổ sung cơ cấu giống hợp lý, thay thế dần một số diện tích cam sành già cỗi.
Cam sành Hàm Yên bày bán trong Siêu thị Vincom Tuyên Quang. Ảnh: Nguyễn Mai
Người dân thành phố Đà Nẵng chọn mua sản phẩm cam sành Hàm Yên tại Hội chợ hàng Việt được tổ chức tại Đà Nẵng năm 2019. Hải Đăng
Giải bài toán về cây giống chất lượng, mỗi năm, Trung tâm Cây ăn quả huyện cung cấp cho người trồng cam hơn 1 vạn cây giống sạch bệnh. Cùng với việc mở rộng diện tích cam sạch, Hàm Yên đang phối hợp với các đơn vị liên quan thực hiện các bước trong xây dựng chỉ dẫn địa lý, để sản phẩm cam Hàm Yên xứng danh và vươn tầm ra thế giới khi đã 2 lần lọt vào Top 10 loại trái cây nổi tiếng bậc nhất Việt Nam.
Trần Liên
Đơn Dương (Lâm Đồng): Xuất hiện nhiều mô hình rau, hoa thu nhập từ 500 triệu đồng đến 1 tỷ đồng/ha/năm
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Thống kê ngành chức năng Đơn Dương (tỉnh Lâm Đồng) cho biết, giá trị thu nhập từ trồng rau thương phẩm ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn huyện hiện nay đạt mức bình quân từ 250 - 300 triệu đồng/ha/năm, trong đó đã xuất hiện nhiều mô hình rau hoa có thu nhập từ 500 triệu đồng đến 1 tỷ đồng/ha/năm.
Ông Ka Biêr - nông dân dân tộc thiểu số ở thôn Ha Wai, xã Tu Tra canh tác 4 sào ớt Đà Lạt trong nhà kính, mỗi năm thu vài trăm triệu đồng.
Hiện Đơn Dương có 10.486 ha ứng dụng công nghệ cao trong tổng diện tích 11.763 ha canh tác rau, hoa toàn huyện, chiếm tỷ lệ 86%. Trong đó, diện tích canh tác làm nhà kính, nhà lưới 2.240 ha; diện tích áp dụng tưới tự động, tưới nhỏ giọt 8.192 ha; diện tích dùng điều khiển nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm 29,5 ha và diện tích canh tác không dùng đất 7,3 ha.
Bên cạnh trồng rau thương phẩm, trên địa bàn huyện hiện đã có nhiều gia đình canh tác hoa cho thu nhập cao hơn rau với tổng diện tích trồng hoa từ 140 - 160 ha trong năm với các loại hoa ly, cát tường, layơn, cẩm chướng, lan...
VIẾT TRỌNG
Trồng chuối cấy mô cho thu nhập hàng chục tỷ đồng mỗi năm
Nguồn tin: VOV
Những năm gần đây, mô hình trồng chuối cấy mô trên đất phèn được nông dân An Giang lựa chọn, mô hình này cho thu nhập hàng chục tỷ đồng mỗi năm.
Ông Nguyễn Lợi Đức ở xã Vĩnh Gia, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang là một trong những nông dân sở hữu đất nông nghiệp lớn nhất tỉnh An Giang, với hơn 150ha. Mặc dù diện tích đất ruộng lớn nhưng lại là vùng đất trũng, bị nhiễm phèn nên việc cải tạo đất để sản xuất cũng gặp không ít khó khăn và tốn kém.
Những năm trước đây, ông đã từng chuyển đổi canh tác với nhiều loại cây trồng nhưng hiệu quả vẫn không cao. Năm 2016, ông Đức mạnh dạn đầu tư trồng hơn 50 ha chuối cấy mô. Giai đoạn đầu, do chưa có kinh nghiệm trong việc canh tác nên đã gặp không ít khó khăn, phần lớn diện tích chuối bị bệnh, cho năng suất không cao.
Cuối năm 2017, được sự hỗ trợ của ngành chức năng tỉnh An Giang, ông đã tìm ra nguyên nhân và hỗ trợ về kỹ thuật, từ đó mô hình chuối cấy mô của ông đã phát triển tốt tại vùng đất phèn và mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Trồng chuối cấy mô cho lợi nhuận cao. (Ảnh: KT)
Ông Nguyễn Lợi Đức chia sẻ: “Cây chuối so sánh với cây lúa thì hiệu quả hơn rất nhiều, còn so với cây trồng khác thì phải xem lại điều kiện thổ nhưỡng. Bưởi da xanh, sầu riêng thì giá rất tốt, trồng chuối, giá trị không bằng. Cho nên, trước khi trồng cây gì thì phải xem thổ nhưỡng nó có hợp hay không, đất này là đất nhiễm phèn. Hiện tại năng suất rất là tốt nên người dân yên tâm”.
Cũng theo ông Nguyễn Lợi, cây chuối cấy mô rất phù hợp với vùng đất phèn, ít sâu bệnh hơn so với cây chuối truyền thống bằng cây con, dễ bố trí mùa vụ, thu hoạch cho năng suất cao. Hiện nay, ông đã mở rộng diện tích sản xuất lên hơn 70ha. Tính chi phí cho 1kg chuối khoảng 3.500 đồng, giá chuối bán ra dao động khoảng 8.000 đồng/kg. Với năng suất bình quân 40 tấn/ha, lợi nhuận thu được là 140 triệu đồng/ha, mỗi năm thu lợi là gần chục tỷ đồng.
Bên cạnh đó còn tạo công ăn việc làm cho gần 100 lao động có việc làm ổn định. Hiện nay, mô hình trồng chuối của ông được sản xuất theo mô hình khép kín: trồng chuối- nuôi bò-nuôi cá.
Chia sẻ về mô hình này, ông Nguyễn Lợi Đức nói: “Tôi sản xuất theo mô hình tương đối khép kín. Đối với phụ phẩm của chuối như chuối rập thì có đàn bò, cộng thêm hệ thống kênh mương rộng, chuối nào qua thì đổ cho cá ăn, chuối nào già mà vừa chín thì cho bò ăn, phân bò đem nuôi trùng quế, một phần bón lại cho cây chuối, trùng quế cũng tập trung dưỡng cho cây chuối. Trong một chuỗi sản xuất nó liên kết với nhau, hỗ trợ nhau thì sẽ giảm được chi phí, tạo ra sản phẩm sạch, tốt hơn”.
Theo Sở NN&PTNT tỉnh An Giang, mô hình trồng chuối cấy mô của ông Nguyễn Lợi Đức được đánh giá là mô hình tiêu biểu đi đầu trong việc tổ chức sản xuất và tập trung đất đai theo quy mô lớn. Từ mô hình ban đầu này, hiện nay, trên địa bàn tỉnh có rất nhiều doanh nghiệp, nông dân sản xuất chuối cấy mô với tổng diện tích khoảng 500 ha, được sản xuất theo tiêu chuẩn GAP, đạt chuẩn xuất khẩu.
Ông Trần Anh Thư, Phó chủ tịch UBND tỉnh An Giang cho biết, thời gian gần đây, nhiều nước nhập khẩu đang rất chuộng chuối Việt Nam. Đặc thù của chuối khi trồng liên tục trên cùng một vùng đất rất dễ nhiễm bệnh. Nhiều vùng đất của Việt Nam mới trồng lần đầu nên chuối phát triển tốt, ít nhiễm bệnh, các nhà nhập khẩu yên tâm hơn.
Hiện nay, An Giang đã quy hoạch hơn 10.000ha để trồng chuối. Trước mắt, tỉnh ưu tiên trồng ở huyện Tri Tôn vì đây là vùng đất còn nhiễm phèn, trồng chuối hiệu quả hơn một số loại cây trồng khác. Từ huyện Tri Tôn, tỉnh sẽ nhân rộng cây chuối ra các vùng có điều kiện khác, nhất là vùng sản xuất lúa kém hiệu quả như Bảy Núi.
“Hiện nay, An Giang đang kết hợp với công ty nông nghiệp của nhật triển khai một số dự án để sản xuất nông sản là trái cây và rau quả, đặc biệt là chuối, để đưa vào thị trường Nhật cũng như xuất đi các nước khác”, ông Trần Anh Thư cho biết thêm.
Trồng chuối cấy mô trên đất phèn là mô hình vừa phù hợp với thổ nhưỡng, phù hợp với điều kiện khí hậu vùng đất, đáp ứng các tiêu chuẩn nông sản chất lượng, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đây là điều kiện để An Giang nhân rộng mô hình này, hướng đến đưa cây chuối là một trong những cây chủ lực của tỉnh./.
Phan Ánh/VOV-ĐBSCL
Tìm hướng đi cho sầu riêng
Nguồn tin: Báo Ấp Bắc
Sầu riêng là một trong những loại cây ăn trái có diện tích và hiệu quả kinh tế tăng nhanh nhất trong những năm gần đây. Tuy nhiên, tìm một giải pháp bền vững cho sản xuất và tiêu thụ sầu riêng cũng là một bài toán khó.
Hiệu quả kinh tế từ cây sầu riêng mang lại tương đối cao, nhưng phát triển bền vững vẫn còn nhiều việc phải làm. Ảnh: HỒNG LÊ
Nhiều nội dung liên quan đã được đưa ra tại Tọa đàm tình hình sản xuất và tiêu thụ sầu riêng do UBND tỉnh Tiền Giang tổ chức ngày 10-12 cho thấy, bên cạnh hiệu quả kinh tế mang lại lớn hay diện tích tăng nhanh, xoay quanh câu chuyện sản xuất và tiêu thụ sầu riêng vẫn còn nhiều vấn đề bàn cãi.
Đánh giá sơ nét về tình hình sản xuất và tiêu thụ sầu riêng trên địa bàn tỉnh thời gian qua, Phó Giám đốc Sở Công thương Đặng Văn Tuấn cho biết, Tiền Giang hiện có trên 13.000 ha trồng sầu riêng, tập trung nhiều tại: TX. Cai Lậy, huyện Cai Lậy, huyện Châu Thành và huyện Cái Bè; trong đó huyện Cai Lậy trồng sầu riêng nhiều nhất, chiếm trên 76% diện tích. Với năng suất bình quân 25 tấn/ha, giá bán bình quân 57.500 đồng/kg, mỗi ha sầu riêng có thể mang về mức lợi nhuận khoảng 1,2 tỷ đồng/năm.
Xét về hiệu quả kinh tế, sầu riêng là một trong những loại cây ăn trái mang lại hiệu quả kinh tế cao. Theo ước tính của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, bình quân 1 ha sầu riêng có thể thu được lợi nhuận khoảng 924 triệu đồng/năm; cao gấp 17 lần so với trồng lúa, 5,4 lần so với rau màu, 2 lần so với thanh long, 1,4 lần so với xoài và 1,5 lần so với bưởi da xanh. Nếu sầu riêng được thu hoạch nghịch vụ, lợi nhuận mang lại có thể cao hơn 1,7 lần so với chính vụ…
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, diện tích trồng sầu riêng trên mỗi nông hộ không lớn, bình quân chỉ khoảng 0,25 ha, rất ít hộ dân có diện tích trồng sầu riêng trên 1 ha nên chưa đáp ứng đủ sản lượng theo đơn đặt hàng. Bên cạnh đó, do trái sầu riêng không đồng đều về hình thái, chưa ổn định về chất lượng, cũng ảnh hưởng đến việc tiêu thụ sản phẩm.
Dưới góc nhìn của nhà nông, cây sầu riêng đã và đang mang lại cuộc sống ổn định, khấm khá hơn trước cho rất nhiều nông hộ. Ông Ngô Công Vũ, nhiều năm trồng sầu riêng đánh giá, một hộ trồng sầu riêng có diện tích khoảng 2.000 m2, với khoảng 50 gốc, có sản lượng trung bình đạt từ 3,5 - 4 tấn trái, sau khi trừ chi phí, mỗi năm có thể thu được lợi nhuận từ 130 - 150 triệu đồng.
Tuy nhiên, điều đáng lo của nhà vườn hiện nay, ngoài giá bán không ổn định, còn có yếu tố khác. Theo ông Vũ, hiện nay trên thị trường vật tư nông nghiệp rất đa dạng, có rất nhiều đại lý vật tư nông nghiệp nhưng chưa được kiểm soát chặt chẽ. Chính vì vậy, trong thời gian qua đã xuất hiện nhiều sản phẩm, thuốc… chất lượng kém, gây ra thiệt hại lớn cho nhà vườn.
Hiệu quả kinh tế từ cây sầu riêng mang lại tương đối cao. Ảnh: Lập Đức
Nhìn vào yếu tố thị trường tiêu thụ, đại diện Công ty TNHH MTV XNK Như Thủy Tiên cho rằng, sầu riêng hiện tại được tiêu thụ tại các thị trường như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ…. Trung Quốc vẫn là thị trường tiêu thụ sầu riêng lớn nhất, chiếm đến 80% tổng sản lượng được tiêu thụ.
Nhìn từ thực tế tiêu thụ vừa qua cũng cho thấy, giá cả của sầu riêng thường không ổn định, thường xuyên biến động do cạnh tranh giữa các thương lái, nhà vườn lo lắng không bán được, sợ rớt giá, nên dẫn đến tình trạng sầu riêng đồng loạt bị thương lái và nhà vườn cho phép cắt trái chưa chín, không đủ chất lượng.
Chính vì giá trị chất lượng sầu riêng đang gặp vấn đề, đẩy giá tăng cao, nên những sản phẩm chế biến từ sầu riêng cũng chưa được chú trọng, quan tâm nhiều và sản phẩm cũng chưa đa dạng. Ngoài ra, còn có yếu tố tác động từ chính thị trường tiêu thụ sầu riêng lớn là Trung Quốc cũng tạo nên tâm lý bất an cho người sản xuất cũng như bị động cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu.
Đánh giá một cách tổng thể hơn, đại diện Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho rằng, sầu riêng là một trong những sản phẩm chủ lực của tỉnh, có chất lượng và giá trị kinh tế mang lại tương đối cao. Giống sầu riêng được trồng tại các địa phương trong tỉnh có đến 97% là các giống hạt lép: Ri6, Chín Hóa, Dona…; trong đó giống RI6 chiếm đến 50%.
Một trong những điểm mạnh trong sản xuất sầu riêng của Tiền Giang là khí hậu, thủy văn tương đối thuận lợi, có vùng nguyên liệu tập trung, nguồn cung sản phẩm lớn, nông dân có trình độ và kỹ thuật canh tác đáp ứng được yêu cầu chất lượng của thị trường, sản xuất theo GAP, cũng như giàu kinh nghiệm trong xử lý ra hoa rải vụ thu hoạch…
Tuy nhiên, cũng như các loại nông sản khác, sầu riêng cũng có thị trường tiêu thụ không ổn định, năng lực chế biến yếu, sản phẩm chủ yếu bán tươi và phụ thuộc lớn vào thị trường tiêu thụ Trung Quốc. Chưa kể, tập quán sản xuất của người dân còn nhỏ lẻ, chưa liên kết hợp tác trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm…
Mặc dù vậy, dựa trên những tiềm năng và dư địa, trong định hướng phát triển được đề cập trong Đề án Phát triển cây sầu riêng trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, dự kiến diện tích trồng sầu riêng toàn tỉnh đạt từ 14.000 - 16.000 ha, sản lượng đạt từ 310 ngàn đến 336 ngàn tấn. Đi cùng với diện tích, sản lượng tăng là những giải pháp canh tác, ứng dụng kỹ thuật cũng đã được bàn thảo…
ANH PHƯƠNG
Thu lãi tiền tỷ nhờ trồng bưởi Diễn
Nguồn tin: Báo Vĩnh Phúc
"Với hơn 1.000 gốc bưởi Diễn, sau khi trừ tất cả chi phí, mỗi năm cây bưởi mang lại cho gia đình tôi khoản lãi hơn 1 tỷ đồng". Đó là lời chia sẻ của ông Đỗ Văn Kim, xã Trung Kiên (Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc) sau hơn 15 năm gắn bó với nghề trồng trọt.
Ông Đỗ Văn Kim, xã Trung Kiên (Yên Lạc) kiểm tra lứa bưởi Diễn sắp đến kỳ thu hoạch
Dẫn chúng tôi đi tham quan khu vườn, đúng độ hàng vạn quả bưởi đang vàng rực như báo hiệu Tết Nguyên đán đang đến rất gần, ông Kim tỏ vẻ ngập ngừng, rồi ấp úng mãi mới nói thành câu: “Bưởi này thương lái đặt hết từ đầu năm, nên dù rất quý khách, nhưng xin mạn phép chỉ dám gửi mỗi anh, chị đôi quả bưởi để làm quà cho các cháu”.
Khá bất ngờ trước câu nói thật thà của lão nông dân chất phác, tất cả chúng tôi đều bật cười thành tiếng vui vẻ. Nhưng điều còn bất ngờ hơn, khi biết cả gia đình ông Kim vẫn sống trong căn nhà cấp 4 chật hẹp. Bằng giọng nói khàn khàn nhưng chắc nịch, ông chia sẻ: “Làm nông nghiệp lắm rủi ro, làm được bao nhiêu có lẽ vẫn phải để dự phòng rủi ro là chính hoặc chọn lựa thời điểm thích hợp để mở rộng sản xuất, đầu tư thêm thiết bị máy móc, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để giảm tải sức lao động con người”.
Tuy nhiên, gia đình cũng chỉ mới có của ăn, của để một vài năm trở lại đây. Bởi trồng cây bưởi phải mất khoảng thời gian khá dài (5 năm) mới cho sản lượng ổn định.
Nhớ lại quãng thời gian trước đây, ông Kim chia sẻ: "Tôi phải đi các địa phương khác để học hỏi, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm. Vốn không có, cũng chẳng được hỗ trợ gì, hai vợ chồng vẫn phải làm đủ thứ nghề để có tiền mua cây giống, cải tạo đất vườn, mở rộng sản xuất.
Nhưng khi áp dụng trên thực tế, thì một vấn đề khó khăn không kém đó là tìm được nguồn cung cấp cây giống uy tín, cây giống phải phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu của địa phương. Đặc biệt, người làm nghề trồng trọt phải thực sự đam mê, kiên nhẫn, hăng say với công việc, chịu khó tìm tòi, không ngừng học hỏi tích lũy kiến thức".
Ông Kim hào hứng cho biết thêm: “Tháng 10 vừa qua, tôi đã mời Đoàn đánh giá của Viện Kiểm nghiệm chất lượng sản phẩm hàng hóa và Trung tâm Kiểm nghiệm, chứng nhận chất lượng đất và vật tư nông nghiệp tỉnh đến kiểm tra, đánh giá đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận VietGAP.
Với quy mô trồng trọt như gia đình tôi, điều này thực sự có ích, góp phần đổi mới tư duy. Điều dễ nhận thấy nhất, khi tiếp cận với các kiến thức về VietGap, đã giúp cho các thành viên trong gia đình, lao động thời vụ, trong quá trình sản xuất không bị các yếu tố như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật… làm ảnh hưởng đến sức khỏe.
Tại sao thế, tôi lấy ví dụ, trước đây, người nông dân vẫn có quan niệm cây, con do mình tự cung, tự cấp là sạch. Bây giờ về nông thôn, vẫn còn không ít gia đình tận dụng khoảnh đất trong nhà để trồng các loại rau thơm, rau ăn lá hàng ngày nhưng nguồn nước tưới lại sử dụng các loại nước thải sinh hoạt có lẫn cả xà phòng, chất tẩy rửa…
Trên thực tế để sản phẩm nông sản an toàn, phải kết hợp của nhiều yếu tố như: chất lượng, chủng loại đất, nguồn nước tưới, môi trường không khí xung quanh…
Chính vì vậy, sản xuất VietGap là một xu thế tất yếu trong sản xuất nông nghiệp hiện nay, nhằm đưa ra những sản phẩm có chất lượng, an toàn ra thị trường. Đây còn là cơ hội để sản phẩm được quảng bá, có chỗ đứng trên thị trường, thu nhập người nông dân từ đó cao hơn hẳn”.
Bài, ảnh Khánh Linh
Cung cấp bưởi da xanh cho Tết
Nguồn tin: Báo Đồng Khởi
Hầu hết nhà vườn và doanh nghiệp (DN) đều đánh giá sản lượng bưởi da xanh (BDX) năm nay cung cấp cho thị trường nhiều hơn so với năm rồi, giá bán dự báo bằng mọi năm. Riêng tỉnh Bến Tre, việc mặn xâm nhập sớm đang đe dọa các vườn bưởi Tết nguy cơ rụng trái, do đó nhà vườn cần quan tâm bảo vệ vườn bưởi Tết nhà mình.
Bưởi Tết năm 2020 được dự báo là dồi dào, giá bán tại vườn không thấp hơn năm 2019. Ảnh: T.Thảo
Dự báo sản lượng lớn
Thị trường BDX phục vụ Tết Nguyên đán Canh Tý năm 2020 có sự tham gia của BDX khu vực các tỉnh Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ, sản lượng dự báo là dồi dào hơn so với năm rồi. Theo ông Đàm Văn Hưng - chủ cơ sở Hương Miền Tây, huyện Mỏ Cày Bắc: Qua khảo sát, thăm dò thì BDX đi ngay Tết năm nay nhiều. Tết 2019, cơ sở Hương Miền Tây chuẩn bị nguồn hàng khoảng 400 tấn, năm nay sản lượng cung cấp sẽ cao hơn khoảng 20%. “Người dân hay thích bưởi to có cành, lá để chưng Tết, còn tiêu dùng, ăn uống thì thích bưởi nhỏ. Nhà vườn có lợi thế Tết nhờ bán được bưởi to. Giá BDX có thể vẫn như năm rồi là khoảng 50 ngàn đồng/kg” - ông Đàm Văn Hưng cho biết thêm.
Theo nhận định từ các chuyên gia và DN kinh doanh BDX, do những năm gần đây, sản lượng BDX trong cả nước có xu hướng tăng cao, diện tích mở rộng rất lớn. Mặc dù BDX Bến Tre đã được cấp chỉ dẫn địa lý “BDX Bến Tre”, nổi tiếng với chất lượng ngon “số 1” nhưng do diện tích sản xuất còn manh mún, sản lượng thấp nên ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh.
Ông Nguyễn Văn Bảy - Giám đốc Hợp tác xã (HTX) BDX Giồng Trôm cho biết, đến thời điểm này, thành viên trong HTX có sản lượng bưởi khá cao. Dự báo giá bưởi Tết không biến động mạnh. Tuy nhiên, HTX vẫn luôn mua cho thành viên với giá cao hơn bên ngoài thị trường từ 4 - 6 ngàn đồng/kg. Trường hợp giá bưởi thấp dưới 40 ngàn đồng/kg (trái loại 1) thì HTX vẫn mua cho nhà vườn với giá thấp nhất là 40 ngàn đồng/kg.
Kinh nghiệm từ vụ bưởi năm trước, nhà vườn neo trái chờ đến cận Tết nên bị ứ đọng, giá tụt giảm mạnh. Buộc các nhà vườn phải bán chậm sau Tết. Năm nay, hầu hết nhà vườn đã chuẩn bị tâm lý thu hoạch sớm, đúng thời điểm.
Anh Huỳnh Thanh Tâm (xã Tân Thạch, huyện Châu Thành), người có ý tưởng sản xuất ra những trái bưởi tạo hình độc, lạ cho biết, Tết năm nay, anh cung cấp thị trường hàng trăm cặp bưởi tạo hình, trong đó có 3 sản phẩm chính là bưởi tròn tài lộc, bưởi thỏi vàng tài lộc, bưởi thỏi vuông tài lộc. Đặc biệt, chữ tài, lộc được in hình chữ nổi thư pháp.
Ứng phó với nước mặn
Hàng trăm, ngàn tấn BDX đang treo trên cây chuẩn bị cho Tết Nguyên đán Canh Tý 2020 đang trong tình trạng khá hồi hộp do mặn xâm nhập sớm. Nhà vườn cần có động thái bảo vệ vườn bưởi ngay lúc này. “Diện tích BDX Bến Tre hiện có 8.000ha, mặn ảnh hưởng cây bưởi không lớn như với sầu riêng, chôm chôm. Người dân không nên bán bưởi ngày cận Tết vì DN họ đóng cửa không thu mua. Đối với cây ăn trái thì trước, trong mặn, sau mặn sở cũng đã khuyến cáo người dân các biện pháp để bảo vệ vườn cây ăn trái”, ông Huỳnh Quang Đức - Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho hay.
Cơ sở Hương Miền Tây đang gửi thông báo cảnh giác nước mặn cho các tổ hợp tác (được cơ sở bao tiêu sản phẩm). Ông Đàm Văn Hưng lo lắng: “Tôi thấy bà con vẫn khá chủ quan, chưa có động thái gì để bảo vệ vườn bưởi Tết, vì nếu không chuẩn bị để bảo vệ thì nước mặn xâm nhập là bưởi rụng hết, dù có tưới hay không”.
Được biết, ngày 9-12-2019, Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn ban hành văn bản yêu cầu các đơn vị, người dân tăng cường cảnh giác, khẩn trương thực hiện các biện pháp ứng phó với tình hình độ mặn trên các sông chính đang tăng cao đột ngột và xâm nhập sâu. Theo đó, khuyến cáo người dân sử dụng tiết kiệm nước, đắp đập tạm, bờ bao cục bộ để ngăn mặn, trữ ngọt phục vụ sản xuất, chăn nuôi.
“Chúng tôi đánh giá hạn mặn năm nay diễn ra sớm, tỉnh đã có sự chuẩn bị từ tháng 8-2019, đồng thời khuyến cáo người dân kiểm tra nước (độ mặn) trước khi tưới. Bên cạnh đó, yêu cầu người dân khoanh vùng cục bộ do hệ thống cống đã khép kín để trữ nước ngọt, riêng địa bàn TP. Bến Tre thì không thể khoanh được nữa vì nước đã mặn, rất mặn”, ông Bùi Văn Lâm - Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thông tin trong buổi làm việc với đoàn kiểm tra của Văn phòng Chính phủ ngày 11-12-2019.
Thạch Thảo - Cẩm Trúc
Hiệu quả mô hình sản xuất chè an toàn
Nguồn tin: Báo Lào Cai
Toàn tỉnh Lào Cai hiện có 5.766 ha chè, trong đó có hơn 4.700 ha chè kinh doanh, năng suất trung bình 61,2 tạ/ha/năm. Để xây dựng thương hiệu nhằm gia tăng giá trị sản phẩm chè, các đơn vị kinh doanh đã áp dụng nhiều tiến bộ khoa học công nghệ vào quản lý sản xuất để tạo ra những sản phẩm sạch, an toàn, chất lượng chinh phục khách hàng.
Cán bộ khuyến nông hướng dẫn người dân thu hái chè.
Lào Cai là một trong những tỉnh có diện tích chè lớn của cả nước. Chè được xác định là cây trồng mũi nhọn, xóa đói, giảm nghèo và làm giàu của hơn 10 nghìn hộ nông dân trong tỉnh. Tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích phát triển sản xuất chè trên địa bàn. Công tác quản lý quy hoạch, chuyển giao kỹ thuật, liên kết trong sản xuất, chế biến, mở rộng thị trường tiêu thụ chè… được các cấp chính quyền và ngành nông nghiệp quan tâm hỗ trợ triển khai.
Được sự hỗ trợ của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Trung tâm Khuyến nông và Dịch vụ nông nghiệp tỉnh đã xây dựng mô hình sản xuất chè an toàn, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững giai đoạn 2017 - 2019. Mô hình nhằm góp phần nâng cao nhận thức cho nông dân trong sản xuất chè an toàn, chất lượng cao. Mô hình được triển khai tại xã Bản Xen (huyện Mường Khương), quy mô 30 ha với sự tham gia của 60 hộ. Tham gia mô hình, các hộ được hỗ trợ 50% phân bón hữu cơ vi sinh cao cấp chuyên dùng cho cây chè. Trung tâm Khuyến Nông và dịch vụ Nông nghiệp tỉnh đã phân công 3 cán bộ kỹ thuật thường xuyên bám sát địa bàn để tư vấn, hướng dẫn nông dân kỹ thuật chăm sóc, cách phòng trừ sâu bệnh, phương pháp thu hái và bảo quản chè búp tươi, đồng thời giúp nông dân thành lập 3 tổ, nhóm liên kết cùng sở thích sản xuất chè an toàn.
Tham gia mô hình sản xuất chè an toàn, bước đầu các hộ đã có những thay đổi về phương thức sản xuất. Các hộ được hướng dẫn thu hái chè búp tươi bằng hình thức hái tay để nâng cao chất lượng nguyên liệu. Việc thu hái đúng kỹ thuật để chừa phần lá nhiều, các búp chưa đến tuổi hái không bị tận thu nên thời gian các lứa hái được rút ngắn.
Bà Trần Thị Hà, ở thôn Na Pả, xã Bản Xen là một trong những người trồng chè lâu năm, cho biết, trước đây gia đình bà canh tác và sản xuất chè theo kinh nghiệm nên năng suất chè không cao. Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học chưa hợp lý nên vừa tốn kém chi phí vừa ảnh hưởng đến chất lượng chè thành phẩm và môi trường. Tham gia mô hình, bà được tư vấn kỹ thuật bón phân, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đúng cách nên không chỉ giúp nâng cao chất lượng chè, mà còn yên tâm hơn về sức khỏe lao động. Trước kia diện tích chè của gia đình bà chỉ thu được khoảng 12 tấn chè tươi/năm, nay tăng lên thành 18 - 20 tấn/năm. Giá chè được doanh nghiệp thu mua cao hơn, nhờ đó thu nhập tăng gần 30% so với trước.
Cũng tham gia mô hình, ông La Văn Mần, thôn đội 1, xã Bản Xen chia sẻ: Tôi được cán bộ hướng dẫn lập sổ sách ghi chép nhật ký sản xuất, qua đó thấy có nhiều cái lợi. Tôi theo dõi được tình hình sâu bệnh hại, các loại thuốc sử dụng, biết được loại thuốc nào sử dụng hiệu quả hơn mà không gây hại đến sức khỏe con người.
Do thực hiện đúng quy trình kỹ thuật sản xuất chè an toàn nên ngoài tăng năng suất cho cây, còn giúp đất tơi xốp, giữ được độ ẩm, chè ít bị dịch bệnh gây hại. Đặc biệt, các hộ đều sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học do mô hình hỗ trợ và thuốc sinh học nên chất lượng chè an toàn, được ưu tiên thu mua khi thị trường khó khăn.
Ngoài ra, Trung tâm Khuyến nông và Dịch vụ nông nghiệp tỉnh phối hợp với xã Bản Xen thành lập 3 tổ, nhóm nông dân cùng sở thích liên kết sản xuất chè an toàn. Các tổ, nhóm thường xuyên được giám sát và giám sát lẫn nhau trong sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, tuyệt đối không sử dụng vật tư ngoài danh mục quy định, nhất là không sử dụng thuốc trừ cỏ. Do đó, chất lượng chè được nâng cao, đảm bảo an toàn. Năng suất chè bình quân đạt 18,5 tấn/ha/năm, tăng 3,3 tấn/ha/năm so với năm 2017.
Ông Ninh Anh Vũ, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông và Dịch vụ nông nghiệp tỉnh cho biết: Thực tế cho thấy, việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất chè an toàn là hướng đi đúng, không những đem đến cho người tiêu dùng sản phẩm chè sạch, chất lượng cao mà còn liên kết được các hộ trong sản xuất và chế biến chè, dần hướng tới mô hình liên kết sản xuất chè theo chuỗi giá trị. Tuy nhiên, để mô hình tiếp tục phát triển và mở rộng sau khi có sự đầu tư của Nhà nước thì ngành nông nghiệp cần tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền và có cơ chế, chính sách hỗ trợ để người dân tiếp tục yên tâm sản xuất.
KIM THOA
Năm 2019, Tiền Giang có 30 xã đạt chuẩn nông thôn mới
Nguồn tin: Báo Ấp Bắc
Chiều 13-12, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Tiền Giang tổng kết hoạt động năm 2019 và triển khai nhiệm vụ năm 2020 của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT). Đồng chí Phạm Anh Tuấn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì hội nghị.
Trong năm 2019, các hợp tác xã được chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP hơn 94 ha lúa. Tỉnh thực hiện rải vụ gần 15.000 ha cây ăn trái, tăng hơn 1.700 ha so với năm 2018, với tổng sản lượng trên 381.000 tấn, lợi nhuận từ sản xuất nghịch vụ cao gấp 1,5 - 1,7 lần so với sản xuất chính vụ; xoài cát Hòa Lộc được đưa vào phục vụ suất ăn trên các chuyến bay của Vietnam Airline.
Toàn tỉnh có 11 điểm soát sản lượng sản phẩm rau theo chuỗi cung ứng sản phẩm an toàn được cấp Giấy xác nhận, sản lượng tiêu thụ bình quân hằng năm trên 6.400 tấn. Đàn gia cầm tăng mạnh so với năm 2018 (18,6%), đàn heo giảm mạnh (chỉ bằng 62,5% so với năm 2018) do bị ảnh hưởng của dịch tả heo châu Phi.
Hiện có 68 hộ thả nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh, với diện tích hơn 280 ha, sản lượng thu hoạch khoảng 3.000 tấn. Bên cạnh đó, năng lực khai thác hải sản xa bờ tăng lên, sản lượng khai thác tăng 18,3% so với năm 2018…
Đồng chí Phạm Anh Tuấn phát biểu chỉ đạo hội nghị.
Đến cuối năm 2019, UBND tỉnh đã công nhận và tổ chức Lễ công bố 30 xã đạt chuẩn nông thôn mới, toàn tỉnh có 90/144 xã đạt chuẩn nông thôn mới, tỉnh đã hoàn thành sớm hơn 1 năm và vượt chỉ tiêu được giao của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016 - 2020.
Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành NN&PTNT còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế như: Một số dự án triển khai chậm hoặc không được đồng thuận của người dân…
Đồng chí Phạm Anh Tuấn tham quan các sản phẩm nông sản của tỉnh.
Phát biểu tại hội nghị, đồng chí Phạm Anh Tuấn đề nghị Sở NN&PTNT và Sở Tài nguyên và Môi trường đánh giá lại diện tích lúa hiện nay trên toàn tỉnh, để có hướng điều chỉnh, định hình quy hoạch trồng cây ăn trái từng vùng. Bên cạnh đó, sau đợt dịch tả heo châu Phi vừa qua, ngành Nông nghiệp cần có định hướng, quy hoạch lại việc chăn nuôi heo theo hướng an toàn sinh học…
VĂN THẢO
Khai mạc Festival sản phẩm nông nghiệp và làng nghề Hà Nội lần thứ nhất năm 2019
Nguồn tin: Hà Nội Mới
Sáng 14-12, tại Khu hội chợ triển lãm, giao dịch kinh tế và thương mại số 489 đường Hoàng Quốc Việt, UBND thành phố Hà Nội phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tổ chức khai mạc Festival sản phẩm nông nghiệp và làng nghề Hà Nội lần thứ nhất năm 2019; Hội chợ nông nghiệp - thương mại vùng Đồng bằng sông Hồng.
Dự sự kiện có Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường; Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy; Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Văn Sửu...
Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố Hà Nội Nguyễn văn Sửu phát biểu khai mạc sự kiện.
Phát biểu khai mạc sự kiện, Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố Nguyễn Văn Sửu khẳng định, Hà Nội có nhiều lợi thế phát triển nông nghiệp, làng nghề. Toàn thành phố có 1.350 làng nghề và làng có nghề, trong đó có hơn 300 làng nghề truyền thống được công nhận. Thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm (Chương trình OCOP), thành phố Hà Nội phấn đấu đến năm 2020 sẽ đánh giá và xếp hạng từ 800-1.000 sản phẩm. Hà Nội cũng định hướng đến năm 2020 tiếp tục phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa, chuyên canh, tập trung, phấn đấu tăng trưởng bình quân đạt 3% trở lên...
Festival sản phẩm nông nghiệp và làng nghề Hà Nội nhằm quảng bá, tôn vinh, kết nối, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và làng nghề Hà Nội; là nơi hội tụ những nghệ nhân, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất làng nghề Hà Nội và các tỉnh, thành phố trên cả nước cùng giao lưu, học tập, chia sẻ kinh nghiệm. Thông qua các hoạt động, giúp đẩy mạnh liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm, thu hút đầu tư, tìm kiếm cơ hội hợp tác và chuyển giao công nghệ phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Văn Sửu trao Giấy chứng nhận sản phẩm đạt chuẩn OCOP cho các chủ thể tham gia chương trình.
Tại Festival, thành phố Hà Nội đã trao Giấy chứng nhận các sản phẩm đạt chuẩn OCOP của đợt 1 năm 2019 cho 24 chủ thể có sản phẩm đạt 3 sao và 4 sao của thành phố; Bộ NN&PTNT chúc mừng 2 chủ thể có sản phẩm tiềm năng đạt 5 sao của Hà Nội đang được đề nghị trung ương đánh giá, phân hạng sản phẩm cấp quốc gia.
Cũng tại Festival, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường biểu dương thành phố Hà Nội tổ chức sự kiện có ý nghĩa thiết thực, đồng thời nhấn mạnh, Hà Nội và cả nước đang đẩy mạnh Chương trình OCOP nhằm khai thác thế mạnh đặc sản của các địa phương. Nhà nước sẽ hỗ trợ để sản phẩm đặc sản này được chuẩn hóa, trở thành sản phẩm chất lượng cao, mang lại giá trị thu nhập cao hơn cho nông dân. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cũng kêu gọi các tỉnh, thành phố đẩy mạnh Chương trình OCOP trong xây dựng nông thôn mới nhằm nâng cao đời sống cho nông dân.
Các sản phẩm tham gia sự kiện.
Festival sẽ diễn ra trong 4 ngày (từ ngày 14 đến 17-12-2019) với quy mô 300 gian hàng trưng bày, giới thiệu sản phẩm nông nghiệp, làng nghề đến từ 28 tỉnh, thành phố.
NGUYỄN MAI
Khai thác lợi thế chăn nuôi đại gia súc
Nguồn tin: Báo Bắc Giang
Triển khai từ đầu năm 2018, Đề án “Đẩy mạnh phát triển lợi thế chăn nuôi đại gia súc ở một số xã vùng Đông Bắc huyện Lục Ngạn (Bắc Giang), giai đoạn 2018- 2021” (gọi tắt là Đề án) đã và đang phát huy hiệu quả, hình thành vùng chăn nuôi tập trung, hạn chế dịch bệnh, góp phần ổn định đàn đại gia súc trên địa bàn.
Phát triển tiềm năng
Mới đây, chúng tôi đến thăm mô hình nuôi ngựa bạch sinh sản của gia đình anh Vi Văn Trường, thôn Chả, xã Phong Vân. Tháng 10- 2018, anh Trường mua một con ngựa bạch giống, giá 48 triệu đồng, trong đó huyện hỗ trợ 50% giá giống theo Đề án. Niềm vui bất ngờ, sau 10 tháng nuôi, ngựa sinh một con ngựa bạch cái. Đến nay, ngựa con được 5 tháng tuổi, có người trả 25 triệu đồng nhưng anh không bán.
Ông Hoàng Văn Khải, thôn Vựa Trong, xã Phong Vân trao đổi kỹ thuật chăm sóc đàn ngựa với cán bộ thú y xã.
Cách đó không xa, gia đình ông Hoàng Văn Khải, thôn Vựa Trong cũng đang bận rộn với việc che chắn chuồng trại, bảo vệ đàn ngựa. Mấy năm trước, ông mua một con ngựa cỏ (ngựa bản địa) nái; năm sau ngựa nái sinh một con ngựa bạch đực. Sau 5 tháng nuôi, ông bán ngựa con được gần 20 triệu đồng. Hiện ngựa nái đẻ tiếp được 3 con ngựa cỏ và 1 ngựa bạch cái.
Ông Vi Văn Doanh, Chủ tịch UBND xã Phong Vân cho biết, toàn xã có 700 con ngựa, 850 con trâu, hơn 600 con bò và trên 1,3 nghìn con dê. Nhằm từng bước cải tạo đàn ngựa trên địa bàn, 2 năm qua có 8 hộ trong xã được hỗ trợ mua ngựa bạch nái giống từ Đề án của huyện.
Năm 2018, xã còn hỗ trợ 15 con ngựa thương phẩm cho các hộ chăn nuôi. Hiện đàn ngựa đều phát triển tốt. Theo ông Doanh, một con ngựa bạch trọng lượng 300 kg hiện có giá khoảng 60 triệu đồng, cao gấp ba lần ngựa cỏ. Vì thế xã tuyên truyền người dân lai tạo từ ngựa cỏ sang ngựa bạch.
Còn tại xã Phong Minh, thực hiện Chương trình phát triển chăn nuôi theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã gắn với Đề án của huyện, UBND xã đã phối hợp với một số ngân hàng tạo thuận lợi cho người dân vay vốn chăn nuôi đại gia súc bằng các hình thức tín chấp, thế chấp thông qua tổ vay vốn của các hội, đoàn thể.
Bên cạnh đó, UBND xã phối hợp với Trung tâm Dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp huyện mở các lớp tập huấn kỹ thuật chăm sóc, phòng dịch bệnh cho đàn vật nuôi. Đến nay, 100% hộ trong xã đã đầu tư chăn nuôi đại gia súc, nhất là trâu, bò, nhiều hộ nuôi tới 40- 50 con.
Hiện đàn đại gia súc của xã đạt hơn 4 nghìn con, đứng tốp đầu của huyện. Thu nhập từ chăn nuôi đã góp phần giảm nhanh số hộ nghèo trong xã, bình quân mỗi năm giảm từ 5- 6%; hộ khá và giàu tăng, đời sống của người dân từng bước được cải thiện.
Xây dựng thương hiệu sản phẩm vùng
Thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, huyện Lục Ngạn chỉ đạo các xã vùng Đông Bắc của huyện tiếp tục duy trì và phát triển đàn gia súc, đưa tỷ lệ đàn dê lai lên 30%; nâng tổng đàn ngựa lên 3 nghìn con, tăng tỷ lệ ngựa bạch lên 35%. Ngoài ra, huyện khuyến khích người chăn nuôi nâng tổng đàn gà tại các xã vùng Dự án lên 400 nghìn con.
Đồng thời khuyến khích các hộ chuyển đổi phương thức chăn nuôi truyền thống sang ứng dụng quy trình VietGAHP; đổi mới hình thức tổ chức sản xuất từ mô hình kinh tế hộ sang nhóm hộ và thành lập các HTX sản xuất, tiêu thụ để xây dựng thương hiệu sản phẩm có lợi thế vùng như: Trâu Phong Minh, ngựa Phong Vân, dê Biên Sơn, gà thiến Tân Sơn…
Để đạt mục tiêu trên, năm 2018 và 2019, UBND huyện đã hỗ trợ 46 con ngựa bạch giống cho 46 hộ dân tham gia Dự án với tổng trị giá hơn 1,2 tỷ đồng. Ngoài ra, huyện còn hỗ trợ người dân vùng Dự án 15 nghìn con gà giống các loại; tổ chức nhiều lớp tập huấn về chăn nuôi cho hàng trăm lượt người.
Ông Lê Bá Thành, Phó Chủ tịch UBND huyện Lục Ngạn cho rằng, để tiếp tục thực hiện tốt Đề án, ngành nông nghiệp, chính quyền các xã tăng cường công tác chỉ đạo, thực hiện việc phát triển chăn nuôi đại gia súc. Đẩy mạnh tuyên truyền cho người dân hiểu và nắm bắt kịp thời các chủ trương, chính sách hỗ trợ phát triển chăn nuôi nói chung, chăn nuôi đại gia súc nói riêng.
Ngành chức năng của huyện đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, thương mại, kêu gọi các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư cho phát triển chăn nuôi cũng như chế biến và bao tiêu sản phẩm; chọn lọc, cải tạo, nâng cao chất lượng các giống gia súc bản địa. Về phía các hộ dân cần áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong chăn nuôi đại gia súc để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Huấn Đoàn
Hiệu quả mô hình chăn nuôi gà theo chuỗi liên kết
Nguồn tin: Khuyến Nông VN
Hiện nay nhiều mô hình chăn nuôi gia cầm theo chuỗi khép kín, hướng đến bền vững đang phát triển tại các địa phương. Mô hình chăn nuôi gà Lạc Thủy của Hợp tác xã chăn nuôi gà Lạc Thủy, xã An Bình, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình là một điển hình.
Anh Bùi Đông Giang - Giám đốc Hợp tác xã, một chàng thanh niên trẻ thuộc thế hệ 8X đã góp phần đưa giống gà ri bản địa Lạc Thủy được bà con nông dân nuôi từ lâu đến với đông đảo hộ chăn nuôi, giúp người nuôi gà tăng thu nhập.
Anh Bùi Đông Giang cho biết, giống gà Lạc Thủy là giống gà bản địa có bộ lông mọc sớm nên sức chống chọi thời tiết tốt, thích hợp nuôi cả 4 mùa trong năm, thời gian nuôi gà thịt khoảng 4 - 4,5 tháng. Gà mái trưởng thành có lông như màu lá chuối khô, đạt trọng lượng khoảng 1,5 kg; gà trống lông màu đỏ mận chín, trọng lượng trên dưới 2 kg, chân nhỏ, da vàng, cho chất lượng thịt thơm, ngọt và dễ nuôi, dễ tiêu thụ. Gà chăn nuôi tốt ở phương thức nuôi nhốt và chăn thả, thích hợp với quy mô nuôi hộ gia đình, trang trại và gia trang trại.
Chăn nuôi theo chuỗi của Hợp tác xã chăn nuôi gà Lạc Thủy bắt đầu từ những hộ vệ tinh. Các hộ thành viên chăn nuôi con gà đẻ ra quả trứng, Hợp tác xã thu mua từ ngay những quả trứng đó, rồi ấp ra những con gà giống và chuyển những con gà giống này lại cho các hộ chăn nuôi. Cuối cùng, Hợp tác xã sẽ thu mua lại sản phẩm từ các hộ khi gà đến thời điểm xuất bán. Hiện Hợp tác xã đang có hàng chục hộ thành viên cùng nuôi gà ri Lạc Thủy, với các trại gà bố mẹ áp dụng chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học. Gà được nuôi trong trại khép kín, cách biệt hoàn toàn với môi trường bên ngoài, có thể điều chỉnh được nhiệt độ, giờ cho gà ăn, uống, đảm bảo việc chọn tạo giống chuẩn, bảo tồn nguồn gen tốt của giống gà bản địa Lạc Thuỷ. Giống gà này đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp chứng nhận nhãn hiệu gà ri Lạc Thuỷ.
Gà Lạc Thủy chăn nuôi tốt ở phương thức nuôi nhốt và chăn thả, thích hợp với quy mô nuôi hộ gia đình, trang trại và gia trang trại
Anh Giang chia sẻ, tính đến nay Hợp tác xã chăn nuôi gà Lạc Thủy đã liên kết hỗ trợ đầu ra, đầu vào khoảng 7.000 hộ chăn nuôi trên toàn tỉnh, trung bình mỗi thành viên hợp tác xã nuôi khoảng 5.000 - 7.000 con/hộ. Bình quân 01 ngày Hợp tác xã cung ứng 10.000 con gà ra thị trường giúp các hộ chăn nuôi có thu nhập khá ổn định. Với giá gà bán trên thị trường trung bình từ 85.000 - 90.000 đồng/kg, lúc khan hiếm có thể đạt 100.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí các hộ thành viên thu lãi từ 40 - 50 triệu đồng/1.000 con gà.
Anh Đặng Hữu Phát - Thôn An Sơn, xã An Bình, huyện Lạc Thủy hiện nuôi 5.000 con gà chia sẻ: “Mặc dù có kinh nghiệm chăn nuôi đã 10 năm nhưng 2 năm tham gia vào Hợp tác xã chăn nuôi gà Lạc Thủy tôi mới thực sự yên tâm. Mối lo nhất của tôi là đầu ra thì giờ đã được giải quyết. Tham gia vào Hợp tác xã giá cả ổn định hơn, không bị lên xuống theo thị trường. Bên cạnh đó, tôi được cán bộ kỹ thuật hỗ trợ, hướng dẫn về kỹ thuật chăn nuôi an toàn sinh học, được ký hợp đồng với giá thu mua cố định trong năm. Gia đình tôi chỉ tập trung vào khâu sản xuất cho tốt theo đúng quy trình kỹ thuật mà Hợp tác xã đưa ra”.
Bà Hạ Thúy Hạnh - Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết, tham gia vào chuỗi liên kết của Hợp tác xã chăn nuôi gà Lạc Thủy bà con nông dân được bao tiêu sản phẩm, xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý và truy xuất nguồn gốc, do vậy các hộ thành viên Hợp tác xã yên tâm chăn nuôi, tăng thu nhập từ chăn nuôi trong thời điểm hiện nay sản phẩm thịt gà, trứng gà thay thế một phần thực phẩm thịt lợn.
Anh Bùi Đông Giang (người đầu tiên bên phải) trao đổi cùng Đoàn tham quan mô hình tại Hợp tác xã chăn nuôi gà Lạc Thủy
Theo ông Dương Ngọc Tú - Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Hoà Bình, mô hình chăn nuôi gà Lạc Thủy của Hợp tác xã chăn nuôi gà Lạc Thuỷ áp dụng tốt các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học, đảm bảo an toàn dịch bệnh và môi trường. Mô hình đã áp dụng các biện pháp kỹ thuật an toàn sinh học, thực hiện tốt chuỗi liên kết từ khâu chuồng trại đến tiêu thụ. Đây là mô hình điểm để người dân trong vùng học hỏi và nhân rộng ra các địa phương khác.
Nhờ áp dụng tốt các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học, đảm bảo an toàn dịch bệnh và môi trường, thực hiện tốt chuỗi liên kết từ khâu chuồng trại đến tiêu thụ nên Hợp tác xã chăn nuôi gà Lạc Thủy đã xây dựng được thương hiệu của mình trên thị trường góp phần tăng lợi nhuận cho người chăn nuôi.
Thanh Thúy
Hiếu Giang tổng hợp