Na 'khổng lồ' mỗi trái một kg ở miền Tây
Nguồn tin: VnExpress
Tết Nguyên Đán năm nay, nhiều nhà vườn ở miền Tây sẽ tung ra thị trường loại na (mãng cầu) có trái nặng 0,7 - 1,3 kg.
Đam mê các giống trái cây lạ, cách đây hơn một năm, ông Võ Trung Thành ở Hậu Giang tìm mua giống na nữ hoàng có nguồn gốc Thái Lan về trồng. Sau hơn một năm, giống na tại vườn nhà ông đã bắt đầu cho trái vụ đầu tiên. Mặc dù trồng na khá khó, vì đam mê nên ông Thành nghiên cứu khá kỹ cách chăm sóc. Nhờ vậy, vụ đầu tiên có những cây ra trái nặng tới 1,2 kg.
"Tôi trồng 1,2 ha giống na nữ hoàng, một trong những đặc sản nổi tiếng Thái Lan. Vụ Tết năm nay tôi sẽ cung ứng cho thị trường khoảng nửa tấn, mỗi trái có trọng lượng trung bình 500 - 700 gram và nhiều trái lên tới một kg", ông Thành nói và cho biết, sở dĩ sản lượng còn thấp vì đây là năm đầu tiên cây cho trái bói. Sang mùa Tết thứ hai, cây sẽ có trái đều, sum suê và to hơn so với năm đầu.
Những trái na đầu tiên ở vườn nhà ông Thành. Ảnh: Võ Thành.
Theo ông Thành, trong số hơn 1,2 ha na, đầu tháng 12 mới chỉ có vài trái chín, số còn lại sẽ chín đúng vào thời điểm Tết. Dù khá nhiều khách ở xa đặt hàng nhưng ông chưa dám nhận vì số lượng có hạn sẽ chỉ đủ cung ứng ở địa phương. Thay vì bán giá 120.000 - 200.000 đồng một kg như hàng nhập khẩu thì ông chỉ bán giá 80.000 đồng.
Ngoài ông Thành, hiện nay giống na trái khổng lồ này còn được người dân ở Sơn La, Đồng Tháp nhân giống và trồng thành công.
Là chủ vườn na giống "khổng lồ" ở Đồng Tháp, ông Nguyễn Văn Năm cũng cho biết, năm nay sẽ có sản phẩm để cung ứng ra thị trường. Tuy nhiên vì số lượng không nhiều nên cũng chỉ đủ bán tại địa phương. Điểm đặc biệt của giống trái cây này là khi chín thơm, vỏ ngoài của trái có màu vàng, da căng. Hình dáng trái cũng như những loại mãng cầu khác, nhưng trọng lượng lớn gấp 3-5 lần giống thường, trái nhỏ nhất cũng đạt 500 gram -1 kg, cá biệt có trái nặng tới 1,3-1,5 kg. Khi chín, trái có lớp vỏ mỏng, số lượng hạt ít, thịt dày, vị ngọt thanh.
Theo người trồng, na khổng lồ sau 18 tháng chăm bón sẽ cho trái bói và 3 năm là vườn sẽ đạt sản lượng tốt. Mỗi năm cây cho 2 vụ trái vào dịp mùng 5 tháng 5 âm lịch và Tết Nguyên đán. So với loại mãng cầu thông thường, giống mãng cầu nữ hoàng có chiều cao tối đa 4 m, tán rộng khoảng 2 m; lá bản to, dài, xanh đậm hơn so với giống mãng cầu Việt Nam.
Trên thị trường, na khổng lồ được nhập về Việt Nam ồ ạt từ Thái Lan, Đài Loan. Hiện na Thái Lan được nhập về Việt Nam bán giá 120.000 - 150.000 đồng một kg. Còn na Đài Loan có giá 250.000 - 350.000 đồng một kg.
Thi Hà
Giá mít tăng mạnh trở lại
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Thu mua mít phục vụ xuất khẩu tại một vựa trái cây ở huyện Phong Điền, TP Cần Thơ.
Sau một thời gian giảm mạnh, giá mít tại nhiều địa phương vùng ĐBSCL hiện tăng trở lại từ 15.000-16.000 đồng/kg so với cách nay hơn 1 tháng.
Tại TP Cần Thơ và nhiều tỉnh lân cận như Vĩnh Long, Hậu Giang…hiện mít loại 1 (mít giống Thái, loại từ 9 kg/trái trở lên) có giá 36.000- 37.000 đồng/kg; mít loại 2 (từ 6kg đến dưới 9kg/trái) có giá 26.000-27.000 đồng/kg; còn mít loại 3 (từ 5kg đến dưới 6kg/trái) có giá khoảng 19.000-20.000 đồng/kg. Giá mít tăng mạnh do đang được tiểu thương và doanh nghiệp đẩy mạnh thu mua để phục vụ xuất khẩu, nhất là xuất khẩu trái tươi sang thị trường Trung Quốc. Dự báo giá mít có có khả năng tăng do nhu cầu tiêu thụ tăng trong những tháng cuối năm và dịp Tết 2020, trong khi lượng mít tới lứa thu hoạch tại nhiều vườn mít đang hạn chế.
Tin, ảnh: KHÁNH TRUNG
Tâm huyết của ông vua quýt hồng
Nguồn tin: Tuổi Trẻ
Nhắc đến quýt hồng - niềm tự hào của nhà vườn huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp - ông Lưu Văn Ràng (68 tuổi, xã Vĩnh Thới) lặng người rồi quay mặt đi để giấu ánh mắt buồn bã.
Ông Lưu Văn Ràng - nhà nông tâm huyết và nặng tình với cây quýt hồng Lai Vung - Ảnh: NGỌC TÀI
Đầu tháng 11 âm lịch, gió bấc thổi từng cơn, tiết trời se lạnh, đây là thời điểm quýt hồng bắt đầu lên "da lươn". Nhà nhà sẽ hối hả, rộn ràng chăm sóc quýt. Đó là hình ảnh những năm trước, nhưng năm nay len lỏi trong từng mảnh vườn là nỗi buồn miên man.
Ông TƯ RÀNG: Lúc bắt đầu làm nông tui đã nghĩ phải hạ giá thành sản xuất, tức lợi nhuận của nhà vườn sẽ rộng rãi hơn. Giá cả có lên xuống cũng không đến mức lỗ vốn, thủ sẵn vài bí quyết giảm giá thành thì nông dân mình chắc đỡ dữ lắm.
Biến nỗi buồn thành động lực
Quýt hồng chết vì bệnh chết xanh, không cầm cự được, nhiều chủ vườn bấm bụng đốn sạch. Ai còn nặng tình với quýt sẽ tiếp tục trồng nhưng đa phần đều có chung một kết quả. "Còn một cơi đọt nữa là lấy trái thì cây chết. Nông dân vừa tức vừa buồn" - ông Ràng chậc lưỡi.
Hiện diện tích quýt hồng chỉ còn khoảng 500ha, giảm khoảng 70% so với thời kỳ cực thịnh, trong số này chỉ còn khoảng 200ha nhiễm bệnh nhẹ có thể cung ứng dịp tết năm nay.
Nông dân quay lưng với loài cây mang đến ấm no, giàu sang của cả vùng là quyết định cực chẳng đã. Riết rồi nhiều nhà vườn đâm nản, quay sang đổ lỗi cho số phận, có thể cây quýt đã "hết duyên" với vùng đất này.
Nặng lòng với cây quýt, thương người nông dân xứ quýt, ông Ràng cầm lòng không đặng. Năm nay dù vườn nhà vẫn còn vài chục cây có thể xử lý ra bông nhưng ông Ràng quyết không để trái. Ông bảo phải dưỡng sức cho cây, "cưng" những cây bố mẹ đã cho ông "trái ngọt" bao năm.
"Chúng chính là nguồn gen quý, phải chắt chiu để khi tìm được bài thuốc đặc trị bệnh chết xanh thì còn giống để nhân ra. Bao nhiêu tiền tui cũng không màng đến" - ông Ràng tâm sự.
Nỗi buồn xứ quýt trở thành động lực mạnh mẽ để ông tìm tòi, mổ xẻ nguyên nhân mỗi ngày.
Gặp ai trồng quýt có thâm niên, ông cũng hỏi cặn kẽ tình hình "sức khỏe" vườn nhà, các kỹ thuật chăm sóc trong mấy năm trước, rồi qua đó ông dần dà rút ra được đặc điểm, đặc tính của từng vườn. Nguyên nhân vì sao vườn này chết trước, vườn kia chết từ từ, vườn nọ chết một lượt.
Nhà nông thuyết phục nhà khoa học
Đến ngày UBND huyện Lai Vung mở hội thảo khoa học, có các chuyên gia, nhà khoa học và nhà vườn tham dự, ông chuẩn bị sẵn sàng các số liệu thực tế mà ông thu thập được để trình bày ý kiến của mình.
Khi lãnh đạo UBND tỉnh mở lời: "Anh Tư Ràng phát biểu đi", ông liền rành rọt từng câu: "Các nhà khoa học đưa ra ba nguyên nhân là do nông dân lạm dụng phân hóa học làm đất chai, pH trong đất thấp, cây giống không chất lượng. Tui cho rằng đúng nhưng chưa đủ".
Nói rồi ông Ràng dẫn chứng bằng những con số cụ thể: "Vườn mới của tui, đất lúa tui lên vườn, đất tốt lắm, pH trong đất cũng đảm bảo. Cây giống thì mỗi lần trồng mới tui đều giữ lại vài cây trồng trên vườn cũ.
Nhưng cây sắp cho trái thì chết, trong khi những cây trên vườn cũ tui trồng xen với cây trưởng thành, được che nắng, che bụi thì xanh tốt. Tui cho rằng các nhà khoa học đã bỏ qua một nguyên nhân là ô nhiễm môi trường".
Đưa ra nguyên nhân, ông Ràng liền nêu giải pháp đã được ông thử nghiệm thành công trên vườn nhà.
"Tui làm thử nghiệm dùng lưới che nắng. Tui che trên đọt cây theo tỉ lệ, che 1/3 nắng sáng và 2/3 nắng chiều, ở giữa tui chừa một khoảng trống. Sau một tháng cây vàng lá, thoi thóp sắp chết thì xanh trở lại. Tui cho rằng do ánh nắng hiện nay độc hơn ngày trước, không khí cũng ô nhiễm, có nhiều khói bụi hơn làm cây quang hợp kém".
Kết luận của ông Ràng làm cả nhà khoa học và nông dân đều trầm ngâm, gật gù. Ông nói đến đâu đều có dẫn chứng thực tế, thực nghiệm đến đó nên không ai có thể phản bác.
Sau hội thảo khoa học, ông Tư Ràng tiếp tục mở rộng thử nghiệm việc che nắng cho cây quýt. Liếp nào quýt được che thì xanh tốt, còn lại thì ngắc ngoải. Ông còn kết hợp bón phân hữu cơ tự ủ, kết quả đất tơi xốp hẳn, độ pH trong đất cũng được cải thiện, cây phục hồi từng ngày.
Ông Ràng còn rất "chịu chơi" ở các khoản đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại, nhất là các thiết bị đo, kiểm tra đất, nước.
"Ai mần đi mượn này, mượn kia chứ tui có gần đủ từ đo pH đất, nước. Mình làm nông nhưng phải căn cứ vào thực tế, phải có con số hẳn hoi chứ không thể nói đại hay ước chừng" - ông Ràng chia sẻ.
Làm gì cũng phải quyết tâm
Ông Ràng không phải nông dân "nhà nòi", ông xuất thân là một thợ sửa điện tử, sống ở phố thị và từng có thời gian làm ở công ty điện lực.
Đến khi tuổi ngoài 40 ông mới dừng công việc kinh doanh, sửa chữa điện tử để chuyển sang làm nông - đến nay đã ngót nghét 20 năm.
Ở bất cứ lĩnh vực nào ông cũng dành nhiều tâm huyết và một trong những "bí kíp" của ông là phải tìm hiểu cặn kẽ, phải thực sự chuyên sâu từng ngóc ngách của lĩnh vực mà ông chọn.
Minh chứng là khi ông về vườn làm nông, ông bắt tay tìm tòi cách phối trộn phân, thuốc để giảm giá thành sản xuất. Cách ông nghĩ và làm khiến nhiều người không khỏi ngạc nhiên lẫn thán phục.
"Thay vì mua phân thành phẩm N-P-K, tui mua phân đơn rồi trộn với nhau. Nói thì dễ nhưng để trộn đúng tỉ lệ mong muốn đòi hỏi phải nghiên cứu, thử nghiệm rất kỹ. Làm sao tỉ lệ mình phối ra không khác mấy so với phân thành phẩm bán ngoài thị trường. Cái hay là giá thành giảm hơn 30%, thêm nữa mình chọn được đúng loại phân chất lượng để phối".
Về thuốc hóa học, ông đi đến đâu cũng tranh thủ ghé các công ty thuốc bảo vệ thực vật để xin danh mục sản phẩm của công ty.
Trong đó sẽ có cụ thể tên thương phẩm, hoạt chất sử dụng, công dụng như thế nào. Sau này ông tìm đến các phòng nông nghiệp để xin luôn danh mục thuốc bảo vệ thực vật được cấp phép lưu hành.
Ông dành nhiều thời gian nghiên cứu, so sánh, đối chiếu với thực nghiệm sử dụng của bản thân. Sau đó ông lưu thành một "sổ tay bí kíp" cách phối trộn phân, các loại thuốc sử dụng hiệu quả phòng trừ bệnh trên cây có múi.
Một điều đáng trân trọng ở ông Ràng là ông không hề giấu giếm cho riêng mình, ông sẵn sàng chia sẻ, in ra thành những tập tài liệu nhỏ. Ai muốn học, ông chỉ tận tình rồi cho luôn tài liệu để họ lưu lại.
Tiên phong đưa quýt hồng lên chậu
Ông Ràng là người tiên phong đưa quýt hồng lên chậu thành công, và hiện giờ quýt chậu vừa là niềm vui vừa là nguồn thu nhập của nhiều nhà vườn Lai Vung mỗi dịp tết.
Bà con đưa quýt hồng lên chậu và đưa nhiều loại cây khác lên chậu từ sáng kiến của ông Tư Ràng, tăng thêm thu nhập - Ảnh: N.TÀI
Khi trái quýt vàng óng, trĩu cành có mặt trên phố, trở thành mặt hàng "hot" chưng tết, điều lão nông này vui sướng không phải vì nguồn thu nhập rủng rỉnh mà là đã khởi xướng cho nhiều nông dân ở các vùng miền mạnh dạn đưa đặc sản quê nhà lên chậu.
"Bây giờ bắp lên chậu, dừa lên chậu, hễ nông dân ở đâu trồng cây gì đều tự tin trồng chậu để bán, giới thiệu với mọi người. Nghĩ vậy là tui vui rồi" - ông Ràng chia sẻ.
Năm 2005, quyết định làm sản phẩm độc đáo này với ông Ràng như một "canh bạc" nhưng ông không hề nao núng.
Phải hai vụ mất trắng, tốn ngót nghét 60 triệu đồng, thời điểm đó tương đương 8 cây vàng, quýt chậu mới cho "trái ngọt".
Ba năm theo đuổi một sản phẩm phục vụ tết, ông Ràng còn nhớ như in quýt chậu bán đầu tiên ở chợ hoa xuân TP Cần Thơ 2008 và bán đắt như tôm tươi. Còn hiện nay quê ông có hẳn tổ hợp tác quýt hồng trồng chậu do ông làm tổ trưởng.
Với những đóng góp và cống hiến cho quê hương, ông Ràng nhận được nhiều bằng khen từ trung ương đến địa phương như: bằng khen của Thủ tướng Chính phủ vì đã có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua "Nông dân sản xuất kinh doanh giỏi", bằng khen của chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp, danh hiệu chiến sĩ thi đua tỉnh Đồng Tháp vì đã có thành tích xuất sắc, tiêu biểu trong lao động sản xuất...
Ông Lê Minh Hoan, bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp, chia sẻ: "Những người nông dân quê tôi đang không bằng lòng ở vị trí thiệt thòi, không chấp nhận ai đó thương cảm cho mình mới thấy thật ấm lòng.
Bà con đang biết tự cứu lấy mình trước khi trời hay ai đó cứu mình". Ông Hoan cũng nhắn nhủ: "Trong nền kinh tế thị trường, người nông dân đâu chỉ cần đến kỹ năng nghề nghiệp mà còn phải hiểu rằng sản phẩm sẽ có giá trị gia tăng cao hơn nếu có được hàm lượng tri thức".
NGỌC TÀI
Mong vụ xoài Tết bội thu
Nguồn tin: Báo Khánh Hòa
Những tháng cuối năm, thời tiết ở Cam Lâm (Khánh Hòa) ít mưa, thuận lợi cho người dân làm xoài trái vụ. Đến nay, những cây xoài đang trong thời kỳ thu hoạch xuất bán đi các nơi khiến cả người trồng và thương lái cùng phấn khởi.
Ông Nguyễn Văn Khiêm (xã Cam Thành Bắc) cho biết, làm xoài trái vụ là thu nhập chính của người trồng xoài trong thời điểm trước Tết Nguyên đán. Những năm trước, vụ xoài Tết của nhiều người liên tục thất bát do mưa bão, xoài không thể ra trái hoặc bị hư hỏng gần hết. Năm nay, thời tiết tốt là tín hiệu vui với người trồng xoài. Nhà ông có gần 1ha xoài trái vụ đang trong thời kỳ thu hoạch dần để bán từ giờ tới Tết, ước tính có thể thu được khoảng 6 tấn. Trời không mưa nhiều nên xoài ra quả đẹp, các hộ trồng xoài ai cũng mừng.
Thời tiết thuận lợi giúp xoài trái vụ phát triển tốt, người trồng xoài thêm phấn khởi.
Ông Bùi Sơn Hồng (thôn Bãi Giếng 2, xã Cam Hải Tây) cũng vừa thu hoạch 1ha xoài để xuất bán, trừ chi phí, ông thu được hơn 200 triệu đồng/ha. Hiện 3ha còn lại của gia đình ông đang trong thời gian thu hoạch để kịp xuất bán trước Tết. “Phải mấy năm rồi người trồng xoài mới làm được xoài trái vụ để bán dịp Tết nên ai cũng vui. Chỉ mong từ nay đến Tết, thời tiết cứ thuận lợi như thế là người trồng xoài trúng đậm”, ông Hồng phấn khởi nói.
Theo người dân nơi đây, giá xoài Úc loại 1 hiện tại dao động từ 52.000 - 55.000 đồng/kg đối với xoài loại 1, loại này thường xuất bán sang Trung Quốc; các loại khác thường xuất đi Hà Nội. Càng gần Tết, giá xoài có thể lên cao hoặc giảm tùy vào lượng cung, cầu. Theo các chủ vựa xoài, lượng xoài từ các nhà vườn bán ra năm nay đã tăng cao so với năm trước. Ông Trương Thanh Trường, chủ vựa xoài Trường Lan (thôn Bãi Giếng 2, xã Cam Hải Tây) cho biết, cùng thời điểm năm 2018, mỗi ngày ông chỉ thu mua được khoảng 2 tấn xoài thì năm nay, sản lượng thu mua đã đạt 5 tấn/ngày. Do thời tiết thuận lợi nên sản lượng trồng xoài trái vụ tăng cao, lượng xoài loại 1 chiếm đến 70%. Vựa của ông đã bắt đầu thu mua xoài trái vụ từ đầu tháng 10, giá cả chưa biến động nhiều.
Theo thống kê sơ bộ, diện tích xoài toàn huyện Cam Lâm khoảng 5.460ha, tăng so với năm 2018 do nhiều người dân chuyển đổi từ diện tích mía, mì kém hiệu quả. Các xã có diện tích xoài lớn như: Cam Thành Bắc, Cam Hải Tây, Cam Hiệp Bắc, thị trấn Cam Đức... Trong đó, có khoảng 40% diện tích được người dân chăm sóc cho ra quả trái vụ phục vụ bán dịp Tết Nguyên đán.
Bà Nguyễn Thị Nhặn - Phó Trạm trưởng Trạm Khuyến công - nông - lâm - ngư huyện Cam Lâm cho biết, thời tiết năm nay tốt hơn so với các năm trước nên người dân làm xoài trái vụ có thuận lợi hơn. Điều đáng mừng, thay vì dùng các thuốc hóa học để kích thích xoài ra trái, đa số các hộ đã sử dụng chế phẩm sinh học, bao quả xoài, bẫy diệt côn trùng để hỗ trợ cây xoài ra trái mà không gây độc hại, vì vậy, chất lượng xoài trái vụ thời gian gần đây đã đảm bảo hơn trước.
V.THÀNH
Tập trung chống rét cho cây trồng vụ đông
Nguồn tin: Báo Lào Cai
Những ngày qua, nhiệt độ tại Lào Cai liên tục xuống thấp, đặc biệt vào đêm và sáng. Tại những khu vực núi cao như Bát Xát, Mường Khương, Sa Pa xuất hiện sương muối, một số nơi có băng giá. Để bảo vệ các loại cây vụ đông, người dân các địa phương đã thực hiện các biện pháp chống rét nhằm giảm nhẹ thiệt hại.
Người dân xã Gia Phú (huyện Bảo Thắng) làm vòm che tránh rét cho rau.
Sau vụ lúa mùa, cánh đồng thuộc phường Bình Minh (thành phố Lào Cai) được người dân dọn sạch gốc rạ, làm cỏ, lên luống để trồng các loại rau, đậu ưa lạnh. So với các địa phương vùng cao, thời tiết tại thành phố Lào Cai có phần “ấm áp” hơn, nhiệt độ đêm và sáng xuống thấp, ban ngày vẫn có nắng ấm. Thế nhưng không chủ quan trước thời tiết, cứ sáng sớm, người dân lại ra ruộng tưới nước để làm tan sương trên cây trồng.
Vụ đông này, gia đình ông Trần Văn Quyết (tổ 12, phường Bình Minh, thành phố Lào Cai) trồng 3 sào rau cải gối vụ và luống đậu cô ve. Đến đầu tháng 12, đậu cô ve bắt đầu ra hoa, một số luống cải đã cho thu hoạch và gieo lứa mới. Theo kinh nghiệm của ông Quyết, vào những ngày trời lạnh, cây cũng cần được “giữ ấm”, nếu không rất dễ bị táp lá, bệnh sương mai. Để bảo vệ cho những luống cải mới nhú, trước đợt rét, ông bón thêm phân, phủ tro khắp luống. Vào mỗi buổi sáng, ông thường dậy sớm để tưới nước rửa trôi lớp sương bám trên lá. Ông Quyết cho biết: Sương ở trên lá suốt đêm, nhiệt độ xuống thấp nên rất lạnh. Lá rau cải lại mỏng nên phải tưới nước để trôi lớp sương ấy đi, nếu không lá sẽ bị táp, đến trưa nắng hanh là cây héo rũ, úa vàng, hỏng hết.
Sa Pa là huyện vùng cao có nhiệt độ giảm sâu trong đợt rét vừa qua. Địa phương này thường xuyên có sương mù dày đặc, nhiệt độ thường xuống dưới 10 độ C vào đêm và sáng sớm. Tại Sa Pa, hầu hết các loại rau màu đã đến thời điểm cho thu hoạch. Bày sạp rau ngay phía trước nhà với đầy đủ các loại rau ưa lạnh như su hào, bắp cải, cải ngồng, củ cải, rau, đậu Hà Lan, chị Tẩn Tả Mẩy (thôn Má Tra, xã Sa Pả) cho biết: Rau này trồng từ cuối tháng 9, bây giờ bắt đầu bán được rồi. Để lâu quá sợ lạnh, sương muối sẽ làm hỏng hết rau, không bán được.
Để bảo vệ diện tích rau chưa cho thu hoạch cũng như các loại hoa, cây cảnh khác, nhiều hộ ở Sa Pa đã mua lưới về quây, dùng bóng điện thắp sáng để sưởi ấm cho cây trồng. Đặc biệt, với những cây địa lan chuẩn bị xuất bán dịp Tết Nguyên đán Canh Tý, nhiều hộ đã gấp rút chuyển cây xuống các xã vùng thấp như Tòng Sành và Cốc San (huyện Bát Xát) hoặc Đồng Tuyển (thành phố Lào Cai) tránh rét.
Vụ đông năm nay, người dân trong tỉnh gieo trồng khoảng 10.500 ha cây trồng các loại, trong đó chủ yếu là cây ngô dày, rau, đậu và các loại khoai. Nhằm đảm bảo hiệu quả trong sản xuất cũng như tăng sự chủ động trong công tác phòng, chống rét, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có công văn hướng dẫn người dân các biện pháp bảo vệ cây trồng. Theo đó, đối với diện tích rau màu đã đến kỳ thu hoạch, người dân cần thu hoạch sớm, đúng lứa để đảm bảo năng suất, tránh thiệt hại; khuyến khích sử dụng ni-lông, rơm, rạ phủ luống, làm vòm che, nhà lưới, nhà màng trong sản xuất rau vụ đông; tăng cường bón phân, tưới nước đầy đủ, cân đối để cây phát triển khỏe mạnh, tăng sức chống chịu. Đặc biệt, những ngày có sương muối, giá buốt, người dân cần dùng thùng ô doa hay vòi bơm tưới nước trên mặt lá để làm tan sương, tránh hiện tượng cháy táp lá, sương mai…
Ông Phạm Quốc Cường, Phó Chi cục Trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh khuyến cáo người dân theo dõi thường xuyên tình hình rét đậm, rét hại trên các phương tiện thông tin đại chúng, chủ động thực hiện các biện pháp bảo vệ cây trồng để giảm thiểu thiệt hại do rét đậm, rét hại gây ra. Bên cạnh các biện pháp che chắn, giữ ấm cho cây, cần quan tâm chăm sóc cây trồng, bón bổ sung phân kali, phân lân, phân hữu cơ hoai mục, giảm bón đạm, phun hoặc tưới một số chế phẩm sinh học như KH, Penac-P… để cây khỏe mạnh, tăng cường khả năng chống rét.
THÚY PHƯỢNG
Đăk Nông: Hội thảo tổng kết mô hình trồng xen cây ăn quả trong vườn cà phê
Nguồn tin: Khuyến Nông VN
Đăk Nông là một trong năm tỉnh Tây Nguyên có thế mạnh phát triển cây công nghiệp dài ngày, là tỉnh có lợi thế diện tích đất đai canh tác rộng, màu mỡ nên trong những năm qua diện tích các loại cây trồng được người dân mở rộng, đặc biệt cây ăn quả đang có xu hướng phát triển mạnh.
Từ nguồn kinh phí Khuyến nông Trung ương, Trung tâm Khuyến nông tỉnh Đăk Nông ký hợp đồng với Trung tâm Khuyến nông tỉnh Đắk Lắk triển khai xây dựng và phát triển mô hình trồng xen một số loại cây ăn quả trong vườn cà phê vùng Tây Nguyên. Dự án được triển khai trên địa bàn xã Đăk Nia, thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông. Điểm mới của mô hình là trồng cây ăn quả (cây bơ và sầu riêng) thay thế vào hố cà phê năng suất kém thay vì trồng cây ăn quả ở ở ngã tư hố cà phê như trước đây.
Các đại biểu tham quan mô hình
Ngày 5/12/2019, Trung tâm Khuyến nông Đắk Nông đã kết hợp với chính quyền địa phương xã Đắk Nia tổ chức hội thảo tổng kết đánh giá kết quả thực hiện mô hình. Tại hội thảo, người dân ở địa phương đánh giá cao kỹ thuật trồng cây ăn quả trong hố cà phê, cho rằng cách trồng mới này thuận tiện hơn trong việc chăm sóc, bón phân, tưới nước kích hoa cho cây ăn quả (so với cách truyền thống khó chăm sóc, quá trình hái cà phê kéo bạt làm gãy cây ăn quả từ lúc còn nhỏ). Ngoài ra, việc xây dựng mô hình trồng xen cây bơ và sầu riêng trong vườn cà phê giúp các hộ nông dân tăng thêm thu nhập từ cây ăn quả. Cây ăn quả còn có tác dụng làm cây che bóng, chắn gió cho cây cà phê, giúp cà phê phát triển đạt năng suất cao.
Mô hình là cơ sở để người canh tác cà phê trên địa bàn học tập kinh nghiệm áp dụng vào thực tế sản xuất của gia đình mình.
Nguyễn Thị Thu Hằng - Trung tâm Khuyến nông Đắk Nông
Nông hộ trồng tiêu kêu cứu - Bài 1
Nguồn tin: Báo Bình Phước
Hàng chục năm nay, người dân ở huyện Bù Gia Mập (tỉnh Bình Phước) phát triển kinh tế hoặc trở thành tỷ phú chủ yếu nhờ sản xuất hồ tiêu, trong đó trung tâm là ở xã Đắk Ơ. Nhưng trong 2 năm (2017, 2018), hồ tiêu ở địa bàn xã Đắk Ơ bị bệnh tấn công gây thiệt hại trên diện tích 798,642 ha trong tổng 1.540 ha hồ tiêu toàn xã, khiến 1.716 hộ trồng tiêu rơi vào cảnh điêu đứng. Trước thực trạng này, hàng trăm hộ dân ở xã Đắk Ơ đã cùng làm đơn kêu cứu các cơ quan nhà nước, ngân hàng mong được giúp đỡ khoanh nợ hoặc giãn nợ nhằm có thời gian tái cơ cấu, sản xuất nông nghiệp để trả nợ ngân hàng.
“VÀNG ĐEN” HẾT THỜI “VÀNG SON”
Đắk Ơ được xem là thủ phủ hồ tiêu của Bình Phước. Trước năm 2017, khi cây tiêu đang ở giai đoạn “hoàng kim”, hàng trăm hộ dân trong xã ồ ạt đầu tư trồng loại cây này. Chỉ trong thời gian ngắn, lợi nhuận từ cây tiêu đã giúp những nông dân nơi đây thành tỷ phú. Những ngôi nhà xây kiên cố, nhà Thái, biệt thự mọc lên san sát. Tưởng chừng như cuộc sống người dân nơi đây bước sang trang mới. Bất ngờ từ năm 2017 đến nay, hồ tiêu bị bệnh chết hàng loạt, cùng với đó giá lao dốc khiến thủ phủ hồ tiêu một thời đứng trước nguy cơ xóa sổ, còn các tỷ phú “vàng đen” thì đi cầu cứu khắp nơi chỉ mong có cơ hội “tái sinh”.
Dạo quanh một vòng tại các thôn có diện tích hồ tiêu lớn của xã Đắk Ơ, hai bên những con đường đất đỏ, nhiều vườn tiêu chết khô, để lại trụ tiêu trơ trọi. Những khu dân cư với nhà cửa khang trang, kiên cố có vẻ đìu hiu vì cửa đóng then cài. Thi thoảng xuất hiện một tấm biển treo trước cổng nhà với nội dung “Bán nhà”, “Bán vườn tiêu” hay “Bán nhà và vườn tiêu”.
THỦ PHỦ HỒ TIÊU TRƯỚC NGUY CƠ XÓA SỔ
Thôn 10 là một trong những thôn có diện tích trồng tiêu lớn nhất, nhì xã Đắk Ơ. Niên vụ 2017, toàn thôn có 96 hộ trồng tiêu với tổng diện tích trên 192 ha thì hơn 44 ha bị thiệt hại do sâu bệnh. Đến niên vụ 2018, số hộ trồng tiêu tăng lên 151 hộ, diện tích hơn 212 ha, trong đó có hơn 117 ha tiêu bị chết. Hiện nay, số hồ tiêu còn lại đang tiếp tục bị chết, chưa có dấu hiệu dừng lại.
Tương tự, chỉ trong năm 2019, địa bàn thôn 9, xã Đắk Ơ có 131 hộ trồng tiêu với diện tích trên 180 ha, hiện đã bị chết hơn 123 ha. Từ đầu năm 2019 đến nay, diện tích tiêu còn lại đang tiếp tục bị chết.
4 ha hồ tiêu của gia đình ông Nguyễn Văn Đủ ở tổ 3, thôn 10, xã Đắk Ơ, huyện Bù Gia Mập xơ xác, trơ trụi, có nơi chỉ còn là bãi đất trống
Thôn 3 trong 2 năm (2017 và 2018) có 147 hộ trồng tiêu với diện tích 293 ha, trong đó bị chết lên tới gần 74 ha. Diện tích hồ tiêu còn lại đang tiếp tục chết, đặc biệt trong 3 tháng trở lại đây. Chị Điểu Thị Út, người dân trồng tiêu tại thôn 3, xã Đắk Ơ, cho biết: “Gia đình tôi có 2.400 trụ tiêu 6 năm tuổi và 600 trụ tiêu mới cho thu hoạch năm nay. Năm 2018 có 300 trụ tiêu bị bệnh rồi chết, từ đầu năm đến nay có 1.200 trụ chết. Thấy tiêu chết tôi không dám vào thăm vườn, vì nhìn mà đau hết ruột gan. Hiện gia đình tôi nợ ngân hàng 1 tỷ đồng. Chỉ mong được cơ quan chức năng hỗ trợ bao nhiêu mừng bấy nhiêu”.
Chủ tịch UBND xã Đắk Ơ TRẦN VĂN LINH: Trước tình trạng tiêu chết hàng loạt, UBND xã tiếp tục chỉ đạo các trưởng thôn trên địa bàn xã lập danh sách những hộ dân có hồ tiêu bị chết. Tính từ ngày 1-4-2019 đến 11-11-2019 có thêm 47 hộ kê khai với diện tích tiêu chết 56,9 ha. UBND xã tiếp tục thống kê tổng hợp để báo cáo UBND huyện Bù Gia Mập có hướng chỉ đạo. Năm 2019, qua khảo sát 639 hộ trồng tiêu trên địa bàn xã có tổng diện tích 1.268,07 ha, trong đó 761,45 ha bị dịch bệnh với số nợ lên đến 401 tỷ 390,9 triệu đồng.
Chủ tịch UBND xã Đắk Ơ Trần Văn Linh cho biết: Năm 2017, toàn xã có 758 hộ bị dịch bệnh tiêu chết với diện tích 267,73 ha. Trong đó, diện tích tiêu chết dưới 30% là 89,09 ha; diện tích tiêu chết từ 30-70% là 136,17 ha; diện tích tiêu chết trên 70% là 42,47 ha. Năm 2018, xã có 958 hộ bị dịch bệnh tiêu chết với diện tích 530,91 ha. Trong đó, diện tích tiêu chết dưới 30% là 94,11 ha; diện tích tiêu chết từ 30-70% là 211,1 ha; diện tích tiêu chết trên 70% là 225,69 ha. Năm 2019, tính đến ngày 25-3-2019, trên địa bàn toàn xã có 639 nông hộ bị tiêu chết với diện tích 761,45 ha. Tình trạng tiêu chết chưa có dấu hiệu dừng lại.
Tiêu chết, người dân không chỉ trắng tay mà còn rơi vào cảnh nợ nần do vay mượn để đổ xô đầu tư vào cây tiêu và một số lĩnh vực khác.
“NGỒI TRÊN ĐỐNG LỬA”
Nhiều tháng nay, anh Nguyễn Công Nhiệm ở thôn 10, xã Đắk Ơ - đại diện cho nhiều hộ dân ở 2 xã Đắk Ơ và Bù Gia Mập, huyện Bù Gia Mập đi cầu cứu các cơ quan chức năng từ địa phương đến Trung ương mong được khoanh nợ. Anh Nhiệm cho biết: “Gia đình tôi có tổng diện tích 8,5 ha, trong đó 3 ha tiêu, 3,5 ha cao su, 1,5 ha điều. Nhiều năm nay, các loại nông sản cùng rớt giá nên cuộc sống gia đình khó khăn. Gia đình tôi trồng tiêu từ năm 2004, đến nay có 3.800 trụ tiêu. Hiện gia đình tôi nợ ngân hàng 1 tỷ 950 triệu đồng. Trước đây, gia đình tôi cũng như nhiều hộ dân trong xã vay đầu tư sản xuất chăm sóc phát triển hồ tiêu. Gia đình tôi và các hộ khác đều trả lãi và gốc đúng kỳ hạn. Nhưng từ đầu năm đến nay vì cây tiêu chết nhiều, giá thấp nên chúng tôi không có khả năng trả nợ đúng hạn cho ngân hàng”.
Ông Nguyễn Văn Sơn ở thôn 10, xã Đắk Ơ, huyện Bù Gia Mập đã vay thêm vốn để tái sản xuất chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang mít Thái, sầu riêng, khoai sọ
Cùng hoàn cảnh khó khăn như anh Nhiệm, anh Nguyễn Văn Sơn ở thôn 10, xã Đắk Ơ có 3 ha tiêu trồng từ năm 2010. Khi tiêu được giá, gia đình anh Sơn đã vay tiền đầu tư chăm sóc vườn tiêu và mua thêm 1,1 ha tiêu với giá 1,25 tỷ đồng. Nhưng 2 năm 2017, 2018, vườn tiêu bị bệnh và chết trên diện rộng. Đến năm 2019, tiêu vẫn tiếp tục chết và rớt giá nên khó chồng thêm khó. Đến nay, gia đình đang nợ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Bù Gia Mập 2,5 tỷ đồng.
Bà TRẦN THỊ LAN, Trưởng thôn 10, xã Đắk Ơ: Các hộ trồng tiêu trong thôn đang rơi vào cảnh điêu đứng vì tiêu chết hàng loạt và giá rất thấp. Hiện trong thôn xảy ra tình trạng các hộ dân đóng cửa nhà đi nơi khác làm ăn.
Bị rơi vào vòng xoáy tiêu chết - rớt giá, không có tiền chăm sóc tái đầu tư nên 4 ha tiêu của gia đình ông Nguyễn Văn Đủ và bà Lưu Thị Thương ở tổ 3, thôn 10, Đắk Ơ xơ xác, trơ trụ, khiến gia đình rơi vào tình cảnh túng quẫn. “Lập nghiệp ở Bình Phước được 20 năm, đây là lần đầu tiên gia đình tôi rơi vào cảnh túng quẫn, nợ nần. Nhìn vườn tiêu chết, chồng đổ bệnh; tôi không dám ra vườn vì sợ nhìn cả vườn tiêu trơ trụi. Thương ba mẹ, con trai đầu đã đi làm thuê ở xa để gia đình có thêm chi phí trang trải cuộc sống. Con trai thứ hai đang học lớp 12, nhưng thấy gia đình không có tiền đóng học phí nên xin ba mẹ cho được nghỉ học. Vừa rồi đến kỳ trả lãi không xoay xở được tiền, gia đình tôi phải bán hết đàn dê 50 con để trả nợ” - bà Thương nói trong nước mắt.
Thôn 10, xã Đắk Ơ trước đây được gọi là thôn tỷ phú, nhưng từ khi cây hồ tiêu bị bệnh chết hàng loạt đã xuất hiện những bảng bán nhà, bán đất hoặc bán nhà và vườn tiêu
Hộ trồng tiêu có số nợ ngân hàng thấp nhất 38 triệu đồng, hộ nợ cao nhất lên tới 3,7 tỷ đồng, số hộ có khoản nợ từ 1-3 tỷ đồng chiếm đa số. Với khoản nợ lớn, các hộ dân chỉ trông chờ vào cây tiêu để trả nợ, nhưng hiện tình trạng hồ tiêu chết vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại, giá giảm sâu chỉ còn 38.000 đồng/kg. Ngày 8-11-2019, 172 hộ dân của xã Đắk Ơ đã đến trụ sở tiếp dân của UBND huyện Bù Gia Mập kêu cứu mong được khoanh, giãn nợ. Kết quả của buổi tiếp dân được UBND huyện Bù Gia Mập trả lời: “Thẩm quyền xem xét, khoanh nợ, giãn nợ thuộc hệ thống ngân hàng”. Với hy vọng này, các hộ dân đã bắt đầu hành trình kêu cứu các cơ quan chức năng, ngân hàng mong được giúp đỡ.
Từ năm 2017, tình hình sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Bù Gia Mập gặp rất nhiều khó khăn, giá các mặt hàng nông sản rất bấp bênh, nhất là giá cao su, hồ tiêu hạ thấp nhất trong 10 năm trở lại đây, cùng với tiêu mất mùa, chết hàng loạt, dẫn đến nhiều hộ dân gặp khó khăn trong việc trả nợ vay ngân hàng. Tuy nhiên, đến nay tỉnh chưa có công bố dịch bệnh trên cây hồ tiêu, nên ngành ngân hàng cũng không đủ thẩm quyền để khoanh nợ cho các nông hộ trồng tiêu trên địa bàn huyện Bù Gia Mập theo các quy định hiện hành.
Hành trình gõ cửa các cơ quan chức năng và ngân hàng để mong được khoanh, giãn nợ của hàng trăm hộ dân ở xã Đắk Ơ nói riêng và nông hộ trồng tiêu ở huyện Bù Gia Mập nói chung vẫn đang tiếp diễn và chưa có đáp án.
Xuân Túc - Ngọc Bích
Nông hộ trồng tiêu kêu cứu - Bài cuối
Nguồn tin: Báo Bình Phước
CHỜ ĐỢI “HỒI SINH”
Trước thực trạng tiêu chết hàng loạt, hàng trăm hộ dân ở xã Đắk Ơ (Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước) đã tìm đến cơ quan chức năng để cầu cứu, mong được khoanh nợ hoặc giãn nợ. Trải qua nhiều lần đến gõ cửa các trụ sở tiếp công dân của 4 cấp, hàng trăm hộ dân ở xã Đắk Ơ nói riêng và các hộ trồng tiêu trên địa bàn huyện Bù Gia Mập nói chung nhận được các câu trả lời trái ngược từ phía cơ quan chức năng, khiến người dân như đứng trước ngã ba đường.
Chỉ cần có 1% cơ hội “tái sinh” để tiếp tục bám đất sản xuất trả nợ, nông hộ trồng tiêu trên địa bàn huyện Bù Gia Mập vẫn hy vọng vào sự giúp đỡ của chính quyền, ngành chức năng nên tiếp tục tìm đến các cơ quan liên quan cầu cứu.
NÔNG HỘ TRỒNG TIÊU HOANG MANG
Trước tình trạng hồ tiêu chết trên địa bàn xã Đắk Ơ nói riêng và toàn huyện nói chung, ngày 14-3-2019, UBND huyện Bù Gia Mập ban hành Công văn số 143/UBND-SX về việc thống kê, rà soát các hộ trồng có hồ tiêu bị chết. Qua đó thống kê số hộ bị tiêu chết có khoản nợ vay đầu tư trồng và phát triển hồ tiêu tại các ngân hàng, đã đến thời hạn trả nhưng do điều kiện khó khăn vì nguồn thu từ cây tiêu không có để trả nợ ngân hàng. Ngày 18-3-2019, UBND xã Đắk Ơ ban hành Công văn số 32/UBND, đồng thời thành lập Tổ công tác 307 về việc rà soát diện tích tiêu chết và hoàn cảnh đời sống các hộ có nhu cầu hỗ trợ chính sách ưu đãi về vốn.
Ông Nguyễn Công Nhiệm ở thôn 10, xã Đắk Ơ (Bù Gia Mập) chuyển đổi cây trồng sang cây ăn trái và cây ngắn ngày thay cho diện tích tiêu đã chết
Với mong muốn được hỗ trợ vốn, người dân trồng tiêu 2 xã Đắk Ơ, Bù Gia Mập cùng làm đơn do ông Nguyễn Công Nhiệm ở thôn 10, xã Đắk Ơ đại diện gửi đến cơ quan chức năng 4 cấp và các ngân hàng xin được khoanh nợ, giãn nợ và hỗ trợ để tái sản xuất, có thu nhập trả nợ ngân hàng. Tuy nhiên, kết quả trả lời của các đơn vị không thống nhất, khiến các hộ dân phải đi nhiều nơi, kéo dài thời gian nhưng vẫn chưa có được đáp án thỏa đáng.
Cụ thể: Thông báo kết luận số 282 ngày 24-9-2019 về buổi tiếp công dân định kỳ ngày 10-9-2019 của Phó chánh Thanh tra tỉnh Hồ Thanh Bông (do UBND tỉnh ủy quyền) đối với bà Vũ Thị Loan và 6 hộ dân ở thôn 9, xã Đắk Ơ, huyện Bù Gia Mập có nội dung: UBND tỉnh đề nghị Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh Bình Phước, Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quan tâm tạo điều kiện hỗ trợ để người dân được khoanh nợ tái sản xuất, ổn định cuộc sống. Về kiến nghị hỗ trợ cây trồng, UBND tỉnh giao Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét, giải quyết nội dung kiến nghị của người dân theo quy định.
Thay mặt UBND xã Đắk Ơ, Phó chủ tịch Vũ Đức Duy trả lời ông Nguyễn Công Nhiệm và 154 hộ dân tại phòng tiếp công dân của UBND xã Đắk Ơ ngày 11-11-2019: “Thẩm quyền khoanh nợ không thuộc giải quyết của UBND xã. Đề nghị ông Nguyễn Công Nhiệm cùng các hộ dân yên tâm sản xuất, chờ ý kiến chỉ đạo của cấp có thẩm quyền”.
UBND tỉnh đề nghị ngân hàng tạo điều kiện hỗ trợ để người dân được khoanh nợ tái sản xuất, ổn định cuộc sống. Ngân hàng Nhà nước trả lời cần làm việc trực tiếp với tổ chức tín dụng cho vay vốn để được xem xét. Tổ chức cho vay vốn - Agribank chi nhánh Bù Gia Mập trả lời rằng kiến nghị khoanh nợ chưa đầy đủ hồ sơ tài liệu. Ngân hàng Nhà nước và Agribank đều trả lời để khoanh nợ phải có công bố dịch...
Những hộ dân chờ được khoanh nợ hoặc giãn nợ đã nhận được kết quả trả lời như vậy của các đơn vị liên quan. Đến đây, một đầu mối nữa vào cuộc: Ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn - trực tiếp là Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo, chứng minh, đề xuất Chủ tịch UBND tỉnh công bố dịch. Như thế, việc xin khoanh nợ, giãn nợ chưa biết đến khi nào có kết quả. Và tiền lãi hằng tháng ngân hàng không thể không cộng dồn lên, riêng với 66,653 tỷ đồng của 98 người làm đơn kiến nghị, mỗi tháng tổng cộng tiền lãi không dưới 400 triệu đồng
Cùng ngày 11-11-2019, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có Văn bản số 8787/NHNN-TD, trả lời đơn của ông Nguyễn Công Nhiệm, đại diện các hộ dân ở 2 xã Đắk Ơ và Bù Gia Mập: Theo Nghị định số 55/NĐ-CP ngày 9-6-2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, khoản nợ của ông Nguyễn Công Nhiệm và các hộ dân trong đơn kêu cứu chỉ được xem xét khoanh nợ trong trường hợp các hộ dân bị thiệt hại về vốn vay, tài sản hình thành từ vốn vay do thiên tai, dịch bệnh xảy ra trên phạm vi rộng, có văn bản thông báo tình trạng thiên tai, dịch bệnh trên phạm vi rộng và được UBND tỉnh Bình Phước tổng hợp, đánh giá cụ thể thiệt hại, báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính xem xét, quyết định.
Văn bản số 8787/NHNN-TD cũng nêu: Trường hợp khách hàng gặp khó khăn trong việc trả nợ do khách quan, bất khả kháng được tổ chức tín dụng xem xét: Cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ trên cơ sở đề nghị của khách hàng và đánh giá của tổ chức tín dụng về khả năng trả nợ của khách hàng; cho vay mới để phục hồi sản xuất, kinh doanh đối với khách hàng có dự án, phương án sản xuất, kinh doanh khả thi. Do vậy, trường hợp gặp khó khăn, không có khả năng trả nợ đúng hạn, các hộ dân cần làm việc trực tiếp với tổ chức tín dụng cho vay vốn để được xem xét, xử lý theo đúng thẩm quyền và quy định của pháp luật.
Còn Phó giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) chi nhánh Bù Gia Mập Trần Văn Vinh, cho biết: Đơn kêu cứu của ông Nguyễn Công Nhiệm đại diện cho 98 khách hàng đang có dư nợ tại Phòng giao dịch Đắk Ơ và Chi nhánh huyện Bù Gia Mập, với số tiền khoảng 66,653 tỷ đồng. Tuy nhiên, việc kiến nghị khoanh nợ của các hộ dân chưa đầy đủ hồ sơ tài liệu. Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 9-6-2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ và phát triển nông nghiệp, nông thôn, tại Khoản 11, Điều 3 quy định: “Thiên tai, dịch bệnh trên phạm vi rộng là trường hợp thiên tai, dịch bệnh trong sản xuất nông nghiệp xảy ra trên phạm vi rộng trong một hoặc nhiều tỉnh, thành phố gây thiệt hại cho nhiều cá nhân, hộ gia đình, hợp tác xã, doanh nghiệp và được cấp có thẩm quyền xác nhận, thông báo về tình trạng thiên tai, dịch bệnh”. Theo quy định này, người dân phải có thông báo công bố dịch bệnh trên hồ tiêu của UBND tỉnh Bình Phước.
CHƯA BIẾT “ĐI ĐÂU, VỀ ĐÂU”
Ông Trần Văn Vinh cho biết thêm: Trong 2 năm 2017 và 2018, cán bộ tín dụng thẩm định có thấy lượng hồ tiêu chết, nhưng không đánh giá được nguyên nhân tiêu chết. Hồ tiêu trên địa bàn xã Đắk Ơ không chết đồng loạt mà theo từng năm. Tiêu của người dân chết ngoài nguyên nhân bị bệnh còn do người dân không có vốn đầu tư chăm sóc, chán nản nên bỏ vườn. Nhằm khắc phục và tháo gỡ khó khăn cho khách hàng, ngân hàng đã cho 1.930 khách hàng vay lại để tái sản xuất, kéo dài thời gian trả nợ từ 3-5 năm, có ân hạn gốc 12 tháng đầu, với tổng vốn 771,914 tỷ đồng.
Phó giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Bù Gia Mập TRẦN VĂN VINH: Tính đến ngày 30-10-2019, dư nợ cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn của chi nhánh là 1.785 tỷ đồng với 5.270 khách hàng. Riêng khách hàng vay đầu tư chăm sóc phát triển hồ tiêu 570 tỷ đồng với 1.600 khách hàng, chiếm 30% số lượng khách hàng và dư nợ. Nợ xấu vay đầu tư hồ tiêu trên địa bàn huyện Bù Gia Mập 7,5 tỷ đồng, trong đó chủ yếu là khách hàng ở xã Đắk Ơ.
Hiện nay, các hộ dân vừa kêu cứu cơ quan chức năng vừa xoay xở trả nợ ngân hàng. Để tái thiết 3 ha tiêu chết, gia đình ông Nguyễn Công Nhiệm đã được ngân hàng cho vay lại để chuyển đổi cơ cấu sang trồng cây ăn trái, sầu riêng, bưởi, mít, trồng xen canh khoai sọ để lấy ngắn nuôi dài. Cũng tự xoay xở để có tiền trả nợ ngân hàng, hộ ông Nguyễn Văn Sơn ở thôn 10, xã Đắk Ơ đã tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi của ngân hàng và người thân để trồng xen canh khoai sọ, sầu riêng, bưởi, mít, hiện vườn cây đã bước qua năm thứ 2.
Căn cứ các quy định hiện hành, người trồng tiêu ở Đắk Ơ nói riêng và trên địa bàn tỉnh nói chung, rất khó được hỗ trợ khoanh nợ vì chưa có công bố dịch đối với hồ tiêu. Có thể công bố dịch hay có một giải pháp có thể khoanh nợ hay không? - là câu hỏi nông dân trồng tiêu đang nợ ngân hàng rất mong có được đáp án. Bởi không có câu trả lời rõ ràng, người dân vẫn nuôi hy vọng, tiếp tục gõ cửa các đơn vị liên quan.
Tại buổi tiếp công dân ngày 12-11-2019, Phó bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Trần Tuệ Hiền kết luận: Giao Ngân hàng Nhà nước tỉnh chủ trì, phối hợp với Sở Tài chính, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn UBND huyện Bù Gia Mập rà soát, tổng hợp, lập danh sách cụ thể từng trường hợp và đề xuất hướng giải quyết báo cáo UBND tỉnh xin ý kiến của Bộ Tài chính và Thủ tướng Chính phủ. Việc miễn, giảm lãi tiền vay, phí cho khách hàng thuộc thẩm quyền của tổ chức tín dụng, do đó ông Nguyễn Công Nhiệm và các hộ dân phải trực tiếp làm việc với các tổ chức tín dụng để được xem xét giải quyết theo quy định.
Xuân Túc - Ngọc Bích
Nông nghiệp - nông thôn: Một năm với nhiều thắng lợi
Nguồn tin: Báo Bạc Liêu
Năm 2019, ngành Nông nghiệp Bạc Liêu đạt được những thành tựu vượt bật. Nổi bật nhất là đã xây dựng các mô hình cánh đồng lúa lớn, cánh đồng tôm lớn, phát triển và nhân rộng các mô hình nuôi tôm siêu thâm canh ứng dụng công nghệ cao. Công tác xây dựng nông thôn mới (XDNTM) đạt được kết quả cao cũng là tiền đề quan trọng để năm 2020 Bạc Liêu hoàn thành mục tiêu XDNTM.
Nuôi tôm siêu thâm canh ứng dụng công nghệ cao trong nhà kín của Tập đoàn Việt - Úc.
Trụ đỡ của nền kinh tế
Năm 2019, sản xuất nông nghiệp phát triển trong điều kiện khó khăn, hạn chế, nhất là ảnh hưởng của bệnh dịch tả heo châu Phi và giá tôm nguyên liệu giảm trong các tháng đầu năm. Song, với sự chỉ đạo sâu sát của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, ngành Nông nghiệp tỉnh đã đạt được những thành tựu đáng phấn khởi, nhất là thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu đúng hướng, góp phần cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh đạt 10,61%. Nông nghiệp tiếp tục giữ vai trò là “trụ đỡ”, duy trì đà tăng trưởng kinh tế chung của tỉnh. Trong đó, phát triển nuôi tôm công nghiệp là chiến lược quan trọng của tỉnh. Bạc Liêu đã và đang xây dựng tỉnh trở thành trung tâm công nghiệp ngành tôm của cả nước và đã có nhiều mô hình nuôi tôm siêu thâm canh đạt hiệu quả rất cao.
Về sản xuất lúa, chất lượng lúa ngày càng được nâng cao từ khâu chọn giống đến sản xuất đại trà. Bên cạnh đó, tỉnh đã phát huy tối đa hiệu quả mô hình lúa - tôm. Năm 2019, toàn tỉnh có 37.000ha sản xuất lúa - tôm và xây dựng 38 cánh đồng lớn. Nhiều công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã đã liên kết sản xuất với nông dân và bao tiêu hàng ngàn héc-ta lúa, tôm.
Tỉnh cũng đã triển khai thực hiện chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) ở các địa phương. Theo dự kiến, năm 2019 sẽ có 7 sản phẩm OCOP đạt từ 3 - 5 sao. Các huyện, thị, thành phố đang lựa chọn các sản phẩm để chứng nhận OCOP cấp huyện.
Năm 2019, công tác XDNTM đã vượt chỉ tiêu nghị quyết đề ra trước một năm. Hiện nay, có 36/49 xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới (NTM), có 4 xã đạt chuẩn NTM nâng cao và 54 ấp đạt chuẩn NTM kiểu mẫu.
Lộ giao thông NTM ở huyện Phước Long.
Thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp
Theo kế hoạch năm 2020, ngành Nông nghiệp tỉnh tập trung thực hiện quyết liệt và đồng bộ các giải pháp, chủ yếu trên lĩnh vực thủy sản, đẩy mạnh phát triển nuôi tôm. Cụ thể là tiếp tục đầu tư các dự án vùng nuôi tôm, sản xuất giống tập trung, Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển tôm Bạc Liêu; triển khai Đề án xây dựng Bạc Liêu trở thành trung tâm ngành công nghiệp tôm cả nước. Hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho người nuôi tôm tiếp cận vốn vay với lãi suất thấp. Mở rộng diện tích nuôi tôm siêu thâm canh, thâm canh và bán thâm canh (đặc biệt là các công ty, doanh nghiệp). Tiếp tục nhân rộng mô hình nuôi tôm 2 giai đoạn; đồng thời phát triển ổn định, bền vững mô hình nuôi tôm sinh thái, nuôi tôm sạch kết hợp với trồng và bảo vệ rừng. Khuyến khích người dân thực hiện liên kết chuỗi sản xuất và bao tiêu sản phẩm trong nuôi trồng thủy sản; xây dựng chuỗi sản xuất tôm đảm bảo an toàn dịch bệnh theo khuyến nghị của Tổ chức Thú y Thế giới và yêu cầu của Úc để có thể xuất khẩu tôm đông lạnh nguyên con sang Úc; tăng cường các giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường nước nuôi tôm công nghệ cao.
Nông dân huyện Vĩnh Lợi thu hoạch lúa bằng máy gặt đập liên hợp. Ảnh: M.Đ
Cùng với đó, phát triển vùng sản xuất lúa hàng hóa chất lượng cao, lúa đặc sản, lúa chịu mặn mang thương hiệu Bạc Liêu (Tài nguyên, Một bụi đỏ...). Xây dựng cánh đồng lớn, nâng cao chuỗi giá trị gia tăng, phát triển bền vững, hiệu quả gắn với xây dựng mối liên kết tiêu thụ giữa doanh nghiệp - nông dân với diện tích gieo trồng 76.000ha (tăng 24.191ha so với năm 2019). Xây dựng vùng sản xuất lúa giống chất lượng cao, sạch bệnh, đáp ứng nhu cầu lúa giống phục vụ sản xuất. Khuyến cáo cơ cấu giống lúa sản xuất đại trà theo hướng giống lúa chất lượng cao trên 90% (trong đó giống lúa thơm, đặc sản từ 50 - 70%). Triển khai thử nghiệm khả năng thích nghi và khả năng chịu mặn để sản xuất lúa trên đất nuôi tôm; xây dựng và phát triển thêm nhiều cánh đồng lớn, vùng sản xuất lúa chất lượng cao gắn kết chặt chẽ với bao tiêu sản phẩm và chế biến gạo xuất khẩu. Nhân rộng mô hình cải tạo vườn tạp, đặc biệt là mô hình xóa các cây trồng không hiệu quả chuyển sang trồng các loại cây có giá trị kinh tế như: chanh không hạt, mít, xoài, ổi... ở một số xã thuộc huyện Phước Long.
Ông Lưu Hoàng Ly, Giám đốc Sở NN&PTNT, cho biết: “Năm 2020, ngành Nông nghiệp tỉnh đẩy mạnh phát triển mô hình tôm sạch, lúa an toàn theo quy trình hữu cơ, từng bước nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm tôm và lúa. Phát huy và nhân rộng các mô hình nuôi tôm siêu thâm canh ứng dụng công nghệ cao. Tiếp tục liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp theo hướng nâng cao chuỗi giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Xây dựng các cánh đồng lúa lớn, cánh đồng tôm lớn; chủ động ứng phó với biển đổi khí hậu. Đặc biệt, năm 2020, tỉnh phấn đấu hoàn thành mục tiêu XDNTM”.
Tại hội nghị lần thứ 30 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (mở rộng), Chủ tịch UBND tỉnh - Dương Thành Trung cho biết: Trong năm 2019, tỉnh có 5 thành tựu kinh tế - xã hội nổi bật. Đó là hoàn thành toàn bộ 20/20 chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu (trong đó có 10 chỉ tiêu vượt, 10 chỉ tiêu đạt); là năm đầu tiên tỉnh hoàn thành 100% chỉ tiêu kế hoạch năm. Về phát triển nông nghiệp - nông thôn, cuối năm 2019, tỉnh đã hoàn thành thông xe ô tô 47/49 xã; hoàn thành chương trình XDNTM đối với 3/7 huyện, và có 36/49 xã đạt chuẩn NTM. So với chỉ tiêu nghị quyết của cả nhiệm kỳ thì chúng ta đã “về đích” trước hơn một năm và vượt 23,5% chỉ tiêu. Tỉnh cũng đã tổ chức chuỗi sự kiện quảng bá tôm Bạc Liêu, góp phần nâng cao vị thế và thương hiệu con tôm Bạc Liêu, khẳng định vai trò là trung tâm ngành tôm Việt Nam.
Minh Đạt
Cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chứng nhận sản phẩm nông nghiệp hữu cơ
Nguồn tin: Hà Nội Mớ
Thông tư 16/2019/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 109/2018/NĐ-CP ngày 29-8-2018 của Chính phủ về nông nghiệp hữu cơ sẽ có hiệu lực từ ngày 18-12-2019.
Theo đó, tổ chức chứng nhận sản phẩm nông nghiệp hữu cơ đăng ký hoạt động chứng nhận sản phẩm nông nghiệp hữu cơ thuộc một lĩnh vực nộp hồ sơ tại cơ quan chuyên ngành của Bộ NN&PTNT, cụ thể như sau:
- Tổng cục Thủy sản là cơ quan tiếp nhận hồ sơ đối với lĩnh vực thủy sản.
- Tổng cục Lâm nghiệp là cơ quan tiếp nhận hồ sơ đối với lĩnh vực lâm nghiệp.
- Cục Trồng trọt là cơ quan tiếp nhận hồ sơ đối với lĩnh vực trồng trọt.
- Cục Chăn nuôi là cơ quan tiếp nhận hồ sơ đối với lĩnh vực chăn nuôi.
Tổ chức chứng nhận đăng ký hoạt động chứng nhận sản phẩm nông nghiệp hữu cơ từ hai lĩnh vực trở lên thì lựa chọn một cơ quan chuyên ngành trong lĩnh vực đăng ký hoạt động chứng nhận để nộp hồ sơ.
Cơ quan cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động thông báo công khai tổ chức được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động trên Cổng thông tin điện tử của Bộ NN&PTNT và của cơ quan cấp chậm nhất sau 5 ngày làm việc kể từ ngày cấp.
Nông nghiệp hữu cơ duy trì cân bằng sinh thái
Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế
Nếu trước đây, một nền sản xuất nông nghiệp thâm canh và gia tăng sản lượng là mục tiêu hàng đầu, thì nay, nông nghiệp đang chuyển dịch dần theo hướng bền vững. Nông nghiệp hữu cơ vì thế được xem là hướng đi lâu dài mang tính tất yếu.
Vùng trồng lúa hữu cơ của Tập đoàn Quế Lâm
Thay đổi tư duy canh tác
Không năm nào, cụm từ nông nghiệp hữu cơ được nhắc đến nhiều như năm 2019. Số diện tích được người dân chuyển từ canh tác thông thường sang sản xuất theo hướng hữu cơ, VietGAP tăng nhanh. Đầu tư cho nông nghiệp hữu cơ không còn là những doanh nghiệp có quy mô mà nông dân cũng bắt đầu “để ý” hơn đến lối canh tác này.
Thay vì mua phân bón hóa học về bón cho cây trồng như mọi khi, 2 năm trở lại đây, ông Nguyễn Phú Tứ ở phường Xuân Phú (TP. Huế) đã tìm kiếm các nguồn phân chuồng từ các trang trại chăn nuôi, bèo tây và các phế phụ phẩm nông nghiệp đưa về cánh đồng và tiến hành ủ với chế phẩm sinh học. Sau 2 tháng ủ và tiến hành đảo trộn, sản phẩm phân hữu cơ được bón trở lại cho cây trồng.
Theo ông Tứ, trước đây, đất trồng kém màu mỡ do dùng quá nhiều phân bón hóa học, chỉ trồng được khoai, sắn hiệu quả không cao. Thế nhưng, sau khi tập trung cải tạo đất, chuyển sang dùng phân hữu cơ tự sản xuất, năng suất chất lượng đất, rau tăng lên. Nếu trước đây 1 sào trồng sắn gia đình cho thu nhập từ 3 triệu đồng/năm thì khi chuyển sang trồng rau hữu cơ mỗi sào gia đình thu được 2,5 triệu đồng/đợt, mỗi năm rau luân canh được 10 đợt nên thu nhập mỗi sào đạt trên 25 triệu đồng/năm. Đầu ra cho rau hữu cơ ổn định và giá bán cao hơn so với canh tác thông thường.
Không chỉ có nguồn phân bón hữu cơ người dân tự sản xuất, người dân, doanh nghiệp và các nhà khoa học cũng đưa ra nhiều ý tưởng và hiện thực hóa quá trình sản xuất hữu cơ bằng các chế phẩm sinh học phục vụ cho việc cải tạo đất trồng 100% hữu cơ.
Mới đây, PGS.TS. Trần Thị Thu Hà, Trường đại học Nông lâm Huế đã nghiên cứu thành công dung dịch thủy phân giàu đạm từ cá phế thải và khô dầu lạc thành nguyên liệu sản xuất nông nghiệp hữu cơ với chi phí đầu vào thấp. Chế phẩm này giúp giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường từ các phế phụ phẩm giàu đạm và ứng dụng để phát triển thủy canh hữu cơ và bán thủy canh không sử dụng hoá chất. Nghiên cứu đang được áp dụng tại hệ thống nhà màng nông nghiệp công nghệ cao của Trường đại học Nông lâm Huế, tại Tứ Hạ, Hương Trà, có triển vọng sản xuất đại trà để cung cấp trong phạm vi cả nước.
Một yêu cầu mang tính tất yếu trong nông nghiệp hữu cơ chính là hướng tới việc duy trì cân bằng sinh thái, đề cao các phương thức canh tác thuận tự nhiên, bảo vệ môi trường và tăng độ phì nhiêu cho đất. Vì thế, xây dựng hệ thống các cơ sở sản xuất phân bón và thuốc bảo vệ thực vật thân thiện với môi trường cần được ưu tiên hàng đầu và điều này cũng đang được người dân, doanh nghiệp hết sức quan tâm. Bằng chứng là những năm qua tình hình sản xuất phân bón hữu cơ (doanh nghiệp sản xuất) được cải thiện, sản lượng sản xuất ngày càng tăng từ 1,2 triệu tấn năm 2017 đến nay con số này đã nâng lên 2,5 triệu tấn và sẽ tăng lên 3,5 triệu tấn trong năm 2020 trên phạm vi cả nước.
Sử dụng chế phẩm hữu cơ trồng rau thủy canh
Sản phẩm chủ lực
Không dừng lại ở phát triển trồng trọt, trên địa bàn nhiều mô hình chăn nuôi hữu cơ cũng bắt đầu xuất hiện, với nhiều mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị hay địa phương đứng ra tổ chức. Trong đó, mô hình hỗ trợ nông dân xây dựng và nhân rộng mô hình chăn nuôi hữu cơ được Phòng Kinh tế thị xã Hương Thủy đầu tư trong 2 năm trở lại đây đã mang lại hiệu quả thiết thực. Từ 2 hộ ban đầu, đến nay thị xã đã thành lập được tổ hợp tác nuôi gà hữu cơ với 12 hộ tham gia (thuộc 3 xã Thủy Bằng, Thủy Phù và Phú Sơn), tạo động lực trong xây dựng sản phẩm chủ lực địa phương.
Ông Văn An, Tổ trưởng tổ hợp tác nuôi gà hữu cơ Hương Thủy chia sẻ, muốn chăn nuôi theo hướng hữu cơ phải đảm bảo rất nhiều yêu cầu. Gà dưới 1 tháng tuổi được nuôi theo cách thông thường, phòng bệnh bằng vắc xin và các loại kháng sinh theo quy trình kỹ thuật nhất định, ăn thức ăn công nghiệp. Tuy nhiên từ sau 1 tháng tuổi, quá trình chăn nuôi phải tuân thủ nghiêm quy trình. Gà được thả vườn và chuyển sang cho ăn hữu cơ hoàn toàn với các loại thức ăn như: bắp, lúa, cám, giun quế, cá tạp, ốc bươu… kết hợp với các loại thảo dược, tỏi nghệ, gừng cam thảo, xông khói bằng bồ kết để phòng dịch, không dùng kháng sinh và thức ăn công nghiệp. Trước khi xuất bán 15 ngày gà chỉ được ăn một số thức ăn thô, thời gian thả nuôi phải trên 4 - 5 tháng để đảm bảo chất lượng thịt thơm ngon.
Các thành viên tổ hợp tác nuôi gà hữu cơ Hương Thủy đang duy trì tổng đàn ở mức 4.600 con/lứa tương đương 11.500 con/năm. “Các thành viên trong tổ có khá nhiều mối liên kết tiêu thụ nên đầu ra rất ổn định. Để đảm bảo đầu ra trước mắt, các thành viên trong tổ thống nhất mở rộng quy mô hoặc nuôi gối lứa để đảm bảo cung cấp khoảng 3.000 con/tháng tức 36.000 con/năm. Mở rộng quy mô, các hộ vẫn phải đảm bảo diện tích chăn nuôi rộng rãi đáp ứng nhu cầu chạy nhảy, tìm kiếm thức ăn của đàn gà và tuân thủ nghiêm quy trình kỹ thuật đã đề ra” ông An thông tin.
Việc định hình tiến đến xây dựng thương hiệu gà hữu cơ Hương Thủy là bước đi vững chắc để tiến đến xây dựng thương hiệu gà đồi Hương Thủy như một sản phẩm chủ lực và là sản phẩm OCOP (mỗi xã phường 1 sản phẩm) trong năm 2020.
Phát triển theo vùng
Theo đánh giá của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lê Quốc Doanh tại hội nghị nông nghiệp hữu cơ được tổ chức mới đây, Thừa Thiên Huế có rất nhiều thế mạnh trong phát triển nông nghiệp hữu cơ. Tập đoàn Quế Lâm là đơn vị tiên phong đặt nền móng và khả năng mở rộng mô hình trên địa bàn. Quan trọng nhất hiện nay là xác định được vùng hữu cơ theo từng nhóm cây trồng từ đó có những đầu tư cụ thể cho từng vùng này.
Điều này cũng đang được hiện thực hóa khi trong tháng 11 vừa qua, Chi cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản, thủy sản tiến hành lấy mẫu đất nước ở đối với một số vùng sản xuất hữu cơ, như: Phong Điền (vùng trồng bưởi da xanh Phong Xuân); Nam Đông (vùng trồng cam Hương Hòa và vùng trồng chuối Thượng Lộ); A Lưới (vùng trồng chuối Hồng Bắc); Phú Lộc (vùng trồng măng tây Lộc Thủy). Kết quả phân tích cho thấy các mẫu đất, nước này đều đạt tiêu chuẩn xây dựng vùng sản xuất hữu cơ.
Ông Hồ Đăng Khoa, Chi cục Trưởng Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm sản thủy sản thông tin, kết quả phân tích là cơ sở để ngành nông nghiệp có những định hướng trong xây dựng vùng sản xuất hữu cơ và hướng đến việc cấp chứng nhận hữu cơ organic nhằm tăng giá trị sản xuất cho sản phẩm nông nghiệp. Năm 2020, chi cục sẽ đầu tư hoàn thiện quy trình, hỗ trợ chứng nhận hữu cơ cho vùng gạo hữu cơ của HTX An Lỗ, măng tây Phú Lộc và mở rộng cho các vùng hữu cơ khác trong thời gian tới.
Bài, ảnh: HOÀNG LOAN
Giá heo hơi vượt 90.000 đồng một kg
Nguồn tin: VnExpress
Nhiều doanh nghiệp tăng giá heo hơi trên mức 80.000 đồng một kg, đẩy giá heo các hộ nuôi nhỏ vượt 90.000 đồng
Công ty Chăn nuôi CP miền Bắc vừa tiếp tục tăng giá heo hơi lên thêm 1.000 đồng một kg, nâng mức giá tại kho lên 81.000 đồng một kg. Mức điều chỉnh liên tục của doanh nghiệp lớn đã khiến thị trường biến động mạnh hơn, đẩy giá heo hơi tại miền Bắc lên tới 92.000 đồng một kg ngày 15/12.
Theo đó, tại Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên giá heo hơi chạm mốc 90.000 - 92.000 đồng một kg. Các địa phương khác ở miền Bắc, giá heo hơi đều ở mức 85.000 - 90.000 đồng một kg.
Giá heo hơi tăng liên tục. Ảnh: Vũ Minh Quân.
Tại các chợ dân sinh, giá thịt heo bình quân đã lên đến 150.000 đồng một kg khiến nhiều người tiêu dùng giảm mua. Đặc biệt, giá thịt ba rọi rút sườn có nơi tăng tới 230.000 đồng một kg.
Khu vực phía Nam, theo các thương lái giá heo dao động 83.000 - 90.000 đồng một kg nhưng rất khó mua vì nguồn cung giảm mạnh.
Báo cáo của Chợ đầu mối Hóc Môn cũng cho thấy, giá heo hơi trong 15 ngày qua tăng 12 giá và cán mốc 81.000 đồng một kg. Lượng heo về chợ cũng giảm dần vài trăm con mỗi đêm. Nếu đầu tháng 12 mỗi đêm chợ xuất bán trên 320 tấn thịt heo, thậm chí lên tới 375 tấn nhưng ngày 15/12 chỉ khoảng 287 tấn. Cũng chính vì nguồn cung giảm nên giá heo mảnh tăng thêm 30.000 đồng chỉ trong 15 ngày, đẩy giá sỉ sườn non cán mốc 145.000 đồng.
Theo lãnh đạo Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai, giá heo hơi đang tăng "chóng mặt" và cán mốc 90.000 đồng một kg ở các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ.
Vị này tiết lộ, lượng heo trong vùng hầu như không còn nhiều do dịch tả heo châu Phi tàn phá quá mạnh. Heo được tái đàn thì chưa thể giết mổ vì trọng lượng nhỏ. Hiện heo lớn trên 100 kg giá tốt nhưng không có để bán.
"Mặc dù giá heo hấp dẫn, số lượng hộ tái đàn còn thấp vì rủi ro chăn nuôi quá cao. Theo tính toán, trước đây giá thành nuôi heo trung bình khoảng 35.000 đồng một kg. Tuy nhiên, hiện các chi phí tăng cao khiến giá thành tăng lên 45.000 đồng một kg. Nếu nuôi thành công người nuôi có thể thu lãi gấp đôi nhưng nếu thất bại họ sẽ lỗ nặng. Do đó, việc tái đàn còn chậm nên không có heo để bán, khiến giá ngoài thị trường tăng phi mã", lãnh đạo Hiệp hội chăn nuôi Đông Nam Bộ lý giải.
Tại buổi họp báo thường kỳ quý IV ngày 12/12, Bộ Công Thương cho biết, sau khi Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo Chính phủ về khả năng thiếu 200.000 tấn thịt heo dịp cuối năm, Bộ Công Thương đã thực hiện chương trình bình ổn hàng hóa, trong đó có mặt hàng thịt heo.
Bộ đã chỉ đạo Sở Công Thương các tỉnh, thành phố theo dõi và căn cứ vào các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp chế biến để phân tích nhu cầu tiêu dùng tại địa bàn, từ đó có những giải pháp cân đối, đưa ra những chỉ đạo kịp thời về nguồn cung.
Bộ Công Thương cũng chỉ đạo các doanh nghiệp, đơn vị phân phối chuẩn bị sẵn các mặt hàng như thủy sản, gia cầm, trứng, trâu bò... để bù đắp cho việc thiếu mặt hàng thịt heo.
Trước đó, Saigon Co.op, Big C, Vissan và nhiều doanh nghiệp cho biết sẽ giữ giá thịt heo và đảm bảo không khan hàng dịp Tết. Còn Sở Công Thương TP HCM cho hay, sẽ xem xét phương án tăng cường nhập khẩu thịt heo từ Brazil, Mỹ, Tây Ban Nha, Bỉ, Canada... Ngoài ra, các doanh nghiệp ở TP HCM cũng đã xây dựng kế hoạch cho thịt heo Tết Nguyên Đán.
Theo Sở Công Thương TP HCM, nhu cầu thịt heo Tết năm nay tăng khoảng 1-2% so với năm ngoái nên sẽ không có tình trạng tăng giá đột biến.
Trong khi đó, ông Nguyễn Trí Công - Chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai cho rằng, việc bình ổn khó có thể thực hiện bởi lượng heo không còn nhiều. Nhiều ý kiến cũng cho rằng, việc nhập khẩu 200.000 tấn thịt heo để bù đắp không đơn giản bởi nguồn thịt heo thế giới cũng bị tác động bởi dịch bệnh, và nhập về thì giá cũng rất cao.
Thi Hà
Triển khai quyết liệt các biện pháp phòng, chống bệnh lở mồm long móng ở gia súc
Nguồn tin: Báo Sóc Trăng
Theo báo cáo của cơ quan chuyên môn ngành thú y địa phương, thời gian gần đây, dịch bệnh lở mồm long móng (LMLM) ở gia súc đã và đang xảy ra tại một số khu vực, trong đó có các tỉnh lân cận Sóc Trăng, như: Trà Vinh, Vĩnh Long.
Trước tình hình như trên thì nguy cơ dịch bệnh LMLM phát sinh và lây lan đến tỉnh Sóc Trăng là rất cao, nhất là khi thời tiết đang có nhiều thay đổi bất lợi và nhu cầu vận chuyển, tiêu thụ gia súc, sản phẩm gia súc tăng trong những tháng cuối năm 2019 và đầu năm 2020; đặc biệt là dịp Tết Nguyên đán 2020 đang cận kề.
Quyết liệt, đồng bộ các biện pháp phòng, chống dịch bệnh động vật trên phạm vi toàn tỉnh. Ảnh: Q.ANH
Thực hiện Công điện số 8799/CĐ-BNN-TY, ngày 23-11-2019 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc tập trung triển khai quyết liệt các biện pháp phòng, chống dịch bệnh LMLM ở gia súc, Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thị xã, thành phố thực hiện một số nhiệm vụ sau: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND các huyện, thị xã, thành phố tập trung và triển khai quyết liệt, đồng bộ các biện pháp phòng, chống dịch bệnh động vật trên phạm vi toàn tỉnh, trong đó lưu ý, tăng cường công tác giám sát để sớm phát hiện ổ dịch, đặc biệt tại những khu vực đã từng xảy ra dịch bệnh và nơi có nguy cơ cao phát sinh dịch bệnh. Đồng thời, tăng cường công tác kiểm dịch, kiểm soát việc vận chuyển động vật, sản phẩm động vật. Đặc biệt là các địa phương có dự án cung ứng con giống gia súc trong các chương trình giảm nghèo cần thực hiện nghiêm công tác kiểm dịch trong việc xuất, nhập con giống theo đúng quy định, đảm bảo không để lây lan dịch bệnh; đồng thời, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
Phổ biến, hướng dẫn đến người chăn nuôi; chỉ đạo các cơ quan chuyên môn và phối hợp các địa phương chủ động giám sát, lấy mẫu xét nghiệm để kịp thời phát hiện và xử lý triệt để các ổ dịch từ khi mới xảy ra, quyết không để lây lan trên diện rộng. Rà soát và tổ chức triển khai tiêm phòng vắc xin LMLM, đảm bảo tỷ lệ tiêm phòng tối thiểu đạt 80% tổng đàn. Tổ chức triển khai đợt vệ sinh tiêu độc khử trùng phòng, chống dịch bệnh LMLM ở gia súc để tiêu diệt các loại mầm bệnh.
Chỉ đạo chấn chỉnh công tác chuyên môn, tổ chức phòng, chống và báo cáo dịch bệnh tại tuyến cơ sở (từ ấp, khóm đến xã, phường, thị trấn, huyện, thị xã, thành phố), bảo đảm thực hiện kịp thời và đầy đủ các biện pháp phòng, chống dịch bệnh theo quy định của Luật Thú y, các văn bản hướng dẫn thi hành luật, văn bản chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Phối hợp các cơ quan liên quan, cơ quan truyền thông trong việc thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền trên hệ thống phát thanh của xã, phường, thị trấn về nguy cơ dịch bệnh và các biện pháp phòng, chống dịch bệnh LMLM. Hướng dẫn người chăn nuôi thường xuyên thực hiện vệ sinh, khử trùng, tiêu độc tại cơ sở chăn nuôi và môi trường xung quanh; thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch bệnh theo quy định và hướng dẫn của cơ quan chuyên môn; tuyệt đối không bán gia súc bệnh, không thả rông gia súc ở địa bàn đang xảy ra dịch bệnh, không vứt xác gia súc chết ra ngoài môi trường.
Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu Đài Phát thanh và Truyền hình Sóc Trăng, Báo Sóc Trăng phối hợp Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND các huyện, thị xã, thành phố tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng bằng nhiều hình thức, nội dung phù hợp để người dân nắm thông tin, biết về nguy cơ, tác hại và các biện pháp phòng, chống dịch bệnh LMLM.
Chủ tịch UBND tỉnh đề nghị các sở, ngành liên quan và UBND các huyện, thị xã, thành phố phối hợp chặt chẽ với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để thực hiện tốt các nội dung nêu trên; đảm bảo công tác phòng, chống hiệu quả bệnh LMLM ở gia súc trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng. Đồng thời giao Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn, đôn đốc việc thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch bệnh động vật; thường xuyên tổng hợp tình hình và báo cáo UBND tỉnh kết quả thực hiện.
Phương Anh
Hội thi Giống gà ta thả vườn tỉnh Tây Ninh
Nguồn tin: Báo Tây Ninh
Hội thi là nơi nông dân giao lưu, trao đổi học tập kinh nghiệm, qua đó thúc đẩy phong trào chăn nuôi gà ta thả vườn...
Sáng 13.12, Chi cục Chăn nuôi và Thú y Tây Ninh tổ chức vòng chung kết hội thi Giống gà ta thả vườn trên địa bàn tỉnh năm 2019.
Các thí sinh chụp hình lưu niệm cùng Ban giám khảo.
Hội thi là nơi nông dân giao lưu, trao đổi học tập kinh nghiệm, qua đó thúc đẩy phong trào chăn nuôi gà ta thả vườn; đồng thời cung cấp những kiến thức mới về kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng chống dịch bệnh, vệ sinh thú y, các kỹ năng thực hành. Đây cũng là nơi kết nối người chăn nuôi với các doanh nghiệp cung cấp giống gà ta tốt.
Để tổ chức hội thi, Chi cục Chăn nuôi và Thú y đã tổ chức điều tra thông tin các hộ chăn nuôi, sản xuất giống, ấp nở gà ta giống (số lượng từ 50 con trở lên/cơ sở) trong tỉnh. Tổng cộng đã chọn 48 hộ, với tổng đàn 6.481 con, trong đó gà mái có 5.669 con, sau đó tập huấn cho các hộ chăn nuôi tham gia hội thi về kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng, phòng chống dịch bệnh và hướng dẫn ghi chép thông tin một số chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển trên gà ta.
Chăn nuôi gà thả vườn- Ảnh minh hoạ
Trải qua vòng sơ tuyển đánh giá đàn gà ta về ngoại hình thể chất, tăng trọng (theo các đặc tính kỹ thuật đã ban hành) và khảo sát thực tế tại hộ chăn nuôi, có 5/48 hộ chăn nuôi có đàn gà ta đạt chất lượng tốt nhất vào vòng chung kết.
Tại vòng chung kết, các thi sinh trải qua 3 nội dung thi, gồm thi kiến thức về sản xuất gà giống, thi nhận diện mẫu vật và xử lý tình huống. Kết quả cuộc thi, thí sinh Nguyễn Thanh Reo (ấp Thanh Phước, xã Thanh Điền, Châu Thành) đạt giải nhất, thí sinh Hồ Thị Nhớ (ấp Bình Long, xã Thái Bình, Châu Thành) đạt giải nhì, thí sinh Phạm Thùy Nga (ấp Suối Muồn, xã Thái Bình, Châu Thành) đạt giải 3; hai thí sinh Nguyễn Văn Bo (ấp Thạnh Lợi, xã Thạnh Bình, Tân Biên) và Lê Văn Minh (ấp Trâm Vàng 3, xã Thanh Phước, Gò Dầu) đạt giải khuyến khích.
Trúc Ly
Tiêu thụ Gà đồi Yên Thế dịp Tết Nguyên đán: Tập trung vào siêu thị, chợ đầu mối
Nguồn tin: Báo Bắc Giang
Tết Nguyên đán Canh Tý 2020 đã cận kề, dịp này, bên cạnh chăm sóc, chính quyền và người dân huyện Yên Thế (Bắc Giang) đang nỗ lực tập trung xúc tiến tiêu thụ gà đồi đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân trong dịp Tết và lễ hội đầu năm.
Liên kết tiêu thụ, quảng bá sản phẩm
Thống kê cho thấy, tổng đàn gà của huyện Yên Thế hiện ở mức hơn 4,3 triệu con. Dự kiến lượng gà bán ra dịp Tết khoảng 2,5 triệu con. Trong đó gà ri lai chiếm khoảng 45%.
Năm nay, để bảo đảm chất lượng, số lượng gà phục vụ người tiêu dùng, bên cạnh hoạt động sản xuất, công tác xúc tiến thương mại (XTTM) đang được các cấp chính quyền quan tâm.
Gà đồi Yên Thế được tiêu thụ tại các siêu thị.
Ông Nguyễn Văn Đông, Trưởng Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện cho hay, ngoài chương trình hỗ trợ của tỉnh, giai đoạn 2018-2021, huyện Yên Thế dành 2,5 tỷ đồng thực hiện đề án phát triển chăn nuôi gà đồi hàng hóa bền vững.
Bên cạnh đó, địa phương tập trung cao tổ chức hoạt động XTTM, tổ chức hội nghị kết nối cung cầu với các tỉnh, TP. Cụ thể, cuối tháng 10 vừa qua, UBND huyện tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư phát triển nông nghiệp, du lịch và tiêu thụ Gà đồi Yên Thế năm 2019.
Trong đó, nội dung trọng tâm nhằm quảng bá và mở rộng tiêu thụ sản phẩm gà cho người chăn nuôi. Thông qua hội nghị, địa phương đã ký biên bản thỏa thuận liên kết tiêu thụ sản phẩm, phối hợp ngăn chặn vận chuyển gà nhập lậu...
Hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp xanh Yên Thế, Công ty cổ phần Giang Sơn là hai đơn vị chủ lực trong hoạt động này. Ông Giáp Quý Cường, Giám đốc HTX Nông nghiệp xanh Yên Thế thông tin, đến thời điểm này đơn vị đã ký hợp đồng bao tiêu gà phục vụ Tết đạt gần 60 nghìn con, tăng gần 30 nghìn con so với năm trước. Đồng thời mở 15 đại lý tiêu thụ gà ở các tỉnh, TP Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, trong đó mở mới 7 đại lý.
Công ty cổ phần Giang Sơn cũng vừa ký hợp đồng tăng nguồn cung cấp gà thịt dịp Tết Nguyên đán cho Tổng Công ty Thương mại Hà Nội (Hapro); Công ty TNHH Sài Gòn Co.op Hà Nội, Công ty Phát triển Cộng đồng VINA Hà Nội lên 30%.
Trước mắt, nhằm tiêu thụ thuận lợi số gà người dân đang chăn nuôi phục vụ dịp Tết, UBND huyện Yên Thế đang chỉ đạo các phòng chuyên môn, doanh nghiệp (DN), HTX, tổ hợp tác tập trung kết nối, cung cấp gà cho các chợ đầu mối, trung tâm thương mại, siêu thị, nhà hàng tại các TP lớn trong cả nước vào dịp trước, trong và sau Tết Nguyên đán 2020.
Trong đó, tiếp tục duy trì các đầu mối tiêu thụ gà đồi dưới dạng tươi sống (gà lông) đối với các thị trường truyền thống như: Hà Nội, Bắc Giang, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hưng Yên, Hải Dương và một số khu công nghiệp ở các tỉnh phía Bắc.
Huyện cũng tích cực phối hợp với cơ quan chức năng trong và ngoài tỉnh thu giữ, xử lý sản phẩm nhái thương hiệu Gà đồi Yên Thế; cùng DN, thương nhân xây dựng điểm thu mua, gắn tem, lô gô thương hiệu gà đồi Yên Thế.
Tăng cường quản lý thương hiệu đến từng hộ chăn nuôi. Bên cạnh đó, địa phương, DN thường xuyên dành kinh phí tích cực quảng bá sản phẩm dưới nhiều hình thức, góp phần tăng nhanh lượng sản phẩm tiêu thụ trên thị trường.
Chú trọng gắn tem truy xuất nguồn gốc
Bên cạnh kết quả đạt được, thực tế cho thấy, so với tổng quy mô đàn gà của huyện, hiện sản phẩm Gà đồi Yên Thế xuất bán ra thị trường ngoài tỉnh vẫn hạn chế, phần lớn gà chưa được gắn tem truy xuất nguồn gốc, mẫu mã sản phẩm không đồng đều.
Bên cạnh đề án phát triển chăn nuôi gà đồi hàng hóa bền vững nhằm nâng cao chất lượng giống gà và xây dựng chỉ giới địa lý của UBND huyện, từ năm 2017 đến nay, Sở Công Thương tích cực hỗ trợ các DN, HTX sản xuất, chăn nuôi gà trên địa bàn huyện gắn tem truy xuất nguồn gốc.
Ông Nguyễn Văn Đông, Trưởng Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Yên Thế: Cuối tháng 8 vừa qua, Gà đồi Yên Thế được Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam tôn vinh là thương hiệu vàng nông nghiệp Việt Nam năm 2019. Đây là cơ hội để sản phẩm tiếp tục được tiêu thụ thuận lợi, nhất là từ nay đến Tết Nguyên đán khi nhu cầu sử dụng thực phẩm tăng".
Tính riêng năm nay, HTX Nông nghiệp xanh Yên Thế và Công ty cổ phần Giang Sơn được hỗ trợ gần 90 nghìn tem truy xuất nguồn gốc theo đề án xây dựng phát triển hàng hóa nông sản cấp tỉnh giai đoạn 2019-2020. Hầu hết lượng tem được hai đơn vị sử dụng trong dịp tiêu thụ gà cuối năm.
Bà Trần Thị Thuyết, thôn Hồng Lĩnh, xã An Thượng - thành viên HTX Nông nghiệp xanh Yên Thế chia sẻ: “Hai dãy chuồng nuôi nhà tôi đang thả hơn 2 nghìn gà ri lai bán Tết. Toàn bộ giống và thức ăn cũng như quy trình chăm sóc gà đều được thực hiện theo đúng quy trình HTX hướng dẫn. Đến kỳ xuất chuồng, gà được HTX thu mua toàn bộ và gắn tem truy xuất nguồn gốc”.
Được biết, hiện mô hình chăn nuôi của hơn 20 hộ thành viên HTX đều được Ban quản trị HTX phối hợp với Công ty giống gia cầm Thụy Phương đưa con giống, thức ăn và thu mua tiêu thụ thành vòng khép kín, ổn định sản xuất, bảo đảm chất lượng sản phẩm. Phần lớn trong số 20 nghìn con gà bán Tết năm nay sẽ được HTX gắn tem truy xuất cung cấp vào các siêu thị, cửa hàng lớn trong và ngoài tỉnh.
Huyện Yên Thế cũng khuyến khích thu hút đầu tư, thành lập mới các DN, HTX, tổ hợp tác, chế biến, tiêu thụ. Thông qua hình thức này, các thành viên tăng cường liên kết với các hộ chăn nuôi, mở rộng thị trường tiêu thụ, bảo đảm những lứa gà khi xuất bán đều được gắn tem truy xuất nguồn gốc.
Thực tế, tem truy xuất là minh chứng chính xác nhất để khẳng định và phân biệt thương hiệu Gà đồi Yên Thế với các sản phẩm gà khác.
Việc gắn tem truy xuất nguồn gốc sản phẩm đối với Gà đồi Yên Thế được xem là bước đi đột phá của địa phương nhằm giải quyết khó khăn gặp phải trong khâu tiêu thụ.
Thời gian tới, UBND huyện tiếp tục chỉ đạo phòng chuyên môn hướng dẫn, giúp đỡ các đơn vị gắn tem trước khi bán ra thị trường. UBND huyện khuyến khích, hỗ trợ các đơn vị mở rộng liên kết với các hộ chăn nuôi trên địa bàn chăn nuôi gà an toàn, bảo đảm chất lượng, có xuất xứ rõ ràng.
Các DN, HTX, chủ trang trại cũng phải chủ động tìm kiếm, kết nối các hợp đồng sản xuất, bao tiêu với các đơn vị, chú trọng gắn tem truy xuất nguồn gốc để dần chiếm lĩnh nhiều thị trường lớn trong, ngoài nước, tăng thu nhập cho người chăn nuôi.
Hoàng Phương
Hiếu Giang tổng hợp