Thái Bình: Đa dạng ‘kênh’ hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh
Nguồn tin: Báo Thái Bình
Thời gian qua, các cấp hội nông dân trong tỉnh Thái Bình đã tạo điều kiện giúp hội viên, nông dân tiếp cận vốn vay và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế. Hiệu quả từ các nguồn vốn vay đã góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo ở các địa phương, đẩy mạnh phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi.
Mô hình nuôi ếch thương phẩm của nông dân huyện Đông Hưng.
Ông Nguyễn Khắc Thành, xã An Hiệp (Quỳnh Phụ) là một trong những hội viên nông dân tiêu biểu của xã. Năm 2016, trên diện tích hơn 3.600m2 đất chuyển đổi, ông Thành trồng hơn 300 cây bưởi diễn, cam canh và dừa. Ngoài ra, ông còn tận dụng ao trữ nước để trồng thêm ấu. Mặc dù mô hình không lớn nhưng trừ chi phí nhân công, phân bón... mỗi năm gia đình thu về hơn 100 triệu đồng tiền lãi. Ông Thành chia sẻ: Tôi mong muốn các cấp, các ngành, nhất là các cấp hội nông dân tổ chức nhiều hoạt động hỗ trợ, tập huấn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới, dạy nghề, tín chấp cho nông dân vay vốn mua vật tư, máy móc nông nghiệp cũng như tiêu thụ sản phẩm để người nông dân yên tâm sản xuất.
Tính đến hết tháng 6/2019, hội nông dân các cấp trong tỉnh đã nhận ủy thác với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Chính sách xã hội giúp 62.340 hộ nông dân vay với tổng dư nợ trên 2.562,122 tỷ đồng.
Cùng với đó, các cấp hội nông dân trong tỉnh đang quản lý và sử dụng có hiệu quả trên 24 tỷ đồng vốn Quỹ Hỗ trợ nông dân giúp cho hộ hội viên vay phát triển sản xuất. Nguồn vốn vay của Quỹ được triển khai đúng tiến độ, đúng mục đích, không có trường hợp hội viên nông dân nợ khê đọng và sử dụng vốn sai mục đích.
Ông Lê Mạnh Cường, Phó Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh cho biết: Ngoài việc hỗ trợ để hội viên được tiếp cận các “kênh” vốn vay, các cấp hội nông dân trên địa bàn tỉnh đã tích cực phối hợp với các cấp, ngành liên quan tổ chức các hoạt động khuyến nông, khuyến ngư, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ mới, xây dựng các mô hình trình diễn để hội viên, nông dân áp dụng vào sản xuất.
Ngoài ra, các cấp hội đã tổ chức 84 cuộc hội thảo, tham quan học tập mô hình cho gần 8.000 lượt hội viên, mở 1.150 lớp tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật cho gần 108.000 lượt hội viên, nông dân; đồng thời mở 115 lớp dạy nghề cho trên 3.800 hội viên. Nông dân sau học nghề có gần 1.300 người có việc làm.
Theo đồng chí Phó Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh: Không chỉ là cầu nối giữa các tổ chức tín dụng với nông dân, các cơ sở hội còn tích cực vận động hội viên, nông dân đầu tư vốn cải tạo vườn tạp, phát triển chăn nuôi, chuyển đổi vùng đất úng, trũng kém hiệu quả sang chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ hải sản đạt hiệu quả kinh tế cao.
Mô hình nuôi ếch cho thu nhập ổn định.
6 tháng đầu năm 2019, toàn tỉnh có 1.777 chi hội tổ chức hưởng ứng phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững, đạt 100%; trong đó có 242.651 hộ hội viên, nông dân đăng ký đạt danh hiệu sản xuất, kinh doanh giỏi các cấp, chiếm 80,1% tổng số hội viên nông dân toàn tỉnh.
Từ phong trào, xuất hiện nhiều tấm gương vượt khó vươn lên, nhiều hội viên, nông dân đã mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất, đạt hiệu quả kinh tế cao, giải quyết được việc làm cho nhiều lao động ở địa phương, góp phần phát triển kinh tế hộ gia đình.
Đến nay, toàn tỉnh có trên 194.000 hộ hội viên, nông dân đạt danh hiệu sản xuất, kinh doanh giỏi.
Tất Đạt
Xây dựng mã vùng trồng cho cây ăn quả: Còn nhiều thách thức. Kỳ 1: Đối mặt với áp lực thị trường xuất khẩu
Nguồn tin: Báo Đắk Lắk
Các thị trường nhập khẩu trái cây của Việt Nam đang ngày càng khó tính. Ngay cả thị trường Trung Quốc từng được xem là dễ tính nhất cũng đã siết chặt bằng các rào cản kỹ thuật. Chính vì vậy, xây dựng mã số vùng trồng là việc làm cấp bách, không những giúp truy xuất nguồn gốc mà còn thắt chặt sản xuất theo quy trình nhất định để đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu. Tuy nhiên, vấn đề cấp mã vùng trồng vẫn còn là một bài toán khó cho ngành chức năng lẫn người nông dân.
Kỳ 1: Đối mặt với áp lực thị trường xuất khẩu
9 tháng năm 2019, kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam đã không đạt như kế hoạch đề ra. Một trong những nguyên nhân là do vướng phải các hàng rào kỹ thuật của các nước nhập khẩu.
Thị trường xuất khẩu ngày càng khó tính
Những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu rau quả của Việt Nam tăng mạnh. Năm 2018, riêng kim ngạch xuất khẩu cây ăn quả đạt 3,13 tỷ USD, tăng 4,8% so với năm 2017 và chiếm 82,05% tổng xuất khẩu rau quả. Trung Quốc là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu trái cây của Việt Nam, với 2,53 tỷ USD, tăng 4,3% so với năm 2017, chiếm 81% giá trị xuất khẩu trái cây. Tiếp theo là Hoa Kỳ 3,94%, Hàn Quốc 3,21%, Nhật Bản 2,99%, Hà Lan 1,65%... Sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam chủ yếu là các loại trái cây nhiệt đới như thanh long, nhãn, sầu riêng, vải, nhãn, xoài, chuối...
Vườn sầu riêng của hộ nông dân trên địa bàn xã Tam Giang (huyện Krông Năng).
Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu rau quả 9 tháng năm 2019 đã có dấu hiệu đi xuống, chỉ đạt 2,84 tỷ USD, giảm 4,3% so với cùng kỳ năm 2018. Trung Quốc vẫn đứng vị trí thứ nhất về thị trường nhập khẩu rau quả của Việt Nam, nhưng cũng đã giảm 10,1% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do giá trị xuất khẩu một số mặt hàng rau quả chính giảm mạnh như: nhãn (giảm 43%), sầu riêng (giảm 20,2%), dưa hấu (giảm 26,3%), chôm chôm (giảm 7,3%)... Và đặc biệt là phía Trung Quốc đang áp dụng các chính sách thắt chặt nhập khẩu tiểu ngạch, đẩy mạnh chính ngạch. Đó là yêu cầu áp dụng truy xuất nguồn gốc đối với sản phẩm nhập khẩu, cụ thể trên bao bì phải có mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói.
Hiện Việt Nam đã có 9 loại trái cây được xuất khẩu chính ngạch vào thị trường Trung Quốc, gồm: thanh long, dưa hấu, vải, nhãn, chuối, xoài, mít, chôm chôm và măng cụt. Riêng quả sầu riêng cũng đã được nước bạn đưa vào danh sách cuối năm 2018, nhưng cho đến nay Việt Nam vẫn còn loay hoay các văn bản pháp lý nên chưa thể đưa vào cung cấp chính ngạch được do bị vướng mắc khâu chứng minh nguồn gốc giống.
Không chỉ ở thị trường Trung Quốc mà đối với các thị trường khó tính khác, ngoài yêu cầu thực hiện những biện pháp kiểm dịch thực vật, các nước nhập khẩu còn cử chuyên gia kiểm dịch thực vật đến làm việc tại Việt Nam để kiểm tra từng lô hàng tươi tại cơ sở xử lý kiểm dịch thực vật trước khi xuất khẩu, bên cạnh các tiêu chuẩn kỹ thuật và mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói, mã số nhà máy xử lý đều phải đạt chuẩn.
Mã vùng trồng chưa nhiều
Để đáp ứng nhu cầu của các nước nhập khẩu, Cục Bảo vệ thực vật (BVTV) đã cấp trên 1.200 mã số vùng trồng và 564 nhà đóng gói, đồng thời tiếp tục cập nhật theo yêu cầu của địa phương. Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ NN-PTNT, hiện nay khối lượng trái cây đạt chứng nhận GAP, được cấp mã số vùng trồng còn rất ít, ảnh hưởng đến ký kết giao ước thu mua, tiêu thụ, hợp đồng xuất khẩu.
Mã số vùng là một chứng nhận mã số định danh cho một vùng trồng trọt nhằm tạo thuận lợi cho việc theo dõi và kiểm soát tình hình sản xuất, kiểm soát chất lượng sản phẩm. Đồng thời, bảo đảm nông sản đưa vào quá trình lưu thông trên thị trường phải đúng nguồn gốc tại vùng trồng đó nhằm hạn chế tình trạng trà trộn sản phẩm nơi khác vào vùng trồng đã được cấp mã số.
Theo ông Nguyễn Quý Dương, Phó Cục trưởng Cục BVTV, để được cấp mã số vùng trồng, diện tích có thể dao động từ 6 - 10 ha/mã và phải là vùng sản xuất tập trung, không có nhà dân hoặc chợ, không chăn thả gia súc, gia cầm bên trong vùng trồng; phải trồng duy nhất một loại giống cây ăn quả. Đáng chú ý là vùng trồng trái cây xuất khẩu có thể không có chứng nhận VietGAP hoặc chứng chỉ tương đương, nhưng việc canh tác trong vùng phải tuân theo quy trình VietGAP hoặc các quy trình tương đương. Bên cạnh đó, tổ chức, cá nhân đăng ký xin cấp mã số phải có sổ sách để bảo đảm việc ghi chép đầy đủ mọi tác động lên cây trồng trong một vụ canh tác (đốn tỉa, chăm sóc, bón phân, phun thuốc…). Đồng thời, phải có một khu vực riêng để tập kết và tiêu hủy bao bì, chai lọ thuốc BVTV, phân bón, hoặc các loại giấy rác của cả vùng trồng. Vùng trồng trái cây xuất khẩu phải sử dụng một bộ thuốc BVTV (thuốc trừ bệnh, trừ sâu và thuốc cỏ) bảo đảm không chứa các hoạt chất hóa học mà nước nhập khẩu cấm sử dụng...
Sầu riêng của Đắk Lắk được trưng bày giới thiệu tại hội nghị về sản xuất cây ăn quả gắn với thị trường tiêu thụ của Bộ NN-PTNT.
Những yêu cầu trên không chỉ là khó khăn của các vùng trồng cây ăn quả trong nước mà còn là một trong những thách thức, rào cản để trái cây Đắk Lắk xuất ngoại, nhất là sầu riêng. Hiện toàn tỉnh hiện có gần 20.500 ha cây ăn quả, với gần 7.200 ha cho sản phẩm, sản lượng bình quân hằng năm đạt gần 160.000 tấn; trong đó sầu riêng gần 7.000 ha, với sản lượng gần 50.400 tấn. Mặc dù chất lượng các loại cây ăn quả ở Đắk Lắk tốt, nhưng sản xuất vẫn còn nhỏ lẻ, chủ yếu trồng xen, khiến việc xây dựng mã vùng trồng gặp nhiều khó khăn hơn. Chính vì chưa có mã vùng trồng nên đầu ra cho sản phẩm trong năm 2019 gặp rất nhiều khó khăn, giá xuống thấp, số lượng thu mua không nhiều.
Theo đại diện Công ty Thái Huyền (ở Bình Phước, chuyên thu mua và xuất khẩu sầu riêng), những năm trước, một năm Trung Quốc đặt 300 - 500 container (1 container là 18 tấn), nhưng năm nay Trung Quốc đặt hàng rất hạn chế. Một trong những nguyên nhân là do sầu riêng của Việt Nam giá cao so với Thái Lan từ 20 - 25 nghìn đồng/kg vì chưa xuất theo đường chính ngạch được, phải đi theo đường khác nên chi phí đội theo cao.
Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho biết, đến thời điểm này Đắk Lắk chưa có loại trái cây nào được cấp mã số vùng trồng, chỉ có 12 cơ sở đóng gói được cấp mã số. Do đó, tỉnh cần nhanh chóng triển khai việc cấp mã số vùng trồng để đầu ra sản phẩm được ổn định.
(Còn nữa)
Minh Thuận
Ùn ứ trái cây xuất khẩu sang Trung Quốc, Bộ Công Thương khuyến cáo
Nguồn tin: Báo Công Thương
Trước tình hình xuất khẩu trái cây sang Trung Quốc ùn ứ như thời gian qua, Bộ Công Thương đã có công văn gửi các địa phương để triển khai các giải pháp giảm thiểu tình trạng này. Đồng thời lập đoàn công tác đến Lạng Sơn để chung sức cùng địa phương giải quyết tình trạng nông sản ùn ứ.
Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), hiện nay đã bắt đầu vào thời điểm chính vụ thu hoạch mặt hàng thanh long để tiêu thụ và xuất khẩu. Tại khu vực cửa khẩu Tân Thanh (tỉnh Lạng Sơn) và cửa khẩu Kim Thành (tỉnh Lào Cai) đã xuất hiện tình trạng ùn ứ nông sản các loại xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, trong đó có thanh long.
Xuất khẩu thanh long sang Trung Quốc gặp khó khăn
Trước tình hình trên, ngày 18/10/2019, Cục Xuất nhập khẩu đã có công văn số 1068/XNK-NS gửi Sở Công Thương các tỉnh Lạng Sơn và Lào Cai. Cụ thể, đề nghị các địa phương cập nhật, đưa thông tin công khai, thường xuyên về diễn biến thông quan xuất nhập khẩu hàng hóa nói chung và nông sản, thanh long nói riêng qua các cửa khẩu trên địa bàn tỉnh; Tiếp tục phối hợp với các cơ quan chức năng liên quan trên địa bàn tỉnh để triển khai kịp thời, hiệu quả các công tác điều phối hoạt động xuất khẩu thanh long (điều tiết phương tiện, phân luồng giao thông, trao đổi với phía Trung Quốc để tăng thời gian làm việc…); Bố trí cơ sở vật chất và nhân lực trong việc cấp Giấy chứng nhận xuất xứ mẫu E nhằm tạo thuận lợi tối đa cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản nói chung và thanh long nói riêng; có thể sắp xếp làm thêm giờ, kể cả ngày nghỉ trong trường hợp cần thiết.
Bên cạnh đó, Cục Xuất nhập khẩu đã có công văn số 1069/XNK-NS ngày 18/10/2019 gửi Sở Công Thương các tỉnh, thành phố vùng trồng thanh long trọng điểm, Hiệp hội Rau quả Việt Nam, Hiệp hội Thanh long tỉnh Bình Thuận đề nghị theo dõi sát diễn biến hoạt động xuất khẩu nông sản nói chung và thanh long nói riêng qua các tỉnh biên giới phía Bắc như Lạng Sơn, Lào Cai, Quảng Ninh, Cao Bằng…. Đồng thời, phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn rà soát công tác sản xuất (diện tích, năng suất, sản lượng, chất lượng…); tiến độ thu hoạch; chủ động theo dõi tình hình giao dịch mua bán trong nước, ngoài nước của các doanh nghiệp trên địa bàn đối với nông sản nói chung và thanh long nói riêng trong mùa vụ năm 2019 để kịp thời có phương án xử lý phù hợp các vướng mắc phát sinh; Phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ, ngành liên quan tổ chức tuyên truyền cho các hộ nông dân, doanh nghiệp về cách phân loại, đóng gói, bảo quản, bao bì nhãn mác phù hợp với yêu cầu của phía đối tác ngay tại nơi sản xuất để quá trình giao nhận thực hiện nhanh chóng; đồng thời hướng dẫn, triển khai tốt công tác truy xuất nguồn gốc, kê khai vùng trồng cũng như các yêu cầu liên quan nhằm đáp ứng quy định, tiêu chuẩn đã thỏa thuận với nước nhập khẩu, tránh gây ảnh hưởng bất lợi đến hoạt động xuất khẩu.
Song song với đó, Cục Xuất nhập khẩu cũng khuyến cáo và đề nghị các doanh nghiệp phối hợp triển khai thực hiện một số nội dung để giảm thiểu tình trạng ùn ứ nêu trên, đặc biệt trong giai đoạn chính vụ thu hoạch để tiêu thụ và xuất khẩu, đồng thời đảm bảo chất lượng hàng hóa, đáp ứng các yêu cầu của nước nhập khẩu, phát huy tối đa lợi ích tiềm tàng từ Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc, tránh gây thiệt hại cho người nông dân và doanh nghiệp.
Cụ thể, theo dõi sát diễn biến hoạt động xuất khẩu nông sản nói chung và thanh long nói riêng qua các tỉnh biên giới phía Bắc như Lạng Sơn, Lào Cai, Quảng Ninh, Cao Bằng… để chủ động kế hoạch sản xuất, đóng gói, giao nhận hàng hóa; điều tiết, giãn tiến độ vận chuyển và giao hàng tại khu vực cửa khẩu Tân Thanh (tỉnh Lạng Sơn) và cửa khẩu Kim Thành (tỉnh Lào Cai) trong thời điểm hiện nay để giảm thiểu ùn tắc và đảm bảo an toàn chất lượng hàng hóa.
Bên cạnh đó, chủ động phân loại, lựa chọn chủng loại và tổ chức đóng gói ngay tại nơi sản xuất đáp ứng yêu cầu của đối tác nhập khẩu (về nhãn mác, bao bì…) trước khi đưa lên khu vực biên giới để quá trình giao nhận hàng hóa diễn ra thuận lợi, nhanh chóng; đồng thời nâng cao chất lượng, nghiêm túc thực hiện các quy định về truy xuất nguồn gốc, kê khai vùng trồng, cơ sở đóng gói cũng như các yêu cầu liên quan nhằm đáp ứng quy định, tiêu chuẩn đã thỏa thuận với nước nhập khẩu, giảm thiểu thiệt hại trong quá trình sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu. Thường xuyên trao đổi thông tin, kịp thời phối hợp với Bộ Công Thương để điều tiết hoạt động xuất khẩu hàng hóa khi cần thiết.
Tại cuộc họp giao ban ngày 21/10, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải yêu cầu, muộn nhất là 22/10, đoàn công tác liên ngành do Cục Xuất nhập khẩu chủ trì, phối hợp các Vụ: Thị trường châu Á, châu Phi; Thị trường trong nước và Tổng cục Quản lý thị trường sẽ có buổi làm việc với tỉnh Lạng Sơn để sớm góp phần giải quyết tình trạng này.
Tình trạng ùn ứ nông sản tại các cửa khẩu Lạng Sơn đã xảy ra từ cuối tuần trước đến nay. Theo báo cáo của tỉnh Lạng Sơn, hiện tượng các xe hàng nông sản dồn về cửa khẩu Tân Thành tăng đột biến bắt đầu từ ngày 15/10. Nếu như trước đây, trung bình số lượng xe chở hàng xuất khẩu thông quan khoảng từ 80 - 150 xe/ngày, thì nay tăng đột biến khoảng trên 250 xe/ngày, chủ yếu là thanh long và một số mặt hàng nông sản khác từ Bình Thuận, Long An, Tây Ninh, Ninh Thuận, Gia Lai, Tiền Giang…
Hiện tượng các xe hàng nông sản ùn ứ khi làm thủ tục thông quan bắt nguồn từ ngày 12/10, khi Hải quan Trung Quốc đưa vào áp dụng hệ thống kiểm tra, giám sát toàn bộ quy trình hàng hóa nhập khẩu. Cụ thể, lực lượng chức năng phía Trung Quốc tăng cường kiểm tra, giám sát tại cổng kiểm soát số 1 đối với phương tiện ô tô, kể cả xe không hàng và có hàng của Việt Nam qua cửa khẩu Tân Thanh vào Trung Quốc. Điều này khiến thời gian làm thủ tục thông quan tăng đáng kể; trước đây không quá 2 phút/xe thì nay mất khoảng 6-7 phút/xe và trung bình một ngày tối đa chỉ thông quan được 120 - 150 xe, so với lúc cao điểm trước đây là 300 xe/ngày. Bên cạnh đó, nguyên nhân khác dẫn đến ùn tắc đó là sự thay đổi phương thức giao chuyển hàng từ phía Trung Quốc.
Dù là thị trường chủ lực của rau quả Việt nhưng kim ngạch xuất khẩu rau quả sang thị trường Trung Quốc trong 9 tháng năm 2019 chỉ đạt 1,9 tỷ USD, giảm 14,4% so với cùng kỳ năm 2018.
Lan Phương
Lợi bất cập hại trong việc bán sầu riêng theo dạng khoán vườn
Nguồn tin: Báo Đắk Nông
Do một số lý do, nhiều nông dân đã bán sầu riêng theo kiểu khoán vườn cây cho thương lái. Hình thức bán sầu riêng này mang lại nhiều thuận lợi cho nông dân, nhưng cũng tiềm ẩn những điều rủi ro...
Lợi ích trước mắt
Bán sầu riêng theo dạng khoán vườn là hình thức được khá nhiều nhà vườn áp dụng lâu nay. Theo đó, các chủ vườn ký hợp đồng giao hẳn vườn cây cho người khác chăm sóc, thu hoạch theo giá thỏa thuận.
Theo ông Nguyễn Quốc Khánh, Chủ nhiệm Câu lạc bộ sầu riêng Thiên Phú (Nhân Cơ, huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông), hình thức này về trước mắt, các nhà vườn không cần phải lo đầu ra sản phẩm. Mặc khác, khi bán khoán vườn cho thương lái, vườn sầu riêng phát triển khá tốt, sản lượng cao, chất lượng sầu riêng thương phẩm cũng tốt hơn. Tuy nhiên, bán khoán vườn cũng có hại, vì thương lái thường chú trọng vào lợi nhuận, nên sử dụng một lượng lớn phân hóa học, thuốc kích thích để bồi bổ, thúc ép cây ra nhiều quả. Do đó, về sau nếu không theo chế độ chăm sóc, bón phân đó nữa thì vườn cây phát triển chậm lại, thoái hóa nhanh, mất năng suất.
Gia đình ông Trần Văn Lâm, ở thị trấn Kiến Đức (Đắk R’lấp) có 3 ha sầu riêng trồng xen đang trong thời kỳ kinh doanh. Hai năm nay, gia đình ông vì thiếu công lao động, không thể chăm sóc vườn sầu riêng được nên đã bán khoán cả vườn cho một thương lái tại địa phương.
Theo ông Lâm, gia đình ông đã thỏa thuận với bên “mua vườn” với giá 40.000 đồng/kg quả và bên mua đặt cọc trước 100 triệu đồng. Những năm trước, dù giá cả sầu riêng lên xuống thất thường, nhưng nguồn thu nhập của gia đình ông Lâm vẫn duy trì mức ổn định. Thế nhưng, vụ sầu riêng vừa qua, vào thời điểm thu hoạch rộ, giá sầu riêng giảm mạnh, thương lái cứ để vậy mà không đến hái. Trong khi sầu riêng đến tuổi thì phải thu hoạch, nếu để lâu ngày sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng của cây, làm giảm năng suất từ vụ sau.
Ông Lâm cho biết: “Khi để sầu riêng lưu quả quá lâu và không kịp thời chăm sóc vườn sau thu hoạch sẽ làm cây bị suy yếu. Đây là những hạn chế khi khoán vườn”.
Ông Nguyễn Quốc Khánh ở thôn 8, xã Nhân Cơ (Đắk R’lấp) luôn tự mình chăm sóc để vườn sầu riêng sinh trưởng, phát triển ổn định
Còn theo Hoàng Tuấn Khanh, ở thôn 8, xã Nhân Cơ (Đắk R’lấp), thương lái nào cũng rất tinh vi khi mua sầu riêng dạng khoán vườn. Vì họ có nhiều kinh nghiệm về thị trường và khả năng dự đoán năng suất, định giá vườn cây trong mỗi mùa vụ… Vì thế, đa số thương lái đều sử dụng các biện pháp để can thiệp vào quá trình sinh trưởng của cây để không bị thua lỗ khi mua khoán vườn.
Qua tìm hiểu, đa số các nhà vườn cho bán sầu riêng khoán vườn cây đều do các lý do bất đắc dĩ như: Thiếu kỹ thuật chăm sóc, thiếu công lao động, thiếu vốn… Cái lợi trước mắt là họ nhận được số tiền lớn một lúc, nhưng sau đó cũng nảy sinh vô số những vướng mắc không mong muốn trong suốt quá trình bán sầu riêng theo dạng khoán vườn.
Thiệt hại về lâu dài
Gia đình bà Lê Thị Hồng, ở xã Quảng Sơn (Đắk Glong), có khoảng 150 cây sầu riêng 8 năm tuổi. Những năm trước, gia đình bà tự chăm sóc, thu hoạch và có thu nhập hàng chục triệu đồng. Theo bà Hồng, vài năm gần đây, do gia đình bận rộn với rẫy cà phê, bơ, do diện tích lớn hơn nên đã cho thương lái thuê lại vườn sầu riêng với giá thỏa thuận theo thị trường.
Cũng theo bà Hồng, những năm gia đình bà chăm sóc vườn sầu riêng bình thường, vườn cây đạt ổn định khoảng từ 7 - 10 tấn quả. Thế nhưng, khi thương lái chăm sóc, năng suất sầu riêng tăng lên 15 tấn quả. Điều này cho thấy, khả năng về kỹ thuật chăm sóc, khai thác vườn cây của người mua sầu riêng là hết sức cao.
Bà Hồng cho biết thêm, những tháng sau thu hoạch, người thuê đã tạo sự tin tưởng cho chủ vườn bằng cách chỉ chăm sóc cây vừa phải. Khi bước vào thời kỳ cây tăng trưởng mạnh, cây cần kích thích mầm hoa, thương lái bắt đầu chăm sóc, phun thuốc kích thích, bón phân một cách ồ ạt, quy trình chăm sóc này họ đều không cho chủ vườn biết. Mặt khác, nếu biết thì chủ vườn cũng không thể lên tiếng vì đã giao toàn bộ vườn cây cho họ chăm sóc theo hợp đồng.
Ông Nguyễn Quốc Khánh, Chủ nhiệm Câu lạc bộ sầu riêng Thiên Phú, cho biết: “Với cách cho thuê này, đa số vườn sầu riêng đạt năng suất rất cao trong những vụ đầu. Càng về sau thì sản lượng sầu riêng càng giảm đáng kể. Bởi nhiều chủ vườn không nắm được mức độ đầu tư phân bón do thương lái sử dụng để chăm sóc theo cho cây lại sức”.
Theo ông Phạm Quang Vượng, Trưởng Phòng Nông nghiệp –PTNT huyện Đắk R’lấp, khi người dân bán khoán vườn sầu riêng thì cái lợi trước mắt là bán được giá đã cam kết, ổn định đầu ra. Trước đây, người dân giao hẳn vườn cho thương lái tự chăm bón, kích thích cây ra hoa, nhưng sau này, nhiều người đã biết được tác hại của việc khoán vườn là sẽ làm cho vườn cây bị suy kiệt, nên đã hạn chế bớt. "Nông dân nên thực hiện hình thức hợp đồng theo kiểu nhà vườn chăm sóc, thương lái chỉ quản lý, bảo quản và thu hoạch. Như vậy, các nhà vườn mới tự bảo vệ được vườn cây và đầu tư phát triển sản xuất một cách lâu dài, bền vững được", ông Vượng khuyến cáo.
Bài, ảnh: Văn Tâm
Giá cà phê giảm, nông dân Gia Lai lo lắng
Nguồn tin: Báo Gia Lai
Thời điểm này, nhiều diện tích cà phê niên vụ 2019-2020 đã chín, buộc người dân phải hái để bán cho các đại lý thu mua. Do giá cà phê xuống thấp hơn những vụ trước nên nhiều nông dân không khỏi lo lắng.
Theo tổng hợp của Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Gia Lai, trên địa bàn tỉnh hiện có hơn 97.000 ha cà phê. Trong đó, diện tích đang kinh doanh là hơn 83.000 ha, còn lại đang ở giai đoạn kiến thiết cơ bản. Khoảng 2 năm trở lại đây, giá cà phê trên thị trường liên tục sụt giảm đã gây nhiều khó khăn cho người trồng.
Giá cà phê xuống thấp khiến nhiều nông dân lo lắng. Ảnh: N.H
Hiện tại, cà phê niên vụ 2019-2020 mới bước vào giai đoạn hái bói trên những diện tích chín sớm. Tuy nhiên, người dân không khỏi lo lắng vì giá cà phê giảm khá sâu so với đầu niên vụ trước. Ông Hà Duy Tùng (thôn7, xã Nghĩa Hòa, huyện Chư Pah) cho hay: “Gia đình tôi trồng 2 ha cà phê. Hiện nay, nhiều cây chín sớm buộc phải hái nếu không quả sẽ rụng lại tốn thêm công nhặt. So với năm ngoái, năng suất cà phê năm nay cao hơn nhờ thời tiết thuận lợi cùng với việc đầu tư chăm sóc, bón phân đầy đủ”. Cũng theo ông Tùng, mới đầu vụ nhưng giá cà phê tươi chỉ 6.000 đồng/kg, trong khi đầu vụ trước là 7.000-8.000 đồng/kg. Nếu giá cà phê duy trì ở mức này, gia đình nào bỏ nhiều vốn đầu tư, phải thuê công chăm sóc, thu hái thì may mắn lắm là hòa vốn bởi năm nay giá phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và nhân công thu hái đều tăng. Hiện giá thuê nhân công hái cà phê đang ở mức 170.000-180.000 đồng/người/ngày.
Cùng nỗi lo này, bà An (làng Dơng, xã Hà Bầu, huyện Đak Đoa) cho biết: “Gia đình tôi có hơn 2 ha cà phê. Đầu vụ thu hoạch trước, giá cà phê tươi ở mức 8.000 đồng/kg, còn phơi khô là 17.000 đồng/kg. Sau khi trừ chi phí đầu tư, gia đình còn khoảng 100 triệu đồng. Còn giá đầu vụ năm nay chỉ 6.000 đồng/kg cà phê tươi, 14.000-15.000 đồng/kg cà phê khô. Trong khi đó, giá công hái hiện tại là 180.000 đồng/người/ngày. Tôi mong thời gian tới giá cà phê sẽ nhích lên để người trồng có điều kiện tái đầu tư cho vụ sau”.
Trong niên vụ 2019-2020, theo đánh giá của Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh, năng suất cà phê ước đạt khoảng 28,1 tạ nhân/ha, tăng 0,5 tạ/ha so với vụ trước; sản lượng ước đạt khoảng 233.580 tấn, tăng 10.880 tấn so với niên vụ 2018-2019. Trao đổi với P.V, ông Hà Ngọc Uyển-Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh-cho biết: Niên vụ 2019-2020, thời tiết thuận lợi nên cây cà phê sinh trưởng phát triển tốt. Tình hình sâu bệnh gây hại tại các vùng trồng cà phê trong tỉnh cũng không lớn, bệnh rụng quả xảy ra ở mức độ bình thường… Vì vậy, năng suất cà phê dự ước sẽ đạt kế hoạch đề ra. Hiện nay, giá cà phê phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu. Do đó, Chi cục khuyến cáo nông dân khi thu hoạch cần quan tâm đến chất lượng sản phẩm. Việc tiêu thụ ổn định sẽ giúp nông dân vượt qua khó khăn, có nguồn thu nhập để tái đầu tư sản xuất trong niên vụ tới.
NGUYỄN HỒNG
Ninh Bình: Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật sản xuất rau giống trên khay tại Yên Ninh
Nguồn tin: Báo Ninh Bình
Với sự hỗ trợ từ Trung tâm ứng dụng Nông nghiệp công nghệ cao và Xúc tiến thương mại nông nghiệp, Sở Nông nghiệp & PTNT, kỹ thuật sản xuất cây giống trên khay đã bước đầu ứng dụng thành công ở vùng sản xuất rau giống của thị trấn Yên Ninh (huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình), giúp nông dân tiết kiệm thời gian, chi phí, tăng chất lượng cây giống.
Ông Vũ Văn Lương (phải) kiểm tra chất lượng cây rau giống gieo trên khay trước khi xuất bán.
Trong sản xuất nông nghiệp, cây giống là một yếu tố đầu vào quan trọng. Để có được cây giống khỏe, ngoài việc lựa chọn giống tốt thì quá trình gieo ươm cây đảm bảo cho cây phát triển tối đa là rất cần thiết. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh, các hộ dân chủ yếu tự gieo ươm cây giống rau trực tiếp trên nền đất. Phương pháp này thực hiện thủ công, tốn nhiều công lao động, phụ thuộc vào các yếu tố thời tiết, hơn nữa khi nhổ cây đem trồng thì cây dễ bị đứt rễ, mất rễ làm ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng và năng suất.
Ông Phạm Đăng Nam, Trung tâm ứng dụng Nông nghiệp công nghệ cao và Xúc tiến thương mại nông nghiệp, Sở Nông nghiệp & PTNT cho biết: Kỹ thuật ươm cây giống trên khay khắc phục được các nhược điểm của việc ươm giống trên đất. Hạt giống được gieo vào từng lỗ trên khay xốp hoặc khay nhựa. Bộ rễ phát triển tới đáy bầu, khi đem trồng cây không bị mất rễ nên rút ngắn thời gian chăm sóc 5 -7 ngày. Khay ươm có thể di chuyển cơ động, dễ dàng mà không ảnh hưởng tới diện tích cây trồng, thuận tiện cho việc chăm sóc, quay vòng nhanh, tiết kiệm thời gian sản xuất.
Đồng thời ươm cây bằng khay cho hiệu quả nảy mầm gần như tối đa, tiết kiệm hạt giống, tránh được sâu bọ, chuột phá hại, thuận lợi cho nhà vườm ươm cây số lượng lớn và cả quy mô hộ gia đình. Kỹ thuật gieo ươm cây giống đã được phát triển và nhân rộng ở nhiều nơi như Lâm Đồng, thành phố Hồ Chí Minh, An Giang, Hà Nội, Hà Nam... Với ưu điểm như vậy, năm 2019, Trung tâm đã triển khai xây dựng mô hình “ứng dụng công nghệ sản xuất cây giống trên khay, giá thể cung cấp cho vùng sản xuất hàng hóa theo đơn đặt hàng trên địa bàn tỉnh” tại thị trấn Yên Ninh, huyện Yên Khánh.
Theo ông Vũ Văn Lương, xóm Trung Lân (thị trấn Yên Ninh, huyện Yên Khánh) thì việc gieo rau giống bằng khay ưu việt hơn nhiều so với gieo trồng truyền thống, lượng hạt giống giảm gần một nửa, đặc biệt là tỷ lệ đậu 100%. Quan trọng hơn, cây giống phát triển ổn định không phụ thuộc vào thời tiết, thời gian gieo cây giống chỉ khoảng 20 -25 ngày là có thể cho ra trồng, giảm 10 ngày so với gieo trồng dưới đất. “Chắc chắn trong thời gian tới kỹ thuật gieo giống trên khay sẽ được nhân rộng và trở nên phổ biến.
Tuy nhiên cần phải nghiên cứu để có một công thức phối trộn giá thể phù hợp hơn”, ông Lương cho biết. Một số nông dân đã sử dụng cây giống do gia đình ông Lân cung cấp để cấy chia sẻ: Rau gieo bằng khay khi trồng ra ruộng có tốc độ phát triển nhanh, không phải mất thêm 3-4 ngày che chắn như rau gieo truyền thống. Đặc biệt, cây chống chịu bệnh tốt, do được gieo trồng bằng giá thể đất sạch, giàu dinh dưỡng.
Mô hình ứng dụng công nghệ sản xuất cây giống trên khay tuy mới triển khai tại Yên Ninh, nhưng nông dân nơi đây đã tiếp thu nhiều kỹ thuật sản xuất tiên tiến, thay đổi thói quen canh tác truyền thống, giảm sức lao động và tăng năng suất, giá trị cây trồng trên cùng 1 đơn vị diện tích. Mô hình có nhiều triển vọng để nhân rộng giúp người dân phát triển vùng trồng rau màu bền vững, khẳng định là địa phương đi đầu về canh tác rau màu trong tỉnh hiện nay.
Bài, ảnh: Hà Phương
Chủ động, linh hoạt sản xuất lúa đông xuân 2019-2020
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Theo thống kê từ các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vùng ĐBSCL, vụ đông xuân 2019-2020, toàn vùng dự kiến xuống giống 1,59 triệu héc-ta lúa đông xuân. Vụ lúa đông xuân có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bố trí mùa vụ sản xuất trong cả năm 2020 nên nông dân cần tham khảo các khuyến cáo của ngành nông nghiệp về cơ cấu giống, thời điểm xuống giống, áp dụng quy trình canh tác, gói kỹ thuật sản xuất phù hợp với từng vùng sinh thái.
Theo khuyến cáo của Cục Trồng trọt, ở ĐBSCL, những vùng có nguy cơ hạn mặn cuối vụ như vùng ven biển Nam bộ các tỉnh Long An, Bến Tre, Tiền Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Kiên Giang) nằm trong khu vực xuống giống sớm từ ngày 10 đến 30-10-2019. Đây là những vùng có nguy cơ thiếu nước vào cuối vụ cần xuống giống sớm để né mặn với diện tích khoảng 400.000ha chiếm khoảng 25% diện tích vụ đông xuân. Lịch xuống giống đợt 1 từ ngày 1-11 đến ngày 30-11-2019; đây là thời vụ chính cho cả 3 vùng thượng, vùng giữa và vùng ven biển với diện tích xuống giống khoảng 700.000ha, chiếm khoảng 42% diện tích kế hoạch. Lịch xuống giống đợt 2 từ ngày 1-12 đến ngày 31-12-2019 với diện tích khoảng 400.000ha, chiếm khoảng 25% diện tích kế hoạch. Một số vùng xuống giống đông xuân muộn kết thúc xuống giống trước ngày 10-1-2020.Việc bố trí thời vụ như trên và chủ động xuống giống sớm, linh hoạt cho những vùng ảnh hưởng của xâm nhập mặn hằng năm tại các tỉnh ven biển sẽ đảm bảo đủ lượng nước cho sản xuất lúa và sẽ hạn chế thấp nhất thiệt hại do hạn, mặn gây ra. Ngoài ra cũng đề phòng khô hạn cục bộ tại một số địa bàn thuộc vùng phù sa ngọt.
Tùy theo tiểu vùng sinh thái, các địa phương ở ĐBSCL sẽ chọn lựa cơ cấu giống phù hợp với địa phương mình. Theo đó, vùng Tây sông Hậu và Tứ giác Long Xuyên ưu tiên áp dụng các giống lúa thâm canh cao, chất lượng khá - tốt; chủ lực là các giống OM5451, OM4900, OM6976, OM2517, OM7347, Đài Thơm 8 và IR50404... Vùng Đồng Tháp Mười ưu tiên áp dụng giống lúa chịu phèn, điều kiện khó khăn mặn trung bình – khá; chủ lực là các giống Đài Thơm 8, IR50404, OM5451, OM6976, OM4900... Vùng phù sa ngọt dọc sông Tiền, sông Hậu ưu tiên sử dụng các giống lúa cao sản chất lượng cao như: OM4900, OM6976, OM4218, OM5451, OM 18, Đài Thơm 8, Jasmine 85... Vùng ven biển Nam bộ ưu tiên áp dụng giống ngắn ngày, thâm canh trung bình - khá, chịu mặn khá như OM2517, OM576, OM5451, OM6976, OM6162, OM 8959, OM 9921, OM9577...
Đông xuân là vụ lúa chính trong năm nên công đoạn làm đất trong vụ này cần phải đầu tư thật kỹ. Nông dân cần dọn vệ sinh đồng ruộng, gia cố bờ bao để quản lý nước. Rơm rạ trên ruộng có thể loại bỏ ra khỏi ruộng hoặc cày vùi và phun nấm Trichoderma sp. giúp cho phân hủy nhanh rơm rạ để giảm ngộ độc hữu cơ. Sau khi thu hoạch lúa xong, gốc rạ được trục để chôn vùi xuống đất sâu và cho ngập nước tối thiểu 3 tuần trước khi gieo sạ; xới đất tơi xốp và san phẳng mặt ruộng. Nông dân cần sử dụng hạt giống đạt tiêu chuẩn chất lượng cấp xác nhận theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Trước khi ngâm ủ nên phơi hạt giống khoảng 1-2 giờ và thử độ nảy mầm. Tùy theo từng vụ, tùy điều kiện sinh thái đất, điều kiện thời tiết và tùy từng nhóm giống nên áp dụng giảm lượng giống từ 60-100kg/ha.
Các nhà khoa học về kỹ thuật canh tác của Viện Lúa ĐBSCL cũng khuyến cáo nông dân phải bón phân cân đối, hợp lý, tránh bón thừa phân đạm. Cần bón phân theo nguyên tắc 5 đúng, kết hợp khoa học với kinh nghiệm và kiểm tra thực tế trên đồng ruộng để gia giảm hợp lý trong từng điều kiện cụ thể, chống thất thoát phân bón, tăng hiệu quả phân bón. Về biện pháp quản lý dịch hại, nông dân phải phối hợp đồng bộ các khâu kỹ thuật như: chọn giống, kỹ thuật canh tác, biện pháp sinh học và biện pháp hóa học vào chiến lược quản lý dịch hại tổng hợp dịch hại trên ruộng lúa. Cần thăm đồng thường xuyên để phát hiện dịch hại kịp thời để phòng trị tương ứng với các thời kỳ sinh trưởng.
Cơ giới hóa khâu cấy lúa ở một địa phương vùng ĐBSCL. Ảnh: CTV
Theo Tiến sĩ Nguyễn Thúy Kiều Tiên, Phó Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, Viện Lúa ĐBSCL đã xây dựng quy trình canh tác lúa bền vững cho 4 vùng sinh thái (vùng ven biển nhiễm mặn, vùng nước lợ, vùng nước ngọt, vùng nhiễm phèn) phù hợp với biến đổi khí hậu vùng ĐBSCL. Đối với vùng ven biển nhiễm mặn, các địa phương cần chú ý nguồn nước ngọt khi canh tác lúa do thiếu nước và nước bị nhiễm mặn vào cuối vụ đông xuân. Ở vùng nước lợ cần chú ý vấn đề tưới tiêu vào cuối vụ đông xuân và ảnh hưởng nước mặn trước vụ hè thu. Đối với vùng nhiễm phèn cần lưu ý tận dụng nguồn nước và bón bổ sung vôi trước khi canh tác nhằm rửa phèn triệt để; nên đào mương xổ phèn trên nền ruộng bị nhiễm phèn. Nhìn chung, quy trình kỹ thuật canh tác sản xuất lúa bền vững cho các tiểu vùng sinh thái canh tác 2-3 vụ lúa/năm ở ĐBSCL là một quy trình động và cần được vận dụng linh hoạt theo tình hình thực tế ngoài đồng ruộng của từng địa phương, trong từng thời điểm cụ thể, từng giống lúa cụ thể.
MINH HUYỀN
Hiệu quả mô hình nuôi dê lấy sữa
Nguồn tin: Báo Thái Bình
Mạnh dạn, sáng tạo trong khởi nghiệp và không lùi bước trước thất bại, anh Đào Nhân Nghĩa, thôn Ngoại Trình, xã Thụy Hà, huyện Thái Thụy (tỉnh Thái Bình) đã từng bước thành công từ mô hình nuôi dê lấy sữa.
Anh Nghĩa thuê lại 2 mẫu ruộng bỏ hoang để trồng cỏ có hàm lượng dinh dưỡng cao cho dê ăn.
Từ bỏ công việc tại UBND huyện, năm 2017, anh Nghĩa đầu tư chuồng trại, mua 8 con dê lấy sữa về nuôi. Bà Vũ Thị Khấm, mẹ anh Nghĩa cho biết: Làm nông nghiệp đã vất vả, nhiều rủi ro, nuôi dê lấy sữa lại chưa có ai làm ở địa phương mình, vốn không có nữa. Lúc đầu tôi không đồng ý cho Nghĩa nuôi dê. Nhưng thấy con gặp thất bại mà vẫn quyết tâm theo đuổi đến cùng nên tôi ủng hộ và mong rằng con sẽ thành công khi theo đuổi ước mơ của mình.
Anh Nghĩa cho biết: Ngoài khó khăn về vốn, khi bắt đầu nuôi dê, có những khó khăn mà mình không lường trước được. Như cỏ trồng cho dê ăn, mình làm theo hướng dẫn, trồng ở vũng đất trũng, cỏ lúc đầu lên xanh tốt, mình cắt cỏ vào dịp có nước đổ ải thì cỏ chết dần. Thức ăn cho dê vì thế cũng không chủ động được. Cùng lúc đó 1 số con dê bị bệnh rồi chết, dê bị sảy thai... Thiệt hại hàng trăm triệu đồng. Lúc con dê đầu tiên bị chết, Nghĩa bị sốc nặng, không ăn, không ngủ, rồi con thứ 2, thứ 3 chết, Nghĩa suy sụp, bởi càng hy vọng bao nhiêu thì càng thất vọng bấy nhiêu. Nhưng rồi Nghĩa lấy lại tinh thần, quyết tâm làm. Anh chị em ở Huyện đoàn và những người chăn nuôi cũng động viên càng tiếp thêm quyết tâm của Nghĩa. Anh cho rằng, mình vấp ngã ở đâu thì đứng lên ở chỗ đấy. Mình phải đứng lên mới có cơ hội. Làm gì cũng có khó khăn, nếu mình cứ gặp thất bại mà bỏ cuộc thì mãi mãi không thành công.
Khi cỏ đã đủ cung cấp, khi dê cho sữa, Nghĩa lại gặp vướng mắc về chế biến, bảo quản nên sữa không đạt yêu cầu. Nghĩa trải lòng: Những khách hàng đầu tiên đều là những khách hàng tiềm năng, khi biết mình có sữa dê, sữa chua dê, họ tìm đến với mình trong khi đó, sản phẩm mình làm ra lại không đáp ứng được lòng mong đợi của họ. Có người tẩy chay, không dùng sản phẩm từ sữa dê của mình. Mình thuê chuyên gia về hướng dẫn, tư vấn và đã lấy lại hình ảnh, chất lượng sản phẩm bảo đảm, sau đó khách hàng quay lại với mình. Hiện tại, họ là khách hàng thường xuyên của mình.
Sau 1 năm, việc chăn nuôi dần ổn định, anh Nghĩa quyết định mở rộng quy mô. Hiện nay, đàn dê của gia đình anh có 60 con, trong đó có 20 con chuyên lấy sữa. Với đàn dê, anh đánh số từng con để tiện theo dõi, chăm sóc. Anh thuê lại 2 mẫu ruộng đã bỏ hoang để trồng các loại cỏ có hàm lượng dinh dưỡng cao làm thức ăn cho dê. Anh Nghĩa cũng tự mày mò, tìm hiểu cách phối trộn thức ăn từ những phụ phẩm nông nghiệp. Bằng cách này vừa giúp anh quản lý được chất lượng nguồn thức ăn, đồng thời giảm bớt đáng kể chi phí chăn nuôi. Mỗi ngày, gia đình lấy được 30 lít sữa tươi. Anh Nghĩa đã đầu tư hệ thống máy móc chế biến các sản phẩm từ sữa dê như sữa tươi thanh trùng, sữa chua dê, sữa chua nếp cẩm tại nhà để từng bước xây dựng thương hiệu sữa dê Thái Bình. Các sản phẩm của anh đã được Sở Công thương, Sở Y tế kiểm định bảo đảm chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm được tiêu thụ tại Thái Thụy, thành phố Thái Bình và Hà Nội. Bà Vũ Thị Nhâm, xóm 4, xã Thụy Hà cho biết: Nhà tôi thường xuyên mua sữa dê của nhà anh Nghĩa, các cháu nhỏ rất thích uống sữa, ăn sữa chua dê của nhà anh Nghĩa. Sữa ngon, hàm lượng dinh dưỡng cao, bảo đảm vệ sinh, tôi yên tâm khi cho trẻ nhỏ dùng.
Sau 2 năm kể từ khi chăn nuôi dê lấy sữa, việc kinh doanh đã thuận lợi và ổn định hơn. Mỗi tháng anh Nghĩa cũng thu về 30 triệu đồng, trừ các khoản chi phí còn lãi 15 triệu đồng. Ngoài ra, anh cũng có thêm thu nhập từ bán dê thịt. Thời gian tới anh dự định đầu tư xây thêm chuồng trại, mở rộng chăn nuôi với quyết tâm xây dựng thương hiệu sữa dê Thái Bình.
Xuân Phương
Giá heo ‘nhảy múa’, cẩn trọng tái đàn
Nguồn tin: Báo Ấp Bắc
Trong những ngày qua, giá heo hơi liên tục biến động theo chiều hướng tăng, thậm chí có 2 - 3 giá/ngày. Các chuyên gia và ngành chức năng nhận định: Đợt tăng giá lần này là thật, không phải ảo như những lần trước. Nguyên nhân là do cả nước đang xảy ra tình trạng dịch tả heo châu Phi, số lượng heo tiêu hủy lớn nên xảy ra tình trạng thiếu hụt thịt heo.
Khi tái đàn heo, người dân cần hết sức cẩn trọng.
MỘT NGÀY 2 - 3 GIÁ
Những ngày qua, giá heo hơi tại tỉnh Tiền Giang liên tục “nhảy múa” và tăng từng ngày. Đầu tháng 10-2019, giá heo hơi được thương lái thu mua trên địa bàn chỉ khoảng 50.000 đồng/kg, thì đến ngày 10-10 đã “nhảy” lên 54.000 đồng/kg. Ngày 16-10, giá tăng thêm 5.000 - 6.000 đồng/kg, lên thành 59.000 - 60.000 đồng/kg. Đến ngày 18-10, giá heo hơi ở một số nơi được thương lái đẩy lên 62.000 - 64.000 đồng/kg (heo đẹp).
Những ngày qua, thương lái Nguyễn Văn Bảy (thu mua heo tại xã Hậu Mỹ Trinh, huyện Cái Bè) “chạy đôn chạy đáo” tìm mua heo. Ông Bảy cho biết, giá heo tăng liên tục từng ngày, từng giờ, nên heo đến ngày xuất chuồng người nuôi không muốn bán vì sợ “hớ”, tiếp tục “neo” heo lại chờ giá lên thêm. Vì vậy, thương lái mua heo về bán cho người tiêu dùng rất khó khăn. Hiện mỗi ngày giá heo tăng 2 - 3 lần, đây là lý do khiến người nuôi chủ động “ém” heo tại chuồng, chờ mức giá cao hơn.
Còn thương lái Nguyễn Khắc Tuấn (xã Mỹ Thành Nam, huyện Cai Lậy) cho biết, đa số heo mà ông mua được thời gian qua là của công ty chăn nuôi lớn. Tuy nhiên, các công ty cũng đã giảm đàn nên số lượng mua không nhiều. Trước đây, mỗi ngày ông mua khoảng 500 - 600 con, còn bây giờ chỉ mua được 200 - 250 con. Hiện giá heo hơi của công ty thấp hơn bên ngoài 4.000 - 5.000 đồng/kg do những công ty này tham gia bình ổn thị trường.
Dù giá heo hơi đang “nhảy múa” theo chiều hướng tăng, nhưng theo nhiều người nhận định, xu hướng giá heo sẽ còn tiếp tục tăng trong những ngày tới.
CẨN TRỌNG TÁI ĐÀN
Đứng bên dãy chuồng heo trống hoác của gia đình, ông Nguyễn Tấn Nghiệp (xã Mỹ Thành Bắc, huyện Cai Lậy) băn khoăn: “Mặc dù đàn heo của gia đình đã bị tiêu hủy cách đây hơn 3 tháng, nhưng đến giờ tôi vẫn chưa dám tái đàn. Vợ chồng tôi đã bàn bạc chuyển hướng sang nuôi con vật khác, nhưng phải cải tạo lại chuồng trại và đầu tư con giống mới, trong khi gia đình đã cạn kiệt vốn vì đàn heo trước rồi”.
Còn ông Nguyễn Văn Minh (xã Hậu Mỹ Trinh, huyện Cái Bè) hiện còn lại được 5 con heo thịt khoảng 70 kg và 2 con heo nái, cho biết giá heo hơi đang ở mức cao kỷ lục nên người nuôi thu lãi lớn, khoảng 3 triệu đồng/con. Mặc dù vậy, gia đình ông không có ý định tăng đàn, mà chờ bệnh dịch tả heo châu Phi hết hoàn toàn mới tính.
“Việc tăng đàn ồ ạt rất dễ làm cho giá heo giảm xuống trong thời gian tới. Cùng với đó là nguy cơ lây lan của bệnh dịch tả heo châu Phi vẫn còn vì bệnh này vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại” - ông Minh tâm sự.
Tiến sĩ Thái Quốc Hiếu, Phó Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y lưu ý: Dịch tả heo châu Phi đã gây thiệt hại lớn cho ngành nuôi heo của tỉnh. Hiện dịch vẫn đang trong giai đoạn lây lan nhưng đã giảm rất nhiều. Vì vậy, các hộ chăn nuôi hạn chế tái đàn, áp dụng các biện pháp an toàn sinh học, chú trọng tiêu độc, sát trùng chuồng trại thường xuyên và liên tục, kể cả chuồng đang nuôi heo, cũng như chuồng đã hết heo để đảm bảo cho dịch không tiếp tục lây lan.
Theo yêu cầu của ngành chuyên môn, nếu người nuôi muốn tái đàn heo thì trước khi tái đàn phải xây dựng, sửa chữa, nâng cấp chuồng trại nhằm đảm bảo các điều kiện an toàn sinh học; có hố tiêu độc, khử trùng ở lối ra, vào; có khu vực cách ly để vệ sinh, tiêu độc, khử trùng con người và phương tiện trước khi ra, vào trại; có hầm, túi ủ biogas đủ đáp ứng yêu cầu xử lý chất thải của trại chăn nuôi, đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường; phải để trống chuồng và thực hiện nghiêm ngặt việc vệ sinh tiêu độc, khử trùng chuồng trại liên tục ít nhất trong 30 ngày trước khi thả nuôi.
Đồng thời, người nuôi phải đăng ký với chính quyền địa phương trước khi tái đàn gồm các thông tin cơ bản: Họ tên, địa chỉ, số điện thoại, nguồn gốc con giống, số lượng, lứa tuổi, trọng lượng bình quân/con heo, ngày dự kiến thả nuôi...
Bên cạnh đó, người nuôi cần chọn mua con giống rõ nguồn gốc ở các cơ sở có uy tín, có giấy chứng nhận kiểm dịch và kết quả xét nghiệm âm tính với bệnh dịch tả heo châu Phi đối với các trường hợp mua con giống ngoài tỉnh; bố trí nuôi cách ly ít nhất 2 tuần trước khi nhập đàn (đối với các trại hiện đang còn heo trong trại), chỉ sử dụng nước máy hoặc nước sông đã được xử lý bằng hóa chất khử trùng nước để cho gia súc ăn, uống, tắm và vệ sinh chuồng trại.
Mong muốn tái đàn là tâm lý chung của nhiều người nuôi heo thời điểm này. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra trong bối cảnh trên địa bàn tỉnh dịch tả heo châu Phi vẫn còn xảy ra, việc tái đàn heo thời điểm này có hợp lý hay chưa?
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Văn Mẫn cho biết, khi đảm bảo công bố hết dịch, các hộ chăn nuôi heo có thể tái đàn, khôi phục chăn nuôi trở lại. Tuy nhiên, quá trình tái đàn cần phải lưu ý, cẩn trọng ở một số điểm như: Cơ sở chăn nuôi đó phải đảm bảo việc áp dụng nuôi theo quy trình an toàn sinh học, không tái đàn ồ ạt và nuôi thăm dò với số lượng nhỏ trước (khoảng 10% năng lực chăn nuôi), sau đó nếu thấy ổn thì mới tăng quy mô lớn hơn. Ngoài ra, các địa phương phải tiếp tục đảm bảo kiểm soát tốt dịch tả heo châu Phi, tổ chức lại chăn nuôi, hạn chế việc chăn nuôi nông hộ, nhỏ lẻ, ưu tiên phát triển các mô hình chăn nuôi quy mô lớn, đảm bảo an toàn sinh học; mở rộng các đối tượng nuôi thay thế…
SĨ NGUYÊN
Ứng dụng chế phẩm sinh học trong chăn nuôi: Vẫn khó nhân rộng
Nguồn tin: Hà Nội Mới
Hiện nay, các hộ dân trên địa bàn thành phố Hà Nội đang đẩy mạnh việc sử dụng chế phẩm sinh học trong chăn nuôi để tăng chất lượng sản phẩm, kiểm soát tốt dịch bệnh. Tuy nhiên, do chi phí đầu tư cao, đầu ra bấp bênh, giá cả thấp... nên hiệu quả chưa cao. Việc sử dụng chế phẩm sinh học trong chăn nuôi mới chỉ dừng lại ở các mô hình nhỏ lẻ mà chưa thể nhân rộng.
Sử dụng chế phẩm sinh học trong chăn nuôi để tăng chất lượng sản phẩm, kiểm soát tốt dịch bệnh.
Theo ông Đặng Văn Duân ở xã Liên Bạt (huyện Ứng Hòa), năm 2019, gia đình ông tham gia mô hình nuôi trồng thủy sản theo hướng VietGAP với quy mô 1ha. Do sử dụng chế phẩm sinh học xử lý môi trường trong ao nuôi và ủ men tỏi cho cá ăn định kỳ trong suốt quá trình nuôi nên cá lớn nhanh, ăn khỏe, tiêu tốn ít thức ăn so với hình thức nuôi truyền thống, bình quân đạt 1,5kg/con. Tuy nhiên, việc sử dụng chế phẩm sinh học trong chăn nuôi còn gặp nhiều khó khăn do chi phí đầu tư tương đối cao, người dân chưa quen ghi chép sổ sách nhật ký chăm sóc, chưa nắm vững kỹ thuật nuôi cá theo phương pháp này.
Bà Cấn Thị Thành ở xã Liệp Tuyết (huyện Quốc Oai) cho hay, gia đình bà đang nuôi 1.000 con gà Mía thả vườn theo hướng an toàn, sử dụng chế phẩm sinh học. Song, đầu ra bấp bênh, giá bán không cao mà đầu tư nhiều hơn 10% so với phương pháp nuôi truyền thống nên việc mở rộng quy mô đàn gà theo hướng sử dụng chế phẩm sinh học đang khiến gia đình bà phân vân...
Về những hạn chế trong việc sử dụng chế phẩm sinh học, thảo dược trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Hà Nội Vũ Thị Hương cho biết: Thực tế cho thấy, các hộ dân sử dụng chế phẩm sinh học và thảo dược chưa đồng bộ; đầu ra của sản phẩm bị lẫn với các sản phẩm thông thường, giá cả còn thấp, chưa tạo được niềm tin với người tiêu dùng... Nguyên nhân chủ yếu do người dân thiếu thông tin, sử dụng chế phẩm sinh học không đồng bộ trong quá trình chăn nuôi, ý thức phòng bệnh cho vật nuôi chưa cao. Thậm chí, nhiều người sử dụng chế phẩm sinh học theo hướng dẫn của người bán hàng và nhãn mác sản phẩm; chưa có định hướng, chưa được tập huấn bài bản về tác dụng của chế phẩm sinh học và chưa hiểu rõ cách thức sử dụng phù hợp với từng đối tượng vật nuôi…
Để phát huy hiệu quả khi sử dụng chế phẩm sinh học trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, theo bà Vũ Thị Hương, người chăn nuôi cần có cơ sở vật chất đầy đủ về chuồng trại; ao nuôi cần bảo đảm phù hợp, hệ thống ao có diện tích mặt nước đủ lớn...
Còn theo bà Cấn Thị Cảnh ở xã Liệp Tuyết (huyện Quốc Oai), để nhân rộng mô hình sử dụng chế phẩm sinh học trong chăn nuôi, các cơ quan chức năng cần tiếp tục đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật mới; tập huấn, phổ biến cho người chăn nuôi áp dụng vào sản xuất mới đạt hiệu quả như mong muốn. Ngoài ra, các cơ quan quản lý nhà nước cần có sự hỗ trợ cụ thể cho những hộ tham gia mô hình sử dụng chế phẩm sinh học trong chăn nuôi về: Xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm thông qua các hội chợ xúc tiến thương mại để thuận lợi trong khâu tiêu thụ…
Chung quan điểm, Trưởng phòng Kinh tế huyện Ứng Hòa Đặng Thị Tươi cho rằng, các sở, ngành cần tham mưu thành phố hỗ trợ người chăn nuôi trong quy hoạch vùng nuôi; xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu sản phẩm chăn nuôi, thủy sản an toàn sinh học... nhằm tăng giá trị và uy tín trên thị trường.
Về vấn đề này, theo Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Nguyễn Xuân Đại, Sở NN&PTNT tiếp tục mở rộng các mô hình khuyến nông, sử dụng chế phẩm sinh học, thảo dược trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản… Tuy nhiên, để đạt hiệu quả tối đa, các địa phương cần đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân về sử dụng chế phẩm trong chăn nuôi. Phương pháp này không chỉ hạn chế dịch bệnh mà còn nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tạo tiền đề cho khâu tiêu thụ thuận lợi…
NGỌC QUỲNH
Hiếu Giang tổng hợp