Tin nông nghiệp ngày 28 tháng 9 năm 2019

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 28 tháng 9 năm 2019

250 gian hàng tham gia hội chợ nông nghiệp quốc tế lần thứ 19

Nguồn tin:  Hà Nội Mới

Sáng 26-9, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tổ chức lễ khai mạc hội chợ Triển lãm Nông nghiệp quốc tế lần thứ 19 - Agroviet 2019 tại số 489 Hoàng Quốc Việt, quận Cầu Giấy, Hà Nội.

Các đại biểu tham gia cắt băng khai mạc hội chợ Agroviet 2019.

Hội chợ Agroviet 2019 có chủ đề “Sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao – hướng tới nền nông nghiệp phát triển bền vững” là hoạt động xúc tiến thương mại quan trọng nhằm giới thiệu thành tựu phát triển nông nghiệp, đặc biệt là các sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của các địa phương.

Hội chợ cũng là cơ hội giúp các doanh nghiệp, người sản xuất đẩy mạnh hoạt động kết nối, giao lưu, xúc tiến thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp. Đồng thời, qua hội chợ mở ra cơ hội cho các tỉnh, thành phố giới thiệu sản phẩm, tiềm năng, thế mạnh, trực tiếp kêu gọi đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở địa phương mình.

Hội chợ Agroviet 2019 có quy mô 250 gian hàng với khoảng 250 đại biểu đại diện các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham dự. Các đơn vị tham gia hội chợ đến từ 30 địa phương có nhiều sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao. Tiêu biểu như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Dương, Hưng Yên, Tây Ninh, Tiền Giang, Hà Nam, Lạng Sơn, Bắc Giang... Ngoài ra, còn có 18 gian hàng của các doanh nghiệp, hiệp hội đến từ các quốc gia: Hàn Quốc, Nga, Trung Quốc và Hà Lan tham dự.

Dự kiến, hội chợ Agroviet 2019 bế mạc vào ngày 29-9.

ĐỖ MINH

Tỷ phú nông dân trẻ dám nghĩ, dám làm

Nguồn tin:  Báo Vĩnh Phúc

Bằng sự năng động, sáng tạo, khát khao làm giàu trên mảnh đất quê hương, chàng trai trẻ Đỗ Trung Kiên, sinh năm 1991, tổ dân phố (TDP) Liên Bình, thị trấn Hợp Hòa, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc kiếm tiền tỷ mỗi năm nhờ mô hình nông nghiệp công nghệ cao.

Anh Đỗ Trung Kiên, TDP Liên Bình, thị trấn Hợp Hòa, huyện Tam Dương kiếm tiền tỷ mỗi năm nhờ mô hình nông nghiệp công nghệ cao. Ảnh Trà Hương

Sau khi tốt nghiệp khoa Công nghệ kỹ thuật xây dựng cầu đường bộ, trường Đại học Công nghệ giao thông vận tải, chàng kỹ sư trẻ Đỗ Trung Kiên có cơ hội đặt chân đến nhiều vùng miền của Tổ quốc.

Đến thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Kiên bị cuốn hút bởi những nông trại công nghệ cao, mô hình trồng rau, củ trong nhà kính. Niềm đam mê với nông nghiệp trỗi dậy, anh quyết định gác lại công việc kỹ sư cầu đường, dừng chân ở mảnh đất này để tìm hiểu, học việc. Sau gần 2 năm học hỏi, trang bị kiến thức và kinh nghiệm, anh "khăn gói" về quê với dự định phát triển mô hình nông nghiệp công nghệ cao.

Anh luôn cho rằng, làm nông nghiệp không thể ồ ạt theo trào lưu mà phải có sự tính toán, cân nhắc thật kỹ để giảm thiểu những tổn thất, rủi ro có thể gặp. Áp dụng công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất là hướng đi tất yếu để xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại. Đã qua rồi thời nông nghiệp phải phụ thuộc vào thời tiết. Một quốc gia có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như Israel cũng có thể trở thành một cường quốc nông nghiệp công nghệ cao. Họ làm được, tại sao chúng ta lại không thể.

Từ trăn trở đó, năm 2017, với số vốn tích cóp được và khoản tiền vay ngân hàng, anh thành lập Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ nông nghiệp Trung Kiên. Để có mặt bằng sản xuất, anh phải tới từng nhà để vận động người dân cho thuê đất. Trước sự nhiệt tình, ý tưởng táo bạo của chàng trai trẻ, nhiều hộ dân ở TDP Liên Bình đã đồng ý cho anh thuê lâu dài 2ha đất nông nghiệp với giá 1,5 triệu đồng/sào/năm.

Có ruộng đất tập trung, có vốn, anh bắt tay vào hiện thực hóa ý tưởng đã ấp ủ bấy lâu. Anh đầu tư gần 3 tỷ đồng để xây dựng hệ thống nhà kính với tổng diện tích hơn 1,1ha, lắp đặt hệ thống tưới nhỏ giọt với các thiết bị châm phân, phun sương, quạt đối lưu tự động.

Quá trình sản xuất nông nghiệp không còn phải phụ thuộc mùa vụ, thời tiết, nên trang trại của anh có thể trồng nhiều sản phẩm trái vụ với năng suất, chất lượng tốt, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ngoài ra, anh còn xây dựng thêm nhà điều hành, sơ chế rộng khoảng 200m2.

Vụ đầu tiên, anh Kiên trồng thử nghiệm dưa lưới, dưa chuột bao tử, ớt chuông, hoa đồng tiền. Nhờ áp dụng đúng quy trình, các giống cây này đều sinh trưởng tốt và hiệu quả cao. Đây cũng là những cây trồng chủ lực của trang trại.

Sau nhiều lần thử nghiệm, dưa lưới và dưa chuột được áp dụng phương pháp trồng trên giá thể, bao gồm: xơ dừa, tro trấu và phân hữu cơ. Anh Kiên đánh giá đây là một phương pháp canh tác mới, an toàn, giúp cách ly các nguồn sâu bệnh từ đất. Anh cũng thường xuyên mời các chuyên gia, kỹ sư nông nghiệp, đoàn khách quốc tế về tham quan mô hình, từ đó, tiếp thu những nhận xét, góp ý để dần hoàn thiện.

Là người đầu tiên đưa cây hoa đồng tiền về trồng thử nghiệm tại địa phương, nhận thấy những giá trị mà nó mang lại, anh mở rộng diện tích canh tác loại hoa này trong nhà kính lên 8.000m2. Mỗi năm, anh thu lãi hơn 1,3 tỷ đồng từ việc trồng hoa đồng tiền.

Với diện tích 3.000 m2 nhà kính còn lại, anh dành cho việc trồng luân canh 2 vụ dưa, 1 vụ ớt/ năm, mang lại lợi nhuận hơn 600 triệu đồng/năm. Các sản phẩm nông nghiệp của trang trại đều có chỗ đứng trên thị trường, đầu ra ổn định.

Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ bán tự động trong sản xuất nông nghiệp không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, đảm bảo tiêu chuẩn an toàn thực phẩm mà còn giúp tiết kiệm nhân công. Trang trại rộng 2ha nhưng anh Kiên chỉ cần thuê 2 nhân công. Vào vụ thu hoạch, anh mới cần thuê thêm nhân công thời vụ.

Anh Kiên chia sẻ, niềm say mê với nông nghiệp cùng với những thành công bước đầu, giúp anh càng thêm gắn bó với lĩnh vực vốn chứa đựng nhiều rủi ro này. Mong rằng, sẽ có thêm nhiều bạn trẻ mạnh dạn thử sức với nông nghiệp công nghệ cao.

Phùng Hải

Hiệu quả sản xuất hồ tiêu hữu cơ sinh học

Nguồn tin: Báo Đắk Nông

Năm 1990, gia đình ông Nguyễn Ninh Hải từ tỉnh Ninh Bình vào thôn 7, xã Nam Bình (Đắk Song, tỉnh Đắk Nông) định cư, lập nghiệp. Sau khoảng thời gian khai hoang, tạo nguồn thu nhập, ổn định cuộc sống, năm 2014 ông Hải bắt tay vào sản xuất hồ tiêu.

Ngay từ khi mới bắt đầu trồng tiêu, ông Hải đã được cảnh báo đây là cây khó tính, dễ nhiễm bệnh chết nhanh, chết chậm. Thực tế do chưa có kinh nghiệm, nên ông Hải chỉ học theo kỹ thuật chăm sóc tiêu của những người đi trước.

Quá trình chăm sóc hồ tiêu, ông Hải sử dụng nhiều phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, chất kích thích, điều hòa sinh trưởng… Do đó, sau một thời gian, rẫy tiêu của gia đình ông có nhiều dấu hiệu ô nhiễm, suy thoái môi trường đất, ô nhiễm nguồn nước, mất cân bằng sinh thái, một số sâu bệnh hại phát sinh, gây thiệt hại cho vườn tiêu.

Mỗi trụ tiêu của gia đình ông Hải đang cho thu hoạch 15 - 20 kg hạt tươi

Thấy cách chăm sóc này có nguy cơ thất bại, vì suốt ngày “tắm” các loại thuốc hóa học cho cây, dẫn đến có nguy cơ dịch bệnh cao, ông Hải đã tự thay đổi cách chăm sóc, giảm dần và không dùng thuốc hóa học. Thay vào đó, ông Hải đã áp dụng quy trình sản xuất hồ tiêu theo hướng hữu cơ sinh học.

Ông sử dụng phân chuồng, các phụ phẩm nông nghiệp ủ hoai mục với men vi sinh, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, diệt sâu bệnh và phòng trừ sâu bệnh bằng các chế phẩm sinh học, không xịt thuốc cỏ mà phát dọn định kỳ. Đến nay, vườn tiêu của ông Hải đã áp dụng quy trình sản xuất hồ tiêu theo hướng hữu cơ sinh học được 4 năm.

Ông chia sẻ: "Canh tác hồ tiêu theo hướng hữu cơ sinh học vừa an toàn với sức khỏe, thân thiện với môi trường, vừa bền vững, năng suất ổn định, nâng cao chất lượng và giá trị kinh tế. Đây cũng là hướng đi tất yếu bảo đảm sự phát triển bền vững cho cây hồ tiêu".

Từ khi sản xuất theo hướng hữu cơ sinh học, vườn hồ tiêu của ông Hải luôn đạt năng suất cao, mỗi trụ tiêu của gia đình ông cho thu hoạch từ 15 - 20 kg, tương đương với 8 - 10 tấn tiêu đen khô/ha. Điều quan trọng hơn, chất lượng hạt tiêu được bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm; không còn tồn dư hóa chất.

Theo chia sẻ của ông Hải, đối với cây hồ tiêu, một loại cây trồng rất nhạy cảm với các thay đổi về điều kiện thời tiết, đất đai, dễ bị các loại dịch hại nguy hiểm tàn phá thì việc sản xuất theo hướng hữu cơ sinh học là rất phù hợp. Tiêu có thể sinh trưởng, phát triển tốt, năng suất bền vững, ổn định, quản lý dịch hại hiệu quả hơn...

Gia đình ông Hải hiện có hơn 3.000 trụ tiêu đang cho thu hoạch. Trung bình mỗi năm gia đình ông thu được khoảng 24 tấn mỗi vụ. Để việc áp dụng quy trình sản xuất theo hướng hữu cơ sinh học mang lại hiệu quả và tìm thị trường đầu ra ổn định, ông Hải đang phối hợp với Công ty tiêu sạch Đắk Nông tiến hành kiểm tra đất, nước để biết được độ PH, chất dinh dưỡng trong đất, tồn dư kim loại nặng để có cách chăm sóc phù hợp và thực hiện các bước để chứng nhận vườn hồ tiêu đạt các tiêu chuẩn hữu cơ, sinh học sau khoảng thời gian áp dụng.

Bài, ảnh: Đức Hùng

Nông dân Cao Văn Luận tiên phong trồng cà phê ghép

Nguồn tin: Báo Kon Tum

Ông Cao Văn Luận ở thôn 3, xã Tân Cảnh, huyện Đăk Tô (tỉnh Kon Tum) triển khai mô hình trồng cà phê ghép đã được 10 năm và chính mô hình này góp phần quan trọng đưa ông trở thành “triệu phú chân đất”.

Cơ duyên trồng cà phê ghép

Được sự giới thiệu của Hội Nông dân xã Tân Cảnh, chúng tôi cùng lãnh đạo huyện Đăk Tô đến thăm mô hình cà phê ghép của gia đình ông Cao Văn Luận. Ông là người đầu tiên ở Tân Cảnh và cả huyện Đăk Tô xây dựng mô hình cà phê ghép. Nhìn vườn cà phê nặng trĩu quả, mọi người đều trầm trồ khen ngợi. Một mùa cà phê bội thu đang hiện hữu tại khu vườn nhà ông Luận. Nhiều cành trĩu quả, ông phải dùng cây chống đề phòng gãy cành.

Ông Cao Văn Luận cho biết, đến nay, mô hình cà phê ghép này của gia đình ông phát triển được 10 năm.

Khi được hỏi, xuất phát từ đâu dẫn đến quyết định trồng cà phê ghép, ông Cao Văn Luận vui vẻ sẻ chia: Năm 2009, tôi được Hội Nông dân xã Tân Cảnh cử tham gia tập huấn về kỹ thuật trồng cà phê tại thị trấn Đăk Tô. Tại buổi tập huấn này, tôi được cán bộ kỹ thuật giới thiệu về mô hình cà phê ghép và những hiệu quả kinh tế mang lại trong thực tế. Tôi bị cuốn hút và say mê lắng nghe từng lời của cán bộ kỹ thuật thuyết giải. Sau đó, tôi tự tìm tài liệu nghiên cứu, đọc kỹ thấy cà phê ghép năng suất và hiệu quả vậy mà sao chưa thấy trồng phổ biến tại địa phương. Đọc tài liệu tôi thấy ưng ý nhất là loại cà phê vối ghép vào gốc cà phê mít. Vì vậy, tôi quyết định tìm đến xã Hòa Thắng (thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk) tìm hiểu, học tập kinh nghiệm trồng cà phê ghép.

Khi tìm hiểu kỹ, ông Luận tìm đến Viện EKaMat, tỉnh Đăk Lăk đặt mua hơn 2.000 cây (mỗi cây giá 6.000 đồng) để về trồng thử. Quá trình trồng thử nghiệm ông được sự hướng dẫn nhiệt tình của cán bộ kỹ thuật của Viện EKaMat nên khi áp dụng vào trồng cây cà phê ghép sinh trưởng và phát triển khá tốt. Sau 3 năm cây cho thu bói và năm đầu năng suất đạt khoảng 15 tấn/ha.

Mở rộng diện tích

Sau khi có kinh nghiệm trong trồng và chăm sóc cây cà phê ghép, ông Luận mày mò, nghiên cứu, tự ghép để phát triển vườn cà phê của mình. Ông chọn giống cà phê vối ghép vào thân cây cà phê mít và để chăm sóc chung cho chúng phát triển song song. Khi ngọn cà phê ghép phát triển tốt, ông bắt đầu chặt dần những cành trên cây cà phê cũ để nhường chỗ cho cà phê ghép phát triển. Cứ vậy, mỗi năm một ít, sau 10 năm kiên trì, đến nay, vườn cà phê 3ha của gia đình ông được thay thế hoàn toàn bằng cà phê ghép.

Cà phê ghép của gia đình ông Luận trĩu quả. Ảnh: PN

Theo ông Luận, so với cà phê vối bình thường, sau khi trồng 3 năm cho thu bói thì năng suất của cà phê ghép cũng cao hơn vài tấn/ha và đã được chứng minh bằng thực tế.

Như để minh chứng cho lời mình nói, ông Luận dẫn chúng tôi tham quan tại vườn cà phê ghép của gia đình ông và so sánh với vườn cà phê ngay sát bên cạnh; thực tế cho thấy, vườn cà phê ghép quả nhiều, dày hơn...

Ông Luận cho biết: So với cà phê cũ, cà phê ghép năng suất cao hơn từ 30-40%. Đơn cử như năm 2018, với diện tích 3ha cà phê ghép, nhà tôi thu được hơn 83 tấn. Còn cũng với diện tích này, trước kia giống cà phê cũ chỉ đạt khoảng 50 tấn. Năm 2018, chỉ riêng bán cà phê tươi, gia đình tôi thu lãi được hơn 300 triệu đồng.

Điều đáng nói, theo kinh nghiệm của ông Luận trồng cà phê ghép 10 năm nay, bản thân ông nhận thấy cà phê ghép có khả năng chịu hạn tốt và hạn chế sâu bệnh.

Trao đổi với chúng tôi, ông Trần Cường - Chủ tịch Hội Nông dân xã Tân Cảnh cho biết: Gia đình ông Cao Văn Luận là hộ gia đình tiên phong trong việc phát triển cà phê ghép. Từ mô hình này và được sự giúp đỡ, hỗ trợ của ông Luận, hiện nay trên địa bàn đã có hàng chục hộ gia đình học tập, triển khai cho mô hình trồng cà phê ghép tại vườn cà phê gia đình. Đến nay, diện tích cà phê ghép xã Tân Cảnh phát triển được hơn 20ha.

Hy vọng, mô hình trồng cà phê ghép của ông Cao Văn Luận tại xã Tân Cảnh sẽ được nhân rộng, phát triển hơn nữa, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo tại địa phương này.

Phúc Nguyên

Giá khoai lang tím Nhật giảm, người trồng trông giải pháp

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

Theo Phòng Nông nghiệp- PTNT huyện Bình Tân (tỉnh Vĩnh Long), khoai lang tím Nhật là loại màu chủ lực được người dân trong huyện tập trung sản xuất, với trên 12.000ha mỗi năm. Đây là loại màu từng mang lại thu nhập rất lớn cho người dân. Tuy nhiên, hiện nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà giá khoai lang tím Nhật sụt giảm liên tục, hiện chỉ dao động từ 150.000- 200.000 đ/tạ.

So với thời điểm từ cuối tháng 7 thì giá khoai lang tím Nhật đã giảm trên 300.000 đ/tạ. Với mức giá trên, người trồng khoai tím Nhật sẽ thua lỗ nặng, từ 5-8 triệu đồng/công, tùy năng suất và chất lượng khoai lang khi thu hoạch.

Chi phí đầu tư sản xuất trên 12 triệu đồng/công khoai đất nhà và trên 14 triệu đồng/công đất thuê. Trong khi, với mức giá như hiện tại khoai lang tím Nhật chỉ bán được từ 6- 8 triệu đồng/công.

Trước thực trạng trên, người trồng khoai lang tím Nhật trên địa bàn huyện Bình Tân rất hoang mang lo lắng, rất cần ngành chuyên môn và Nhà nước có giải pháp hỗ trợ và giải quyết kịp thời.

TRUNG THÀNH

Lâm Đồng: HTX Nam Ban và quyết tâm đồng trà đồng vụ

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Với 35 thành viên là người trồng cà phê xuất sắc tập hợp với nhau thành một tập thể cùng tiến hành trồng cà phê đồng trà đồng vụ, chế biến ướt để nâng cao chất lượng hạt cà phê.

Thành viên HTX Nam Ban trao đổi kỹ thuật trồng cà phê

Cà phê đồng trà đồng vụ

Xưa nay đồng trà đồng vụ thường chỉ dùng cho cây lúa, cây bắp, những cây trồng dễ điều chỉnh thời gian xuống giống. Còn cây cà phê, loại cây công nghiệp dài ngày, việc sản xuất đồng trà đồng vụ là rất khó khăn. Vậy mà mục tiêu đầu tiên của hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp Nam Ban chính là trồng cà phê theo hướng chuẩn hóa quy trình, chăm sóc và thu hoạch cùng thời gian. Ông Trần Văn Xuất, Giám đốc HTX Nông nghiệp Nam Ban cho biết: “Cây cà phê ở Nam Ban đa số là Robusta, nhiều giống, nhiều loại chín sớm, chín muộn, trái to trái nhỏ nên chất lượng không đồng đều, giá bán chưa cao. Vì vậy, chúng tôi quyết tâm sản xuất cà phê theo quy trình chuẩn để có hạt cà phê chất lượng tốt”.

Với trên 82 ha cà phê của 35 thành viên, HTX đã vận động và bà con đã thống nhất chuyển sang trồng giống TR4 và TR11 của Viện Eakmat Tây Nguyên cung cấp. Ông Nguyễn Văn Đông, một thành viên HTX cho biết, hai giống trên cho trái vừa phải nhưng nhân rất to, đồng đều sàng 16 mm, chịu hạn tốt, chín vào tháng 1, năng suất trung bình 5 tấn/ha. Hai giống cà phê trên giúp nông dân bớt công tưới khi thời tiết Tây Nguyên hết mưa, thu hoạch và sơ chế đều đạt hiệu quả. Trong 82 ha của HTX, đã có gần 1 nửa trồng giống cà phê TR4 và TR11 và số diện tích còn lại đang chuyển sang tái canh bằng hai giống trên để đảm bảo giống đồng đều. Ngoài trồng cùng một giống, thành viên của HTX sẽ sản xuất theo chuẩn UTZ, đảm bảo chất lượng hạt cà phê.

Vật tư, phân bón đầu vào chăm sóc cà phê cũng sẽ do HTX cung cấp với giá cả tốt hơn. Giám đốc HTX Trần Văn Xuất đánh giá: “Nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ của thành viên khoảng 240 tấn phân bón và 180 lít thuốc BVTV các loại. Ngoài ra còn nhu cầu của các nông hộ trong khu vực rất cao, chúng tôi sẽ đảm nhận việc cung ứng đầu vào với giá cả phù hợp và kiêm luôn tư vấn kỹ thuật”.

Bao tiêu thu mua ngay khi thành lập

Ngay từ lúc thành lập HTX, Ban giám đốc đã tìm được nhà bao tiêu sản phẩm với những hướng đi rất khả quan. Bà Nguyễn Thị Vinh, Phó Giám đốc Công ty cà phê Hân Vinh, Lâm Hà khẳng định, công ty cam kết hợp tác với HTX, cho giá ưu đãi miễn là sản phẩm đạt chất lượng tốt. Bà Vinh chia sẻ: “Tiêu chuẩn đầu tiên của cà phê xuất khẩu là vườn không được sử dụng thuốc diệt cỏ. Tôi đã cung cấp những thông tin do các nhà rang xay, các công ty xuất khẩu cà phê đòi hỏi để thành viên HTX biết và tuân thủ. Chỉ khi làm ra hạt cà phê chất lượng tốt, giá bán cà phê của chúng ta mới cao, mới tạo được uy tín trong thị trường cà phê thế giới”.

Dự án chuyển đổi nông nghiệp bền vững (VnSAT) đã hỗ trợ lắp đặt một số hệ thống tưới nhỏ giọt cho vườn các thành viên trong HTX. Theo đó, không chỉ sử dụng để tưới nước, hệ thống tưới nhỏ giọt còn hiệu quả trong việc bón phân, giúp giảm lượng phân bón phát tán ra môi trường cũng như tăng hiệu quả sử dụng. Ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt là bước tiến hiệu quả trong canh tác cà phê bền vững.

Để đáp ứng đúng yêu cầu của nhà bao tiêu, HTX xác định tất cả thành viên trồng theo chuẩn UTZ, đảm bảo canh tác cà phê đúng kỹ thuật và giảm chi phí sản xuất tốt đa. Đặc biệt, việc sử dụng thuốc diệt cỏ bị cấm, HTX đề nghị thành viên hạn chế cỏ bằng các biện pháp sinh học như nuôi gà, nuôi ngỗng diệt cỏ trong vườn. Có nông hộ áp dụng trồng cây che bóng như sầu riêng, cà phê, mác ca, cây che bóng sẽ hạn chế cỏ mọc rất hiệu quả. Theo tính toán, niên vụ 2019, HTX cung ứng 80 tấn cà phê nhân chất lượng cao và sẽ tăng theo từng năm, 100% sản phẩm đạt chuẩn đúng quy định.

Tới vụ thu hoạch, do đồng trà đồng vụ, cà phê chín vào tháng 1 nên HTX chia từng nhóm 5-6 hộ gần nhau cùng thu hoạch và sơ chế. HTX yêu cầu xã viên hái chín, phơi ngay trong ngày, không để hạt bị đen. Đặc biệt, HTX cà phê Nam Ban sẽ áp dụng phương pháp chế biến ướt với hạt cà phê Robusta. Với cà phê chế biến ướt, công ty Hân Vinh cam kết thu mua với giá cao hơn 10-12 ngàn đồng/kg so với cà phê chế biến khô và sản lượng thu mua không hạn chế. Đây cũng là hướng mở để HTX cà phê Nam Ban nâng cao giá trị hạt cà phê đồng thời lan truyền sức mạnh cho những người nông dân vùng cà phê cao nguyên.

DIỆP QUỲNH

Người nông dân hơn 20 năm gắn bó với cây bưởi Phúc Trạch

Nguồn tin: Khuyến Nông VN

Nói đến bưởi Phúc Trạch phải nhớ đến huyện miền núi Hương Khê (Hà Tĩnh), nơi đây được xem là cái “nôi” hình thành nên một loại quả đặc sản đã có thương hiệu trên mọi miền. Và những người nông dân nơi đây đã cùng với cây bưởi Phúc Trạch trải qua nhiều thăng trầm để đến bây giờ loại quả này vẫn giữ nguyên được độ ngon, ngọt đúng với hương vị của nó. Là một người nông dân cần cù, chịu khó, ham học hỏi và đầy ý chí quyết tâm, ông Lê Văn Tỵ ở xóm 8, xã Hương Thủy (Hương Khê, Hà Tĩnh) đã gây dựng và phát triển giống bưởi thương hiệu này hơn 20 năm nay.

Ðến xã Hương Thủy, huyện Hương Khê, tìm đến vườn bưởi của người nông dân Lê Văn Tỵ để tìm hiểu mô hình trồng bưởi đạt hiệu quả, mới thấu hiểu được công lao vất vả của người ươm mầm và phát triển giống bưởi Phúc Trạch tại huyện miền núi này. Nhìn những gốc bưởi đã hơn 20 năm tuổi mà vẫn tràn đầy sức sống, thế mới biết rằng ông đã bỏ ra biết bao mồ hôi công sức để có được trang trại bưởi trù phú như hôm nay.

Đứng bên những gốc bưởi “già” và ông nhớ lại những năm tháng đầy khó khăn khi mới lập nghiệp, “mới đó mà những gốc bưởi này đã 20 năm tuổi rồi”. Ngày ấy, còn vất vả nhiều lắm. Là xã miền núi, nắng thì nứt đất nẻ đai, mùa mưa thì ngập lụt. Hương Thủy về mùa này nghe chuẩn bị mưa bão là người dân đã chuẩn bị tinh thần để “sống chung với lũ” rồi. Vì thế, làm lúa, làm màu cũng khó khăn lắm. Cứ nghĩ, ngày trước cha mẹ cứ trồng mì, trồng khoai khi được khi mất, cuộc sống khó khăn biết bao. Lúc đó, vợ chồng tôi cũng trăn trở mãi để tìm hướng làm ăn. Trong lúc đang bế tắc thì năm 1994, khi Nhà nước triển khai giao đất, giao rừng theo Nghị định 02/CP của Chính phủ cho các hộ gia đình, tập thể sử dụng lâu dài vào mục đích phát triển lâm nghiệp, vợ chồng tôi đã nhận khu đồi này và quyết tâm lập nghiệp. Những năm đó, giao thông đi lại khăn, hai vợ chồng đã phải tốn biết bao công sức mới cải tạo được vùng đồi này trở thành trang trại trồng bưởi như bây giờ. Lúc đầu thì tôi kết hợp trồng keo tràm, trầm gió và một số loại cây ăn quả với chăn nuôi bò. Trong vườn nhà thì nuôi thêm gà, lợn với mục đích “lấy ngắn, nuôi dài”, vì thế cuộc sống của gia đình tôi dần được cải thiện.

Sau nhiều lần tìm hiểu thì đến năm 1998, ông Lê Văn Tỵ đã mua được một ít giống bưởi để trồng thử nghiệm xem thích nghi với vùng đất này không. Cũng phải trải qua biết bao lần thất bại nhưng với ý chí kiên trì, quyết tâm và cả sự sáng tạo, ông đã dần đúc rút được nhiều kinh nghiệm và nhận thấy cây bưởi Phúc Trạch rất phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng nơi đây. Từ đó, ông dần tìm đến các trung tâm giống cây trồng nhằm tìm giống bưởi Phúc Trạch đảm bảo chất lượng để mua về trồng. Đến tận bây giờ, ông Tỵ đã khẳng định được vườn bưởi gia đình có thương hiệu đến các tỉnh thành trên cả nước.

Đặc biệt, năm 2016, Trung tâm Khuyến nông tỉnh đã thực hiện mô hình trồng bưởi Phúc Trạch theo tiêu chuẩn VietGAP và ông đã mạnh dạn tham gia mô hình. Là người trồng bưởi có thâm niên cộng thêm tính ham học hỏi nên khi tham gia mô hình này, ông đã nhanh chóng nắm bắt được các quy trình kỹ thuật cần chú trọng theo từng thời điểm cũng như giúp ông nắm rõ hơn đặc tính của cây bưởi, cách đầu tư, chăm sóc hợp lý để giảm chi phí đầu tư nhưng vẫn đảm bảo được hiệu quả về chất lượng và năng suất đến khi thu hoạch. Vì thế, vườn bưởi của gia đình ông Tỵ năm nào cũng sinh trưởng, phát triển tốt, cho năng suất cao nhất nhì so với các hộ dân trồng bưởi trong toàn xã. Không những thế, những quả bưởi của gia đình ông luôn có mẫu mã đẹp, vị ngọt, ngon nên bán được giá thành cao hơn.

Ông Lê Văn Tỵ bên vườn bưởi Phúc Trạch sai trĩu quả của gia đình

Đến nay, ông đã dần mở rộng diện tích lên 4 ha, ngoài 300 gốc đã cho quả thì còn có thêm 200 gốc được trồng mới từ 2 đến 3 năm tuổi. Bình quân mỗi gốc bưởi như vậy có từ 100 -130 quả cho thu hoạch. Năm nào, cứ gần đến mùa thu hoạch, vườn bưởi nhà ông đều được thương lái đặt hàng, ước tính, mỗi năm gia đình ông thu lợi trên 500 triệu đồng từ cây bưởi.

Ông Lê Văn Tân – Phó Chủ tịch UBND xã Hương Thủy cho biết: Năm nay, do nắng hạn kéo dài, đến mùa thu hoạch lại gặp mưa lũ nên hầu hết năng suất bưởi trên toàn xã có giảm đáng kể nhưng chất lượng bưởi không hề thua kém các năm trước. Ông Lê Văn Tỵ là một trong những hộ dân có thâm niên trồng bưởi Phúc Trạch và là người đi đầu, nhạy bén trong việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật thâm canh vườn bưởi nên trang trại trồng bưởi của ông luôn mang lại hiệu quả cao hơn so với nhiều hộ khác trong xã. Bên cạnh chăm sóc tốt vườn bưởi gia đình, ông luôn sẵn sàng chia sẽ kinh nghiệm trồng bưởi của mình với các hộ dân xung quanh cũng như đến tham quan tại vườn. Ông Lê Văn Tỵ xứng đáng là tấm gương điển hình làm kinh tế giỏi tại địa phương./.

Nguyễn Hoàn - Trung tâm Khuyến nông Hà Tĩnh

Xuất khẩu 65 ngàn trái dừa nguyên liệu sang Ấn Độ

Nguồn tin: Báo Đồng Khởi

Thu mua dừa nguyên liệu.

Ông Lê Hoàng Phúc - Giám đốc Hợp tác xã (HTX) nông nghiệp Châu Hòa, huyện Giồng Trôm (tỉnh Bến Tre) cho biết, HTX vừa xuất khẩu thành công 2 container dừa khô, tương đương 65 ngàn trái sang Ấn Độ vào cuối tuần qua, với giá thu mua tại vườn cho người trồng dừa là 90 ngàn đồng/chục (12 trái).

“Đây là lô hàng xuất khẩu đầu tiên của HTX và là bước đệm để HTX tiếp tục tìm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu, góp phần ổn định giá dừa trái nguyên liệu cho người trồng dừa tại địa phương. HTX chuẩn bị xuất khẩu lô hàng kế tiếp sang thị trường này” - ông Lê Hoàng Phúc phấn khởi cho biết.

Cùng với xuất khẩu trái dừa khô, HTX đang chào hàng tại thị trường này đối với trái dừa xiêm xanh.

HTX hiện có 372 thành viên tham gia, với số tiền đóng góp 1,5 tỷ đồng. Cũng theo ông Lê Hoàng Phúc, hướng tới HTX sẽ tích cực vận động thêm nhiều thành viên tham gia vào các hoạt động của HTX như hợp đồng cung cấp vật tư nông nghiệp và thu mua nông sản.

Tin, ảnh: C. Trúc

Nâng cao chất lượng quả bưởi từ sử dụng chế phẩm sinh học

Nguồn tin: Báo Phú Thọ

Cán bộ Chi cục Trồng trọt và BVTV hướng dẫn người trồng bưởi sử dụng bẫy bả để phòng trừ bệnh ruồi đục quả.

Cây bưởi đã trở thành một trong những loại cây chủ lực giúp người dân ở nhiều huyện trên địa bàn tỉnh Phú Thọ thoát nghèo, vươn lên làm giàu. Tuy nhiên, càng ngày người tiêu dùng càng có yêu cầu khắt khe hơn về mẫu mã cũng như chất lượng quả bưởi. Trước yêu cầu đó, ngành nông nghiệp đã nghiên cứu để tìm giải pháp nâng cao chất lượng quả bưởi.

Ông Nguyễn Hồng Thiết, Trưởng phòng Kỹ thuật, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho biết: Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, chất vi lượng và các axitamin có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng bưởi quả, khi được cung cấp đầy đủ cây sẽ sinh trưởng bền, chống chịu tốt hơn với điều kiện ngoại cảnh, quả khi chín có vị đậm, độ ngọt hơn, màu sắc đẹp hơn và thuận tiện hơn trong bảo quản. Tuy nhiên, chất vi lượng và các axitamin chỉ có trong phân hữu cơ và một số chế phẩm, phân bón qua lá, đa số không có ở các phân hoá học tổng hợp thông thường. Cách tốt nhất là người trồng bưởi nên tận dụng và thu gom các nguồn hữu cơ xung quanh như rơm rạ, thân cây ngô, đậu đỗ, bèo, mùn cưa,... chất thải trong chăn nuôi và sử dụng các chế phẩm có chứa vi sinh vật để xử lý, ủ thành dinh dưỡng quan trọng cho cây bưởi.

Nhận thức được tầm quan trọng của dinh dưỡng nói chung và dinh dưỡng vi lượng nói riêng tới chất lượng bưởi, người dân trồng bưởi ở nhiều nơi trong tỉnh đã chủ động và có những kiến thức nhất định để chăm sóc vườn bưởi nhà mình. Ông Trần Ngọc Toàn ở thôn Lã Hoàng, xã Chí Đám, huyện Đoan Hùng chia sẻ: “Hàng năm gia đình tôi thu gom và ủ gần 20 tấn phân hữu cơ để bón cho gần 3ha bưởi, phân hữu cơ sau khi ủ hoai mục được bón sau đợt thu hoạch. Một số phân khác được bón khi cây ra hoa, nuôi quả từ tháng 2 đến khoảng tháng 6, 7. Khi sử dụng phân hoá học tôi rất thận trọng, vì nếu bón thừa là chất lượng quả kém ngay, sâu bệnh lại phát sinh nhiều. Còn phân chuồng thì bón càng nhiều càng tốt, nếu ủ kỹ chất lượng quả càng cao, hạn chế được tối đa chi phí do phải mua phân hóa học, vừa tốt cho đất và đỡ ảnh hưởng đến môi trường. Ngoài ra tôi còn sử dụng bón phân qua lá chủ yếu tập trung vào thời gian từ hình thành nụ cho đến tháng 4,5 để hạn chế rụng hoa, quả”.

Ngoài việc nâng cao nhận thức về sử dụng phân bón và dinh dưỡng cho cây bưởi, chương trình xây dựng mô hình nông nghiệp thông minh với biến đổi khí hậu (CSA) và truyền thông về cây bưởi đang hướng dẫn bà con tăng cường sử dụng các chế phẩm sinh học để hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hoá học vì đây là những vật tư có ảnh hưởng xấu đến chất lượng sản phẩm và môi trường. Qua tìm hiểu thị trường cho thấy, những năm gây đây công nghệ sinh học và vi sinh đã được ứng dụng nhanh trong sản xuất. Phân bón vi sinh chế phẩm sinh học được thực hiện đa dạng hơn, nhiều nhà vườn sau đầu tư đã tăng được chất lượng quả, môi trường, sinh thái được cải thiện.

Đây là nguồn nguyên liệu rẻ tiền, sẵn có, nếu người trồng bưởi không có điều kiện mua sản phẩm bán sẵn trên thị trường thì có thể tự ủ phân, khi thực hiện cần lưu ý sử dụng những men có chứa vi sinh vật để vừa phân giải chất hữu cơ thành mùn vừa có tính chất đối kháng với nấm bệnh. Với cách làm này, người trồng có thể tiết kiệm được tới 50% chi phí mua phân, giảm tới 20-30% chi phí sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.

Ngoài sử dụng chế phẩm sinh học trong chăm sóc bưởi, hiện nay người trồng bưởi, đặc biệt ở các vùng chuyên canh về bưởi đã chuyển dần việc sử dụng thuốc BVTV hóa học sang sử dụng thuốc BVTV có nguồn gốc sinh học, chế phẩm dẫn dụ để phòng trừ các loại sâu bệnh thường gặp trên cây bưởi. Bà Đỗ Thị Sơn ở khu 15, xã Bằng Luân, huyện Đoan Hùng cho biết: Ruồi vàng hại quả là một trong những đối tượng gây hại nguy hiểm cho cây bưởi. Trước đây, gia đình tôi thường bị giảm tới hơn 30% sản lượng vì ruồi vàng, trong khi đó vẫn phải chi phí mua và phun thuốc bảo vệ thực vật. Từ năm 2017 tới nay, tôi cùng nhiều hộ khác được cán bộ BVTV hướng dẫn đã chuyển hướng sang sử dụng chế phẩm dẫn dụ để tiêu diệt ruồi vàng, treo bẫy bả từ tháng 5 cho tới hết tháng 8, tình trạng ruồi vàng gần như không còn.

Việc sử dụng chế phẩm sinh học trong chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh đã giúp nâng cao chất lượng quả ở vùng bưởi Đoan Hùng. Đây là giải pháp được ngành nông nghiệp khuyến khích người dân nên tăng cường sử dụng không chỉ trên cây bưởi mà đối với tất cả các loại cây trồng khác vì nó giúp giảm chi phí, tận dụng được nguồn nguyên liệu sẵn có, góp phần cải tạo đất bạc màu, hạn chế được tình trạng gây ô nhiễm môi trường đất, nước và thích ứng với tình hình biến đổi khí hậu hiện nay.

QUÂN LÂM

Đắk Lắk: Những mô hình chuyển đổi cây trồng hiệu quả

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nhiều nông dân đã mạnh dạn ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đã tìm thấy cơ hội “đổi đời”.

Trở thành triệu phú nhờ trồng xoài

Năm 2008, gia đình chị Nguyễn Thị Hoài chuyển từ Bình Phước đến sinh sống tại buôn N’Drếch B, xã Ea Huar (huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk). Bao nhiêu vốn liếng dành dụm được vợ chồng chị dồn mua 1 ha đất trồng điều và hoa màu. Trong suốt 5 năm, mặc dù chuyển từ ngô sang đậu, mì nhưng giá cả bấp bênh, năng suất thấp, thu nhập không bù nổi chi phí đầu tư.

Chị Nguyễn Thị Hoài (buôn N’Drếch B, xã Ea Huar, huyện Buôn Đôn) giới thiệu về quy trình trồng, chăm sóc, thu hoạch xoài.

Qua tìm hiểu, chị Hoài nhận thấy khí hậu, thổ nhưỡng trong vùng có thể thích hợp trồng cây ăn trái nên quyết định mua 90 cây xoài Đài Loan về trồng trên diện tích 4,5 sào. Nhờ chịu khó tìm tòi, học hỏi, áp dụng khoa học kỹ thuật nên vườn xoài nhà chị phát triển xanh tốt. Đặc biệt, gia đình chị không sử dụng phân hóa học mà chủ yếu bón vi sinh hữu cơ, phân bò ủ hoai mục và chỉ bổ sung NPK để đáp ứng nhu cầu sinh trưởng qua từng giai đoạn cần thiết của cây.

Sau một năm trồng, cây xoài bắt đầu cho trái. Để tăng hiệu quả kinh tế, chị Hoài học hỏi kinh nghiệm của một số nhà vườn và mạnh dạn ứng dụng công nghệ sinh học trong xử lý điều tiết cho xoài ra hoa trái vụ. Chị Hoài cho hay, giống xoài này vụ chính ra hoa tự nhiên từ tháng chạp đến tháng giêng và thu hoạch từ tháng 4 đến đầu tháng 5 âm lịch. Mùa trái vụ ra hoa vào tháng 8 đến tháng 9 âm lịch, cho thu hoạch từ cuối tháng chạp đến tháng 2 âm lịch.

Ông Phương Kim Hải, thôn 10, xã Ea Pil, huyện M’Đrắk: “Nhờ mạnh dạn thay đổi nếp nghĩ, cách làm, dám thử sức với loại cây trồng mới mà giờ đây gia đình tôi bắt đầu hái “quả ngọt”. Không chỉ cây ổi cho thu nhập mà năm sau nhãn bắt đầu được thu bói, gia đình tôi sẽ trả hết nợ vay đầu tư và có của ăn của để”.

Nhờ tuân thủ đúng quy trình, chị Hoài đã xử lý cho vườn xoài ra hoa trái vụ và thu hái được 2 vụ/năm. Trung bình mỗi cây xoài chị thu được 30 - 60 quả; mỗi quả nặng bình quân 1 - 1,5 kg, mùa chính vụ bán với giá trung bình 20.000 đồng/kg, trái vụ vào dịp Tết giá cao gấp đôi. Trung bình mỗi năm, gia đình chị Hoài thu hoạch được 10 tấn xoài, sau khi trừ chi phí lãi khoảng 100 triệu đồng, cao gấp 3 đến 4 lần các cây trồng trước đây.

Thu nhập trăm triệu đồng từ trồng ổi trên đất cằn

Cũng như bao hộ khác trong vùng, gia đình ông Phương Kim Hải ở thôn 10, xã Ea Pil, huyện M’Đrắk chọn sắn, mía là cây trồng chủ lực trên diện tích 1,5 ha của gia đình. Trong suốt 20 năm gắn bó với các loại cây trồng này, thu nhập cũng chỉ đủ cho gia đình ông trang trải sinh hoạt hằng ngày. Đang “đau đầu” với bài toán trồng cây gì để có thể tăng thu nhập, ông Hải được chính quyền địa phương tuyên truyền về chủ trương chuyển đổi cây trồng vật nuôi... Năm 2016, ông mạnh dạn phá bỏ toàn bộ diện tích trồng mía, cải tạo lại đất, đầu tư trồng 700 cây nhãn Hương Chi. Số diện tích còn lại ông trồng 600 cây ổi lê Đài Loan.

Trồng ổi trên vùng đất bạc màu đem lại thu nhập cả trăm triệu đồng mỗi năm cho gia đình ông Phương Kim Hải ở thôn 10, xã Ea Pil.

Ông Hải cho biết, cây ổi lê Đài Loan dễ tính, có thể trồng bất cứ thời gian nào trong năm. Thời gian sinh trưởng ngắn, tỷ lệ đậu trái và năng suất cao, thu hoạch quanh năm. Thân cây cứng, khỏe mạnh, khả năng kháng sâu bệnh tốt. Quả có hình trái lê, vỏ láng, giòn, ít hạt, có mùi thơm và giàu dinh dưỡng. Khi quả to bằng ngón tay cái thì phải dùng túi bọc chuyên dụng để bọc quả. Việc này sẽ giúp quả tránh được côn trùng gây hại, không cần phải phun thuốc nên bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm. Theo ông Hải, giống ổi này không cần nhiều phân bón và rất ít sâu bệnh nên không tốn nhiều chi phí đầu tư. Sau mỗi đợt thu hoạch, phải cắt cành để cây tiếp tục ra chồi, đơm hoa và kết quả.

Nhờ chăm sóc đúng kỹ thuật, sản phẩm ổi của gia đình ông được thương lái đến thu mua tận vườn với giá trung bình từ 12.000-15.000 đồng/kg. Vào thời điểm chính vụ, trung bình mỗi ngày gia đình ông bán được từ 100 - 200 kg, thu về trên 200 triệu đồng/năm.

Nguyễn Xuân

Làm giàu từ mô hình nuôi gà đẻ

Nguồn tin: Báo Vĩnh Phúc

Đó là câu chuyện của anh Đào Việt Cường, thôn Quẵng, xã Tam Quan (Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc). Anh Cường chia sẻ, việc làm giàu từ hai bàn tay trắng tuy là khó nhưng không hẳn là không thể nếu có quyết tâm và chủ động nắm bắt cơ hội. Từ cơ duyên hợp tác với Công ty Jafa Comfeed Việt Nam, gia đình anh Cường mạnh dạn đầu tư theo hướng mới, mang lại nhiều thành công từ mô hình chăn nuôi gà đẻ trứng.

Với quy mô hơn 8.000 gà đẻ, gia đình anh Đào Việt Cường, thôn Quẵng, xã Tam Quan (Tam Đảo) có nguồn thu nhập cao

Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương, anh Cường từng bươn chải nhiều nghề để kiếm sống như: Làm ruộng, trồng cây ăn quả, sửa chữa đồ điện tử… nhưng quanh năm vẫn chỉ đủ ăn. Năm 2007, gia đình anh được Công ty Jafa Comfeed Việt Nam hợp tác, ký hợp đồng nuôi gà gia công.

Anh Cường bàn với gia đình vay 250 triệu đồng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn xây dựng chuồng trại đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật để nuôi gà gia công cho Công ty Jafa Comfeed Việt Nam, trên diện tích hơn 900m2 đất sẵn có của gia đình. Được công ty hỗ trợ cung cấp nguồn con giống, thức ăn, thuốc thú y, kỹ thuật chăm sóc đàn vật nuôi, mỗi lứa gà xuất chuồng, gia đình anh thu được khoảng 40 triệu đồng tiền công.

Năm 2008, anh Cường chấm dứt hợp đồng với công ty và tìm hướng đi mới cho riêng mình. Với khởi đầu thuận lợi từ việc được trang bị kiến thức chăn nuôi bài bản, anh đầu tư nuôi gần 30.000 con gà trắng công nghiệp. Anh Cường chủ động tìm đầu ra cho đàn vật nuôi bằng cách bắt mối với những thương lái buôn gà trong, ngoài tỉnh, cung cấp cho nhiều bếp ăn công ty, chợ đầu mối. Mỗi tháng, trừ chi phí, anh Cường thu lãi trên 100 triệu đồng. Chỉ sau vài năm, gia đình anh đã trả hết nợ, tiếp tục đầu tư cho chăn nuôi.

Tuy nhiên, do giá cả thị trường không ngừng biến động. Vào những năm 2012- 2013, gà thịt bị rớt giá, gia đình anh Cường thua lỗ hàng tỷ đồng. Không đầu hàng trước mọi khó khăn, anh Cường bán chiếc xe ô tô đã mua được trước đó, vay thêm 400 triệu đồng mua con giống và đầu tư mở rộng chuồng trại. Lần này, gia đình anh đầu tư nuôi hơn 8.000 con gà đẻ.

Từ kinh nghiệm tích lũy được sau những lần thất bại, anh Cường tiếp tục nhân đàn, mở rộng quy mô chăn nuôi. Để chủ động con giống, anh Cường mua thêm gà trống về lai tạo giống.

Với trên 8.000 con gà đẻ, trừ chi phí, mỗi ngày, gia đình anh Cường thu về trên 5 triệu đồng. Với những thành quả đã đạt được, anh Cường đang ấp ủ dự án mở rộng quy mô, nuôi 10.000 con gà đẻ và cửa hàng ăn uống, phấn đấu doanh thu gần 2 tỷ đồng/năm.

Bài, ảnh Trường Khanh

Khuyến cáo chuyển đổi vật nuôi khi chưa hết dịch tả heo châu Phi

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Sau gần 5 tháng, bệnh dịch tả heo châu Phi (DTHCP) xuất hiện và lây lan ở các tỉnh, thành vùng ĐBSCL đã để lại hậu quả nặng nề. Hiện tình trạng dịch bệnh ở một số địa phương đã hạn chế lây lan, ít xuất hiện mới. Người chăn nuôi hiện nay vẫn ngán ngại việc tái đàn, dự báo thịt heo sẽ khan hiếm trong dịp Tết Nguyên đán sắp tới.

Thiệt hại nghiêm trọng

Mặc dù trong ngày 18-9-2019, tại TP Cần Thơ, bệnh DTHCP phát sinh tại 3 hộ chăn nuôi của 3 ấp, khu vực thuộc 3 phường, xã của quận Ô Môn, huyện Thới Lai và Cờ Đỏ. Tổng đàn heo trong ổ dịch 37 con; số heo đã tiêu hủy 9 con, trọng lượng 500kg. Nhưng theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) TP Cần Thơ, tình trạng lây lan, xuất hiện mới DTHCP đã giảm dần. Ông Phạm Trường Yên, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT TP Cần Thơ, cho biết: "Bệnh DTHCP hạn chế lây lan là nhờ thành phố tăng cường biện pháp kiểm soát việc vận chuyển, mua bán, giết mổ heo trên địa bàn; tổ chức tiêu độc chống dịch khẩn cấp tại các vùng dịch, vùng uy hiếp, vùng đệm; hướng dẫn hộ chăn nuôi biện pháp phòng, chống dịch bệnh lở mồm long móng ở gia súc và phòng, chống bệnh DTHCP; vận động người chăn nuôi vệ sinh tiêu độc, khử trùng môi trường chăn nuôi, khu vực xung quanh chuồng trại… Đặc biệt, người dân biết áp dụng biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học, chăm sóc nuôi dưỡng nên hạn chế được tình trạng dịch bệnh lây lan, xuất hiện mới…".

Từ ngày 23-5 (khi bệnh DTHCP xuất hiện đầu tiên tại quận Cái Răng) đến hết ngày 18-9-2019, bệnh DTHCP đã xảy ra tại 2.258 hộ chăn nuôi thuộc 76 xã, phường của 9 quận, huyện. Tổng số heo trong ổ dịch là 63.888 con, số bệnh là 30.942 con, chết 13.215 con, số heo tiêu hủy là 57.454 con (ngành thú y tiêu hủy 56.957 con, khối lượng là 3.280,8 tấn và chủ hộ tự tiêu hủy 497 con), chiếm gần 50% tổng đàn heo trên địa bàn TP Cần Thơ. Công tác hỗ trợ thiệt hại được thành phố thực hiện nghiêm túc theo quy định và kịp thời cho hộ chăn nuôi bị ảnh hưởng bệnh dịch.

Sóc Trăng được xem là địa phương có nhiều trại chăn nuôi heo quy mô đàn lớn cùng với hàng ngàn hộ nuôi heo nhỏ quy mô gia đình và một trung tâm giống vật nuôi cung cấp heo giống tốt nhất vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, từ khi khởi phát ở thị xã Sóc Trăng, đến nay bệnh DTHCP đã lan rộng. Những nơi được xem có hệ thống bảo vệ nghiêm ngặt nhất, như trung tâm giống vật nuôi và một số trang trại có đàn heo trên 1.000 con cũng bị bệnh dịch xâm nhập, lây lan với nhiều nguyên nhân khác nhau. Đến ngày 14-9-2019, bệnh DTHCP xảy ra trên 2.700 hộ, tại 510 ấp của hơn 100 xã thuộc 11 huyện, thị xã. Tổng số heo bị bệnh buộc phải tiêu hủy trên 53.200 con, với trọng lượng hơn 3.600 tấn. Cứ mỗi ngày, ước tính trung bình 150-200 con heo bị bệnh phải tiêu hủy.

Ông Lâm Minh Hoàng, Chi Cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Sóc Trăng, nhận định: "Trong tình hình dịch bệnh đang bùng phát, các hộ chăn nuôi nhỏ căng thẳng đối phó với bệnh dịch. Vấn đề quan trọng hiện nay là hộ chăn nuôi nhỏ chưa nắm rành kỹ thuật chăn nuôi và áp dụng biện pháp an toàn sinh học. Do đó, các hộ dân nếu nóng vội tái đàn heo vào thời điểm này sẽ không đảm bảo an toàn. Hiện nay, tỉnh thực hiện chính sách hỗ trợ chi thiệt hại cho người chăn nuôi, đồng thời Chi cục Chăn nuôi và Thú y chỉ khuyến cáo nông hộ chuyển đổi cơ cấu giống vật nuôi. Trước mắt tận dụng phụ phế phẩm nông nghiệp và đất trồng trọt không hiệu quả sang trồng cỏ chăn nuôi bò thịt, dê, nuôi gà lông màu hoặc các giống vịt... nhằm đảm bảo nguồn lương thực, thực phẩm cung cấp trong dịp Tết Nguyên đán sắp tới".

Một hộ dân ở quận Bình Thủy tập trung nuôi và chăm sóc gà, hướng đến góp phần đảm bảo nguồn thực phẩm tiêu dùng thay thế thịt heo.

Cần chuyển đổi vật nuôi

Tại TP Cần Thơ sau gần 5 tháng bệnh DTHCP xuất hiện, đến nay bệnh dịch tuy vẫn còn nhưng số ổ dịch có dấu hiệu giảm dần. Mặc dù chưa có số liệu thống kê đầy đủ, nhưng có những xã, phường sau khi DTHCP đi qua gần như mất trắng đàn heo và không hộ chăn nuôi nào dám mua heo giống về tái đàn. Phần lớn số hộ chăn nuôi heo ở vùng nông thôn của TP Cần Thơ vẫn còn lo sợ bệnh dịch; số hộ có đàn heo chưa nhiễm bệnh cũng tập trung phòng tránh và tốn nhiều công sức. Một vài hộ còn heo nái đẻ, heo con bán chẳng ai mua, buộc phải nuôi tiếp trong tâm trạng phập phồng lo sợ dịch bệnh. Ông Lê Trung Hoàng, Chi Cục Phó Chi cục Chăn nuôi và Thú y TP Cần Thơ, cho biết: "Trong điều kiện thực tế mầm bệnh còn nên hộ chăn nuôi nhỏ không ai dám tái đàn. Vì vậy, với một số hộ còn nuôi giữ được đàn heo trước mắt cần ngăn ngừa vật nuôi với mầm bệnh, thực hiện chăn nuôi an toàn sinh học. Chuồng trại chăn nuôi phải cách xa nhà ở, khu dân cư, nơi đi lại của con người và ngăn chặn sự xâm nhập của các loài vật khác. Tại các trại chăn nuôi phải có rào cản, cửa đóng mở nhằm tránh người ra vào mang virus truyền bệnh. Chuồng trại chăn nuôi phải có vách ngăn từng khu vực chăn nuôi heo thịt, heo sinh sản, heo con. Người chăn nuôi heo phải thực hiện thời gian cách ly mỗi đợt nuôi từ 10 đến 15 ngày để vệ sinh chuồng trại, xử lý mầm bệnh, phun thuốc tiêu độc khử trùng. Đối với đàn heo giống, người nuôi cần thực hiện nghiêm ngặt về kiểm soát con giống. Trong đó chú ý con giống phải sạch bệnh và xét nghiệm âm tính với bệnh DTHCP và phải đảm bảo an toàn sạch bệnh từ các phương tiện, dụng cụ chăn nuôi...".

Để chuẩn bị cho giai đoạn hậu tái đàn, sau khi bệnh DTHCP đã chấm dứt, TP Cần Thơ và các địa phương trong vùng ĐBSCL định hướng phục hồi, phát triển chăn nuôi heo sắp tới sẽ có sự chuyển đổi, sắp xếp giảm tỷ lệ hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, đồng thời hướng dẫn, vận động chăn nuôi tập trung, quy mô lớn và ứng dụng tốt các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học. Đồng thời, để đảm bảo nguồn thực phẩm thay thế thịt heo thời gian tới và dịp Tết Nguyên đán Canh Tý 2020, ngành nông nghiệp các địa phương khuyến cáo người dân tăng cường các vật nuôi thay thế, như: gà, vịt, bò, dê và thủy sản… nhằm đảm bảo nhu cầu tiêu dùng của người dân.

Bài, ảnh: HÀ VĂN

Long An: Nông dân Tân Tây phấn khởi vì giá khóm tăng cao

Nguồn tin: Báo Long An

Những ngày qua, người dân trồng khóm ở xã Tân Tây, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An vô cùng phấn khởi vì giá khóm tăng cao đột biến. Đây được xem là mức giá “kỷ lục” trong nhiều năm qua khi hiện tại, khóm loại 1 và loại 2 được thương lái thu mua tại ruộng với giá dao động từ 8.000 - 10.500 đồng/trái.

Theo chia sẻ của nhiều người trồng khóm, với giá cao như hiện nay, sau khi trừ hết các khoản chi phí, người trồng khóm sẽ có lãi khoảng 5.000 đồng/trái.

Chị Nguyễn Thị Kim Thảo, ngụ ấp 5, xã Tân Tây chia sẻ: “Nếu năm trước, khóm loại 1 và loại 2 có giá chỉ khoảng từ 5.000 - 6.000 đồng/trái thì hiện tại khóm đã có giá từ 9.500 - 10.000 đồng/trái, nhiều hộ còn được thương lái đến tận ruộng thu mua với giá trên 10.000 đồng/trái. Do vậy, nông dân trồng khóm ai cũng phấn khởi, sau khi trừ đi chi phí, nhiều hộ thu lãi hàng trăm triệu đồng/ha/năm”.

Giá khóm tăng cao, người dân phấn khởi

Cùng chung tâm trạng như chị Thảo, ông Phạm Văn Vân Trường ngụ cùng địa phương, cho biết, gia đình ông trồng khóm được 7 năm. Hiện, ngoài 2,3ha khóm vừa trồng mới thì gia đình ông còn khoảng 1,5ha khóm đang trong giai đoạn chuẩn bị thu hoạch. Từ đầu năm đến nay, thương lái thu mua khóm tại ruộng với giá khá cao, tăng gần gấp đôi so với cùng kỳ năm trước.

“Khoảng 1 tháng nữa, tôi cũng sẽ thu hoạch khóm, năng suất có thể đạt trên 8 tấn/ha và với giá khóm đang cao như hiện nay thì sẽ có lãi khoảng 60 triệu đồng/ha” – ông Trường cho biết thêm.

Chủ tịch UBND xã Tân Tây - Nguyễn Văn Chẵn thông tin, Tân Tây là xã được huyện chọn để phát triển thành vùng trồng khóm chuyên canh. Nhìn chung, khóm là loại cây khá dễ trồng, ít bị sâu bệnh, so với các loại cây trồng khác cây khóm chịu được hạn, độ phèn và độ mặn cao nên rất phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng địa phương. Hiện, Tân Tây có khoảng 90 hộ trồng khóm với tổng diện tích trên 380ha và tập trung nhiều nhất ở khu vực ấp 5.

Theo ông Chẵn đánh giá, nguyên nhân khiến giá khóm liên tục tăng cao từ đầu năm đến nay là do nhiều diện tích khóm sau nhiều năm khai thác đã già cỗi phải trồng mới nên sản lượng cung cấp cho thị trường chưa nhiều; trong khi đó, sức tiêu thụ khóm trên thị trường đang tăng.

“Giá khóm tăng là động lực để nông dân trồng khóm tiếp tục đầu tư mở rộng diện tích, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để tăng năng suất, sản lượng và chất lượng khóm, từng bước đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước”- ông Chẵn chia sẻ thêm.

Được biết, hiện nay, gần như toàn bộ diện tích khóm của ấp 5, xã Tân Tây đều nằm trong khu vực đê bao lửng của huyện. Tuy nhiên, để phát triển vùng trồng khóm chuyên canh xã Tân Tây đúng theo quy hoạch thì đến năm 2020, diện tích khóm phải đạt 600ha, do vậy mà việc mở rộng diện tích canh tác khóm là vấn đề đang được các cấp chính quyền và người trồng khóm quan tâm.

Người dân vẫn chưa dám mở rộng diện tích canh tác khóm do lo ngại ngập úng

Song song đó, mặc dù xã Tân Tây đã được đầu tư xây dựng trên 200ha đê bao ngăn lũ và trạm bơm điện, tuy nhiên, theo nhiều nông dân trồng khóm ấp 5, xã Tân Tây cho biết, đến nay trạm bơm điện này vẫn chưa được đưa vào sử dụng do chưa có nguồn điện. Chính vì vậy mà nhiều nông dân dù rất muốn mở rộng diện tích nhưng chưa mạnh dạn đầu tư vì lo ngại mưa lớn hay lũ về có thể bị ngập úng, thua lỗ.

Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thạnh Hóa – Nguyễn Kinh Kha cho biết: “Thời gian qua, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện cũng phối hợp Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp và UBND xã Tân Tây mở các lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật thâm canh, phòng trừ sâu bệnh, hướng dẫn kỹ thuật xử lý cho khóm ra trái rải vụ cho người dân để bán được giá cao, tăng thêm thu nhập và ổn định cuộc sống. Bên cạnh đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân vùng chuyên canh khóm Tân Tây phát triển sản xuất, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng chỉ đạo huyện tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng thủy lợi phục vụ cho việc phát triển vùng chuyên canh khóm”./.

Bùi Tùng – Nguyễn Dung

Phát triển ngành hàng ca cao theo hướng bền vững

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang

Hiện nay, nông dân Tiền Giang trồng gần 800 ha ca cao, chủ yếu xen canh dưới tán dừa và các loại cây ăn trái khác, tập trung ở các huyện: Chợ Gạo, Gò Công Tây, Châu Thành,… hàng năm đạt sản lượng thu hoạch trên 1.000 tấn hạt.

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong những năm gần đây, giá ca cao luôn ở mức cao, trung bình khoảng 65.000 đồng/kg hạt khô và từ 5.500 đến 6.000 đồng/kg trái tươi nên thu nhập bình quân trên mỗi ha ca cao xen dưới tán vườn đạt gần 50 triệu đồng/năm.

Ca cao là cây trồng mới nên thời gian qua, tỉnh Tiền Giang đã có nhiều chính sách thiết thực nhằm tạo điều kiện phổ cập rộng rãi kỹ thuật và mô hình canh tác ca cao xen vườn dừa cho bà con như: Chuyển giao khoa học kỹ thuật thâm canh, mở rộng mạng lưới thu mua, tiêu thụ nông sản hàng hóa cho nông dân, xây dựng những câu lạc bộ và tổ, nhóm trồng và chuyển giao kỹ thuật thâm canh ca cao…

Từ năm 2010, Sở Khoa học và Công nghệ đã triển khai Dự án ca cao hữu cơ với kết quả có gần 600 ha được cấp chứng nhận đạt chuẩn UTZ. Bên cạnh đó, toàn tỉnh có 41 điểm thu mua, 31 điểm sơ chế, 40 cơ sở chế biến lên men ca cao… góp phần quan trọng trong việc giải quyết đầu ra cho nông sản hàng hóa.

Tỉnh hiện có trên 17.000 ha dừa, khoảng 75.000 ha vườn trồng cây ăn trái các loại, điều kiện thổ nhưỡng, thủy văn thuận lợi cho việc phát triển trồng và nhân rộng các mô hình trồng cây ca cao, tăng thêm thu nhập cho nông hộ, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn… Tuy nhiên, diện tích, năng suất, sản lượng ca cao của tỉnh gần đây có xu hướng giảm; trình độ kỹ thuật của nông dân còn hạn chế; nông dân chưa quan tâm đúng mức đến việc chăm sóc, thâm canh ca cao,…

Theo ông Cao Văn Hóa, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trước tình hình trên, đồng thời nhằm phát huy tốt tiềm năng đất đai, lao động, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi trên địa bàn, tỉnh đang đề ra nhiều giải pháp nhằm phát triển cây ca cao theo hướng bền vững, đạt mục tiêu nâng cao năng suất, chất lượng, sản lượng gắn với chất lượng. Tỉnh tập trung khuyến nông, chuyển giao kỹ thuật thâm canh ca cao, đặc biệt là cải thiện năng suất, nâng cao hiệu quả cho người trồng thông qua ứng dụng tốt các kết quả nghiên cứu, giúp nông dân áp dụng đúng các biện pháp canh tác, sơ chế và lên men đúng quy trình kỹ thuật.

Mặt khác, hỗ trợ tích cực các câu lạc bộ, tổ, nhóm trong chuỗi giá trị "nông dân - điểm sơ chế - doanh nghiệp" để tiếp cận thông tin kinh tế, kỹ thuật và các nguồn lực phát triển khác, đồng thời xác định và đẩy mạnh vai trò điều phối của cơ quan chức năng các cấp, trong đó chính quyền cấp tỉnh đóng vai trò đầu mối điều phối các nguồn lực; tiếp tục hoàn thiện các nghiên cứu khoa học ứng dụng vào đời sống để chuyển giao kịp thời những tiến bộ kỹ thuật mới, cần thiết cho bà con…

Trước mắt, tỉnh tập trung kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư, liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm ca cao; củng cố và nâng chất các câu lạc bộ, tổ, nhóm trồng ca cao; hỗ trợ bà con về kỹ thuật tỉa cành, tạo tán, phòng chống các đối tượng dịch hại tấn công cây ca cao gây thiệt hại cho nông dân.

Mộng Tuyết

Doanh nhân ‘bao sân’ ngàn ha sầu riêng

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Từ nông dân trở thành doanh nhân mới ba năm, anh Võ Hữu Long (thế hệ 7X) ở Bảo Lâm (tỉnh Lâm Đồng) đã phối hợp cùng với các tổ chức kinh tế hợp tác liên kết với nông dân phía Nam Lâm Ðồng “bao sân” sản xuất và hàng ngàn ha sầu riêng theo chuỗi giá trị gia tăng, kết nối thị trường xuất khẩu rộng lớn sang Trung Quốc...

Vụ mùa sầu riêng năm 2019 ở Lâm Đồng, Doanh nghiệp Long Thủy xuất khẩu khoảng 2 container/ngày

Rộng lớn thị trường xuất khẩu

Chưa đến 9 giờ sáng một ngày tháng 9/2019, phóng viên ghi nhận ở khu sơ chế, đóng gói với hàng chục tấn sầu riêng vừa phân loại, sắp xếp thành từng lớp tại Thôn 6, xã Lộc An, huyện Bảo Lâm, thuộc Công ty TNHH Long Thủy. Tọa lạc bên đường Quốc lộ 20, khu sơ chế này với khuôn viên hơn 3.000 m2 khá thuận lợi cho những chiếc container thường xuyên “cập bến” chất hàng sầu riêng vận chuyển theo đường bộ xuất khẩu sang Trung Quốc. Chủ nhân Công ty TNHH Long Thủy, anh Võ Hữu Long cho biết, đây là khối lượng hàng sầu riêng thu mua của nông dân liên kết từ 15 giờ chiều ngày hôm trước trên các vùng nông nghiệp Di Linh, Bảo Lộc, Bảo Lâm, Đạ Huoai... Từng trái sầu riêng đưa về ở đây đều qua các công đoạn xử lý đảm bảo tuyệt đối an toàn thực phẩm gồm: rửa sạch, sấy khô, phân loại, ủ lạnh, đóng gói trong từng thùng giấy bảo quản đặc biệt để chất lên container, vận chuyển trong bảy ngày đến hệ thống tiêu thụ chợ đầu mối thuộc các tỉnh, thành của Trung Quốc như: Bắc Kinh, Giang Tô, Quảng Đông, Chiết Giang…

“Lô hàng sầu riêng hôm nay, Doanh nghiệp Long Thủy chúng tôi bao tiêu của hàng ngàn hộ nông dân quanh vùng sản xuất vừa được chất đầy lên 2 container, mỗi container 18 tấn. Trong đó có thu mua sầu riêng trực tiếp từng khu vườn của hộ thành viên thông qua hợp đồng liên kết với 4 Hợp tác xã (HTX) và 1 Tổ hợp tác (THT). Mỗi đơn vị kinh tế hợp tác ở đây thu hút 25 - 30 hộ thành viên trồng sầu riêng xen canh với các loại cây công nghiệp và cây ăn trái khác. Hộ trồng sầu riêng xen canh ít nhất 0,5 ha, nhiều nhất đến 7 ha, năng suất đạt 300 - 400 kg/cây…”, chủ doanh nghiệp Võ Hữu Long thông tin.

Theo đó, từ khi thành lập vào năm 2016 đến nay, Doanh nghiệp Long Thủy bắt đầu phối hợp với ngành nông nghiệp và chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế hợp tác trên các địa bàn Di Linh, Bảo Lộc, Bảo Lâm, Đạ Huoai để cùng vận động nông dân tham gia sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị gia tăng. Từng hộ liên kết được ký hợp đồng trực tiếp với Doanh nghiệp Long Thủy với các thỏa thuận chính là: Doanh nghiệp Long Thủy thường xuyên tổ chức tập huấn, hướng dẫn nông hộ liên kết canh tác sầu riêng theo quy trình kỹ thuật VietGAP, bao tiêu toàn bộ sản phẩm thu hoạch không hạn chế theo giá thời điểm hoặc giá chốt lời trước của nông hộ. Phía nông hộ liên kết có đất sản xuất sầu riêng, có đủ lao động kinh nghiệm nhiều năm hoặc được đào tạo nghề nông nghiệp, sẵn sàng tham gia mô hình điểm để chuyển giao nhân rộng kỹ thuật cho những nông hộ khác trên địa bàn cùng sản xuất…

Kết quả trong năm 2016, Doanh nghiệp Long Thủy chính thức thâm nhập và vừa mở rộng thị trường xuất khẩu sầu riêng Lâm Đồng sang Trung Quốc với khối lượng 10 container/năm. Năm 2017, anh Long qua Thái Lan học hỏi tiếp nhận công nghệ mới về bảo quản sầu riêng sau thu hoạch về áp dụng tại Doanh nghiệp Long Thủy đạt khối lượng xuất khẩu 3 container/10 ngày, giá bán tăng thêm 25 - 30%. Trong năm 2018, Long Thủy xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 40 container/tháng, đạt tổng doanh thu hàng trăm tỷ đồng.

Trong hơn 2 tháng vụ mùa thu hoạch sầu riêng năm 2019 ở Lâm Đồng, Doanh nghiệp Long Thủy xuất khẩu trung bình khoảng 2 container/ngày, giá thu mua từ nông hộ thành viên bình quân trên dưới 45.000 đồng/kg.

“Bao sân” sầu riêng Lâm Ðồng khi xuất khẩu chính ngạch

Ông Nguyễn Đình Chuân, Chủ tịch Hội đồng Quản trị HTX Trái cây VietGAP Đinh Trang Hòa, huyện Di Linh đánh giá: “HTX chúng tôi với 35 hộ thành viên, mỗi hộ sản xuất từ 1 ha đến 4 ha sầu riêng, trong đó sản xuất chuyên canh tỷ lệ 40% và 60% còn lại sản xuất xen canh với cà phê, mỗi ngày cung ứng cho Doanh nghiệp Long Thủy ước khoảng trên dưới 10 tấn. Giao hàng đến đâu, Long Thủy thanh toán đầy đủ tiền mặt đến đó. Giá thu mua của Long Thủy cao hơn giá thị trường cùng thời điểm từ 10 - 15%...”.

Thực tế, HTX Trái cây VietGAP Đinh Trang Hòa, huyện Di Linh cũng như nhiều HTX, THT khác trong tỉnh Lâm Đồng liên kết với Doanh nghiệp Phong Thủy đang ước tính thu lợi nhuận mùa sầu riêng năm 2019 đạt khoảng trên dưới 1,5 tỷ đồng/ha. Đây là khoản lợi nhuận nắm chắc ổn định và tiếp tục phát triển trong những mùa sầu riêng tới, chấm dứt tình trạng được mùa mất giá, được giá mất mùa bấp bênh như những năm trước đây. Bởi vậy, ông Phùng Văn Quyền, Thôn trưởng Thôn 6, xã Lộc An, huyện Bảo Lâm nhận định: “Địa bàn Thôn 6, xã Lộc An chúng tôi thống kê chưa đầy đủ với 20 ha sầu riêng trồng thuần của 10 nông hộ đang thu hoạch và được Doanh nghiệp Long Thủy bao tiêu toàn bộ sản phẩm, giá trị thu nhập tăng vượt trội so với trồng các loại cây công nghiệp khác. Ban Điều hành Thôn 6 chúng tôi tiếp tục vận động người dân tích cực chuyển đổi, mở rộng diện tích cây sầu riêng chuyên canh và xen canh để nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh tế cho gia đình...”.

Mong muốn duy nhất hiện nay của Doanh nghiệp Long Thủy là được xuất khẩu sầu riêng Lâm Đồng qua Trung Quốc bằng con đường chính ngạch, nhằm tăng sản lượng, giá trị và rút ngắn thời gian thông quan đến người tiêu dùng. “Hiện Doanh nghiệp Long Thủy vẫn xuất khẩu theo con đường tiểu ngạch với khối lượng chỉ mới đáp ứng 50% khách hàng đặt hàng tiêu thụ trực tiếp tại các chợ đầu mối Trung Quốc. Nếu được thông quan con đường xuất khẩu sầu riêng chính ngạch từ Việt Nam qua Trung Quốc thì Doanh nghiệp Long Thủy chúng tôi hoàn toàn có đủ khả năng liên kết bao tiêu phần lớn sản phẩm sầu riêng của Lâm Đồng theo nhu cầu...”, chủ doanh nghiệp Võ Hữu Long đề xuất nguyện vọng. Phóng viên ghi nhận điều bức thiết này và được biết, các cơ quan hữu quan Lâm Đồng đã và đang tích cực phối hợp cùng với ban, ngành chức năng của Trung ương để kết nối giao thương, đạt được thỏa thuận xuất khẩu chính ngạch sản phẩm sầu riêng Việt Nam qua lãnh thổ Trung Quốc trong thời gian sớm nhất có thể.

VĂN VIỆT

Người thợ cơ khí sáng chế dụng cụ nhổ sắn tiện lợi

Nguồn tin:  Báo Quảng Trị

Từng được biết đến là người sáng chế nhiều nông cụ hữu ích phục vụ sản xuất nông nghiệp cũng như các mặt hàng dân dụng, gần đây ông Lê Thanh Bình ở số nhà 181 Tôn Thất Thuyết, Phường 5, TP. Đông Hà chế tạo thành công dụng cụ nhổ sắn gọn nhẹ hiệu quả cho mọi địa hình. Tuy mới ra đời nhưng dụng cụ này của ông đã được nhiều khách hàng trong, ngoài tỉnh đón nhận vì có nhiều lợi ích trong thu hoạch sắn.

Ông Bình nói về dụng cụ nhổ sắn

Ông Bình là công nhân kĩ thuật cơ khí nhưng có đam mê sáng chế nông cụ sản xuất, thu hoạch các loại cây nông nghiệp ngắn ngày. Ý tưởng làm dụng cụ nhổ sắn tiện lợi nhem nhóm trong ông từ tháng 2/2019. Cùng với sự trợ giúp của con trai là Lê Thanh Hùng, sau 2 tháng miệt mài, ông Bình đã chế tạo thử nghiệm thành công loại nông cụ này. Tháng 7/2019 ông mạnh dạn đem sản phẩm của mình tham gia Hội thi Sáng tạo kĩ thuật tỉnh Quảng Trị lần thứ VII (2018 - 2019) và đoạt giải Ba (không có giải Nhất). Ông Bình chia sẻ: “Hiện nay, ngoài khâu trồng, chăm sóc sắn thì khâu thu hoạch chiếm nhiều sức lực nhất. Nhiều địa phương đã có sáng kiến làm ra công cụ nhổ sắn nhưng còn một số bất tiện, hạn chế như trọng lượng dụng cụ còn lớn, di chuyển khó và tư thế chưa thoải mái đối với người sử dụng. Để khắc phục những hạn chế trên, tôi đã ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật để tạo ra dụng cụ nhổ sắn hiệu quả trên mọi địa hình, giúp nông dân tiết kiệm được thời gian, sức lực và tăng hiệu quả thu hoạch”.

Cũng theo ông Bình, đây là loại dụng cụ gọn nhẹ, có trọng lượng 4 kg (dụng cụ đang có trên thị trường 10 kg) nên dễ dàng xách tay di chuyển trên mọi địa hình đồi núi, dốc khó đi. Tư thế thao tác dụng cụ rất thuận tiện, ít tốn sức lại có lợi cho sức khỏe xương khớp vì không cần phải cúi gập người để nhổ, kéo… như dụng cụ nhổ sắn khác. Dụng cụ có cơ cấu tự trượt khi thay đổi góc nhổ nên ít bị gãy củ sắn, giảm thất thoát, năng suất lao động cao gấp 5 - 10 lần nhổ tay. Sản phẩm có kết cấu hài hòa, giá cả lại rất hợp lí (chưa đến 800 nghìn đồng/cái) nên dễ dàng được nông dân đón nhận. Từ khi sáng chế thành công dụng cụ nhổ sắn gọn nhẹ hiệu quả cho mọi địa hình cho đến nay, ông Bình đã sản xuất được hơn 40 cái. Hiện có rất nhiều đơn đặt hàng ông sản xuất (từ 300 - 400 cái) phục vụ mùa thu hoạch sắn năm nay. Khách hàng của ông chủ yếu là nông dân ở Hướng Hóa, Đakrông, Hải Lăng, một số tỉnh, thành trong nước và nước bạn Lào.

Những dụng cụ ông đã sản xuất được thị trường đón nhận nhiều năm nay như dụng cụ gieo, nhổ lạc (đoạt giải Nhì Hội thi Sáng tạo kĩ thuật tỉnh Quảng Trị lần thứ 3 năm 2009, giải Ba Hội thi Sáng tạo kĩ thuật khu vực miền Trung - Tây Nguyên năm 2009) và dụng cụ cắt mủ cao su vừa tiết kiệm công sức, thời gian lao động vừa mang lại hiệu quả cao về kinh tế; phụ kiện hàng rào, cửa cổng tăng tính thẩm mĩ cho các ngôi nhà… Ông Bình cho biết, hiện ông đang nghiên cứu và chế tạo giường massage dành cho bệnh nhân nằm liệt giường, giúp họ tránh bị hoại tử do nằm lâu một chỗ, giảm công sức cho người nhà chăm sóc, kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân. Ông Trần Ngọc Ánh, Chủ tịch Hội Nông dân Phường 5, TP. Đông Hà cho biết: “Mô hình sáng chế các nông cụ phục vụ sản xuất, thu hoạch trong nông nghiệp của ông Lê Thanh Bình mang lại hiệu quả thiết thực, giúp người nông dân tiết kiệm thời gian, công sức, tăng hiệu suất thu hoạch và bảo vệ sức khỏe trong quá trình lao động. Để tạo điều kiện cho mô hình của ông Bình phát triển tốt, chúng tôi đề nghị chính quyền các cấp và các ngành chức năng quan tâm giúp ông có nguồn vốn vay ưu đãi, tạo điều kiện để ông đầu tư mở rộng quy mô sản xuất và tiếp tục sản xuất ra nhiều sản phẩm hữu ích phục vụ sản xuất của người nông dân”.

Kăn Sương

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop