Nhà nông còn khó đủ đường
Nguồn tin: Báo Tây Ninh
Tại 2 xã Phước Ninh, Phước Minh (huyện Dương Minh Châu, tỉnh tỉnh Tây Ninh), ổi Đài Loan, ổi ruột đỏ hay cá lóc bông, ba ba… được nhiều người tiêu dùng biết đến, vì chất lượng ngày một được nâng cao. Tuy nhiên, nông dân vẫn còn nhiều khó khăn, trăn trở.
Vườn ổi của gia đình ông Võ Thành Tâm.
Thiếu vốn
Những năm qua, nhiều nông dân xã Phước Ninh, Phước Minh đã chuyển đổi sang nuôi cá lóc bông, ba ba hoặc trồng ổi…do phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương, tận dụng được nguồn nước từ hồ Dầu Tiếng. Những hộ dân này được ngành chức năng, địa phương hỗ trợ trong việc mua thức ăn trả chậm, trang bị kiến thức về nuôi trồng, tìm đầu ra cho sản phẩm...
Để liên kết với các doanh nghiệp nhằm ổn định đầu ra, tránh bị thương lái ép giá, người dân bắt buộc phải mở rộng diện tích nuôi trồng, hoặc liên kết với nhau để sản xuất. Tuy nhiên, dù tham gia tổ hợp tác hay hợp tác xã, nông dân vẫn gặp khó khăn về vốn đầu tư.
Gia đình ông Huỳnh Văn Hùng (ngụ ấp Phước An, xã Phước Ninh) có 3 hầm nuôi cá lóc bông. Trong nhiều năm qua, ông đều bán cho thương lái. Giá không ổn định, lợi nhuận không nhiều, nên khi ông Hùng muốn mở rộng sản xuất lại không có vốn, đành từ bỏ ý định.
Cùng chung nỗi niềm, bà Ngô Thị Ký (ngụ ấp B2, xã Phước Minh) cho hay, hiện gia đình bà chỉ trồng 1 công (1.000m2) ổi lê Đài Loan. Để nâng cao chất lượng trái, có đầu ra tốt hơn, ổn định hơn, bà Ký dự định mở rộng diện tích và canh tác theo hướng VietGAP. Tuy nhiên, việc sản xuất theo hướng VietGAP đòi hỏi nguồn vốn khá lớn. Trong khi đó, kỳ hạn cho vay của nhân hàng ngắn, không đủ chu kỳ phát triển của cây trồng, vật nuôi nên bà Ký đành “gác” lại dự định.
Trên thực tế, vẫn có một số nông dân tiếp cận được nguồn vốn vay để mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế gia đình. Đơn cử như ông Lê Quang Thực (ngụ ấp Phước An, xã Phước Ninh), là hộ nuôi ba ba. Do được tiếp cận vốn chăn nuôi với lãi suất thấp từ Hội Nông dân và được tham gia các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật... mà ông sản xuất kinh doanh ổn định hơn, đời sống ngày càng được nâng lên.
“Đói” kỹ thuật
Không chỉ khó khăn về vốn, nhiều nông dân còn “đói” kiến thức về kinh tế, khoa học - kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt. Họ mong muốn được hướng dẫn nuôi trồng theo nhu cầu của thị trường, tiếp cận khoa học kỹ thuật. Nhiều nông dân cho rằng, hiện chưa có nhiều lớp dạy nghề, tập huấn, chuyển giao kỹ thuật… đáp ứng được nhu cầu thực tế của nông dân.
Cây ổi dễ trồng, có giá trị kinh tế cao, phù hợp với thổ nhưỡng hai xã Phước Ninh, Phước Minh. Nếu được chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh tốt, năng suất có thể đạt khoảng 20 tấn/ha/năm và cho lãi khoảng 100 triệu đồng/ha/năm. Thế nhưng đáng tiếc là hiện tại, nhiều hộ dân trong vùng đành phải chuyển qua trồng những cây ăn trái khác vì không biết cách phòng trừ sâu bệnh cho cây ổi.
Bà Ngô Thị Ký (ngụ ấp B2, xã Phước Minh) cho biết: “Tôi học cách chăm sóc ổi qua sách báo và hướng dẫn của những người trồng trước chứ không qua trường lớp nào. Do kỹ thuật và vốn còn hạn chế nên tôi chưa dám mở rộng diện tích”.
Còn chị L- người trồng ổi tại ấp B2 cho hay: “Mấy năm trước trồng ổi rất dễ, cây ít sâu bệnh, năng suất có khi đạt 7 - 8 tấn trái/công/năm. Nhưng vài năm nay, cây ổi thường xuyên xuất hiện các loại bệnh làm khô cành, thối trái, chết cây. Để phòng trừ bệnh, hằng tuần tôi phải phun xịt thuốc bảo vệ thực vật. Hễ nghe quảng cáo có loại thuốc trừ sâu bệnh nào mới là tôi mua về phun xịt. Dù vậy, gần đây cây vẫn bệnh, mà đầu ra lại không ổn định nên tôi đã phá ổi, chờ chuyển sang trồng cây khác”.
Ông Huỳnh Văn Hùng - một người nuôi cá lóc bông cho biết, ông cũng chỉ nuôi theo kiến thức “góp nhặt” được từ sách báo và kinh nghiệm. Khi cá mắc bệnh, ông vớt lên, đem đến cửa hàng thuốc thú y - thuỷ sản để người bán "bắt bệnh", bán thuốc.
Lo đầu ra
Ngoài nỗi lo vốn, kỹ thuật, nông dân còn trăn trở trước tình trạng “được mùa, mất giá”. Một nông dân cho biết: "Nông dân không thể định đoạt được giá trị sản phẩm do mình làm ra. Hiện nay, thương lái ép giá thu mua cá lóc bông chỉ chưa đến 40.000 đồng/kg. Biết bị chèn ép nhưng nếu không bán cho họ, chúng tôi cũng không biết bán cho ai”.
Ông Võ Thành Tâm (ngụ xã Phước Ninh) có hơn 6 công đất trồng ổi Đài Loan và ổi ruột đỏ với năng suất khoảng 20 tấn/năm, chủ yếu bán cho thương lái và mối quen mua nhỏ lẻ. Theo ông Tâm, đầu ra của sản phẩm vẫn là vấn đề nông dân quan tâm nhất, nhưng đến nay vẫn chưa có giải pháp nào căn cơ. Ông kiến nghị Nhà nước hỗ trợ nông dân nhiều hơn trong việc liên kết với các doanh nghiệp để bao tiêu đầu ra sản phẩm với mức giá ổn định.
Không để nông dân “cô đơn” trên cánh đồng
Rõ ràng, với những khó khăn, thách thức đặt ra, để có thể phát triển, nhà nông cần sự đồng hành, mở đường từ chính sách, thủ tục cho đến việc tạo cơ hội tiếp cận thị trường.
Thời gian qua, ngành Nông nghiệp đã vận động nông dân vào hợp tác xã để nông sản làm ra có được nơi tiêu thụ tốt, trao đổi thông tin, thực hiện các khuyến cáo của ngành nông nghiệp như: gieo sạ đúng lịch thời vụ và sản xuất những giống cây trồng, vật nuôi có giá trị xuất khẩu cao, có thị trường tiêu thụ dễ dàng; ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nhằm giảm giá thành, nâng cao hiệu quả cây trồng, vật nuôi.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở đang xây dựng đề án Chương trình mỗi xã một sản phẩm, trong đó có các chính sách hỗ trợ như hướng dẫn thực hiện sản xuất đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm; thiết kế, tiêu chuẩn hoá sản phẩm; hỗ trợ thiết kế bao bì, nhãn mác, đăng ký/công bố sản phẩm; mở các lớp tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật…
Đồng thời, Sở đã tham mưu UBND tỉnh ban hành và triển khai các chính sách như hỗ trợ lãi suất vay phát triển thực hành sản xuất nông nghiệp tốt, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ; hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp...
Mô hình nuôi trồng thuỷ sản của gia đình ông Huỳnh Văn Hùng.
Theo ông Lê Quang Thực - người nuôi cá tại Phước Ninh, ngoài những chính sách hỗ trợ từ Nhà nước, nông dân cũng cần kiểm soát được chất lượng nông sản và phải liên kết, hợp tác với nhau. Ông Thực nói: “Để giải quyết bài toán được mùa, mất giá, không có con đường nào hay hơn là cùng nhau hợp tác làm ăn, cùng mua - cùng bán. Gia đình tôi từ khi trở thành thành viên của Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Phước Ninh đến nay, cuộc sống đã bớt vất vả, đầu ra cũng ổn định hơn nhiều”.
Vũ Nguyệt
Tuyên dương Nông dân xuất sắc toàn quốc năm 2019
Nguồn tin: Báo Đồng Khởi
Tại lễ tuyên dương Nông dân Việt Nam xuất sắc năm 2019 tại Hà Nội vừa qua, ông Trần Thành Nam, sinh năm 1945, ngụ xã Tân Phú, huyện Châu Thành vinh dự được chọn là một trong 63 nông dân xuất sắc nhất toàn quốc đại diện 63 tỉnh, thành trong cả nước được Trung ương vinh danh khen thưởng.
Ông Trần Thành Nam bên vườn chôm chôm.
Người nông dân mới
Ông Trần Thành Nam cho biết, thời điểm này đã hết mùa trái cây, nhưng ông đang vào đợt thu hoạch chôm chôm Thái, giá 36 ngàn đồng/kg. Đây là mức giá tốt của người trồng chôm chôm hàng năm. Tuy nhiên để được giá này, ông phải dùng kỹ thuật xử lý cây chôm chôm cho trái nghịch vụ. Ước đoán, với diện tích 5.000m2 chôm chôm Thái, sản lượng đạt trên 10 tấn, với giá này, ông thu về trên 360 triệu đồng.
Ngoài chôm chôm Thái, ông còn trồng các loại chôm chôm nhãn, chôm chôm java (chôm chôm thường). Hiện chôm chôm nhãn có giá trên 30 ngàn đồng/kg, ước hàng năm thu hoạch 30 tấn, chôm chôm thường thu hoạch từ 40 - 50 tấn, giá nghịch vụ trên 20 ngàn đồng/kg.
Ông Nam cho hay, gốc chôm chôm cao tuổi nhất cũng trên 50 năm tuổi. Đối với khu vườn chôm chôm nào có nhiều cây già cỗi, ông đã chuyển đổi sang trồng sầu riêng. Hiện diện tích trồng sầu riêng mới và gần cho trái đạt khoảng 1 mẫu (1ha); diện tích bưởi da xanh xen sầu riêng đã cho thu hoạch cũng khoảng 1 mẫu. Đặc điểm của mô hình trồng bưởi xen sầu riêng là cây sầu riêng tạo bóng mát cho bưởi, giúp trái bưởi không bị nám do nắng nóng gay gắt. Tuy nhiên, khuyết điểm của mô hình này là người trồng không xử lý đất cho cây sầu riêng có thể ra bông trái vụ mà chỉ có thể thu hoạch theo đúng mùa vụ tự nhiên của cây trồng.
Tổng diện tích đất sản xuất cây ăn trái đặc sản của ông Nam khoảng 6 mẫu. Trong đó, của ông Nam gần 5 mẫu, còn lại là thuê thêm của người trong gia đình để sản xuất. “Ban đầu đời sống cũng chật vật. May mắn được cha mẹ cho 1 mẫu đất, tôi cần cù, chịu khó làm ăn, dần dần khá giả rồi mướn thêm, mua thêm để tích tụ thêm”, ông Nam kể.
Với diện tích sản xuất khá lớn so với đa số nông dân khác ở Tân Phú và toàn tỉnh nói chung, cùng với cơ cấu cây trồng phù hợp và tổ chức sản xuất quanh năm nên ông Nam góp phần giải quyết việc làm thường xuyên cho khoảng 10 lao động tại địa phương, lúc cao điểm như thời điểm thu hoạch rộ chôm chôm là trên 20 lao động.
Chia sẻ kinh nghiệm
Chia sẻ kinh nghiệm trong quá trình sản xuất, lão nông Trần Thành Nam, 74 tuổi cho biết: Muốn trồng cây có hiệu quả, trước hết phải nghiên cứu thổ nhưỡng vùng đất thích hợp với loại cây trồng nào, chứ không thể nghe ở đâu có loại cây có kinh tế cao nhưng thổ nhưỡng không thích hợp mà vẫn trồng thì sẽ thất bại. Khi trồng phải chăm sóc thường xuyên, như cây sầu riêng, nếu bỏ quên vài tháng thì cây sẽ bị sâu bệnh mà hư hỏng dẫn đến chết.
Khi trồng loại cây nào cũng cần phải biết ưu và nhược điểm của nó, như ưu điểm của cây sầu riêng so với chôm chôm là nếu xử lý mà không ra bông như ý muốn thì có thể xử lý lại. Qua mùa nắng, cây không thể thiếu nước mà phải được tưới tẩm thường xuyên. Đặc biệt, vườn cây phải thiết kế đường ống dẫn nước, đê bao hoàn chỉnh, đảm bảo có nước ngọt tưới tiêu cho cây trồng quanh năm và có khoa học. Riêng khu vườn của ông, toàn bộ được thiết kế lắp đặt hệ thống tưới nước tự động.
Có được thành công trong sản xuất, phát triển kinh tế, ông tích cực đóng góp xây cầu, đường trong ấp, xã, giúp giao thông thông thoáng, người dân có điều kiện chăm chút cho cảnh sắc nông thôn mới khang trang, diện mạo thêm tươi đẹp. Ngoài ra, ông cũng là mạnh thường quân tích cực của các trường học tại địa phương và được tuyên dương vì sự nghiệp giáo dục. Bình quân đóng góp phúc lợi xã hội khoảng 30 - 50 triệu đồng/năm. Với thành tích trong sản xuất nông nghiệp cũng như đóng góp tại địa phương trong nhiều năm qua, năm 2017, ông Trần Thành Nam đã vinh dự được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen tuyên dương Nông dân xuất sắc toàn quốc. Năm nay là lần thứ hai ông đại diện nông dân Bến Tre ra Hà Nội nhận bằng khen của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.
Theo ông Lê Nhựt Chiêu - Phó trưởng ban Kinh tế - Xã hội Hội Nông dân tỉnh, mô hình sản xuất của ông Trần Thành Nam là một trong những mô hình sản xuất nông nghiệp rất có hiệu quả, cần được nhân rộng. Cái hay ở ông Nam là biết áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và xử lý cây cho trái nghịch vụ nên giá cả thu hoạch cao. Bên cạnh thành công của gia đình, ông Nam còn nhiệt tình chia sẻ kinh nghiệm sản xuất cho cộng đồng, giúp nông dân tại địa bàn xã Tân Phú, các xã lân cận tiếp cận kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất hiệu quả như ông.
“Đây là một mô hình hay, tính lan tỏa rất cao, Hội Nông dân tỉnh đang phối hợp nhân rộng mô hình ra nhiều nông dân biết học hỏi để làm theo trong thời gian tới”, ông Lê Nhựt Chiêu cho biết.
Ông Trần Thành Nam là thành viên Câu lạc bộ nông dân tỷ phú của tỉnh, ông thường xuyên chia sẻ kinh nghiệm tại các buổi sinh hoạt, với nhiều nội dung bổ ích cho nông dân như về dự báo sâu bệnh, cách phòng trừ; vận động bà con liên kết sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp để mang lại hiệu quả cao.
Bài, ảnh: Cẩm Trúc
Nam Định: Phục tráng thành công gạo tám xoan cổ truyền
Nguồn tin: Báo Nam Định
Gạo Tám xoan Hải Hậu (tỉnh Nam Định) là đặc sản truyền thống nổi tiếng từ xa xưa với những thuộc tính như: hạt gạo thon, dài, mỏng mình, trắng xanh, giòn, ngọt, thơm nức. Thời xưa, gạo tám xoan Hải Hậu được đánh giá là gạo tiến vua. Khi đất nước thống nhất, gạo tám xoan cùng nhiều sản vật quý khác của các địa phương trong cả nước được chọn phục vụ các đại biểu dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, năm 1986. Giữ gìn hương vị gạo tám xoan cổ truyền là tâm huyết của các nhà khoa học nông nghiệp, các cán bộ kỹ thuật ở cả Trung ương, địa phương và của mỗi người dân Hải Hậu.
Ông Hà Minh Đức, Chủ tịch hội đồng quản trị Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Toàn Thắng, xã Hải Toàn (Hải Hậu) kiểm tra sự sinh trưởng, phát triển của lúa tám xoan canh tác theo phương thức hữu cơ.
Lúa tám xoan Hải Hậu được gột đắp bởi chất đất phù sa trẻ giàu dinh dưỡng, có tỷ lệ sét cao, tầng canh tác sâu của vùng đất cửa sông và chút mặn mòi, nắng gió ven biển. Gạo tám xoan không chỉ ngon từ giống mà còn ở quy trình kỹ thuật gieo trồng rất khắt khe. Ví như xưa kia, ông cha ta chủ yếu sử dụng phân hữu cơ, hầu như không bón phân vô cơ, phòng trừ sâu bệnh bằng biện pháp sinh học. Đặc biệt, khâu thủy lợi cây lúa tám phải được tưới bằng nước phù sa của các con sông trong huyện với tần suất tưới 14-18 lần/vụ, yêu cầu nước trên ruộng luôn ổn định ở mức 3-5cm. Thời điểm gặt cũng chỉ “non non” khi lúa chín được 70-80%... Khâu thu hoạch, bảo quản và sơ chế kỹ lưỡng mới làm nên chất lượng hạt gạo. Tuy nhiên, do không được quy hoạch vùng trồng riêng biệt nên sau nhiều năm hạt gạo tám xoan bị lẫn giống, quy trình canh tác công nghiệp, lạm dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật và cách sơ chế, bảo quản cũng không theo “nếp” của các cụ vì thế mà sản phẩm không còn hương vị như xưa.
Thực hiện định hướng phát triển nông nghiệp của tỉnh với lúa là một trong 5 cây chủ lực, trong đó ngoài yêu cầu năng suất thì đặc biệt chú trọng phát triển lúa đặc sản có giá trị kinh tế cao. Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Toàn Thắng, xã Hải Toàn (Hải Hậu) đã quyết tâm thực hiện hành trình phục tráng giống lúa, xây dựng quy trình canh tác, sơ chế, bảo quản gạo tám xoan theo tiêu chuẩn sản phẩm hữu cơ với 3 điểm nhấn cơ bản là chọn lọc giống lúa; khoanh vùng trồng lúa, tránh pha tạp, lẫn giống; tuân thủ quy trình trồng lúa hữu cơ và sơ chế, bảo quản theo quy định. Với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong việc phục tráng giống lúa quý, xây dựng thương hiệu, quy trình sản xuất và phát triển thị trường, hợp tác xã đã triển khai mô hình canh tác lúa tám hữu cơ.
30ha canh tác lúa tám xoan được chủ động khoanh vùng ngăn cách với khu vực cấy lúa của nhân dân bằng “hàng rào” điền thanh và chuối nhằm ngăn việc phát tán, xâm lấn của phấn lúa khi thụ phấn cũng như thuốc bảo vệ thực vật của các cánh đồng khác. Ruộng được cải tạo bằng phân xanh ủ bằng ốc bươu vàng, cá tạp, cây chùm ngây, điền thanh, lá chuối tiêu và vôi bột trong thời gian 4-5 tháng để làm thức ăn cho lúa sinh trưởng, phát triển và bổ sung mùn, tái tạo đất cho mùa vụ sau. “Thuốc” trừ sâu cũng được các thành viên hợp tác xã tự chế từ những thành phần có nguồn gốc sinh học như: giấm, cơm mẻ, ớt, tỏi, chuối chín, đường vàng… ngâm ủ, phun vào thời điểm lúa đẻ nhánh, phát dục. Vào những ngày trời có sương mù sử dụng vôi bột phun tỏa đều trên lá lúa để làm ung hỏng trứng sâu; bắt sâu, bắt chuột bằng bả sinh học theo phương thức dẫn dụ để tránh các loại hóa chất ảnh hưởng đến cây lúa. Điều tiết thủy lợi, tưới dưỡng lúa bằng chính nguồn nước sông Ninh Cơ để cây lúa khỏe mạnh. Đặc biệt việc thu hoạch, sơ chế tuân thủ theo đúng quy trình gặt non khi hạt thóc vừa đặc sữa mới cho cơm dẻo quánh, giòn ngọt, thơm lựng. Thóc gặt về được phơi trên sân gạch, nhưng lại không phơi chỗ nắng gắt mà phải để hạt thóc hong khô từ từ trong bóng rợp. Như thế hạt thóc mới khô săn, khi xay, giã ra không mất lớp áo cám lụa xanh bên ngoài và không đớn gẫy. Toàn bộ thóc sau khi phơi đạt yêu cầu được bảo quản trong kho lạnh, sử dụng đến đâu mới mang ra xay xát đến đó và đóng bao hút chân không để hạn chế sự xâm nhập của không khí và các vi sinh vật khác. Theo các đồng chí trong ban chủ nhiệm hợp tác xã khuyến cáo gạo tám sau khi xay xát, đóng gói, khách hàng nên sử dụng trong vòng từ 1-3 tháng để đảm bảo chất lượng.
Với quy trình sản xuất khắt khe như vậy nên sau 2 vụ liên tiếp, chất lượng gạo tám xoan bao tử hữu cơ của hợp tác xã Toàn Thắng đã cơ bản lấy lại được hương vị tám xưa. Hạt gạo tám xoan đã được Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Ngoại giao) lựa chọn dùng để tiếp khách ngoại giao đoàn. Cùng với việc nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm thích ứng với xu thế thị trường chuộng cả mẫu mã hình thức sản phẩm nên hợp tác xã cũng chú ý làm tốt khâu hỗ trợ dịch vụ, bao bì, phát triển thị trường cho sản phẩm. Mỗi năm, hơn 30 tấn gạo được xuất bán ra thị trường với giá bán lẻ là 105 nghìn đồng/kg, cao gấp 3 lần các loại gạo đặc sản khác và khoảng 7-8 lần sản phẩm gạo đại trà trên thị trường.
Đồng chí Hà Minh Đức, Chủ tịch hội đồng quản trị Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Toàn Thắng cho biết: hạt gạo tám xoan mang trong mình những giá trị văn hóa hơn là một loại lương thực thuần túy. Mong ước giữ gìn hương sắc tám xoan cổ truyền của người nông dân Hải Hậu đang dần trở thành hiện thực. Tuy nhiên để hạt lúa chuẩn vị theo hương vị xưa, hợp tác xã đang nỗ lực hết mình để tuân thủ quy trình và nhân rộng mô hình cho những năm tới./.
Bài và ảnh: Nguyễn Hương
Đăk Lăk khuyến cáo người dân thận trọng phát triển cây macca
Nguồn tin: VOV
Macca là cây trồng mới chưa được nghiên cứu đánh giá thấu đáo nên nông dân cần thận trọng khi phát triển loại cây trồng này.
Hiệp hội macca Việt Nam, Ngân hàng Bưu điện Liên Việt ngày 25/10 phối hợp với Sở NN&PTNT tỉnh Đăk Lăk tổ chức Hội thảo “Đánh giá tiềm năng, thực trạng và định hướng phát triển cây macca trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk”. Định hướng rõ nhất tại hội thảo đối với cây macca, vẫn là “cần thận trọng”.
Theo Sở NN&PTNT tỉnh Đăk Lăk, toàn tỉnh hiện có hơn 750 ha macca, trong đó khoảng 600 ha trồng xen trong các vườn cà phê, hồ tiêu và 150 ha trồng thuần..
Khảo nghiệm tại huyện Krông Năng, địa phương có diện tích macca lớn nhất tỉnh, năng suất cao nhất ở năm thứ 7 là 1,5 - 4tấn quả/ha. Với giá đang cao hơn 30% so với thị trường quốc tế, macca thứ 7 ở Đăk Lăk có thể đạt giá trị kinh tế 150 - 350 triệu đồng/ha.
Macca được đánh giá thích hợp với vùng đất Krông Năng, tỉnh Đăk Lăk
Tại hội thảo các đại biểu cho rằng, Đăk Lăk có nhiều vùng phù hợp với việc phát triển cây macca và việc phát triển loại cây này sẽ góp phần đa dạng hoá sản phẩm ngành nông nghiệp của tỉnh.
Tuy nhiên, macca cũng là cây trồng mới, chưa được nghiên cứu, đánh giá thấu đáo, nên nông dân cần thận trọng. Về phía UBND tỉnh Đắk Lắk, cuối năm 2017 đã yêu cầu Sở NN&PTNT tạm ngừng lập quy hoạch phát triển loại cây này.
Theo ông Nguyễn Hoài Dương, Giám đốc Sở NN&PTNT Đăk Lăk, cây macca ở tỉnh vẫn đang trong diện được nghiên cứu - lập đề án. Trong đề án đề xuất với UBND tỉnh, Sở cho rằng, để phát triển cây macca phù hợp với Đăk Lăk vẫn cần xác định các vùng sinh thái phù hợp và quy trình sản xuất kết nối được với thị trường vẫn là yếu tố quyết định.
“Trong đề án đề xuất, Sở cũng xác định xây dựng các vùng sản xuất macca tập trung, hình thành được những tổ hợp tác hay hợp tác xã để kết nối được với các doanh nghiệp, từ đó có thị trường đầu ra ổn định, tạo được chuỗi trong sản xuất macca, đó mới là yếu tố tiên quyết để người dân tổ chức sản xuất có hiệu quả”, ông Dương nói./.
Hương Lý/VOV-Tây Nguyên
Đại Từ (Thái Nguyên): Sản xuất 1.000ha chè vụ đông
Nguồn tin: Báo Thái Nguyên
Thu hái chè tại Làng nghề chè La Bằng.
Năm nay, huyện Đại Từ (tỉnh Thái Nguyên) có kế hoạch sản xuất 1.000ha chè vụ đông (tăng 50ha so với năm 2018).
Các xã có nhiều diện tích chè vụ đông là: La Bằng (120ha); Tân Linh (110ha); Phú Xuyên (63ha); Phú Thịnh (62ha)… Việc sản xuất chè vụ đông đem lại thu nhập cao gấp 2-3 lần so với chè chính vụ bởi đây là thời điểm cuối năm, sản lượng chè ít trong khi nhu cầu của thị trường rất lớn. Do vậy, những năm qua, huyện Đại Từ luôn khuyến khích các xã, thị trấn phát triển sản xuất chè vụ đông trên những diện tích tập trung, có điều kiện thâm canh, chủ động được nguồn nước tưới. Bên cạnh đó, huyện thực hiện chính sách hỗ trợ 15 triệu đồng/ha đối với các diện tích xây dựng hệ thống tưới chè đơn giản và 30 triệu đồng/ha đối với diện tích xây dựng hệ thống tưới tiết kiệm ứng dụng công nghệ cao…
Thu Huyền
Vĩnh Phúc: Hiệu quả trồng thanh long bằng giàn
Nguồn tin: Báo Vĩnh Phúc
Trồng Thanh long leo giàn không những tiết kiệm diện tích đất, giảm công lao động mà còn cho năng suất gấp 1,5 lần, đem lại lợi nhuận cao hơn hẳn so với cách làm theo phương pháp truyền thống. Đó là lời khẳng định của bà Đỗ Thị Kim, khu 5 thôn Đồng Núi, xã Vân Trục, huyện Lập Thạch (tỉnh Vĩnh Phúc).
Bà Đỗ Thị Kim, khu 5 thôn Đồng Núi, xã Vân Trục, huyện Lập Thạch, bên mô hình trồng thanh long bằng giàn
Trước kia, phần lớn diện tích đất đồi của gia đình bà Kim dùng để trồng sắn, bạch đàn, nhưng hiệu quả kinh tế thấp. Bắt đầu từ năm 2005, gia đình quyết định trồng thử nghiệm cây thanh long ruột trắng. Song do giống, kỹ thuật chăm bón còn hạn chế nên hiệu quả kinh tế mang lại chưa tạo ra sự bứt phá.
Năm 2007, gia đình bà Kim quyết định mở rộng diện tích. Nhưng phải sau đó 4 năm, trải qua quá trình tìm tòi, học hỏi không ngừng nghỉ, cùng cơ duyên lựa chọn được giống thanh long ruột đỏ từ Viện Nghiên cứu Rau quả Trung ương, bà mới có được thành quả, cơ ngơi như ngày hôm nay. Với diện tích 3ha, sau khi trừ chi phí, trung bình mỗi năm vườn thanh long ruột đỏ của bà Kim cho thu lãi trên 400 triệu đồng.
Không hài lòng vì những gì đã có, bà Kim luôn trăn trở, tại sao cây thanh long trong miền Nam có năng suất, hiệu quả cao hơn hẳn khi trồng ở miền Bắc. Sau thời gian tìm hiểu, bà đưa vào áp dụng một kỹ thuật mới, đặc biệt là phương pháp trồng thanh long theo giàn.
Dẫn chúng tôi tham quan mô hình, Bà Kim cho biết: “Năm 2018, gia đình tôi là một trong những hộ tiên phong thực hiện việc chuyển đổi, trồng thử nghiệm trồng thanh long leo giàn với diện tích 2 mẫu.
Trước đây, thanh long được trồng theo từng trụ riêng lẻ. Trụ cách trụ, hàng cách hàng 3m. Tuy nhiên, với cách trồng giàn, giữa các trụ bê tông có thêm một trụ phụ, nên khoảng cách giữa các trụ giảm xuống còn 1,5m. Đồng thời, có một hộp kẽm chạy dài nối các đầu trụ với nhau, giúp cành thanh long leo thành giàn.
Mặc dù chi phí đầu tư ban đầu tăng gấp gần 3 lần, nhưng bù lại, công chăm sóc giảm đáng kể (cắt tỉa, làm cỏ, tưới nước theo đường thẳng). Còn nếu để so sánh, với cách làm truyền thống, mỗi ha chỉ trồng được 1100 trụ, cho năng suất 15 tấn; còn theo phương pháp mới có thể lên đến 1700 trụ, năng suất cao hơn hẳn đạt từ 20-22 tấn/ha.
Tuy nhiên, bà con nên lưu ý, trồng thanh long leo giàn số lượng trụ nhiều, số cành lớn, nối tiếp nhau, nên khi có bệnh thì khó chăm sóc, xử lý. Riêng tôi luôn đảm bảo các nguyên tắc: “Giống số 1, sau đó đến kỹ thuật chăm sóc; chỉ sử dụng phân hữu cơ, nguồn nước giếng khoan; thường xuyên thăm đồng, theo dõi, kiểm tra, vệ sinh vườn để hạn chế sâu bệnh”.
Theo tìm hiểu, mỗi năm cây thanh long cho 12 lứa quả, bắt đầu từ tháng 3 đến hết tháng 10 (âm lịch). Quả ra sai nhất trong khoảng tháng 6-8. Tuy nhiên, năm nay thời tiết khắc nghiệt, nhiều đợt nắng nóng diễn ra, khiến nhiều nhà vườn mất đến 6 đợt ra hoa, năng suất giảm đến 50%.
Từ thực tế đó, để giải bài toán mất mùa, nhiều nông dân đang nhân rộng mô hình trồng thanh long theo giàn, hoặc áp dụng biện pháp chiếu sáng trồng thanh long trái vụ, để có thể kéo dài thời gian thu hoạch đến tận tháng Giêng.
Hiện nay, giá thanh long dao động từ 25-32.000 đồng/kg, được các thương lái tìm mua tại vườn. Điều đó cho thấy, cây thanh long đã và đang khẳng định được vị thế là cây chủ lực phát triển kinh tế trên vùng đất đồi. Tuy nhiên, để có thể tiến tới xuất khẩu, hiện nay đa phần các nhà vườn trồng thanh long chưa thể đáp ứng được các yêu cầu về: số lượng, mẫu mã, hình thức…
Bài, ảnh Khánh Linh
Bao trái giúp giảm thất thoát sau thu hoạch
Nguồn tin: Khoa Học Phổ Thông
Bao trái trước thu hoạch bắt đầu phát triển mạnh với việc sử dụng các bao vật liệu có sẵn trong nước và nhập khẩu. Viện nghiên cứu cây ăn quả miền Nam cho biết, kết quả nghiên cứu cho thấy việc bao trái có hiệu quả tốt trong việc hạn chế được tổn thương cho vỏ trái, giảm tỷ lệ bệnh, tác động của côn trùng và chim, cải thiện màu sắc vỏ trái, hạn chế nám nắng và hạn chế lượng thuốc bảo vệ thực vật sử dụng trên cây, trái được an toàn.
Bao trái xoài đầu tiên xuất hiện tại vùng xoài Cao Lãnh - Đồng Tháp, nhờ hiệu quả cao nên việc bao trái được người dân các tỉnh thành khác áp dụng. Hiện nay trên thị trường có các loại bao trước thu hoạch cho cây ăn trái: bao PE (polyethylen), bao vải không dệt (polypropylen spunbonded non-woven fabric), bao giấy Đài Loan (lớp giấy màu vàng ở ngoài và lớp giấy đen bên trong), bao vi lỗ BOPP (biaxially oriented polypropylen film)…
Theo khuyến cáo của Viện nghiên cứu cây ăn trái miền Nam, tùy thuộc vào đặc tính giống và loại vật liệu bao trái, thường áp dụng bao trái khi trái vào giai đoạn phát triển ổn định, qua giai đoạn rụng trái sinh lý và tỉa trái, có trường hợp phải áp dụng mở bao giai đoạn trước khi thu hoạch để tăng chất lượng màu sắc vỏ trái. Trên xoài cát chu bao trái lúc 35 ngày sau khi đậu trái bằng bao xuyên thấu ánh sáng, có đục lỗ nhỏ (100 μm - bao vi lỗ) làm tăng độ sáng màu vỏ tạo sự bóng đẹp và không thay đổi phẩm chất của trái khi thu hoạch. Ngoài ra có thể bao giấy Đài Loan ở giai đoạn 42 - 45 ngày sau khi đậu trái.
Thực hiện đúng kỹ thuật bao trái cho năng suất cao, trái có màu sắc đẹp mắt, giảm tổn thất do sâu hại, nấm bệnh tấn công làm hư trái và làm xấu vỏ bên ngoài. Thời gian bao trái tùy thuộc vào giống, loại bao, thời tiết và sau khi tỉa trái xong. Theo kinh nghiệm nông dân Đồng Tháp, thời gian bao trái tốt nhất là lúc trái đạt 35 - 45 ngày sau đậu trái. Ngoài việc tỉa trái, cần cắt tỉa những dẻ hoa còn sót không đậu trái (chà), cành tăm, lá không cần thiết. Phun thuốc trừ sâu bệnh để có thể diệt trừ hết mầm bệnh, trứng cũng như sâu non có trên mặt trái trước khi bao, ưu tiên chọn thuốc có nguồn gốc sinh học. Chú ý sử dụng bao có kích thước phù hợp với từng nhóm xoài.
Sau khi chuẩn bị xong các bước thì tiến hành bao trái. Có thể bao bằng tay hoặc sử dụng dụng cụ bao trái, dụng cụ này có ưu thế bao trái cành xa, trên cao mà người bao khó tiếp cận. Trước khi bao, nên quan sát kỹ trái có đạt yêu cầu không (không có vết sâu, bệnh, xì mủ, héo vàng….), sau đó dùng túi bao đã chọn lồng vào trái theo chiều từ dưới lên và kéo dây rút trên đầu miệng túi lại, điều chỉnh phù hợp theo hướng cành, không vướng cành xung quanh.
Túi bao trái làm bằng vải không dệt, có các lỗ thoát khí có tác dụng làm thoát nước trong trường hợp mưa, hoặc hơi nước do trái thoát ra trong quá trình sinh trưởng, nhất là khi nhiệt độ tăng cao. Việc bao trái, nhất là mùa nghịch (dễ bị sâu bệnh tấn công gây thất thoát cao) cho kết quả rất tốt, nâng cao chất lượng trái xoài sau thu hoạch. Đồng thời, khi bao trái giảm đáng kể số lần phun thuốc trừ sâu bệnh (giảm được ít nhất từ 6 - 8 lần phun thuốc trừ sâu, bệnh/vụ), giảm chi phí phun xịt và tiền thuốc. Tỷ lệ trái đạt chất lượng tăng lên (30 - 50%), bệnh hại trên trái sau thu hoạch giảm từ 20 - 30% so với trái sản xuất trong điều kiện bình thường, khả năng bảo quản sau thu hoạch tốt hơn, hạn chế hiện tượng thối trái sau thu hoạch trong quá trình vận chuyển, bán hàng.
PHƯƠNG DUY
Cây na đang hấp dẫn người trồng vì lãi cao
Nguồn tin: Báo Long An
Cây na giống Thái Lan đang trở thành cây trồng hấp dẫn nông dân xã Bình Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An bởi dễ chăm sóc và có giá bán khá cao.
Chuyển đổi cây trồng
Ông Bùi Văn Năng, ngụ ấp 3, xã Bình Đức, có khoảng 5ha đất canh tác mía nhưng những năm gần đây, giá mía thấp, gia đình ông tìm hiểu nhiều cây trồng để áp dụng chuyển đổi. Con ông là anh Bùi Phước Như vốn tốt nghiệp Đại học Kinh tế và ham học hỏi, thường xuyên lên mạng tìm hiểu loại cây gì phù hợp vùng đất để trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao. Thử nghiệm nhiều loại cây trồng, trong đó cây na giống Thái Lan được anh Như đầu tư nhiều nhất hiện nay với diện tích khoảng 3ha.
Cây na còn có tên gọi khác là mãng cầu Hoàng Hậu, nguồn gốc từ Thái Lan. Cây na hiện được các nhà vườn tại Bến Tre ươm giống rất nhiều thông qua kỹ thuật ghép cành. Hiện với 3ha đất, anh Như trồng khoảng 3.000 cây giống, mỗi cây giống giá từ 28.000-40.000 đồng (tùy cây lớn hay nhỏ).Ngoài được nhà vườn cung cấp giống hướng dẫn kỹ thuật, anh Như tiếp tục lên mạng học hỏi thêm kinh nghiệm, cách chăm sóc từ cây mãng cầu ở tỉnh Tây Ninh. Anh nói: “Điều mừng nhất là sau vài tháng đặt cây con, theo dõi nhận thấy cây bám rễ, phát triển cành lá. Sau 18 tháng, cây có thể ra hoa và cho trái. Hiện nay, mùa trái đầu tiên đã được thu hoạch, tuy chưa nhiều nhưng những người trong gia đình, bạn bè cũng như xóm giềng dùng thử đều nhận xét chất lượng trái khá ngon, nhiều thịt, ít hạt và vị ngọt thanh tao. Như vậy kết quả bước đầu khá thành công”.
Anh Bùi Phước Như chăm sóc vườn na
Hiện cây na được anh Như trồng với kỹ thuật hàng cách hàng khoảng 3m; hoàn toàn sử dụng phân bón hữu cơ, chế phẩm sinh học để xử lý côn trùng, sâu hại. Riêng phần tưới nước được thực hiện hoàn toàn bằng hệ thống tưới tự động. Anh Như chia sẻ: “Tuy cây na dễ trồng nhưng rất kén phân, thuốc, nếu sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, hoa sẽ rụng hết”.
Hiện nay, ngoài gia đình ông Bùi Văn Năng trồng na, nhiều hộ dân khác cũng đến học hỏi kinh nghiệm và làm theo. Trong đó có gia đình ông Lê Quang Hiền, ngụ ấp 4. Ông Hiền cho biết, đang trồng 600 cây na trên diện tích 0,5ha và đã cho trái đợt đầu tiên. Hiện cây cũng kết trái khá tốt.
Trái na hứa hẹn có giá thành cao
Hiện nay, vườn na của anh Bùi Phước Như được 22 tháng tuổi, được xử lý ra hoa và dự kiến sẽ thu hoạch đợt thứ 2 vào giữa tháng 11-2019 trên diện tích 1,7ha. Diện tích 1,3ha còn lại, anh Như đang thực hiện xử lý ra hoa để thu hoạch trái vào dịp Tết nguyên đán năm 2020. Anh chia sẻ, từ khi cây na ra hoa, kết trái cho đến thu hoạch khoảng 4,5-5 tháng. Trong 1 năm, cây na có thể cho 2 đợt trái, mỗi trái có thể nặng từ 0,4-0,9kg. Dòng đời của cây có thể lên đến hơn 10 năm.
Trên diện tích 1ha đất trồng na được anh Như đầu tư khoảng 100 triệu đồng bao gồm cây giống, đường ống tưới nước và cả phân bón gốc ban đầu. Giá bán cũng như thị hiếu người tiêu dùng đối với trái na rất tốt. Hiện nay, thương lái đang mua na với giá khoảng 60.000 đồng/kg. Riêng vườn na của anh Như cũng như nhiều hộ dân khác ở xã Bình Đức được một đơn vị thu mua tại huyện Thủ Thừa liên kết tiêu thụ đầu ra với 2 mức giá cố định: Trái nặng 0,45kg trở lên giá 70.000 đồng/kg, trái nhỏ hơn 0,45kg giá từ 40.000-50.000 đồng/kg.
Anh Như cho biết thêm, hiện 1,7ha cây na đang cho trái, dự kiến thu hoạch vào giữa tháng 11-2019 khoảng 4 tấn trái. Ở vụ thu hoạch thứ 2 này, vườn na của anh hứa hẹn sẽ thu lại được chi phí đầu tư ban đầu và có lãi 80 triệu đồng/ha. Đối với các vụ mùa tiếp theo hầu như chi phí trồng rất thấp và nông dân sẽ có lãi khá cao nếu cây cho trái đẹp, to. Theo anh Như, trồng na không cần phải bón nhiều phân, mỗi năm khoảng 3-4 lần nhưng lúc cây cho trái dễ có côn trùng gây hại như rệp sáp và bệnh thán thư trên đọt lá non. Vì vậy, người trồng phải chịu khó phun thuốc vi sinh và thăm vườn thường xuyên.Nếu trái bị rệp sáp tấn công, phải dùng bàn chải có lông mềm chải, bao trái.
Theo Chủ tịch Hội Nông dân xã Bình Đức - Trần Văn Nữa, trên địa bàn xã hiện có khoảng 30ha đất trồng na và đang cho kết quả ban đầu khá tốt. Thế nhưng, ông cũng khuyên nông dân cần thận trọng khi quyết định chuyển đổi cây trồng, nhất là cây na. Nếu chọn trồng na nên theo hướng sản xuất hữu cơ và có liên kết tiêu thụ đầu ra. Bên cạnh đó, khâu chọn giống cũng là yếu tố quyết định thành công, nên chọn mua cây giống từ những nhà vườn có uy tín trên thị trường để mang lại lợi nhuận, tránh chọn cây giống trôi nổi dễ bị thiệt hại về kinh tế./.
Mai Hương
Tuyên Quang: Chủ động phòng, chống đói, rét cho đàn vật nuôi trong mùa đông
Nguồn tin: Báo Tuyên Quang
Nhận định của Đài khí tượng thủy văn tỉnh Tuyên Quang, nhiều khả năng mùa đông năm nay sẽ ấm hơn, tuy nhiên vẫn xuất hiện những đợt rét đậm, rét hại ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của đàn gia súc, gia cầm. Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh đề nghị các chủ trang trại, hộ chăn nuôi chủ động các biện pháp phòng, chống đói, rét cho gia súc, gia cầm.
Toàn tỉnh hiện có gần 133 nghìn con trâu, bò; gần 500 nghìn con lợn và hơn 5,6 triệu con gia cầm. Với số lượng đàn gia súc, gia cầm tương đối lớn, chăn nuôi đã và đang có những đóng góp quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều địa phương.
Ông Phạm Văn Cát, thôn Đồng Tày, xã Xuân Vân (Yên Sơn) đã gia cố lại chuồng để nuôi nhốt trâu khi nhiệt độ xuống thấp.
Ông Vũ Minh Thảo, Trưởng phòng Quản lý dịch bệnh, Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh mùa đông nhiệt độ giảm xuống thấp, độ ẩm cao, nguồn thức ăn khan hiếm là nguyên nhân dẫn đến sức đề kháng của đàn vật nuôi bị giảm, tạo điều kiện thuận lợi cho dịch bệnh lây lan, phát triển, nhất là các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như cúm gia cầm, lở mồm long móng, tai xanh… gây thiệt hại về kinh tế cho người chăn nuôi. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đề nghị các huyện, thành phố chỉ đạo phòng, ban liên quan, UBND các xã, phường, thị trấn đẩy mạnh tuyên truyền, tích cực hướng dẫn người chăn nuôi áp dụng các biện pháp phòng, chống đói rét cho đàn gia súc, gia cầm để tăng sức đề kháng cho đàn vật nuôi.
Xã Xuân Vân, địa phương dẫn đầu về tổng đàn gia súc, gia cầm của huyện Yên Sơn, với 855 con trâu, bò; trên 3.000 con lợn; 33.000 con gia cầm, thủy cầm. Thời điểm này, thời tiết chưa chuyển rét, song bà con đã chuẩn bị đầy đủ các biện pháp để bảo vệ đàn vật nuôi ở mức cao nhất. Ông Phan Văn Cát, thôn Đồng Tày, xã Xuân Vân cho biết, gia đình có 5 con trâu, 10 con lợn và hơn 100 con gà. Chăn nuôi mang lại nguồn thu nhập chính nên gia đình đặc biệt quan tâm, chuồng trại được xây dựng cẩn thận; thức ăn cho vật nuôi cũng được chuẩn bị đầy đủ. Riêng đối với đàn trâu, gia đình ông Cát đã trồng được 3 sào ngô đông cộng với nguồn rơm tích trữ từ vụ mùa cơ bản đủ để cho đàn trâu ăn qua mùa đông. Chủ động nguồn thức ăn, ông Cát cũng tiêm đủ các loại vắc xin phòng, chống dịch bệnh nguy hiểm cho đàn vật nuôi.
Ông Đỗ Xuân Thủy, cán bộ Thú y xã Xuân Vân cho biết, ý thức bảo vệ đàn vật nuôi của người dân rất tốt, các hộ chăn nuôi đều có chuồng trại, riêng đối với đàn gia súc mô hình “1 chuồng nuôi nhốt, 1 diện tích thức ăn thô xanh và 1 cây rơm” được duy trì khá tốt. Hiện tại xã đang tập trung tiêm phòng vụ Thu - Đông tạo thế miễn dịch chủ động cho đàn vật nuôi trong mùa đông.
Ở xã Bình Xa (Hàm Yên) nhiều hộ chăn nuôi đã gia cố, tu sửa cho chuồng trại sạch sẽ, khô ráo và bảo quản và dự trữ thức ăn thô, trồng thức ăn xanh đảm bảo đủ về số lượng và chất lượng. Anh Hoàng Văn Lợi, thôn Đồng Lường, xã Bình Xa cho biết, thời điểm này, rơm rạ, cỏ vẫn rất dồi dào nên anh tranh thủ thời tiết nắng ráo cắt, phơi khô, ủ chua để đông đến có sẵn nguồn thức ăn cho vật nuôi.
Người dân thôn Đồng Chùa, xã Bình Xa (Hàm Yên) trồng ngô đông để lấy cây chăn nuôi trâu, bò.
Kết quả kiểm tra công tác phòng, chống đói rét cho đàn vật nuôi của Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh tại các địa phương cho thấy, ý thức bảo vệ đàn vật nuôi tương đối tốt, đặc biệt là việc chuẩn bị nguồn thức ăn. Thống kê sơ bộ, có khoảng 6.000 ha cây ngô đông đã được gieo trồng, chưa kể lượng lớn rơm rạ từ thu hoạch lúa mùa được bà con phơi khô, tích trữ lại làm thức ăn cho đàn gia súc lớn.
Ông Nguyễn Văn Công, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi thú y tỉnh cho rằng, thực hiện chăn nuôi theo đúng quy trình kỹ thuật, tăng cường chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, đảm bảo khẩu phần ăn đủ dinh dưỡng sẽ tăng sức đề kháng cho vật nuôi. Tuy nhiên, người chăn nuôi cần lưu ý đến gia súc sơ sinh, gia cầm non có chế độ chăm sóc phù hợp; làm áo ấm cho trâu, bò (nhất là bê, nghé) bằng bao tải đay, vải sợi bông nhiều lớp… khi nhiệt độ xuống thấp. Ông Công nhấn mạnh, mùa đông cũng là mùa của dịch cúm gia cầm, trong điều kiện dịch tả lợn châu Phi bùng phát, nhiều hộ chăn nuôi chuyển hướng sang nuôi gia cầm, thủy cầm. Hiện tại đàn gia cầm, thủy cầm tăng cao nhất từ trước đến nay khoảng 5,6 triệu con, nên bà con cần đặc biệt quan tâm, chú ý tiêm phòng đầy đủ vắc xin để phòng, chống; vệ sinh sạch sẽ chuồng trại chăn nuôi; thực hiện phun thuốc khử trùng khu vực; nếu vật nuôi chết bất thường phải báo ngay với cơ quan thú y, chính quyền địa phương để lấy mẫu, xác định bệnh và có biện pháp khống chế, dập tắt dịch bệnh trong phạm vi hẹp.
Bài, ảnh: Đoàn Thư
Chăm sóc đàn gia cầm thời điểm giao mùa
Nguồn tin: Báo Thái Bình
Thời điểm giao mùa, thời tiết thay đổi đột ngột khiến đàn gia cầm không kịp thích nghi, sức đề kháng giảm, dễ mắc bệnh. Để nâng cao sức đề kháng cho vật nuôi, người chăn nuôi các địa phương trong tỉnh Thái Bình đang thực hiện các biện pháp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe đàn gia cầm.
Với phương châm “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”, thời gian qua, các hộ chăn nuôi trên địa bàn huyện Kiến Xương luôn chú trọng chăm sóc, bảo vệ đàn gia cầm nhằm hạn chế tối đa thiệt hại trong chăn nuôi. Bà Bùi Thị Minh Thành, phụ trách Trạm Chăn nuôi và Thú y huyện cho biết: Do ảnh hưởng của bệnh dịch tả lợn châu Phi nên số lượng đàn lợn trên địa bàn huyện giảm mạnh và gặp khó khăn trong công tác tái đàn. Nhiều hộ chăn nuôi đã sửa chữa, cải tạo chuồng trại, chuyển từ nuôi lợn sang nuôi gia cầm với mong muốn bù đắp thiệt hại do bệnh dịch tả lợn châu Phi gây ra. Toàn huyện hiện có 1,88 triệu con gia cầm các loại (tăng 8,4% so với cùng kỳ năm 2018). Thời gian qua, huyện đã tăng cường chỉ đạo các địa phương thực hiện các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học; kiểm tra, rà soát tổng đàn gia cầm, nắm bắt tình hình để kịp thời xử lý khi dịch bệnh phát sinh. Bước vào vụ thu đông năm 2019, huyện đã ban hành kế hoạch tiêm vắc-xin phòng bệnh cho đàn gia súc, gia cầm; yêu cầu các địa phương thực hiện tiêm phòng để nâng cao sức đề kháng cho đàn vật nuôi, trong đó tổ chức tiêm đại trà cho đàn gia cầm từ ngày 25 - 30/10; đồng thời, thực hiện tốt công tác vệ sinh, tiêu độc, khử trùng trên địa bàn.
Cùng với các hộ chăn nuôi trên địa bàn tỉnh, ông Đỗ Văn Thắng ở thôn Nam Hưng, xã Song Lãng (Vũ Thư) cũng tiến hành sửa chữa, che chắn chuồng trại phòng khi thời tiết thay đổi ảnh hưởng đến đàn gà thương phẩm gần 500 con của gia đình. Ông Thắng cho biết: Xung quanh chuồng nuôi gà được trang bị các tấm bạt dễ dàng che chắn khi thời tiết thay đổi, tránh được mưa tạt, gió lùa khiến đàn gia cầm bị lạnh; thường xuyên thu gom, xử lý chất thải chăn nuôi để không ảnh hưởng tới sức khỏe đàn gà. Hàng ngày tôi chú ý theo dõi các bản tin dự báo thời tiết, kịp thời nắm thông tin, từ đó điều chỉnh việc chăm sóc cũng như chế độ dinh dưỡng hợp lý. Khi có thông báo của địa phương về việc tiêm vắc-xin phòng bệnh cho vật nuôi, tôi đều chấp hành đầy đủ.
Người chăn nuôi cần điều chỉnh chế độ dinh dưỡng phù hợp cho gia cầm khi thời tiết thay đổi.
Hiện nay, đàn gia cầm toàn tỉnh có khoảng 13,98 triệu con các loại (tăng 9,25% so với cùng kỳ năm 2018). Theo khuyến cáo của các cơ quan chuyên môn, thời điểm giao mùa, trời nắng, nóng kèm mưa ẩm xen kẽ, nhiệt độ chênh lệch giữa ban ngày và ban đêm lớn, đàn gia cầm dễ mắc các bệnh như Newcastle, viêm phổi, cúm, tiêu chảy, tụ huyết trùng... Để chủ động phòng, chống các bệnh thường gặp trên đàn gia cầm, người chăn nuôi cần che chắn chuồng trại cẩn thận, tránh mưa tạt, gió lùa; khi nhiệt độ môi trường giảm cần giữ ấm cho đàn gia cầm, đặc biệt là gia cầm non cần phải có chuồng úm, quây úm, đèn sưởi để cung cấp nhiệt cho phù hợp; thường xuyên vệ sinh chuồng trại, máng ăn, máng uống, thu gom chất thải, thay chất độn chuồng. Về chế độ dinh dưỡng, cần cung cấp đủ thức ăn, nước uống bảo đảm chất lượng, hợp vệ sinh, bổ sung thêm vitamin, B-complex, men tiêu hóa để tăng khả năng hấp thụ thức ăn nhằm nâng cao sức đề kháng cho gia cầm. Thực hiện tiêm phòng đầy đủ các loại vắc-xin cho gia cầm theo quy định. Khi có nhu cầu vận chuyển gia cầm, cần chú ý theo dõi thông tin về thời tiết để tránh vận chuyển vào những ngày có mưa, gió mùa, trời lạnh; chú ý bảo đảm các quy trình vận chuyển, thực hiện nghiêm việc kiểm dịch vận chuyển để bảo đảm an toàn dịch bệnh. Hàng ngày theo dõi sức khỏe đàn gia cầm, phát hiện sớm các biểu hiện bất thường để cách ly, theo dõi và điều trị; nếu thấy gia cầm có biểu hiện nặng và lây lan nhanh phải thông báo ngay cho cán bộ thú y địa phương để được hướng dẫn xử lý kịp thời.
Thanh Huyền
Hướng tới chuyên nghiệp hóa chăn nuôi nông hộ
Nguồn tin: Báo Chính Phủ
Trong giai đoạn 2020-2030, ngành chăn nuôi được định hướng phát triển hiện đại, công nghiệp hóa chăn nuôi trang trại và chuyên nghiệp hóa chăn nuôi nông hộ. Song song với phương thức chăn nuôi công nghiệp, phát triển phương thức chăn nuôi hữu cơ gắn với chăn nuôi truyền thống.
Ngành chăn nuôi đang dần hiện đại hóa với các doanh nghiệp áp dụng hàm lượng khoa học công nghệ cao - Ảnh: VGP/Đỗ Hương
Theo đánh giá của Bộ NN&PTNT, chăn nuôi Việt Nam thực sự trở thành ngành sản xuất hàng hóa lớn. Chăn nuôi chuyển dịch nhanh theo hướng trang trại công nghiệp chiếm trên 45% về quy mô và trên 60% về sản lượng. Ngành thu hút khối lượng lớn nguồn lực của xã hội đầu tư phát triển chăn nuôi, nhất là đầu tư nước ngoài. Năng suất và chi phí sản xuất chăn nuôi được cải thiện đáng kể…
Tuy nhiên, mục tiêu và định hướng phát triển chăn nuôi trong Chiến lược chưa đánh giá hết được vai trò quan trọng của yếu tố thị trường đối với sự phát triển của ngành hàng thịt lợn và yếu tố đất đai dành cho không gian chăn thả với chăn nuôi trâu, bò thịt...
Chiều 24/10 tại Hà Nội, Bộ NN&PTNT tổ chức Hội thảo lấy ý kiến đánh giá kết quả thực hiện “Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020 và xây dựng Chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2020-2030, tầm nhìn 2040” khu vực phía bắc.
Toàn cảnh cuộc hội thảo - Ảnh: VGP/Đỗ Hương
Theo ông Nguyễn Xuân Dương, Quyền Cục trưởng Cục Chăn nuôi, trong giai đoạn 2020-2030, ngành định hướng phát triển các loại vật nuôi, sản phẩm chăn nuôi gắn với khai thác tiềm năng, lợi thế so sánh và thích ứng với thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Theo đó, các sản phẩm chăn nuôi quốc gia bao gồm lợn, gia cầm, bò sữa, bò thịt.
Thực tế đến nay, tỉ trọng chăn nuôi trong ngành nông nghiệp tăng ở mức thấp khoảng 31,5-32%, không đạt mục tiêu của Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020 (mục tiêu của Chiến lược 2020 là 42%).
Lý do là phần lớn các địa phương có tăng trưởng mạnh về nông nghiệp những năm qua đối với nhóm cây công nghiệp, cây ăn trái, rau hoa thì với chăn nuôi chưa được đầu tư tương xứng, chẳng hạn khu vực Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long chăn nuôi chỉ chiếm khoảng 15-20% trong nông nghiệp…
Điển hình trong chăn nuôi lợn, mục tiêu trong Chiến lược đặt ra là phải tăng đàn lợn bình quân 2% năm, tổng đàn đạt 35 triệu con vào năm 2020; trong đó tỉ trọng đàn lợn ngoại nuôi trang trại, công nghiệp chiếm 37%.
Tuy nhiên, kết quả thực tế trong 10 năm, đàn lợn chỉ có tốc độ tăng trưởng 0,5%/năm với tổng đàn duy trì ở mức 26-29 triệu con.
Nhưng nhờ áp dụng công nghệ tiên tiến và đổi mới phương thức chăn nuôi nên đã làm tăng năng suất và khối lượng giết mổ lợn thịt. Sản lượng thịt lợn tăng trưởng bình quân 3,3%/năm, tiệm cận với mục tiêu Chiến lược đặt ra.
Chăn nuôi gia cầm có tốc độ tăng trưởng đàn đạt 5,1% cao hơn so với mục tiêu đặt ra, tổng đàn gia cầm đã đạt 409 triệu con, cao hơn kế hoạch 136%.
Mặc dù vậy, an toàn sinh học và kiểm soát dịch bệnh trong chăn nuôi còn yếu, liên kết chuỗi giá trị trong sản xuất chưa phát triển mạnh.
Một điểm nhấn trong thực hiện Chiến lược là từ một ngành không được coi là tiềm năng, chăn nuôi bò sữa đã lớn mạnh với tốc độ tăng trưởng ấn tượng về sản lượng sản xuất sữa tươi. Mặc dù so với mục tiêu trong Chiến lược không đạt về tốc độ tăng trưởng và tổng đàn nhưng sản lượng sữa tươi đã vượt mục tiêu Chiến lược đặt ra.
Góp ý tại hội thảo, ông Trần Xuân Đông, Chi cục Chăn nuôi và Thú y Quảng Ninh, cho biết, chăn nuôi ở tỉnh chưa khai thác hết thế mạnh, tiềm năng.
Hằng năm, tỉnh mới chỉ đáp ứng 60-65% nhu cầu thực phẩm, còn lại phải nhập từ các tỉnh Thái Bình, Hải Dương… Tỉnh mới có trên 200 doanh nghiệp đầu tư vào chăn nuôi, chỉ chiếm hơn 16% số lượng vật nuôi của tỉnh.
“Quảng Ninh đã quy hoạch 17 vùng chăn nuôi tập trung, nhưng vẫn không cụ thể được mỗi huyện xã cần bao nhiêu diện tích đất đai cho chăn nuôi. Quy hoạch chăn nuôi đi sau nên việc dành đất cho chăn nuôi rất khó khăn do trùng với các lĩnh vực khác”, ông Đông nhấn mạnh.
Ông Trần Xuân Đông đề nghị cơ quan chức năng sớm ban hành quy định “cứng hóa” về diện tích chăn nuôi chiếm bao nhiêu phần trăm trong phát triển nông nghiệp. Nếu vẫn tận dụng chăn nuôi trong làng, xã thì sẽ không thể công nghiệp, hiện đại, đảm bảo an toàn dịch bệnh.
Ông Nguyễn Ngọc Sơn, Chi Cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y Hà Nội cho rằng cần đánh giá sâu hệ thống ngành. “Nếu cấp huyện không có nhân lực chuyên sâu về chăn nuôi để góp ý, tham mưu cho ngành thì rất khó phát triển. Trong hệ thống ngành, con người là quan trọng nhất. Nếu có chính sách mà không có con người thi hành thì chính sách chỉ là trên giấy”, ông Sơn nhìn nhận.
Về định hướng phát triển thời gian tới, ông Sơn góp ý nên nhấn mạnh về mục tiêu nào đó và nên đi vào chất lượng giống, chất lượng sản phẩm. Thời gian tới triển khai Luật Chăn nuôi, ông Sơn mong muốn Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Cục Chăn nuôi cần triển khai quyết liệt để luật đi vào cuộc sống.
Đồng tình với ông Sơn, ông Bùi Minh Hải, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Điện Biên - tỉnh chủ yếu phát triển chăn nuôi đại gia súc - cho biết, tỉnh sẽ tập trung cải tạo đàn giống vì giống đại gia súc cận huyết rất nhiều.
Trong giai đoạn 2020-2030, ngành chăn nuôi định hướng sắp xếp, tổ chức lại hệ thống cơ sở giết mổ và chế biến gia súc, gia cầm theo hướng tập trung, công nghiệp gắn với vùng chăn nuôi hàng hoá, bảo đảm yêu cầu về vệ sinh thú y, an toàn thực phẩm và bảo vệ với môi trường.
Dự thảo Chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2020-2030, tầm nhìn 2040 đặt ra mục tiêu mức tăng trưởng bình quân giai đoạn 2020-2025 trung bình 4-5%/năm; giai đoạn 2026-2030 đạt trung bình 3-4%/năm.
Đỗ Hương
Hiếu Giang tổng hợp