Khi nhà nông làm mô hình tự động hóa
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, ngành chức năng thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang đã vận động, hỗ trợ nông dân ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đặc biệt là áp dụng các hệ thống tưới nước, phun thuốc tự động cho vườn cây, vừa tiết kiệm và giảm được nhiều thời gian chăm sóc.
Ông Tùng đầu tư hệ thống tưới tự động trong vườn cây ăn trái tiết giảm chi phí đầu tư khoảng 40 triệu đồng/năm.
Gia đình ông Nguyễn Thanh Tùng, ở xã Tân Thành, có 10 công đất trồng sầu riêng Ri 6. Đến nay, vườn cây của ông đã được 7 năm tuổi và ông lắp đặt hệ thống tưới nước tự động được 3 năm nay. Ông Tùng cho biết: “Chi phí đầu tư ban đầu khoảng 8 triệu đồng/công, tuy hơi nhiều nhưng tôi nghĩ đến lợi ích lâu dài nên quyết định lắp đặt. Bây giờ, cả khu vườn 1ha, tôi chỉ cần bật cầu dao là các vòi nước tự phun tưới cho vườn cây đều khắp. Nếu tưới bằng máy bơm thì 10 công vườn, tôi phải tốn khoảng 40.000 đồng tiền xăng và mất thời gian hơn nửa ngày. Hiện nay, tưới bằng hệ thống tự động chỉ mất 30 phút và tốn khoảng 20.000 đồng tiền điện/lần tưới. Tôi tiết kiệm tiền cho khâu tưới nước trên dưới 40 triệu đồng/năm”. Không chỉ dừng lại ở đó, ông Tùng còn nghiên cứu qua sách, báo, internet và học hỏi các nơi để sáng chế thêm hệ thống phun thuốc, bón phân tự động cho vườn cây ăn trái.
Còn ông Lê Hoàng Phận, ở khu vực 6, phường Hiệp Thành, cũng tiết giảm được 1,5 giờ/ngày để tưới nước cho 200m2 vườn lan. Ông Phận đã học được mô hình tưới phun tiết kiệm nước qua những lần tham quan vườn lan tỉnh bạn. Về địa phương, nhờ sự hỗ trợ, tư vấn thêm của cán bộ kỹ thuật, ông đã lắp đặt hoàn thiện hệ thống tưới nước tự động cho vườn lan của gia đình. Ông Phận cho rằng: “Tôi kinh doanh cây cảnh nên khâu chăm sóc rất kỳ công, nhất là khâu tưới nước chiếm khoảng 70-80% trên tổng chi phí nhân công. Do vậy, tôi đã tập trung đầu tư tự động hóa khâu tưới nước để giảm chi phí thuê nhân công đỡ vất vả, tiết kiệm thì giờ để làm nhiều việc khác”. Theo ông Phận, việc bố trí lắp đặt hệ thống phun tưới nước tự động cũng không khó nhưng phải phù hợp. Chi phí lắp đặt hệ thống tưới tự động cho vườn lan khác hơn so vườn cây ăn trái nên khá đắt, với mức khoảng 7-8 triệu đồng/1.00m2, nhưng hệ thống này có thể sử dụng được rất lâu, đến hơn 10 năm thì rất xứng đáng.
Theo ông Lâm Hoàng Lợi, Trưởng trạm Khuyến nông thị xã Ngã Bảy, thì việc ứng dụng công nghệ tưới tự động, tiết kiệm nước, giảm nhân công tưới và tiết kiệm thời gian chăm sóc cho vườn cây là rất cần thiết. Đây cũng là giải pháp hiệu quả đảm bảo sản xuất nông nghiệp phát triển trong điều kiện nguồn lao động trong nông nghiệp ở nông thôn ngày càng khan hiếm. Nhận thức được vai trò quan trọng đó nên trạm cùng với các cơ quan chuyên môn đã tư vấn, hỗ trợ chi phí cho nông dân xây dựng mô hình điểm và mô hình trình diễn để nhiều nông dân học tập, ứng dụng vào sản xuất. Trong năm 2018, thị xã đã tăng cường ứng dụng hệ thống tưới tự động trong vườn cây ăn trái ở các địa phương. Trong đó, đơn vị đã phối hợp với Trung tâm Giống nông nghiệp tỉnh thực hiện dự án “Xây dựng mô hình sản xuất cây có múi ứng dụng công nghệ tiên tiến tại Hậu Giang” (gọi tắt là chương trình nông thôn miền núi) trên địa bàn xã Tân Thành, với quy mô 3ha trên cây cam sành. Có 2 hộ thực hiện đến nay đã có nhiều tiến bộ rõ nét.
Ông Cao Văn Đạt, hộ thực hiện dự án ở xã Tân Thành, chia sẻ: “Tham gia dự án, tôi được cung cấp cây giống và trang thiết bị lắp đặt hệ thống tưới tiết kiệm nước. Dự án giúp những nhà vườn canh tác cây có múi theo hướng bền vững. Nông dân chúng tôi được tiếp cận những tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất để kịp thời ứng phó với tình hình biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn như hiện nay”.
Ông Lê Hùng Chiến, Trưởng phòng Kinh tế thị xã Ngã Bảy, thông tin: Đơn vị muốn nông dân được tận mắt chứng kiến về hệ thống tưới vườn tự động để mạnh dạn đầu tư vào sản xuất. Vì vậy, đã đẩy mạnh hỗ trợ nông dân làm mô hình điểm để những hộ khác đến học tập. Trong thời kỳ khí hậu bị biến đổi thất thường thì rất cần đẩy mạnh ứng dụng đồng bộ các tiến bộ khoa học kỹ thuật khác vào sản xuất gắn với việc chọn giống tốt, tăng cường liên kết giữa các bên liên quan để xây dựng vùng sản xuất, có thương hiệu, an toàn vệ sinh thực phẩm... nhằm đảm bảo đầu ra sản phẩm.
Bài, ảnh: TRÚC LINH
Nhà ‘sáng chế’ nông dân
Nguồn tin: Báo Ảnh Đất Mũi
Những cái tên như ông Đặng Ô Rê (ấp Thuận Lợi, xã Tân Thuận, huyện Đầm Dơi, Cà Mau, người sáng tạo cầu kéo ghe qua đập), ông Nguyễn Văn Rô (ấp Giá Ngự, xã Đông Hưng, huyện Cái Nước; tự chế máy cày cho vùng đầm lầy, ngập nước)… đã nổi danh khắp nơi, bởi tính năng ứng dụng cao của các sản phẩm được sáng chế. Không dừng ở đó, đất Cà Mau ngày càng xuất hiện tiếp nối nhiều nông dân như thế. Từ quá trình lao động sản xuất, họ đã tìm tòi chế tạo, cải tiến hàng chục loại máy phù hợp với điều kiện canh tác, giúp giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Bài 1: Máy xắt chuối, rau đa năng
Ít ai ngờ rằng ở con đường ngoằn ngoèo, nhỏ hẹp dẫn đến con kênh cùng Xóm Lẫm (ấp Năm Đảm, xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước) lại có một “xưởng” cơ khí của người nông dân mê sáng chế như anh Phan Tấn Phong. Anh Phong được nhiều người biết đến khi tự mình chế tạo thành công chiếc máy xắt chuối, rau đa năng. Chiếc máy đã giúp việc chăn nuôi của gia đình anh và bà con khắp nơi trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn.
Với máy xắt chuối, rau đa năng, bà con đưa trực tiếp cây chuối vào máy, mỗi giờ xắt được từ 1,2 - 1,3 tấn chuối cây, máy sẽ tự băm nhuyễn.
Mất ăn mất ngủ vì mê… máy
Thời điểm năm 2014, anh Phong được tập huấn kỹ thuật nuôi gà theo công nghệ sinh học. Anh đầu tư chuồng trại nuôi 500 con gà. Do nuôi số lượng lớn đòi hỏi phải có nguồn thức ăn dồi dào nên gia đình anh đã tận dụng rau tạp và chuối cây trong vườn cho gà ăn để tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên, việc xắt bằng tay chỉ đáp ứng cho khoảng 100 con gà ăn trong ngày, lại mất nhiều thời gian.
Trong những buổi trà dư tửu hậu, anh em trong xóm bàn tán với nhau, phải chi có cái máy xắt được rau, chuối cho heo, cho gà ăn thì hay quá, vừa có thể mở rộng chăn nuôi, vừa có nhiều thời gian coi sóc vuông tôm. Mong muốn ấy khiến anh nông dân 38 tuổi này trăn trở ngày đêm, thôi thúc anh tìm tòi, nghiên cứu và bắt tay sáng chế. Anh Phong bộc bạch: “Tôi muốn thử sức mình đến đâu, nếu thành công thì giúp ích cho nông dân, còn thất bại cũng chẳng sao, coi như lần trải nghiệm”.
Bắt tay vào việc như đứa trẻ mới tập đi. Anh Phong nhiều đêm mất ngủ, nằm suy nghĩ về máy, hễ lóe lên ý tưởng nào phù hợp anh liền bật dậy vẽ lại, có khi thức làm ngay trong đêm. Nhiều tháng mày mò lắp vào tháo ra, anh cũng hoàn thành, tuy nhiên máy xắt chậm, xắt nhưng chưa băm được, chưa điều chỉnh được độ mỏng, dày, to, nhỏ hay rau bị dập nát… Anh Phong tiếp tục cải tiến, chỉnh sửa, cho ra đời chiếc máy xắt rau, chuối có thể điều chỉnh lát dày, mỏng, phôi thức ăn to, mịn… tùy theo nhu cầu thức ăn cho vật nuôi là bò, dê, heo, cá hay gà, vịt...
Anh từng học qua cơ khí chưa? Anh Phong cười trừ: “Nhà tôi hơn chục anh chị em, cuộc sống vất vả lắm, tôi chỉ học tới lớp 6. Có điều tôi mê máy móc, lúc nhỏ thường theo cha, chú xem sửa máy cày, máy nổ và thầm ước có nghề như thế”.
Do “tay ngang” và ý định làm máy phục vụ nông dân nên các chi tiết về máy của anh cũng đơn giản, dễ vận hành, với một mô-tơ đấu nối với trục xoay và lưỡi dao dùng để cắt nguyên liệu, có chế độ tự điều chỉnh để lưỡi dao có thể cắt nguyên liệu theo kích thước lớn, nhỏ.
Anh Phong đang ấp ủ sáng chế nhiều loại máy theo nhu cầu thị trường, góp phần giảm công sức lao động và nâng cao hiệu quả kinh tế cho nông dân.
Làm lợi cho nông nghiệp
Qua từng năm, máy không ngừng được anh Phong chỉnh sửa, cải tiến, nay đã thực sự hoàn hảo, với kích thước nhỏ gọn, cách điện an toàn và tiết kiệm điện năng. Tiếng lành đồn xa, đến nay, gia đình anh Phong đã bán trên 300 cái máy, giá từ 6 - 7 triệu đồng/máy. Anh còn xuất bán máy qua châu Phi, Campuchia… Theo anh Phong, trước đây để nuôi một con heo, trung bình mỗi ngày người nuôi phải mất hơn 2 giờ để xắt, bằm chuối cây cho ăn. Nhưng với chiếc máy của anh, mỗi giờ có thể xắt được từ 1,2 - 1,3 tấn chuối cây mà không cần thêm công đoạn băm nhuyễn, qua đó giúp ích rất nhiều cho người chăn nuôi với số lượng lớn. Không những thế, máy còn xắt được lục bình, lỏi quầy chuối, vỏ chuối… để làm phân hữu cơ.
Chị Dư Bích Liễu, vợ anh Phong chia sẻ: “Nhiều chị gọi điện thoại đến cám ơn tíu tít, họ nói nhờ có máy xắt rau, chuối mà họ đỡ cực, quan trọng hơn nữa là ao cá, đàn heo có thêm nguồn thức ăn độn trong những ngày cầm chừng đợi giá, tiết kiệm được chi phí thức ăn”.
Nay, nhắc đến anh Phan Tấn Phong là mọi người nghĩ ngay đến những sáng chế máy móc có tính ứng dụng thực tế cao, dễ sử dụng và mang lại nhiều lợi ích trong nông nghiệp. Anh Phong tâm sự, máy móc làm ra để phục vụ và thay thế sức lao động con người. Anh chế tạo máy không phải vì giải thưởng mà muốn giảm bớt sự vất vả cho nông dân. Anh Phong không chỉ thành công với máy xắt chuối, rau đa năng, mà anh còn đang thực hiện làm máy xới và chở đất tiện lợi, theo yêu cầu của khách. Mới đây, anh chế tạo máy ép chuối khô cho nông dân Trần Hợi (huyện Trần Văn Thời). Trò chuyện qua điện thoại, bà con hết lời khen, mùa tết này sẽ đặt thêm máy ép, để đảm bảo tăng số lượng chuối khô bán ra thị trường.
Máy xới và chở đất tiện lợi, anh Phong đang chế tạo theo yêu cầu của khách.
Có được kết quả như vậy, anh Phong không quên sự quan tâm, tin tưởng của Hội Nông dân xã, huyện, tạo điều kiện để anh phát huy sở trường. Anh Phong kể: “Lúc mới tập tành sáng chế, Hội Nông dân xã cho mượn 20 triệu đồng để tôi mua vật liệu. Còn chị Nguyễn Thị Lan, Phó Chủ tịch Hội Nông dân huyện thì hướng dẫn tôi làm hồ sơ dự thi sáng tạo khoa học kỹ thuật cấp tỉnh, năm 2017 sáng chế máy xắt chuối, rau đa năng của tôi đoạt giải Nhì, làm nền tảng phát triển như hôm nay”.
Không chỉ say mê, sáng tạo trong chế tạo, cải tiến máy móc, anh Phong còn được biết đến là nông dân sản xuất kinh doanh giỏi của địa phương. Hiện nay, gia đình anh có 2ha vuông, chăn nuôi heo, gà, chuẩn bị xây nhà nuôi yến, riêng xưởng máy tạo việc làm thường xuyên cho khoảng 2 lao động. Bên cạnh đó, anh Phong còn tích cực tham gia ủng hộ, giúp đỡ vốn cho các hộ khó khăn trong xã, tham gia đóng góp vào các phong trào của địa phương.
Dẫn chúng tôi tham quan xưởng máy mini của mình, anh Phong cho biết hướng sắp tới sẽ liên kết mở đại lý phân phối máy ở một số tỉnh, tiếp tục sáng chế nhiều loại máy theo nhu cầu thị trường, góp phần giảm công sức lao động và nâng cao hiệu quả kinh tế cho nông dân.
MỘNG THƯỜNG
Nông nghiệp Tiền Giang: Những chuyển hướng tích cực
Nguồn tin: Báo Ấp Bắc
Sau 5 năm triển khai thực hiện Đề án Tái cơ cấu, ngành Nông nghiệp Tiền Giang đã có những chuyển hướng tích cực.
1. Kết quả cụ thể sau 5 năm thực hiện tái cơ cấu ngành Nông nghiệp được thể hiện qua từng ngành hàng như: Lúa - gạo, trái cây, rau, chăn nuôi, ngành hàng tôm…
Còn nếu nhìn nhận theo khía cạnh các giải pháp chung, ngành Nông nghiệp cũng đã đạt được nhiều kết quả liên quan đến công tác quy hoạch; xây dựng vùng chuyên canh và chuỗi ngành hàng; chuyển giao ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất; mở rộng thị trường; triển khai các chính sách hỗ trợ sản xuất và tiêu thụ hay thu hút đầu tư, nguồn lực phát triển nông nghiệp…
Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp đã mang lại dấu hiệu tích cực, nhất là đối với trái cây xuất khẩu.
Nếu nhìn vào việc đầu tư công nghệ, thiết bị trong lĩnh vực sơ chế, chế biến trái cây thì Công ty TNHH Sản xuất chế biến nông sản Cát Tường trở thành một điểm sáng trong thực hiện chủ trương tái cơ cấu ngành Nông nghiệp của tỉnh.
Ông Đoàn Văn Sang, Giám đốc Công ty TNHH Sản xuất chế biến nông sản Cát Tường nhấn mạnh, nắm bắt được nhu cầu của thị trường, từ năm 2017 công ty đã tập trung đầu tư thiết bị xử lý nhiệt hơi nước nóng và chính thức đi vào hoạt động vào cuối năm 2018 phục vụ cho thị trường tiêu thụ khó tính là Hàn Quốc và vào giữa năm 2019 phục vụ cho thị trường Nhật Bản.
Theo ông Sang, mặc dù còn gặp không ít khó khăn, nhưng việc đầu tư thiết bị công nghệ mới đã giúp cho công ty đủ điều kiện xuất khẩu trái xoài tươi sang thị trường Hàn Quốc mang về tổng giá trị cao gấp 3, 4 lần so với hàng chế biến hoặc tiêu thụ nội địa.
Ngoài ra, công ty cũng không ngừng quan tâm đến công nghệ thích hợp nhằm kéo dài thời gian bảo quản trái cây xuất khẩu tạo lợi thế cạnh tranh như công nghệ nhúng nhiệt, công nghệ dập lạnh…
Mở rộng, tìm kiếm thị trường đã được ngành Nông nghiệp phối hợp với các sở, ngành, địa phương tập trung triển khai thực hiện và đã mang lại kết quả cơ bản: Trái vú sữa Lò Rèn vào thị trường Hoa Kỳ; trái xoài cát Hòa Lộc được sử dụng trên các chuyến bay của Vietnam Airlines mở ra cơ hội lớn cho việc quảng bá trái cây đặc sản của Tiền Giang đến khách hàng trong và ngoài nước.
Ngoài ra, ngành Nông nghiệp cũng hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, HTX, các cơ sở sản xuất nông sản an toàn của tỉnh tiếp cận với thị trường TP. Đà Nẵng, TP. Hà Nội thông qua các chương trình hội chợ, hội thảo, liên kết với các doanh nghiệp của các tỉnh, thành và tiếp cận hệ thống phân phối như các chợ đầu mối, siêu thị, cửa hàng phân phối nông sản an toàn…
Còn nếu xem xét dựa trên khía cạnh liên kết sản xuất, nhất là đối với mô hình hợp tác xã (HTX) kiểu mới, HTX Mỹ Tịnh An (huyện Chợ Gạo) trở thành một điển hình trong quá trình thực hiện chủ trương tái cơ cấu ngành Nông nghiệp của tỉnh.
Bởi trên thực tế, HTX không những mang lại hiệu quả sản xuất - kinh doanh, mà còn tạo nên nhiều nét riêng biệt. Ông Võ Chí Thiện, Giám đốc HTX Mỹ Tịnh An cho biết, HTX là một trong số ít đơn vị đi tiên phong trong nghiên cứu sản xuất sản phẩm thanh long sạch cung cấp cho thị trường khó tính.
HTX đã góp phần thay đổi tư duy sản xuất của nhà nông và bằng chứng là số hộ xin vào làm thành viên HTX ngày càng đông. Một trong những chiến lược sản xuất - kinh doanh là HTX đã ký hợp đồng với các thành viên mua thanh long với giá thấp nhất là 10.000 đồng/kg ở mọi thời điểm, cao hơn giá thị trường ít nhất 1.000 đồng/kg đối với sản phẩm đạt chuẩn và thành viên HTX được hưởng lợi nhuận so với thị trường bên ngoài từ 10% - 20%.
2. Theo đánh giá chung của Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Văn Hóa, kết quả cơ bản đạt được sau 5 năm triển khai thực hiện Đề án Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp là sản lượng của ngành phát triển vững chắc trong điều kiện còn nhiều khó khăn đối với phát triển nông nghiệp, hạn hán bất lợi, tình trạng xâm nhập mặn ngày càng phức tạp, kéo dài; dịch bệnh trên gia súc, gia cầm, kể cả chi phí đầu tư cho nông nghiệp ngày càng tăng cao.
Tuy nhiên, dù còn nhiều khó khăn đan xen nhưng tốc độ tăng trưởng của khu vực nông nghiệp và thủy sản Tiền Giang qua các năm đều có tăng trưởng dương, các mục tiêu về sản lượng phần lớn đã đạt và gần đạt các mục tiêu đặt ra đến năm 2020, trở thành nền tảng ổn định để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Theo đó, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2013 - 2018 của ngành Nông nghiệp đạt được là 3,6%, trong khi tăng trưởng bình quân nông nghiệp cả nước chỉ đạt 2,55%.
Tuy nhiên, nếu đánh giá đúng thực trạng, ngành Nông nghiệp cũng nhận định nội tại của ngành vẫn còn không ít khó khăn, tồn tại như: Khí hậu, thời tiết phức tạp, tần suất thiên tai, dịch bệnh ngày càng dài, diễn biến khó lường gây thiệt hại cho sản xuất và thu nhập của nông dân.
Trên thực tế, quá trình thực hiện tái cơ cấu ngành Nông nghiệp cũng diễn ra chậm, chủ yếu thực hiện trên lĩnh vực trồng trọt; lĩnh vực chăn nuôi, thủy sản không tác động mạnh đối với các sản phẩm thực hiện tái cơ cấu là con chim cút, gà ri, con tôm.
Chưa kể, năng lực sản xuất của ngành Nông nghiệp vẫn còn mạnh về sản lượng nhưng chất lượng còn bất cập, thị trường tiêu thụ bấp bênh; chuyển đổi cơ cấu cây trồng tự phát ngoài vùng quy hoạch, nguy cơ rủi ro rất cao; hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm chưa cao, sức cạnh tranh sản phẩm còn thấp; công nghệ chế biến nông sản quy mô nhỏ, phần lớn nông sản xuất thô, giá trị gia tăng thấp trong khi liên kết phát triển sản xuất chưa bền vững…
ANH PHƯƠNG - MINH THÀNH
Chủ động chăm sóc vườn cây ăn quả trong mùa mưa
Nguồn tin: Báo Đắk Nông
Mùa mưa là thời điểm tạo điều kiện cho một số dịch bệnh trên cây ăn quả phát triển, lây lan nhanh. Do đó, ngành Nông nghiệp Đắk Nông khuyến cáo nhà vườn cần tích cực bảo vệ, chăm sóc các loại cây ăn quả nhằm bảo đảm chất lượng và năng suất.
Nông dân thôn 8, xã Đắk Nia (Gia Nghĩa) cắt bỏ lá, cành phụ tạo độ thông thoáng cho vườn chanh dây
Đắk Mil được xem là địa phương trồng cây ăn quả trọng điểm của tỉnh trong những năm qua, với khoảng 1.100 ha tập trung ở Đắk Gằn, Đức Mạnh, Đắk Sắk, Thuận An. Các loại cây ăn quả chủ yếu được nông dân trên địa bàn sản xuất là xoài hơn 300 ha, sầu riêng khoảng 450 ha, bơ khoảng 300 ha...
Hiện nay, thời tiết đang vào mùa mưa, xuất hiện nhiều trận mưa kéo dài làm ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, phát triển cây trồng. Theo Phòng Nông nghiệp- PTNT Đắk Mil, thời điểm này, cây ăn quả dễ bị tấn công bởi các loại nhện vàng, nhện đỏ; các loại bệnh do vi khuẩn gây ra cũng sẽ lây lan nhanh. Trong thời tiết mưa dầm, cây trồng cũng rất dễ bị thối rễ do úng nước. Nhằm giúp các nhà vườn chủ động trong bảo vệ vườn cây, ngành Nông nghiệp huyện Đắk Mil đã hướng dẫn Nhân dân thực hiện nạo vét, khơi thông các dòng chảy cho vườn, cân đối dinh dưỡng, phòng bệnh đúng cách.
Ông Nguyễn Văn Hòa, thôn Đức Đoài, xã Đức Minh có 1 ha sầu riêng cho biết: “Để tránh tình trạng ngập úng cho vườn cây trong mùa mưa bão, tôi đào các rãnh, mương thoát nước theo đường dích dắc trong toàn bộ vườn cây, vừa thoát nước, vừa chống trôi phân bón, không gây xói mòn".
Người dân xã Đắk Gằn (Đắk Mil) bón phân cân đối tăng sức đề kháng cho cây ăn quả trong mùa mưa
Diện tích cây ăn quả trên địa bàn thị xã Gia Nghĩa hiện nay cũng lớn, đạt trên 500 ha với nhiều loại cây trồng như cam, chanh, sầu riêng. Hiện tại nhiều chủ vườn cây áp dụng các biện pháp về loại bỏ bớt cành phụ, chồi phụ, cắt cỏ vệ sinh vườn sạch sẽ để tạo sự thông thoáng.
Ông Nguyễn Chí Hiếu, thôn 8, xã Đắk Nia (Gia Nghĩa), có gần 2 ha chanh dây cho hay: Giai đoạn mùa mưa cũng là thời gian cây chanh dây đơm hoa, cho trái, nhu cầu dinh dưỡng lớn, đặc biệt là nguyên tố kali. Do vậy, nông dân cần bổ sung dinh dưỡng cho cây một cách hợp lý. Gia đình thường bón phân hữu cơ, phân lân 2 lần vào đầu và giữa mùa mưa. Các tháng mùa mưa cũng dễ bị ruồi đục trái, bọ xít tấn công. Để phòng trừ, chúng tôi áp dụng việc vệ sinh vườn, cắt tỉa lá già, bệnh, thu gom những trái rơi rụng đem chôn sâu, có khử trùng bằng vôi. Biện pháp hóa học là sử dụng Protein thủy phân trộn chất độc làm bả diệt ruồi đục trái cũng được gia đình áp dụng khi thấy cần thiết.
Toàn tỉnh hiện có khoảng 7.000 ha cây ăn quả, hàng năm đem lại nguồn thu nhập khá lớn cho Nhân dân. Để có được mùa vụ bội thu, Chi Cục Phát triển Nông nghiệp (Sở Nông nghiệp - PTNT) lưu ý: Việc thường xuyên thăm vườn để nắm rõ diễn biến sinh trưởng của loài dịch hại, có những biện pháp xử lý kịp thời được coi là biện pháp kỹ thuật canh tác quan trọng hàng đầu, nhà nông cần thực hiện. Khi bón phân, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, nhà vườn cần thực hiện theo nguyên tắc “4 đúng” là: Đúng chủng loại, đúng liều lượng, đúng thời điểm và đúng cách. Bà con hạn chế bón phân đạm, vì sẽ dễ kích thích cây ra đọt non và khi vườn cây bị ngập úng sẽ tiêu hao nhiều dinh dưỡng, làm cho cây dễ bị suy yếu...
Bài, ảnh: Hồng Thoan
Thành công mô hình trồng chanh không hạt
Nguồn tin: Báo Bình Thuận
Với mục đích chuyển đổi các loại cây trồng kém chất lượng sang canh tác các loại giống mới có năng suất cao, mô hình “trồng chanh không hạt kết hợp tưới tiết kiệm nước” của ông Trần Minh Quang tại thôn Phú Thái, xã Hàm Trí (Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận) đã thành công sau 2 năm ươm mầm.
Ông Trần Minh Quang bên vườn chanh không hạt đang cho trái. Ảnh N.Lân
Năm 2017, Phòng Kinh tế - Hạ tầng huyện Hàm Thuận Bắc phối hợp Trung tâm Thông tin và Ứng dụng Tiến bộ Khoa học Công nghệ Bình Thuận hỗ trợ ông Quang 120 cây chanh không hạt trồng trên diện tích 2.000m2 với hệ thống tưới nước tiết kiệm, thay thế cho trồng hoa màu nhưng giá bán bấp bênh. Sau 22 tháng trồng, người trồng thu hoạch 10 kg/cây/năm, trọng lượng 10 - 15 trái/kg. Năng suất chanh tăng dần đến năm thứ 3 và ổn định trong 10 năm. Thương lái thu mua 15.000 - 18.000 đồng/kg. Bởi vỏ trái chanh không hạt mỏng, thơm và nhiều nước. Đó là chia sẻ của ông Quang.
Ông Quang cho biết, so với trồng lagim (các loại rau, dưa, bầu, bí…), mô hình trồng chanh không hạt đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn, chi phí đầu tư thấp. Chanh cho trái quanh năm, ít bị sâu bệnh; dễ dàng chăm sóc và thu hoạch khi cây đã trưởng thành, gai bị thoái hoá. Để đảm bảo năng suất cây chanh, người trồng chú ý theo dõi, sớm phát hiện và phòng trừ các loại sâu bệnh hại như sâu vẽ bùa, nhện đỏ…
Theo Phòng Kinh tế - Hạ tầng Hàm Thuận Bắc, chanh không hạt hiện nay cũng đã được trồng tại một số huyện như Bắc Bình, Tuy Phong với diện tích nhỏ, không tập trung, nên khó thống kê được diện tích, năng suất. Tuy nhiên, đây là cây trồng mới và sẽ là một hướng đi mới với nông dân Hàm Thuận Bắc. Thông qua hội thảo đầu bờ, sau khi thực hiện thành công mô hình này tại gia đình ông Trần Minh Quang, một số gia đình xung quanh đã tìm hiểu mô hình để trồng tại vườn trong thời gian tới.
Để cây chanh không hạt mang lại hiệu quả kinh tế cho nông dân Hàm Thuận Bắc, nên chăng huyện xây dựng một lộ trình cụ thể về phát triển cây chanh, tránh tình trạng trồng ồ ạt, cung lớn hơn cầu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của nông dân. Bên cạnh đó, người trồng chanh không hạt trong xã cùng nhau thành lập tổ sản xuất nhằm trao đổi kỹ thuật, chăm sóc cây chanh cũng như tìm thị trường tiêu thụ. Ngoài chế biến nước giải khát, làm gia vị các món ăn, trong sản xuất công nghiệp, chanh còn được dùng làm hương liệu chế biến thực phẩm và hàng tiêu dùng khác.
TRANG MINH
Giá na dai Lục Nam tăng mạnh
Nguồn tin: Báo Bắc Giang
Mấy ngày gần đây, giá na dai tại xã Nghĩa Phương, Huyền Sơn, huyện Lục Nam (tỉnh Bắc Giang) tăng cao. Hiện na dai loại 3 đến 4 quả/kg (loại 1) giá hơn 60 nghìn đồng/kg; loại 2,3 và loại nhỏ dao động từ 30 đến 50 nghìn đồng/kg.
Người dân thôn Suối Ván thu hoạch na.
Giá na cao hơn mức trung bình đầu vụ gần 20 nghìn đồng/kg, cao hơn giá na cùng thời điểm năm 2018 khoảng 25 nghìn đồng/kg.
Ông Hoàng Văn Điệp, Trưởng thôn Suối Ván, xã Nghĩa Phương thông tin, sở dĩ giá na tăng đột biến là do đang vào cuối vụ thu hoạch đợt 1 trong năm.
Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ na tại Hà Nội, Quảng Ninh và miền Trung tương đối lớn. Mấy ngày nay thương lái về thu mua na khá nhiều nhưng người dân không có đủ hàng để bán dẫn đến khan hiếm.
Một điểm thu mua na tại thôn Khuyên, xã Huyền Sơn (Lục Nam).
Được biết, năm nay sản phẩm Na dai của xã HTX Na dai Nghĩa Phương vừa được cấp Giấy chứng nhận sản xuất sạch theo tiêu chuẩn VietGAP nên khách hàng nhiều nơi tin tưởng đặt mua khiến người trồng na trên địa bàn rất phấn khởi.
Tổng diện tích na của Lục Nam đạt hơn 1,7 nghìn ha. Dự kiến năm 2019, sản lượng na của địa phương này đạt hơn 14 nghìn tấn, đợt một chiếm khoảng 60% tổng sản lượng.
Đại La
Khắc phục bệnh vàng lá thối rễ, chết xanh trên cây có múi
Nguồn tin: Báo Đồng Tháp
Ngày 27/8, tại huyện Lai Vung, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (TT&BVTV) tỉnh Đồng Tháp tổ chức Hội thảo đầu bờ "khắc phục bệnh vàng lá thối rễ, chết xanh trên cây có múi”. Hội thảo nhằm giúp nông dân và cán bộ kỹ thuật có thêm thông tin về các giải pháp quản lý hiện tượng vàng lá thối rễ, chết xanh trên cây có múi hiệu quả hơn.
Các chuyên gia phân tích những điểm nổi bật trong việc thực hiện mô hình thí điểm trên cây có múi
Từ tháng 4/2019, Chi cục TT&BVTV phối hợp với các chuyên gia, viện trường và UBND huyện Lai Vung thực hiện thí điểm mô hình khắc phục bệnh vàng lá thối rễ, chết xanh trên cây có múi tại 5 hộ nông dân trên địa bàn huyện Lai Vung.
Khi tham gia mô hình thí điểm, các hộ dân được các chuyên gia đến từ Đại học Cần Thơ, Chi cục TT&BVTV tập huấn kỹ thuật chăm sóc vườn cây có múi trong giai đoạn bị nhiễm bệnh; cách xeo đất, phá váng cho đất tơi xốp. Quan trọng hơn, để đất sớm hồi phục, nông dân được hướng dẫn bón phân hữu cơ, tủ rơm, phun trico- fusarium và bổ sung hoạt động AT2, bón calmag.
Theo Chi cục TT&BVT, qua theo dõi, việc áp dụng mô hình khắc phục bệnh vàng lá thối rễ, chết xanh trên cây có múi của nông dân trên địa bàn huyện Lai Vung giúp cây trồng bị nhiễm bệnh hồi phục tốt, bộ rễ có dấu hiệu mọc trở lại. Bên cạnh đó, nông dân tuân thủ, đảm bảo đúng theo các nội dung khuyến cáo, thực hiện kịp thời... Trong thời gian tới, các ngành liên quan sẽ phối hợp tìm ra quy trình, giải pháp cụ thể để giúp nông dân vực dậy loại cây trồng thế mạnh này.
Trang Huỳnh
Giá sầu riêng giảm, người dân bắt đầu lo khủng hoảng thừa
Nguồn tin: VOV
Dù mức giá sầu riêng vẫn đảm bảo cho thu nhập cao, lợi nhuận lớn nhưng vẫn khiến nông dân cảm thấy nguy cơ khủng hoảng thừa.
Kể từ cuối tháng 8, sầu riêng xuất khẩu ở Đăk Lăk bước vào chính vụ. Từ khi vươn lên thành ngành hàng nghìn tỷ, sầu riêng đã trở thành hướng phát triển mới của bà con nơi đây.
Cũng chính vì được mùa, được giá, những năm qua khi sầu riêng liên tục phá kỷ lục về giá bán, đạt đến hơn 90.000 đồng/kg vào cuối vụ năm ngoái. Nhưng đến năm nay, những lo âu đã bắt đầu xuất hiện khi quy mô diện tích vườn tăng, giá bán lại giảm chỉ còn bằng một nửa, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ 2018.
Dù trời mưa, những chuyến xe công nông, máy cày, xe máy 2 sọt chở sầu riêng vẫn kìn kìn chở tới các cơ sở thu mua, được mở dọc theo Quốc lộ 26, địa phận xã Ea Kênh và Ea Yông, huyện Krông Păk. Phía trong các cơ sở, các nhân viên chia thành từng tốp, người thì cầm cán dao, gõ từng trái sầu riêng để thẩm định độ già của trái, người thì cầm bình sơn, bút sơn đánh dấu, rồi mới chuyển vào khu vực chờ cân.
Nông dân đội mưa đi bán sầu riêng với giá chỉ hơn nửa mức trung bình so với năm 2018.
Anh Nguyễn Đình Toàn một thương lái mang sầu riêng đến nhập cho đại lý cho biết, giá sầu riêng vụ này thấp hơn năm ngoái rất nhiều mà việc thu mua, tuyển lựa cũng rất khắt khe.
“Loại sầu riêng da xanh giá cao nhất năm nay cũng chỉ được 42.000 đồng/kg hoặc hơn chút đỉnh. Sầu riêng loại da lút không phun thuốc giá có 39.000 đồng/kg và sầu riêng nào phun thuốc họ không mua. Mọi năm bao nhiêu sầu riêng đưa đến họ mua hết bấy nhiêu, năm nay họ xem xét kĩ càng và muốn bán được rất khó khăn”, anh Toàn cho hay.
Chính vì giá bán sầu riêng năm nay chưa bằng 60% trung bình vụ trước và chỉ bằng 40% giai đoạn cuối vụ, đa số nông dân ở vùng trọng điểm sầu riêng Ea Kênh và Ea Yông, huyện Krông Păk vẫn đang niêm vườn cây.
Anh Y Vem Niê ở buôn Yông 1, xã Ea Yông cho biết, năm ngoái gia đình bán ngay từ đầu vụ với giá 60.000 đồng/kg, sau đó đó đã phải hối tiếc vì giá lên tới 70.000 rồi cao nhất là 97.000 đồng/kg. Bởi vậy năm nay, anh sẽ cố đợi đến khi giá cao hơn mới bán, dù khi trái chuyển sang giai đoạn chín cây sẽ bị giảm trọng lượng.
“Năm ngoái sầu riêng nhà trồng bán được hơn 10 tấn với giá 60.000 đồng/kg. Năm nay cũng đã có thương lái đến vườn hỏi mua nhưng họ chỉ trả giá có 42.000 đồng/kg nên gia đình chưa bán. Gia đình sẽ đợi đến cuối tuần hoặc tuần sau chờ giá lên, trái nào chín đành bán hàng chín và như thế sẽ thiệt vì hàng chín so với cắt trên cây giá giảm hơn”, anh Nie chia sẻ.
Theo ông Trần Thành Vinh, Chủ tịch UBND xã Ea Kênh, huyện Krông Pắk, năm nay diện tích sầu riêng kinh doanh ở xã tăng gấp 5 lần so với vụ 2018, do có 400 ha nữa bắt đầu cho thu hoạch. Ông Vinh cho rằng, việc giá sầu riêng khá thấp ở thời điểm hiện tại không phải do vấn đề cung cầu.
Thực tế theo ông Vinh, thương lái luôn nêu khó khăn ở thị trường Trung Quốc để mua giá thấp ở đầu vụ. Như năm ngoái, giá khởi điểm chỉ có 55.000 - 60.000 đồng/kg nhưng cuối vụ tăng tới 91.000 đồng/kg. Để người trồng sầu riêng không bị ép giá, các xã có sầu riêng ở Krông Păk đều có những tổ công tác liên ngành, trực suốt ngày đêm xử lý kịp thời các biểu hiện tiêu cực.
“Những năm trước đã có tình trạng ép cấp, ép giá, đầu gấu, bảo kê thu mua sầu riêng nhưng sau đó xã đã báo cáo lên huyện và phối hợp với lực lượng công an thành lập các tổ công tác, thông báo tới tất cả các hộ trồng sầu riêng. Nếu thấy biểu hiện tiêu cực, người dân sẽ gọi theo đường dây nóng cho lực lượng công an. Từ năm 2017 đến hết năm 2018, tình trạng ép cấp, ép giá, đầu gấu, bảo kê đã tuyệt đối không còn. Năm nay xã vẫn tiếp tục lên kế hoạch kiểm soát về nhân hộ khẩu, đăng ký kinh doanh… nếu có bất kỳ dấu hiệu nào về ép cấp, ép giá, đầu gấu, bảo kê… xã sẽ xử lý kịp thời”, ông Vinh khẳng định.
Krông Păk là huyện có nhiều sầu riêng đang kinh doanh nhất tỉnh Đắk Lắk. Năm ngoái, diện tích này khoảng 1.000 ha nhưng năm nay tăng thêm khoảng 500 ha, cho tổng sản lượng hơn 20.000 tấn. Cùng với tăng diện tích, sầu riêng ở Đắk Lắk còn liên tục tăng giá trong những năm qua, từ mức chỉ dưới 30.000 đồng/kg đã tăng lên tới hơn 90.000 đồng/kg vào cuối vụ 2018.
Vụ sầu riêng 2019 này là lần đầu tiên trái sầu riêng quay đầu giảm giá. Dù mức giá hiện tại vẫn đảm bảo cho thu nhập cao, lợi nhuận lớn nhưng vẫn khiến nông dân cảm nhận được nguy cơ khủng hoảng thừa. Cảm nhận này càng rõ ràng khi ở tỉnh rộ lên phong trào nhà nhà trồng sầu riêng; tốc độ tăng diện tích sầu riêng từ 2017 trở lại đây, cao gấp 3 lần so với giai đoạn trước đó.
Đình Tuấn/VOV-Tây Nguyên
Làm giàu từ cây hồ tiêu
Nguồn tin: Báo Quảng Trị
Những năm gần đây, thông qua phong trào thi đua nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi, ở huyện Hướng Hóa đã xuất hiện nhiều tấm gương về phát triển kinh tế. Hộ anh Lê Văn Mừng ở thôn Cu Dừn, xã Hướng Lộc là một điển hình.
Anh Lê Văn Mừng thăm vườn tiêu
Đến xã Hướng Lộc, một trong 13 xã đặc biệt khó khăn của huyện Hướng Hóa, qua trao đổi chuyện làm ăn với các cán bộ của xã và bà con dân bản, ai cũng tỏ lời ngợi khen vợ chồng anh chị Lê Văn Mừng và Nguyễn Thị Tự là người siêng năng làm lụng và giỏi tính toán, biết làm giàu từ cây hồ tiêu, có thu nhập trong năm hàng trăm triệu đồng.
Dẫn chúng tôi đi tham quan vườn tiêu được trồng ngay hàng thẳng lối, phát triển xanh tốt, ôm gọn thân choái, anh Mừng cho biết, năm 1996, rời quê hương xã Triệu Phước, huyện Triệu Phong, vợ chồng anh lên sinh cơ lập nghiệp ở thôn Cu Dừn. Những năm đầu lên lập nghiệp, cũng như nhiều hộ dân ở thôn Cu Dừn, vợ chồng anh đã đầu tư công sức, tiền vốn khai hoang 3 ha đất trồng sắn và chuối. Tuy nhiên, đời sống kinh tế của gia đình cũng gặp không ít khó khăn, bởi mọi chi tiêu của gia đình cũng như nuôi con ăn học đều dựa vào nguồn thu nhập từ sắn và chuối, nhưng năng suất sắn qua các năm giảm, giá chuối, sắn trên thị trường lên xuống bấp bênh. Nhận thấy vườn tiêu của các hộ dân ở các xã lân cận Tân Liên,Tân Lập phát triển tốt, cho hiệu quả cao, anh Mừng đã dành nhiều thời gian tìm hiểu về kĩ thuật trồng và chăm sóc loại cây này. Vốn tính cẩn thận và ham học hỏi, ngoài tham gia các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kĩ thuật do địa phương tổ chức, tìm hiểu qua sách báo và các phương tiện thông tin đại chúng, anh Mừng còn cất công đến tận các hộ dân ở Đắk Lắk và các hộ trồng tiêu ở các xã Tân Liên, Tân Lập, thị trấn Khe Sanh để trực tiếp tham quan, học tập kinh nghiệm. Được tận mắt chứng kiến những vườn tiêu xanh tốt, cho thu nhập cao, có thêm động lực, anh Mừng trở về bàn bạc với vợ quyết định trồng tiêu.
Năm 1999, với số tiền thu được từ sắn, chuối và vay vốn xóa đói, giảm nghèo, gia đình anh trồng 200 cây hồ tiêu, cho đến nay phát triển hơn 2.000 cây. Với những kinh nghiệm tích lũy được, lại chú trọng áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào trồng, chăm sóc, nên vườn tiêu của gia đình anh luôn phát triển xanh tốt, hạn chế được sâu bệnh và cho hiệu quả cao, bình quân hằng năm thu nhập hơn 700 triệu đồng. Hiện nay, cùng với tập trung chăm sóc và trồng mới cây hồ tiêu thay thế cây hồ tiêu đã già, gia đình anh đã đầu tư hơn 80 triệu đồng tiền mua giống để trồng các cây ăn quả như: Mít siêu sớm, na, ổi, chôm chôm, nhãn, sầu riêng, với diện tích 10.000m2.
Nhờ làm ăn hiệu quả, gia đình anh có cuộc sống khá giả, xây dựng nhà cửa kiên cố, khang trang, nuôi con ăn học đầy đủ. Nhiều năm qua, gia đình anh được Hội Nông dân xã, huyện tặng giấy khen là điển hình nông dân sản xuất giỏi.
Không chỉ biết làm giàu cho gia đình, anh Mừng luôn trao đổi kinh nghiệm và hướng dẫn kĩ thuật trồng cây hồ tiêu cho các hộ dân để cùng nhau phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, vươn lên xóa đói, giảm nghèo. Chủ tịch UBND xã Hướng Lộc Hồ Xuân Lợi cho biết: “Mô hình trồng tiêu của gia đình anh Mừng đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, là điển hình làm kinh tế giỏi để bà con dân bản trong xã học hỏi và làm theo. Hiện nay, không chỉ các hộ dân ở thôn Cu Dừn mà rất nhiều hộ trong xã như hộ các ông: Hồ Văn Phòng, Hồ Xa Ăm, Hồ Văn A Mỹ, Hồ Ai Phương ... đã trồng từ 200 đến 1.000 cây hồ tiêu.”
Nguyễn Đình Phục
Huyện Ea H'leo (Đắk Lắk): Nỗ lực vực dậy ngành hồ tiêu
Nguồn tin: Báo Đắk Lắk
Ea H’leo là một trong những huyện có diện tích hồ tiêu lớn nhất tỉnh Đắk Lắk đang đối mặt với nhiều khó khăn do giá tiêu "lao dốc", dịch bệnh hoành hành... Trước thực tế này, chính quyền cùng nhân dân địa phương xác định, đây là cơ hội “vàng” để tái cơ cấu cây hồ tiêu theo hướng bền vững và hiệu quả.
Gia đình bà H’Tuyết Kpă (buôn Kdruh, xã Ea Nam) từng ăn nên làm ra nhờ cây tiêu, nhưng 3 năm nay không dư được đồng nào, thậm chí phải bù lỗ. Nhà bà H’Tuyết có hơn 1 ha tiêu trên 10 năm tuổi, thời hoàng kim, cây tiêu phát triển tươi tốt, ít bị sâu bệnh, cứ tới vụ là thu hơn 5 - 6 tấn tiêu khô. Với giá bán dao động từ 150 - 160 nghìn đồng/kg, sau khi trừ chi phí bà H’Tuyết lãi hơn 100 triệu đồng/năm. Thế nhưng từ năm 2017, giá tiêu bắt đầu giảm mạnh cho tới nay chỉ còn dưới 50 nghìn đồng/kg.Chưa hết, cây tiêu bị bệnh chết chậm khiến vườn tiêu bị chết một nửa vào năm 2018. Bà nhổ bỏ tiêu chết, phơi đất hơn một năm mới trồng lại nhưng cây vẫn chết tiếp. Hiện, bà chỉ tập trung đầu tư vào những trụ tiêu còn sống, phần đất trống thì trồng xen bơ, sầu riêng.
Vườn tiêu nhà bà H’ Tuyết Kpă bị bệnh chết chậm.
Từ khi cây tiêu mất ngôi vị số 1, ông Nguyễn Văn Chung (thôn 3, xã Ea Ral), người có hơn 20 năm gắn bó với cây tiêu luôn tìm cách “sống chung với lũ”. Thường xuyên theo dõi thông tin thời sự về cây tiêu, ông Chung nhận thấy đã đến lúc phải thay đổi tư duy, phương thức canh tác. Ông chọn con đường sản xuất hồ tiêu hữu cơ làm “chìa khóa” thay đổi phương thức sản xuất.
Năm 2016, ông bắt tay cải tạo lại vườn tiêu hơn 2 ha bằng cách ngưng dùng phân bón, thuốc hóa học; xây dựng hệ thống mương thủy lợi điều tiết nước; trồng cây muồng và dùng lưới B40 vây quanh vườn; đào và khoan 4 giếng để chủ động nguồn nước sạch. Nhờ kết nối với Công ty TNHH Hồ tiêu Việt (TP. Hồ Chí Minh) ông Chung được tư vấn kỹ thuật canh tác và bao tiêu sản phẩm. Trước ngày thu hoạch, đại diện công ty xuống vườn lấy mẫu lá, hạt về kiểm tra chất lượng; tiêu phơi khô xong thì kiểm tra hàm lượng, độ ẩm trong hạt một lần nữa.
Chấp nhận 2 năm chăm theo tiêu chuẩn hữu cơ nhưng bán giá đại trà, năm 2018 ông Chung đã bán được 5 tấn tiêu với giá 90 nghìn đồng/kg (gần gấp đôi so với giá thị trường). Trồng tiêu hữu cơ rất vất vả, chi phí đầu tư cao, năng suất thấp hơn trồng truyền thống song ông Chung không e ngại bằng rào cản ở khâu tiếp cận vốn, kỹ thuật và đầu ra sản phẩm.
Ông tâm sự, vốn ưu đãi chỉ dành cho những diện tích trồng tiêu mới nên những người đã có vườn sẵn không thể vay; người dân chưa được hướng dẫn, nắm thông tin chính thống về các sản phẩm phân bón, thuốc sinh học được dùng; đầu ra sản phẩm còn bấp bênh vì còn phụ thuộc vào công ty tư nhân... Năm 2018, ông Chung đứng ra thành lập Hợp tác xã tiêu hữu cơ Hồ tiêu Việt, có 12 xã viên tham gia, với hơn 20 ha hồ tiêu. Hiện 2 xã viên đã rời HTX do những rào cản nêu trên không được tháo gỡ.
Ông Nguyễn Văn Chung (thôn 3, xã Ea Ral) sản xuất hồ tiêu hữu cơ.
Theo Phòng NN-PTNT huyện Ea H’leo, toàn huyện hiện có hơn 7.000 ha hồ tiêu, trong đó hơn 1.700 ha đã chết, chủ yếu vào năm 2018 do thời tiết bất lợi, mưa lớn kéo dài gây ngập úng (chiếm khoảng 50%), còn lại do tiêu bị bệnh chết nhanh, chết chậm và phần ít diện tích đất bị thoái hóa, vườn tiêu già cỗi.
Trước tình trạng này, Phòng đã vận động người dân nhổ bỏ diện tích tiêu bị dịch bệnh, kiên quyết không mở rộng diện tích, chuyển những diện tích đất không phù hợp sang trồng cây khác; khuyến cáo người dân áp dụng quy trình sản xuất hồ tiêu được Bộ NN-PTNT ban hành, khuyến khích nhà nông liên kết sản xuất hồ tiêu theo các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, hồ tiêu hữu cơ.
Đặc biệt, để khôi phục, vực dậy ngành sản xuất hồ tiêu, Phòng đang tích cực đề xuất UBND huyện bố trí kinh phí triển khai các mô hình trình diễn nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, canh tác hồ tiêu bền vững... từ đó nhân rộng trong nhân dân nhằm thực hiện có hiệu quả kế hoạch tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững trên địa bàn giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2030.
Trước thực trạng người trồng tiêu bị thiệt hại nặng do giá thấp và dịch bệnh, huyện Ea H'leo đã kiến nghị UBND tỉnh, các ngành liên quan xem xét hỗ trợ nông dân, nhất là những hộ gia đình khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số... khắc phục thiệt hại; các ngân hàng có cơ chế hỗ trợ người dân đã vay vốn trồng tiêu bằng các hình thức như khoanh nợ, gia hạn thời gian trả nợ hoặc tiếp tục cho vay tái đầu tư...
Thanh Thủy
Bình Thuận: Mưa ít, tìm cách để vụ mùa 2019 không thiếu nước
Nguồn tin: Báo Bình Thuận
Trải qua một vụ hè thu không suôn sẻ do thời tiết, nơi ngập lụt, nơi thiếu mưa. Đến vụ mùa này, dù chỉ mới bắt đầu, nhưng dự kiến lượng nước tưới sẽ thiếu hụt...
Bước vào vụ mùa
Thời điểm này, toàn tỉnh đã kết thúc gieo trồng vụ hè thu 2019, diện tích gieo trồng cây ngắn ngày toàn tỉnh ước đạt gần 86.000 ha/KH 86.700 ha. Trong đó, diện tích lúa đạt 39.196 ha/KH 41.000 ha, cây bắp đạt 6.801 ha/KH 8.000 ha. Nông dân các địa phương đang tập trung thu hoạch vụ hè thu với diện tích khoảng 10.000 ha lúa, ước năng suất trung bình 57 tạ/ha và 546 ha bắp.
Song song, tại một số địa phương đã bước vào vụ mùa 2019, với diện tích gieo trồng đạt gần 3.000 ha. Trong đó, có khoảng 1.800 ha lúa tại huyện Tuy Phong và gần 1.000 ha bắp tại Hàm Thuận Bắc. Nguyên nhân, do một số diện tích sản xuất thiếu nước sản xuất trong vụ hè thu nên chuyển qua sản xuất vụ mùa sớm.
Đáng nói, dù thời điểm xuống giống mới bắt đầu, nhưng qua theo dõi tình hình mưa từ đầu mùa đến nay trên địa bàn tỉnh, lượng mưa không đều, tổng lượng mưa thiếu hụt so với trung bình nhiều năm, mưa chủ yếu tập trung ở khu vực trung tâm và phía Nam tỉnh. Riêng khu vực phía Bắc dù đã có mưa, nhưng không đáng kể. Dự báo của Tổng cục Khí tượng thủy văn cũng cho biết, thời gian tới nắng nóng có thể còn tiếp tục xảy ra tại khu vực Trung bộ, nguy cơ xảy ra hạn hán, thiếu nước diện rộng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, sinh hoạt của nhân dân.
Ứng phó với khan hiếm nguồn nước
Việc cần làm ngay từ lúc này, theo chỉ đạo của Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lê Tuấn Phong, là tập trung ứng phó với điều kiện khan hiếm về nguồn nước, thời tiết nắng nóng kéo dài, hạn hán và xâm nhập mặn có thể xảy ra. Cụ thể, các sở ngành, địa phương thực hiện các biện pháp cấp bách phòng chống hạn. Đặc biệt, ngành nông nghiệp chỉ đạo quản lý công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình thời tiết, khí tượng thủy văn. Qua đó, kịp thời điều chỉnh, bổ sung phương án sử dụng nước cho phù hợp với khả năng về nguồn nước hiện có.
Một trong các biện pháp hữu hiệu được đưa ra là việc liên kết với doanh nghiệp cung ứng giống cây trồng nông nghiệp trong và ngoài tỉnh, đảm bảo chất lượng, sử dụng ít nước tưới để sản xuất vụ mùa 2019. Phối hợp với các địa phương hướng dẫn phổ biến kinh nghiệm tưới tiên tiến, tiết kiệm nước để các doanh nghiệp và người dân áp dụng tưới vụ mùa năm 2019. Đồng thời, rà soát, xác định vùng sản xuất chủ động nước, vùng thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước để chuyển đổi cơ cấu cây trồng vụ mùa 2019 cho phù hợp với khả năng về nguồn nước.
Nhiệm vụ quan trọng đối với ngành thủy lợi là tận dụng tối đa mọi nguồn nước trữ vào hồ chứa, ao, bàu, đập dâng, kênh trục chính. Đánh giá nguồn nước trữ trong các hệ thống công trình thủy lợi để tính toán cân bằng nước, xây dựng lịch cấp nước cho vụ mùa 2019 và vụ đông xuân 2019 - 2020 cụ thể đến từng hệ thống công trình. Song song, cân đối lại lượng nước trong hệ thống công trình thủy lợi, ưu tiên cho sinh hoạt, chăn nuôi, sản xuất nông nghiệp và các yêu cầu thiết yếu khác. Bên cạnh đó, áp dụng đồng bộ phương pháp cấp nước luân phiên trong các hệ thống công trình thủy lợi để giảm thiểu mức thấp nhất lượng nước tổn thất. Các địa phương là nơi tuyên truyền cho người dân biết, nâng cao ý thức sử dụng nước tiết kiệm, đúng mục đích, chủ động thực hiện việc nạo vét kênh mương, lắp đặt và vận hành các trạm bơm dã chiến, đào ao, giếng… để trữ nước.
Có như vậy, mới mong giữ được nguồn tưới trong điều kiện “thiếu mưa, thừa nắng” để vụ mùa 2019 không thiếu nước.
KIỀU HẰNG
Tiền Giang: Mô hình Cánh đồng lớn và Mô hình điểm sản xuất lúa hữu cơ, sản xuất lúa an toàn đạt chuẩn xuất khẩu Châu Âu ở huyện Gò Công Tây
Nguồn tin: Cổng TTĐT Tiền Giang
Chiều ngày 23/8, Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện Gò Công Tây phối hợp với Công ty Dịch vụ Thương mại HK, Công ty TNHH Bayer Việt Nam và nông dân ấp Thạnh Lạc, xã Đồng Thạnh, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang tổ chức báo cáo kết quả "Mô hình Cánh đồng lớn" và "Mô hình điểm sản xuất lúa hữu cơ, sản xuất lúa an toàn đạt chuẩn xuất khẩu Châu Âu". Tham dự buổi báo cáo có ông Cao Văn Hóa, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; ông Võ Văn Men, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh; ông Lê Văn Nê, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Gò Công Tây.
Ông Cao Văn Hóa, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phát biểu tại buổi báo cáo.
Mô hình Cánh đồng lớn trên địa bàn huyện Gò Công Tây có quy mô 100 ha được thực hiện từ vụ Hè thu 2018 tại ấp Thạnh Lạc, xã Đồng Thạnh. 80% các giống lúa trong mô hình là giống lúa thơm VD20, áp dụng kỹ thuật gieo sạ lan với mật độ từ 100 - 120kg/ha.
Tham gia mô hình, nông dân được nhận hỗ trợ 100 kg lúa giống, 54 kg phân hữu cơ/ha. Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện Gò Công Tây kết hợp với Công ty Dịch vụ Thương mại HK, Công ty Bayer tổ chức tập huấn đầu vụ, hỗ trợ kỹ thuật, hướng dẫn nông dân bón phân, phun thuốc có kế hoạch; ứng dụng các chương trình "3 giảm, 3 tăng", "1 phải, 5 giảm" và trồng hoa trên bờ ruộng để thu hút thiên địch.
Qua 4 mùa vụ, hầu hết (90%) nông dân suốt vụ không phun thuốc trừ sâu. Ghi nhận tại các ruộng lúa tham gia mô hình cho thấy: Tỷ lệ sâu, bệnh thấp; các loài thiên địch cư trú đa dạng; năng suất lúa đạt bình quân 5 tấn/ha, tương đương với năng suất lúa ngoài mô hình; giá bán cao hơn từ 500 - 700 đồng/kg. Nhìn chung, mô hình đã giúp nâng cao chất lượng hạt lúa, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân; đồng thời giảm chi phí sản xuất, hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, góp phần bảo vệ sức khỏe người nông dân và tạo cân bằng sinh thái đồng ruộng.
Thời gian tới, UBND huyện Gò Công Tây sẽ liên kết với các doanh nghiệp thu mua, nhằm tìm đầu ra cho nông dân; đồng thời tiếp tục duy trì và có kế hoạch từng bước nhân rộng mô hình.
Dịp này, Công ty TNHH Bayer Việt Nam cũng đã báo cáo kết quả thực hiện "Mô hình điểm sản xuất lúa hữu cơ, sản xuất lúa an toàn đạt chuẩn xuất khẩu Châu Âu" với quy mô 1 ha trên Cánh đồng lớn 100 ha ở huyện Gò Công Tây.
Quốc Nam
Quảng Ngãi: Tăng thu, giảm chi từ mô hình cánh đồng mẫu lớn
Nguồn tin: Khuyến Nông VN
Vụ Hè Thu 2019, Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi thực hiện mô hình trình diễn “Cánh đồng mẫu lớn trong sản xuất lúa” ở xã Tịnh Bắc. Qua thực hiện mô hình đã giúp nông dân ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất đạt hiệu quả cao, góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện.
Ông Lê Đình Dục, thôn Minh Xuân, xã Tịnh Bắc cho biết: Năm 2019 là năm đầu tiên ông tham gia sản xuất theo mô hình cánh đồng mẫu lớn. Ông gieo sạ hơn 3.000 m2 (6 sào), với giống lúa DT45, cấp giống xác nhận. Do được chăm sóc đúng theo quy trình kỹ thuật của cán bộ khuyến nông hướng dẫn nên lúa Hè Thu năm nay của gia đình ông phát triển tốt, đồng đều, ít sâu bệnh. Ước chừng, năng suất lúa sẽ đạt 70 tạ/ha. Tham gia mô hình cánh đồng mẫu lớn đã giúp ông giảm đáng kể mọi chi phí cho sản xuất như lượng giống, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón và công lao động.
Vụ Hè thu 2019, ông Lê Sơn, thôn Minh Xuân, xã Tịnh Bắc gieo sạ gần 2 sào lúa DT45 ở xứ đồng Mốc. Ở xứ đồng này đã được địa phương thực hiện dồn điền đổi thửa nên việc sản xuất của gia đình ông gặp nhiều thuận lợi, mọi chi phí sản xuất đều giảm. Trước kia, khi chưa thực hiện dồn điền đổi thửa, nhiều hộ dân sản xuất manh mún theo kiểu “mạnh ai nấy làm”, nên việc chăm sóc và nguồn nước tưới gặp rất nhiều khó khăn.
Cán bộ khuyến nông kiểm tra chất lượng hạt lúa trong mô hình
Mô hình cánh đồng mẫu lớn được thực hiện ở xứ đồng Mốc, thôn Minh Xuân, xã Tịnh Bắc với quy mô diện tích 16,58 ha, có 139 hộ tham gia. Giống lúa sử dụng DT45, cấp giống xác nhận, lượng giống gieo sạ 4,5 kg/sào. Thời gian gieo sạ từ ngày 29/5 - 01/06/2019. Thực hiện mô hình theo phương thức Nhà nước hỗ trợ 50% và nhân dân đóng góp 50% giống, vật tư. Trong đó, Nhà nước hỗ trợ gần 64 triệu đồng. Ông Phạm Văn Tùng – Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Sơn Tịnh cho biết: Qua theo dõi kết quả thực hiện mô hình “Cánh đồng mẫu lớn trong sản xuất lúa” vụ Hè Thu 2019 cho thấy, giống lúa có tỷ lệ nẩy mầm cao, trên 95%, chiều cao cây 110-115 cm, cứng cây, lá xanh đậm, góc lá hẹp, đẻ nhánh khỏe, trỗ bông tập trung, bông to, dài, nhiều hạt, trọng lượng 1.000 hạt 24- 25 gram, năng suất ước thực thu đạt 69,7 tạ/ha, cao hơn ruộng đối chứng ngoài đại trà trong cùng điều kiện sinh thái và thổ nhưỡng hơn 7 tạ/ha. Mô hình “Cánh đồng mẫu lớn trong sản xuất lúa” đã giảm được chi phí đầu tư so với lúa sản xuất ngoài đại trà trong cùng điều kiện hơn 1,2 triệu đồng/ha. Sau khi trừ chi phí, lợi nhuận ruộng mô hình hơn 17 triệu đồng/ha, cao hơn so với ruộng đối chứng 5,5 triệu đồng/ha. Việc thực hiện mô hình đã giảm được các khoản đầu tư như: giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, công chăm sóc so với sản xuất lúa ngoài đại trà trong cùng điều kiện. Mô hình đã áp dụng sản xuất theo phương pháp 1 phải 5 giảm (phải dùng giống lúa kỹ thuật; giảm lượng giống gieo sạ, giảm phân bón đạm, giảm thuốc bảo vệ thực vật, giảm lượng nước tưới và giảm thất thoát sau thu hoạch).
Nông dân tham quan mô hình cánh đồng mẫu lớn ở xã Tịnh Bắc, huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi
Ngoài hiệu quả về kinh tế, mô hình cánh đồng mẫu lớn còn làm thay đổi dần về nhận thức và tập quán sản xuất lúa của bà con nông dân; giúp nông dân có điều kiện tiếp cận các giống lúa có khả năng thích nghi với điều kiện thời tiết, thổ nhưỡng nơi đây và hạn chế được các loại sâu bệnh hại vì áp dụng đồng bộ các giải pháp kỹ thuật. Đồng thời, bảo vệ môi trường sinh thái trên đồng ruộng được trong lành hơn, bảo vệ các loài thiên địch để hạn chế sâu bệnh gây hại cho cây trồng.
Để áp dụng và nhân rộng mô hình cánh đồng mẫu lớn vào sản xuất đại trà ở những vụ tiếp theo đạt hiệu quả, nhằm góp phần tăng năng suất, sản lượng và tăng thu nhập cho nông dân trên đơn vị diện tích, các địa phương ở huyện Sơn Tịnh tăng cường công tác tuyên truyền về hiệu quả thực hiện mô hình “cánh đồng mẫu lớn” là hướng đi tất yếu để sản xuất nông nghiệp bền vững.
Kim Cúc – Đức Văn - Đài PTTH huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi
Đổ xô đi tìm loại cây giống với sâm Ngọc Linh
Nguồn tin: VNExpress
Nhiều người ở Kon Tum, Đắk Lắk tìm đến Lâm Đồng săn lùng loại sâm giống với sâm Ngọc Linh về bán với giá cao.
Hạt kiểm lâm huyện Đam Rông (Lâm Đồng) cho biết, hiện trên địa bàn có một số người từ các tỉnh Kon Tum, Đắk Lắk tới rủ rê nhiều người ở thôn 5, xã Rô Men vào rừng sâu, khu vực núi cao, hiểm trở tìm kiếm, đào lấy gốc cây có hình dạng bên ngoài giống với cây sâm Ngọc Linh. Loại cây này được những người tìm kiếm cho biết thương lái đang thu mua với giá 15 triệu đồng một kg. Với những cây lớn, giá thu mua 40-70 triệu đồng một kg.
Sâm Đam Rông có hình dáng giống với sâm Ngọc Linh.
Trước đó, hồi cuối tháng 7 đầu tháng 8, những người này cũng đã chia thành nhiều nhóm tìm cách xâm nhập bất hợp pháp vào địa giới hành chính Vườn Quốc gia Bidoup - Núi Bà thuộc huyện Lạc Dương để tìm loại sâm quý vì cho rằng đã có người tìm được loại cây này tại đây. Sau khi bị cơ quan chức năng phát hiện, ngăn chặn kịp thời, những người này đã rời khỏi địa phương.
Theo Hạt kiểm lâm huyện Đam Rông, loài sâm nói trên có tên khoa học Panax vietnamensis var langbianensis, hình dáng tương đối giống với sâm Ngọc Linh nhưng không có các hoạt chất giống như sâm Ngọc Linh, thường phân bố ở khu vực xã Rô Men, Đạ Tông, Đạ Long tại độ cao 1.200 -1.900 m. Thương buôn đã lợi dụng đặc điểm tương đồng này để thu gom rồi bán với giá hấp dẫn so với sâm Ngọc Linh chính gốc ở Kon Tum có giá dao động giá 8 -15 triệu đồng một lạng (đối với loại có trọng lượng 3 củ một lạng).
Cây sâm lớn ở Đam Rông được thương lái mua với giá 40 -70 triệu đồng một kg.
Để kiểm soát tình trạng trên, UBND tỉnh Lâm Đồng đã giao Công an tỉnh chỉ đạo, bố trí lực lượng tiếp tục theo dõi, phối hợp với chính quyền địa phương và các đơn vị chủ rừng tuyên truyền, vận động người dân không tái diễn tình trạng tìm cách xâm nhập bất hợp pháp vào Vườn Quốc gia (VQG) Bidoup - Núi Bà, thuộc địa phận huyện Lạc Dương.
Thi Hà
Khuyến nông TP.HCM: Hội thảo phát triển Chăn nuôi bò thịt lai giống ngoại hiệu quả
Nguồn tin: Khuyến Nông TP HCM
Trong những năm trở lại đây, chăn nuôi bò thịt ở nước ta đang có xu hướng phát triển mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, đa số các hộ dân nuôi bò đều áp dụng hình thức chăn nuôi nhỏ lẻ nên hầu hết chưa đạt được hiệu quả như ý muốn. Theo tính toán của các chuyên gia, tỷ lệ thịt xẻ của bò lai Sind thấp khoảng 45%; Trong khi đó tỷ lệ này khá cao ở các giống bò nhập nội, đặc biệt là bò Úc tỷ lệ thịt xẻ lên đến 50 - 55%. Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng giống bò thịt của Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), nhằm đáp ứng nhu cầu chất lượng con giống và cung cấp nguồn thịt chất lượng cho tiêu dùng là cần thiết. Năm 2016, UBND TP.HCM đã ban hành quyết định 232/QĐ-UBND ngày 20 tháng 01 năm 2016 về Chương trình phát triển giống bò thịt trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2016 – 2020, tầm nhìn 2030 với mục tiêu đến năm 2020 chất lượng đàn bò thịt thành phố đạt các chỉ tiêu kỹ thuật như: khối lượng trưởng thành đạt 300 - 350kg, tỷ lệ thịt xẻ 50-55%; Đến năm 2030, khối lượng trưởng thành 350 - 400kg, tỷ lệ thịt xẻ 55 – 60%. Đồng thời hướng đến xây dựng thương hiệu “Giống bò thịt TP.HCM”, đòi hỏi phải nhập nội nguồn tinh giống bò thịt chất lượng cao để thực hiện gieo tinh nhân tạo cho đàn bò cái nền ở địa phương để nâng cao khả năng sản xuất thịt cũng như chất lượng thịt và cải thiện tầm vóc bò địa phương.
Nhằm giúp nông dân chăn nuôi bò TP.HCM nắm bắt thêm kiến thức và áp dụng các kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất, góp phần nâng cao thu nhập cho nông hộ, vừa qua Trạm Khuyến nông Củ Chi tổ chức “Hội thảo phát triển chăn nuôi bò thịt lai giống ngoại hiệu quả” kết hợp tổ chức tham quan học tập mô hình. Tham dự có Bà Nguyễn Thị Liễu Kiều – Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông TP, Ông Dương Văn Minh –Trưởng Trạm Khuyến nông Củ Chi và hơn 20 cán bộ kỹ thuật, nông dân chăn nuôi bò tại 03 xã Trung Lập Hạ, Tân An Hội và Phước Hiệp, huyện Củ Chi.
Tại Hội thảo, nông dân đã được tìm hiểu thêm về các giống bò thịt cao sản hiện nay, cách thiết kế chuồng trại, khẩu phần thức ăn, các giống cỏ phù hợp nuôi bò và hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi bò thịt lai giống ngoại cũng như chính sách hỗ trợ của Nhà nước trong việc khuyến khích nông hộ tham gia chương trình phát triển giống bò thịt lai giống ngoại như: hỗ trợ miễn phí 2 liều tinh/ bò cái, dẫn tinh viên đến tận nhà gieo tinh cho bò. Riêng những hộ tham gia mô hình thử nghiệm “chăn nuôi bò thịt lai giống ngoại” sẽ được hỗ trợ cám công nghiệp và thức ăn bổ sung theo định mức cho phép.
Theo Ông Sáu Xê – xã Phước Hiệp, huyện Củ Chi người nuôi bò thịt và cũng là thương lái cho biết: Theo kinh nghiệm nuôi của tôi thì hiện nay việc nuôi bò thịt ở các hộ trên địa bàn vẫn chưa đạt năng suất và chất lượng. Thứ nhất, do chủ yếu nuôi chăn thả ngoài đồng, với thời tiết nắng nóng như hiện nay bò rất mất sức, ảnh hưởng đến sức khỏe bò. Thứ hai, cho bò ăn không đủ số lượng và chất lượng cần có trong từng giai đoạn phát triển của bò. Đầu tư con giống được mà tiền ăn hằng ngày cho bò không có, chỉ nuôi cầm chừng, có gì ăn đó nên thời gian xuất bán lâu hơn nhiều nên hiệu quả kinh tế không cao, chủ yếu như bỏ ống,… Chuồng trại và công tác vệ sinh thú y cũng không đảm bảo. Qua hội thảo này, đã giúp bà con biết được những lỗi mắc phải khi nuôi bò thịt và các chính sách hỗ trợ mà Nhà nước đang triển khai để giúp bà con nông dân phát triển nghề nuôi ngày càng hiệu quả.
Để nuôi bò thịt lai giống ngoại đạt hiệu quả, cán bộ kỹ thuật Khuyến nông khuyến cáo: Về xây dựng chuồng trại cần phải đảm bảo yêu cầu theo 2 tiêu chí đó là mùa lạnh thì ấm, hè thì mát. Khi nuôi số lượng lớn, cần xây dựng chuồng thành từng dãy dài, mỗi bò có diện tích khoảng 4 - 5 m2 để thuận tiện cho việc quản lý, chăm sóc và nuôi dưỡng bò. Để tiết kiệm chi phí tối đa có thể sử dụng các vật liệu có sẵn như tre, lá cọ, tranh,… Về thức ăn cho bò: mỗi ngày bò cần được cung cấp đủ thức ăn đáp ứng nhu cầu theo từng giai đoạn phát triển. Cần chú ý đến nguồn nước uống cho bò, vì đây cũng là một trong những yếu tố chính trực tiếp quyết định đến tốc độ tăng trưởng của bò. Ngoài ra, cần thực hiện tốt lịch tiêm phòng, giúp cho bò chống lại được các bệnh phổ biến như: tụ huyết trùng, lở mồm long móng,… và thường xuyên vệ sinh sạch sẽ chuồng trại để đảm bảo môi trường phát triển tốt nhất cho bò.
Phát biểu tại buổi hội thảo, Bà Nguyễn Thị Liễu Kiều cho biết: Chăn nuôi bò thịt lai giống ngoại đang là định hướng phát triển lâu dài của Thành phố, tuy nhiên nông hộ chỉ nên sử dụng các dòng tinh bò thịt cao sản BBB, Red Angus, Droughtmaster, Brahman để phối giống. Đối với bò cái lai sind: có trọng lượng từ 250 – 300kg nên sử dụng các dòng tinh bò Brahman, Droughtmaster để phối giống, bò có trọng lượng từ 300 kg trở lên nên cho phối với dòng tinh bò BBB, Red Angus. Lưu ý: Nông hộ chỉ nên sử dụng các dòng tinh bò thịt cao sản được khuyến cáo phối giống trên 70% tổng đàn bò cái lai Sind hiện hữu, còn 30% nên sử dụng dòng tinh bò Sind để phối giống nhằm duy trì sự ổn định đàn bò cái nền, kể cả khi bò cái đạt trọng lượng để phối giống nêu trên; Đối với bò cái HF: tất cả bò cái có năng suất sữa thấp (< 5.000 kg/con/chu kỳ 305 ngày) nhưng có khả năng sinh sản tốt nên giữ lại cho phối tinh bò thịt đã khuyến cáo để tạo ra con lai hướng thịt có năng suất cao. Riêng dòng tinh bò BBB, nông hộ chỉ nên sử dụng con lai F1 để nuôi thịt, không nên giữ lại cái lai F1 cho phối giống tiếp tục để tránh trường hợp đẻ khó. Ngoài ra, để chăn nuôi bò thịt lai giống ngoại đạt hiệu quả cao nông hộ phải đảm bảo điều kiện về chuồng trại, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, khẩu phần thức ăn phải áp dụng đúng theo khuyến cáo đàn bò sẽ sinh trưởng, phát triển nhanh, đạt tỷ lệ thịt xẻ cao.
Vân Tâm
TP.Hà Nội: Bệnh Dịch tả lợn châu Phi phát sinh tại 214 hộ, cơ sở chăn nuôi
Nguồn tin: Hà Nội Mới
Sở NN&PTNT Hà Nội cho biết: Trong tuần từ ngày 19 đến 25-8, bệnh Dịch tả lợn châu Phi tiếp tục phát sinh tại 214 hộ, cơ sở chăn nuôi; làm mắc bệnh, tiêu hủy 2.439 con lợn với trọng lượng 153.118kg.
So với tuần trước (từ ngày 12 đến 18-8), bệnh Dịch tả lợn châu Phi đã phát sinh nhiều hơn 10 hộ, cơ sở chăn nuôi, số lợn tiêu hủy nhiều hơn 568 con. Tính đến ngày 25-8, bệnh Dịch tả lợn châu Phi đã xảy ra tại 29.262 hộ chăn nuôi (chiếm 36,2% tổng số hộ, cơ sở chăn nuôi) ở 2.326 thôn, tổ dân phố của 447 xã, phường, thị trấn thuộc 24 quận, huyện, thị xã; làm mắc bệnh và tiêu hủy 508.496 con lợn (chiếm 27,1% tổng đàn) với trọng lượng 34.928 tấn. Tổng số lợn nái, lợn đực giống phải tiêu hủy là 66.632 con, chiếm 13% tổng số lợn phải tiêu hủy trên địa bàn thành phố.
Ngoài ra, đến nay, thành phố đã có 257 xã, phường (chiếm 57% số xã, phường xảy ra bệnh Dịch tả lợn châu Phi) đã qua 30 ngày không phát sinh lợn mắc bệnh.
Quỳnh Dung
Bình Phước: Phụ nữ Lộc Thành liên kết làm giàu
Nguồn tin: Báo Bình Phước
Ở xã Lộc Thành (Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước), chăn nuôi dê đã gắn bó với nông dân từ rất lâu. Thời hoàng kim của cây điều, tiêu, cao su, mỗi nhà đã nuôi vài con dê để tận dụng thức ăn trong vườn. Nhưng khi giá sản phẩm các loại cây công nghiệp sụt giảm, chăn nuôi dê lại trở thành chỗ dựa của nhiều nhà. Hiện các hộ dân còn liên kết để làm giàu từ nuôi dê.
CÓ VƯỜN LÀ NUÔI DÊ
5 năm trở lại đây, chuồng dê của gia đình chị Hoàng Thị Mận ở ấp Tân Bình 2, xã Lộc Thành lúc nào cũng nuôi khoảng 10 con dê sinh sản. Nhà chị Mận có 3 ha trồng cao su, điều và cây ăn trái. Thời gian trước, kinh tế gia đình chị luôn ổn định nhờ thu nhập từ vườn rẫy nhưng gần đây giá mủ cao su giảm sâu, năng suất cây điều thấp do sâu bệnh và thời tiết thay đổi nên chị quyết định chuyển đổi dần sang trồng cây ăn trái như sầu riêng, bơ, bưởi... Chị Mận cho biết: Trước đây, tôi chỉ nuôi một vài con dê vì thấy nhiều người nuôi. Nhưng mấy năm thu nhập từ vườn rẫy giảm, nhờ tăng đàn dê mà tôi có tiền trang trải cuộc sống, chăm lo cho các con đi học. Dê rất dễ nuôi, tôi là lao động chính, chồng là tài xế đường dài nhưng tôi sắp xếp vẫn đảm đương được mọi việc vườn rẫy, chăn nuôi, chăm con. Chỉ cần siêng năng thì nuôi dê có thể thoát nghèo. Còn nhà có vườn rẫy, vốn thì làm giàu từ nuôi dê không khó.
Đàn dê của gia đình chị Hoàng Thị Mận, thành viên Tổ hợp tác chăn nuôi dê xã Lộc Thành (Lộc Ninh)
Có kinh nghiệm nuôi dê nhiều năm, chị Nguyễn Thị Hoa ở ấp Tân Bình 2, xã Lộc Thành cho biết: Nếu chăm sóc tốt, dinh dưỡng đầy đủ, mỗi lứa dê mẹ đẻ từ 1-3 con. Một con dê nuôi từ nhỏ đến trưởng thành khoảng 7 tháng. Như vậy chỉ trong 1 năm, người nuôi đã nhân đôi được số vốn ban đầu, nếu dê chỉ đẻ 1 con. Trao đổi về cách nuôi dê, chị Hoa cho rằng tương đối dễ. Thức ăn cho dê chủ yếu là lá keo, cỏ sạch trong vườn tiêu, xay nhỏ bỏ vào máng ăn ngày 2 lần, đồng thời người nuôi thường xuyên dọn chuồng, thay nước uống. Thời gian dê ăn có thể tranh thủ kiểm tra sức khỏe từng con để kịp thời có hướng xử lý. Phân dê được nhiều hộ vun thành đống nhỏ, ủ hoai bón vườn tiêu, nếu còn dư có thể bán cho các nhà vườn khác. “Trước đây, tôi nghĩ nuôi dê như bỏ ống heo tiết kiệm, có tiền sắm sửa thêm trong nhà, chứ không nghĩ có lúc trở thành thu nhập chính của cả gia đình. Với giá dê cao như hiện nay, nuôi dê không chỉ thoát nghèo mà còn là cách làm giàu không khó của nhiều nông hộ ở vùng biên Lộc Thành” - chị Hoa nói.
LIÊN KẾT CHĂN NUÔI
Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Lộc Thành đã vận động chị em thành lập Tổ hợp tác chăn nuôi dê nhằm ổn định đầu ra và hỗ trợ kiến thức giúp nâng cao hiệu quả chăn nuôi. Bà Nguyễn Thị Huệ, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã cho biết: Bước đầu, hội vận động thành lập Tổ hợp tác chăn nuôi dê xã Lộc Thành tại tổ 6, ấp Tân Bình 2. Nếu mô hình phát huy hiệu quả sẽ nhân rộng các ấp còn lại.
Tổ hợp tác chăn nuôi dê xã Lộc Thành hiện có 12 thành viên nuôi 99 con dê, hộ nhiều nhất nuôi 25 con, ít nhất 6 con dê. Tham gia tổ hợp tác, thành viên sẽ được liên hệ và cung cấp dê giống khi có yêu cầu, hiện chủ yếu là dê bách thảo. Hằng năm, tổ hợp tác sẽ tổ chức luân chuyển dê đực giống giữa các hộ thành viên hoặc trong vùng để tránh trùng huyết, giảm bệnh tật và cải thiện đàn dê. Nguồn thức ăn (cám) cho dê mang thai sẽ được tổ hợp tác liên hệ cơ sở cung cấp. Vào cuối mỗi quý, tổ hợp tác liên hệ nhân viên thú y khám bệnh định kỳ tất cả đàn dê. Chi phí khám bệnh trích từ quỹ của tổ, chi phí chữa bệnh do thành viên chi trả. Thành viên ký kết hợp đồng cung ứng cho tổ hợp tác, tổ trưởng chịu trách nhiệm liên hệ và ký kết hợp đồng cung ứng với Hợp tác xã chăn nuôi dê Lộc Hiệp (Lộc Ninh) để thu mua xuất bán theo hợp đồng kinh tế. Thành viên giao dê thịt cho tổ hợp tác để liên hệ với cơ sở giết mổ và nhân viên thú y kiểm tra chất lượng dê thịt, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, giết mổ và đóng dấu thú y đảm bảo số lượng, chất lượng theo hợp đồng ký kết.
Bà Nguyễn Thị Huệ cho biết thêm: Trước mắt, hội sẽ sát cánh cùng Ban điều hành Tổ hợp tác chăn nuôi dê xã Lộc Thành vận động thành viên thực hiện đúng quy trình sản xuất chăn nuôi, đồng thời đảm bảo quyền lợi của thành viên tham gia tổ hợp tác nhằm phát huy hiệu quả mô hình. Nếu thành công sẽ là mô hình điểm nhân rộng ra các ấp Cần Dực, Tà Tê 2..., góp phần cùng chính quyền xã thực hiện phong trào xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững.
Ông Lê Đức Trí, Bí thư Chi bộ ấp Tân Bình 2, xã Lộc Thành cho biết: Mặc dù tổ hợp tác đang hoàn thiện thủ tục để được công nhận nhưng mô hình này đã được nhân dân trong ấp quan tâm học hỏi. Nếu phát huy hiệu quả, mô hình sẽ mở ra hướng phát triển kinh tế mới, có hiệu quả và rất phù hợp với thực tế cuộc sống người dân vùng biên. Hiện 80% hộ dân trong ấp nuôi dê nhưng thời gian qua không phát huy hết hiệu quả vì đầu ra không ổn định, bị tư thương ép giá và không được hỗ trợ áp dụng khoa học, kỹ thuật.
Phương Dung
Bà Rịa - Vũng Tàu: Dịch tả heo châu Phi lần đầu xảy ra ở trang trại quy mô lớn
Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Tin từ Chi cục Chăn nuôi và Thú y (Sở NN-PTNT) tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, dịch tả heo châu Phi đang lây lan, bùng phát mạnh trên địa bàn tỉnh. Đến nay, đã có 48 địa bàn cấp xã của 7 huyện, thị, thành phát hiện ổ dịch. Đã có hơn 9.200 con heo, có tổng trọng lượng gần 600 tấn bị tiêu hủy.
Đặc biệt, dịch đã chuyển từ giai đoạn 2 (xảy ra tại các hộ chăn nuôi quy mô gia trại) sang giai đoạn 3 (xảy ra tại các trại chăn nuôi quy mô trang trại). Cụ thể, dịch tả heo châu Phi đã được phát hiện tại một trang trại tại khu phố Nông Trường, phường Hắc Dịch, TX. Phú Mỹ, với quy mô hơn 1.800 con. Cơ quan chức năng đã tiêu hủy 18 con heo mắc bệnh; đồng thời phun xịt, tiêu độc khử trùng khu vực nuôi và tiếp tục cử cán bộ theo dõi diễn biến của dịch bệnh tại trang trại trên.
Theo nhận định, hiện nay đang là cao điểm mùa mưa, dịch tả heo tiếp tục có nguy cơ lan rộng trên địa bàn tỉnh.
PHÚ XUÂN
Lợi nhuận từ mô hình ‘cá-lúa-vịt’
Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế
Từ hoàn cảnh kinh tế bấp bênh, anh Đoàn Lỗ (Thủy Phù, Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế) đã tìm ra con đường sinh kế bền vững cho gia đình. Đó là mô hình trang trại cá – lúa – vịt kết hợp.
Cá – lúa – vịt tương hỗ là “bí quyết” của mô hình
Năm 2008, nhận thấy đất chỉ canh tác lúa thì không tận dụng được lợi thế, anh Lỗ quyết định nuôi thêm vịt, cá. Dẫn chúng tôi thăm quan trang trại, anh kể: “Khi đó mình vừa làm vừa “thăm dò”. Vì thật sự cách làm này rất hay, nhưng mới. Nuôi vịt khá dễ, nhưng kết hợp hai ba loại lại thì phải có sự kết nối. Đầu tiên mình chỉ nuôi 1.000 con vịt, rồi thả thêm cá trắm, cá trôi, cá mè…”
Năm đầu áp dụng mô hình mới, trời chẳng phụ công, cá, lúa, vịt đều cho năng suất khá. Anh nhớ lại: “Khi đó mình mừng lắm. Vì sau bao năm làm lụng vất vả, cuối cùng mình đã tìm ra hướng đi phù hợp. Thế là bao nhiêu vốn liếng tích góp mình dồn hết cho năm thứ hai”.
Những tưởng như năm đầu, tiền vô chắc túi, ai ngờ năm 2009, lụt lớn diễn ra trên diện rộng. Ký ức của anh cũng là nỗi đau của bà con nông dân tại Thủy Phù: “Nước lũ lúc ấy lên nhanh lắm, nhiều diện tích lúa sắp vào kỳ thu hoạch ngập úng cả. Vốn liếng, hy vọng của mình cũng trôi theo con lũ lớn…”.
Năm ấy, người đàn ông hiền lành phải chạy vạy ngược xuôi, vay mượn mỗi nơi một ít. Gia đình bảy người con nheo nhóc, cảnh nhà bần hàn vô cùng. Những tưởng anh sẽ gục ngã sau cú sốc lớn, thế mà không. Trò chuyện với chúng tôi, anh nói chắc nịch: “Mình chỉ sợ không có hướng đi. Ngay từ lúc bén duyên với cá – lúa – vịt, mình đã xác định rõ. Cực nhọc mấy mình cũng chịu được…”.
Từ năm 2010, anh kiên trì theo đuổi cá – lúa – vịt. Với anh, đây là hình thức trồng trọt, chăn nuôi ưu việt, tương hỗ cho nhau. “Trước đây chỉ thu mỗi lúa thì nay cánh đồng mang về tận ba loại sản phẩm là lúa, cá, vịt. Cái hay của mô hình là nó tận dụng được tất cả ưu điểm loài, lợi dụng đặc điểm sinh trưởng, phát triển để kích thích lẫn nhau”, anh nói.
Với mô hình cá – lúa – vịt, số lượng vịt được duy trì ổn định, ít hao hụt so với vịt chạy đồng. Phân vịt trực tiếp là phân hữu cơ bón ruộng, cũng là thức ăn cho cá, từ đó giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Với cánh đồng, các loài sâu rệp, ốc bươu và địch hại được vịt, cá diệt trừ, từ đó giảm chi phí phân hóa học và các loại thuốc trừ sâu.
Sau sáu năm trung thành với cá mè, cá trôi, đến năm 2014, anh Lỗ mạnh dạn thay đổi đối tượng, chỉ nuôi rặt cá trê lai. Đây là loài thích nghi tốt với môi trường có hàm lượng oxy thấp, dễ nuôi, chóng lớn, phù hợp hơn khi kết hợp với vịt.
Một trong những bí quyết của mô hình cá – lúa – vịt là việc canh thời điểm thả vịt, thả cá. Tùy giống lúa, đặc điểm sinh trưởng và kỳ thu hoạch mà anh Lỗ chia giai đoạn thả vịt, cá vào ruộng. Với lúa 3 tháng, sau khi gieo sạ 30 ngày là có thể thả vịt vào, đây là lúc rễ lúa đã vững, không lo ngại tác động. Vịt được thả liên tục trong 50 ngày, sau đó có thể xuất bán. Thời điểm 10 ngày còn lại để tập trung cho lúa chín và thu hoạch”, anh Lỗ nói.
Đến nay, anh Lỗ hiện đang nuôi đàn vịt hơn 5.500 con (gồm 4.500 con vịt thịt và hơn 1.000 con vịt cho trứng), canh tác 5ha lúa, 5.000m2 diện tích mặt nước. Cá, vịt được xuất bán mỗi quý một lần. Doanh thu cả trang trại hằng năm lên đến 1 tỷ đồng, sau khi trừ chi phí, anh lãi hơn 250 triệu đồng.
Ông Châu Văn Hồng, Chủ tịch Hội Nông dân xã Thủy Phù nhận định: “Mô hình cá – lúa – vịt là cách tăng lợi nhuận trên cùng một đơn vị diện tích. Hội viên Đoàn Lỗ đã khéo léo, dám nghĩ dám làm và thành công với trang trại cá – lúa – vịt, tạo thêm một hướng đi hiệu quả cho cách làm nông nghiệp tại địa phương”.
Không chỉ kịp thời động viên, hỗ trợ, Hội Nông dân xã đã tạo điều kiện cho anh Lỗ vay vốn, đầu tư, mở rộng sản xuất. Đây là động lực lớn giúp những hội viên như anh mạnh dạn áp dụng mô hình kinh tế độc đáo, mang lại hiệu quả cao này.
Bài, ảnh: Mai Huế
Trùn quế và nông nghiệp sạch
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Mô hình nuôi trùn quế bằng phế phẩm nông nghiệp được giải cao trong cuộc thi khởi nghiệp của Hội Phụ nữ tỉnh năm 2018, đồng thời lọt vào top đầu Trung ương Hội Phụ nữ. Qua đó, chị Phạm Thị Thanh Tuyền (xã Quảng Lập, Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng) đã mạnh dạn thành lập Hợp tác xã (HTX) Phụ nữ Trùn quế Đơn Dương và không chỉ giúp cho gia đình mà còn giúp nhiều chị em phụ nữ có thêm thu nhập.
Chị Phạm Thị Thanh Tuyền là người đầu tiên của huyện Đơn Dương thành công với mô hình nuôi trùn quế. Ảnh: H.Y
Nuôi trùn quế chính là giải pháp tối ưu đem lại nhiều lợi ích không chỉ về kinh tế mà còn tạo ra các sản phẩm phục vụ nông nghiệp sạch hiện đang được chị Tuyền đi tiên phong bằng mô hình này.
Chị Tuyền chia sẻ, chị ấp ủ nuôi trùn quế từ lâu rồi vì xem ti vi thấy nhiều người làm hiệu quả, vậy tại sao mình không tận dụng thế mạnh của địa phương là vùng nông nghiệp với phế phẩm rau, củ thải ra rất lớn để làm thức ăn cho trùn quế, đồng thời sử dụng phân trùn quế để bón lại cho cây. Nghĩ là làm, chị bắt đầu tìm hiểu, nuôi thử nghiệm 20 m2 ở nhà và dùng rác thải nông nghiệp từ rau, củ, quả bỏ đi để làm thức ăn cho trùn quế. Sau 3 tháng nuôi, không những có phân bón cho vườn của gia đình mà trùn quế còn được công ty nuôi cá tầm ở Lạc Dương thu mua với 40.000 đồng/kg. Từ thành công đó chị mở rộng diện tích nuôi trùn quế của mình lên 400 m2 vào đầu năm 2019 và cung cấp ra thị trường 300 tấn phân hữu cơ từ trùn quế rất tốt trong trồng trọt. Nhận thấy, đây là mô hình đầu tư rất thấp, có thể mở rộng, phù hợp với chị em phụ nữ, đến tháng 7/2019 chị quyết định thành lập HTX Phụ nữ Trùn quế Đơn Dương, thu hút nhiều chị em phụ nữ của huyện tham gia với diện tích lên đến 1.000 m2. Từ mô hình này, đã làm giảm tối đa vốn đầu tư ban đầu bằng việc tận dụng nguồn nguyên liệu có sẵn tại địa phương (phế phẩm rau sau thu hoạch) để tạo ra sản phẩm trùn quế và phân bón phục vụ lại nhu cầu sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi hiện nay của người dân. Qua phương pháp này đã giúp các hộ gia đình chị em sử dụng trùn quế để tự phân hủy rác thải từ rau, củ, quả...; góp phần giảm tải gánh nặng rác thải cho xã hội.
Mục tiêu của HTX Trùn quế Đơn Dương là phấn đấu trong năm đầu tiên thành lập tiếp cận được khoảng 1% diện tích đất canh tác nông nghiệp của huyện Đơn Dương, với tổng diện tích 23.000 ha sử dụng phân trùn để cải tạo đất và phục vụ cho việc sản xuất nông nghiệp sạch. Mô hình sẽ cung cấp thịt trùn quế tươi cho các cơ sở nuôi cá tầm tại Đà Lạt với sản lượng theo nhu cầu khoảng 30 tấn thịt trùn quế/mùa/năm. Ngoài ra, mô hình của HTX cũng sẽ tham gia xử lý được khoảng 30% chất thải nông nghiệp và chất thải từ chăn nuôi trên địa bàn toàn huyện.
Bên cạnh đó, phân từ trùn quế sẽ sử dụng để trồng rau sạch và thịt trùn quế sẽ được sử dụng làm thức ăn có hàm lượng dinh dưỡng cao cho gà, vịt, bò, heo, bồ câu, cá... “Sinh khối trùn quế được ví như một nhà máy rác tự nhiên, khả năng tiêu thụ, phân giải rác hữu cơ và chất thải chăn nuôi lớn, trung bình 1 tấn trùn quế trong 3 tháng có thể xử lý được 70-80 tấn rác nông nghiệp hữu cơ hoặc 50 tấn chất thải gia súc, gia cầm”, chị Tuyền cho biết thêm.
Sản phẩm của mô hình đóng góp tích cực về việc cải thiện và bảo vệ môi trường, tận dụng tối đa các nguồn rác hữu cơ và phân chuồng chưa qua xử lý tại địa phương. Phân trùn quế còn góp phần làm giảm mức độ sử dụng phân hóa học, giúp cây trồng phát triển tốt, tăng khả năng chống sâu bệnh, giảm bớt việc sử dụng thuốc trừ sâu, nhờ đó bảo vệ được môi trường. Với những khu vực ô nhiễm, nếu nuôi trùn quế cũng có thể làm sạch được môi trường nước.
Ông Võ Minh Cường, Phó Chủ tịch UBND xã Quảng Lập cho biết, HTX Trùn quế Đơn Dương được thành lập đã và đang mang lại hiệu quả về nhiều mặt, tận dụng các phế phẩm sản xuất từ nông nghiệp và chất thải từ chăn nuôi để tạo ra sản phẩm phân trùn quế và thịt trùn quế nhằm phục vụ cho kế hoạch sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch. Mô hình cũng đã tạo ra công ăn việc làm cho một bộ phận người lao động, đặc biệt là lao động nữ. Với tiềm năng và ưu thế về vùng nguyên liệu chuyên canh cây nông nghiệp hiện có tại địa phương, mô hình cho thấy những triển vọng tốt để phát triển.
HOÀNG YÊN
Hiếu Giang tổng hợp