Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 1 tháng 4 năm 2025
Từ 1/4, đất nông nghiệp được thí điểm làm nhà thương mại
Nguồn tin: Đài PTTT Hà Nội
Từ 1/4, Nghị quyết 171 được Quốc hội thông qua ngày 30/11/2024 về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại qua thỏa thuận nhận quyền hoặc đang có quyền sử dụng đất có hiệu lực thi hành.
Nghị quyết 171 nêu rõ, tổ chức kinh doanh bất động sản được nhận chuyển quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất đối với đất nông nghiệp để thực hiện dự án thí điểm nếu đáp ứng một số điều kiện gồm:
- Phạm vi khu đất, thửa đất thực hiện dự án phù hợp với quy hoạch sử dụng đất cấp huyện hoặc quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị;
- Phạm vi khu đất, thửa đất thực hiện dự án phù hợp với chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở của địa phương đã được phê duyệt;
- Phạm vi khu đất, thửa đất thực hiện dự án nằm trong danh mục các khu đất dự kiến thực hiện dự án thí điểm do HĐND cấp tỉnh thông qua;
- Có văn bản chấp thuận của UBND cấp tỉnh về việc thỏa thuận nhận quyền sử dụng đất để thực hiện dự án thí điểm đối với dự án của tổ chức kinh doanh bất động sản nhận quyền sử dụng đất và dự án của tổ chức kinh doanh bất động sản đang có quyền sử dụng đất và nhận quyền sử dụng đất;
Tổ chức kinh doanh bất động sản phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật về đất đai, nhà ở, kinh doanh bất động sản, đầu tư và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Liên Phương
Câu hỏi lớn về tính bền vững
Nguồn tin; Báo Biên Phòng
Ngành nông nghiệp nước ta đang đứng trước một thực tế đáng chú ý: sự chuyển đổi mạnh mẽ từ cây điều sang cây sầu riêng, đặc biệt tại Bình Phước - vùng đất vốn được biết đến như vựa điều lớn nhất cả nước. Xu hướng này không chỉ phản ánh sự nhạy bén của nông dân trước biến động thị trường mà còn đặt ra những câu hỏi lớn về tính bền vững của ngành nông nghiệp, giá trị thương hiệu nông sản và sinh kế lâu dài của người dân.
Ảnh: minh họa
Hiện nay, tại Bình Phước, nhiều nông dân đang chặt bỏ cây điều để trồng sầu riêng, bởi lợi nhuận kinh tế giữa hai loại cây này chênh lệch quá lớn. Một hecta sầu riêng có thể mang lại doanh thu lên đến 1 tỷ đồng, trong khi cây điều chỉ đạt 35-40 triệu đồng. Đây là lựa chọn dễ hiểu trong bối cảnh giá trị kinh tế của sầu riêng tăng vọt, đặc biệt sau khi Việt Nam ký kết nghị định thư xuất khẩu sang Trung Quốc - thị trường tiêu thụ khổng lồ. Thống kê cho thấy, trong vòng 5 năm, diện tích trồng sầu riêng đã tăng từ 32.000ha lên 150.000ha, trong khi kim ngạch xuất khẩu hạt điều mấy năm nay vẫn đạt mức ấn tượng với con số khoảng 3,6 tỷ USD.
Tuy nhiên, sự dịch chuyển này không chỉ mang lại cơ hội mà còn kéo theo những hệ lụy đáng lo ngại. Trước hết, việc thu hẹp diện tích trồng điều đã làm giảm giá thu mua hạt điều tại địa phương, ảnh hưởng trực tiếp đến vùng nguyên liệu và sinh kế của hàng nghìn hộ nông dân. Thương hiệu điều Việt Nam vốn là niềm tự hào trên thị trường quốc tế đang đối mặt với nguy cơ suy yếu khi nguồn cung nội địa giảm dần. Trong khi đó, sự bùng nổ của sầu riêng, dù mang lại lợi ích kinh tế trước mắt, lại tiềm ẩn rủi ro nếu thị trường biến động hoặc chất lượng không được kiểm soát chặt chẽ. Đây là bài toán không mới, nhưng dường như vẫn chưa có lời giải triệt để, đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ từ chính sách đến thực tiễn.
Để ứng phó với xu hướng này, thay vì cưỡng chế bằng các biện pháp hành chính, cần linh hoạt thích nghi theo quy luật thị trường. Với cây điều, giải pháp không phải là ngăn người dân chuyển đổi, mà là nâng cao giá trị của chính loại cây này. Một ví dụ đáng chú ý là mô hình trồng nấm linh chi đỏ dưới tán điều tại Bình Phước, vừa tăng thu nhập, vừa tạo thêm sinh kế bền vững. Đồng thời, việc đẩy mạnh chế biến và phát triển các sản phẩm OCOP từ hạt điều - như những sáng kiến của doanh nghiệp địa phương - có thể mở ra hướng đi mới, giúp cây điều cạnh tranh với sức hút của sầu riêng.
Tuy nhiên, để thành công, cần xây dựng chuỗi liên kết chặt chẽ giữa nông dân và doanh nghiệp chế biến, đồng thời giải quyết nghịch lý nhập khẩu điều thô trong khi Việt Nam sở hữu vùng trồng lớn. Với sầu riêng, cơ hội xuất khẩu là rõ ràng, nhưng để biến nó thành sản phẩm quốc gia mang tính bền vững, cần hơn một chính sách nhất thời. Việc cấp mã số vùng trồng, xây dựng vùng nguyên liệu tập trung và liên kết nông dân thành các hợp tác xã đủ mạnh là những bước đi cần thiết để khắc phục tình trạng sản xuất manh mún. Hơn nữa, chuẩn hóa chất lượng nông sản phải được đặt lên hàng đầu, bởi đây là yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nếu không, sầu riêng Việt Nam có thể rơi vào vòng xoáy “được mùa mất giá” - kịch bản từng lặp lại với nhiều loại nông sản khác.
Nhìn tổng thể, câu chuyện chuyển đổi từ cây điều sang sầu riêng không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần, mà còn là bài toán chiến lược của ngành nông nghiệp. Cơ hội từ sầu riêng là không thể phủ nhận, nhưng nếu không có giải pháp đồng bộ để bảo vệ cây điều và nâng cao giá trị nông sản, chúng ta có thể đánh mất những lợi thế vốn có. Sự linh hoạt trong ứng biến, kết hợp với đầu tư vào khoa học công nghệ, hạ tầng và liên kết chuỗi giá trị, sẽ là chìa khóa để ngành nông nghiệp Việt Nam vừa tận dụng được tiềm năng trước mắt, vừa đảm bảo phát triển bền vững trong tương lai. Hơn bao giờ hết, đây là lúc cần sự đồng lòng từ chính quyền, doanh nghiệp và người nông dân để biến thách thức thành đòn bẩy, đưa nông sản Việt Nam khẳng định vị thế trên thị trường toàn cầu.
Thái Bình
1.300 sản phẩm nông nghiệp lên sàn thương mại điện tử
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Thông tin từ Sở Công thương tỉnh Lâm Đồng cho biết, các ngành của tỉnh đã thực hiện hỗ trợ các doanh nghiệp địa phương tham gia trên 30 chương trình, hội nghị, hội thảo, đối thoại, kết nối giao thương, kết nối B2B, triển lãm trưng bày sản phẩm, tuần hàng nông sản, thúc đẩy xuất khẩu thông qua các kênh thương mại điện tử như: alibaba; amazon; dalatproducts.com; nongsandalatlamdong.vn… Đến nay, có 100% các sản phẩm OCOP, nhiều sản phẩm nông nghiệp chủ lực và trên 1.300 sản phẩm nông sản của trên 500 chủ thể là doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, cá nhân sản xuất đã tham gia vào hệ thống phần mềm kết nối cung cầu tỉnh, quảng bá và bán hàng nông sản thực phẩm trên các sàn thương mại điện tử như: nongsandalatlamdong.vn, tiki, lazada, shoppee… Lâm Đồng đang tích cực hỗ trợ cá nhân, hợp tác xã, tổ hợp tác tham gia cung ứng hàng hóa trên các sàn thương mại điện tử nhằm tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm và tăng độ nhận diện thương hiệu nông sản Lâm Đồng.
DIỆP QUỲNH
Hướng đến nông nghiệp xanh, nông nghiệp có trách nhiệm
Nguồn tin: Báo Hà Nội mới
Phát triển nền nông nghiệp xanh và làm ra những sản phẩm nông sản chất lượng đang được người tiêu dùng đặc biệt quan tâm và là xu thế tất yếu trong bối cảnh hiện nay.
Vậy nông nghiệp xanh là gì? Nông nghiệp xanh được hiểu là một phương pháp tiếp cận trong lĩnh vực nông nghiệp nhằm bảo đảm phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và nâng cao sức khỏe con người. Điểm then chốt của giải pháp này là cân bằng giữa phát triển sản xuất nông nghiệp và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Với hướng đi này, Việt Nam đang thực hiện những công việc gì để hiện thực hóa nền nông nghiệp xanh? Thực tế những năm qua, các chính sách phát triển nông nghiệp xanh, nông nghiệp bền vững đã tạo bước tiến quan trọng trong chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp, tập quán canh tác của nông dân và nhận thức về phát triển bền vững. Trong đó, sự phát triển của các mô hình canh tác nông nghiệp bền vững cánh đồng mẫu lớn áp dụng tiêu chuẩn VietGAP, quản lý dịch hại tổng hợp (IPM), sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo “4 đúng” (đúng thuốc, đúng lúc, đúng liều lượng, đúng cách), giảm phân bón vô cơ. Trong nuôi trồng thủy sản đã áp dụng kiểm soát chất lượng từ ao nuôi đến bàn ăn. Đặc biệt, nông nghiệp hữu cơ ngày càng phát triển, đến nay hầu hết các địa phương trên cả nước đã triển khai nông nghiệp hữu cơ và xu hướng này ngày càng lan tỏa mạnh mẽ.
Đáng chú ý, phát triển nông nghiệp carbon phát thải thấp là một trong những ưu tiên hàng đầu nhằm góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26 là đạt mức phát thải carbon bằng 0 vào năm 2050. Trong đó nổi bật là Việt Nam đang tập trung nguồn lực thực hiện Đề án phát triển bền vững một triệu hécta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030; tăng diện tích trồng rừng; khai thác thủy sản theo quy định; du lịch kết hợp với nông nghiệp xanh...
Với xu thế tất yếu của nền nông nghiệp xanh, rõ ràng vấn đề đầu tiên cần nhắc tới là người sản xuất phải có trách nhiệm.
Theo đó, để xây dựng nền kinh tế xanh và phát triển nông nghiệp xanh, các doanh nghiệp và người dân cần đổi mới tư duy và nhận thức để chủ động thúc đẩy kinh tế và tiêu dùng xanh. Trong đó, ngành Nông nghiệp cần tạo đột phá bằng hệ thống giải pháp đồng bộ, phát triển nông nghiệp sinh thái theo hướng đa giá trị, đa ngành và lồng ghép các giá trị kinh tế - xã hội và môi trường. Đồng thời, tận dụng tối đa các ưu thế tự nhiên từ các vùng miền cho việc phát triển nông nghiệp, bảo đảm sự tương tác với môi trường sinh thái.
Người dân cần được nâng cao kiến thức và kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi thông qua mạng lưới khuyến nông. Từ đó giúp họ có thể chủ động trong sản xuất dựa vào những kiến thức của bản thân. Ngoài ra cũng cần đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ khoa học mới vào hoạt động sản xuất.
Chuyển đổi xanh trong nông nghiệp là quá trình rất khó khăn, đòi hỏi sự kiên trì và quyết tâm chính trị cao, phải biến thành kế hoạch hành động của từng địa phương và sự thay đổi, quyết tâm thực hiện của từng người dân. Theo đó, cơ quan chức năng cần xây dựng chính sách quản lý, sử dụng tài nguyên theo hướng thân thiện với môi trường; phối hợp với các địa phương hình thành vùng sản xuất tập trung, an toàn, quy mô lớn để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng sản phẩm nông nghiệp sạch trong nước và xuất khẩu.
Ngoài ra, ngành Nông nghiệp cần đổi mới tư duy sản xuất. Đó là chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, tập trung vào nâng cao giá trị, hiệu quả, đa dạng theo chuỗi giá trị phù hợp với yêu cầu của thị trường. Nói cách khác, chuyển từ phát triển đơn ngành sang tích hợp đa ngành, từ đơn giá trị sang tích hợp đa giá trị...
Gieo trồng mầm xanh, tạo nên mùa vàng bội thu. Xây dựng một nền sản xuất, kinh doanh có trách nhiệm với con người và môi trường, góp phần tích cực vào ổn định an ninh lương thực luôn là mục tiêu chiến lược là cam kết của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.
Bắc Vũ
Chính sách mới nổi bật có hiệu lực từ tháng 4/2025
Nguồn tin: VTC
Bỏ thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cấp xã, đất nông nghiệp được thí điểm làm nhà ở thương mại... là các chính sách mới có hiệu lực trong tháng 4.
Bỏ thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cấp xã
Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật 2025 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/4.
Đáng chú ý, tại luật mới quy định rõ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật gồm 14 loại văn bản. So với luật hiện hành, luật mới bỏ 2 loại văn bản gồm nghị quyết của HĐND cấp xã, quyết định của UBND cấp xã.
Như vậy từ ngày 1/4, bỏ thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền cấp xã để bảo đảm thống nhất với nội dung đề xuất nêu tại đề án đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật mà Đảng đoàn Quốc hội đã trình Bộ Chính trị.
Trụ sở Đảng ủy - HĐND - UBND phường Đội Cấn (quận Ba Đình, TP Hà Nội)
Bên cạnh đó, Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật 2025 bổ sung thêm hình thức văn bản quy phạm pháp luật Chính phủ được ban hành là nghị quyết.
Lý giải bổ sung nghị quyết của Chính phủ trở thành văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp cho biết do thực tiễn công tác chỉ đạo, điều hành và phản ứng chính sách của Chính phủ, đặc biệt là trong giai đoạn phòng, chống đại dịch COVID-19 và phục hồi kinh tế đã đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu, bổ sung thẩm quyền của Chính phủ trong việc ban hành một hình thức văn bản riêng (ngoài nghị định).
Văn bản này với quy trình xây dựng, ban hành nhanh gọn, kịp thời để văn bản có hiệu lực sau khi ban hành và xử lý ngay vấn đề thực tiễn phát sinh.
Lương giám đốc không được quá 10 lần người lao động
Có hiệu lực từ ngày 15/4, Nghị định số 44/2025 của Chính phủ quy định về quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng trong doanh nghiệp nhà nước.
Theo đó, Nghị định quy định quỹ tiền lương của người lao động và ban điều hành được xác định thông qua mức tiền lương bình quân hoặc đơn giá tiền lương ổn định. Phương pháp này chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp đã có thời gian hoạt động ít nhất bằng thời gian dự kiến áp dụng đơn giá tiền lương ổn định.
Nghị định nêu rõ, tùy theo nhiệm vụ, tính chất ngành nghề, điều kiện hoạt động sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp quyết định lựa chọn một trong hai phương pháp xác định quỹ tiền lương nêu trên.
Doanh nghiệp có nhiều lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh khác nhau và có thể tách bạch các chỉ tiêu lao động, tài chính để tính năng suất lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh tương ứng với từng lĩnh vực hoạt động thì được lựa chọn phương pháp phù hợp trong 2 phương pháp trên để xác định quỹ tiền lương tương ứng với từng lĩnh vực hoạt động.
Về phân phối tiền lương, Chính phủ quy định người lao động và ban điều hành được trả lương theo quy chế trả lương do doanh nghiệp ban hành.
Trong đó, tiền lương của người lao động được trả theo vị trí chức danh hoặc công việc, gắn với năng suất lao động và mức đóng góp của từng người vào kết quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Tiền lương của ban điều hành được trả theo chức danh, chức vụ và kết quả sản xuất, kinh doanh, trong đó mức tiền lương của Tổng giám đốc, Giám đốc (trừ trường hợp Tổng giám đốc, Giám đốc được thuê làm việc theo hợp đồng lao động) tối đa không vượt quá 10 lần so với mức tiền lương bình quân của người lao động.
Khi xây dựng quy chế trả lương, doanh nghiệp phải tham khảo ý kiến của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở, tổ chức đối thoại tại nơi làm việc theo quy định của pháp luật lao động, báo cáo cơ quan đại diện chủ sở hữu để kiểm tra, giám sát và công khai tại doanh nghiệp trước khi thực hiện.
Mỗi giáo viên không kiêm nhiệm quá 2 nhiệm vụ
Thông tư 05/ /2025 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về chế độ làm việc đối với giáo viên phổ thông, dự bị đại học, có hiệu lực thi hành từ ngày 22/4.
Trong đó, điểm đáng chú ý là quy định mỗi giáo viên không kiêm nhiệm quá 2 nhiệm vụ (bao gồm cả kiêm nhiệm công việc chuyên môn; kiêm nhiệm chức vụ đảng, đoàn thể và tổ chức khác; kiêm nhiệm vị trí việc làm khác).
Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định mỗi giáo viên không kiêm nhiệm quá 2 nhiệm vụ.
Về chế độ giảm định mức tiết dạy đối với giáo viên kiêm nhiệm các công việc chuyên môn, Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định, giáo viên chủ nhiệm lớp ở các trường phổ thông được giảm tiết dạy nhiều nhất với 4 tiết/tuần; tổ trưởng tổ chuyên môn hoặc tổ trưởng tổ bộ môn được giảm 3 tiết/tuần; tổ phó tổ chuyên môn hoặc tổ phó tổ bộ môn được giảm 1 tiết/tuần.
Tổ trưởng tổ quản lý học sinh trong trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú được giảm 3 tiết/tuần; tổ phó tổ quản lý học sinh trong trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú được giảm 1 tiết/tuần. Khi nhà trường không có viên chức thiết bị, thí nghiệm, giáo viên kiêm phụ trách phòng học bộ môn (trừ phòng tin học) được giảm 3 tiết/môn/tuần, phụ trách phòng thiết bị giáo dục được giảm 3 tiết/tuần...
Thông tư cũng quy định chế độ giảm định mức tiết dạy đối với các đối tượng khác như: giáo viên trong thời gian tập sự được giảm 2 tiết/tuần; giáo viên nữ nuôi con dưới 12 tháng tuổi giảng dạy ở trường tiểu học được giảm 4 tiết/tuần; giảng dạy ở các cơ sở giáo dục khác được giảm 3 tiết/tuần...
Tiêu chuẩn phân loại lao động theo điều kiện lao động
Từ ngày 1/4, Thông tư 03/2025 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ) quy định tiêu chuẩn phân loại lao động theo điều kiện lao động có hiệu lực.
Theo đó, có 6 loại điều kiện lao động, từ loại I đến loại VI.
Trong đó, nghề, công việc có điều kiện lao động được xếp loại I, II, III là nghề, công việc không nặng nhọc, không độc hại, không nguy hiểm.
Nghề, công việc có điều kiện lao động được xếp loại IV là nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.
Nghề, công việc có điều kiện lao động được xếp loại V, VI là nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.
Thông tư cũng nêu rõ, 6 loại điều kiện lao động nêu trên được đánh giá, xếp loại theo các phương pháp: phương pháp đánh giá, tính điểm; phương pháp khác (phương pháp thống kê, kinh nghiệm; phương pháp kết hợp).
Đất nông nghiệp được thí điểm làm nhà ở thương mại
Nghị quyết 171 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại qua thỏa thuận nhận quyền hoặc đang có quyền sử dụng đất, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/4.
Đất nông nghiệp được thí điểm chuyển nhượng làm dự án nhà ở thương mại từ ngày 1/4.
Hiện nhà đầu tư chỉ được làm dự án nhà ở thương mại khi có quyền sử dụng với đất ở, theo Luật Nhà ở 2014. Tuy nhiên, từ ngày 1/4, họ được thỏa thuận nhận quyền sử dụng với đất nông nghiệp, phi nông nghiệp (đất thương mại dịch vụ) không phải đất ở, đất khác trong cùng thửa để làm dự án nhà ở thương mại. Chính sách này được thí điểm trong 5 năm.
Trường hợp trong khu, thửa đất có phần do cơ quan, tổ chức Nhà nước quản lý nhưng không tách được thành dự án độc lập thì được đưa vào diện tích đất chung để lập dự án và Nhà nước thu hồi, giao cho nhà đầu tư không qua đấu giá, đấu thầu.
Điều kiện để dự án được thí điểm chính sách này, là khu, thửa đất phải ở khu vực đô thị, phù hợp quy hoạch sử dụng đất cấp huyện. Dự án thí điểm cần có tối đa 30% diện tích đất ở tăng thêm trong kỳ quy hoạch (so với hiện trạng sử dụng đất) theo phương án phân bổ và khoanh vùng đất đai của quy hoạch tỉnh đến 2030.
UBND cấp tỉnh sẽ xem xét, cấp phép cho tổ chức kinh doanh bất động sản nhận chuyển quyền sử dụng đất. Cùng với đó, doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phải đáp ứng các điều kiện về đất đai, pháp luật về nhà ở, kinh doanh bất động sản, đầu tư.
Trường hợp nhà đầu tư nhận chuyển quyền sử dụng với đất có nguồn gốc là đất quốc phòng, an ninh thì cần văn bản chấp thuận của Bộ Quốc phòng, Công an.
Tỉnh Sơn La đang tích cực mời gọi, tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư; nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế, nhất là phát triển nông nghiệp, du lịch và công nghiệp chế biến...
Giai đoạn 2021-2025, tỉnh Sơn La đã chấp thuận chủ trương đầu tư 86 dự án, với số vốn đăng ký gần 30.350 tỷ đồng, vốn bình quân của các dự án khoảng 375 tỷ đồng/dự án, cao gấp 5,5 lần giai đoạn 2016-2020. Số vốn đầu tư thực hiện tham gia đóng góp vào chỉ tiêu vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 30%.
Các doanh nghiệp, HTX đầu tư phát triển sản phẩm cà phê Arabica Sơn La
Hiện trên địa bàn đang có 7 dự án FDI ngoài khu công nghiệp đang hoạt động, với tổng mức vốn đăng ký đầu tư là 153,6 triệu USD thuộc các lĩnh vực đầu tư gồm: sản xuất nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao, khai thác khoáng sản. Các dự án đều kinh doanh tương đối ổn định và đóng góp tích cực vào sự phát triển của tỉnh.
Sơn La là một trong những địa phương có vị trí quan trọng trong đầu mối giao thông huyết mạch nối vùng Tây Bắc với trung du Bắc Bộ; có diện tích tự nhiên 14.000 km², là vùng chuyên canh cây ăn quả lớn nhất miền Bắc, có nhiều tiềm năng phát triển công nghiệp chế biến, năng lượng tái tạo và dịch vụ du lịch. Công tác hỗ trợ và thu hút đầu tư được địa phương quan tâm triển khai với nhiều giải pháp.
Lãnh đạo UBND tỉnh Sơn La kiểm tra tại Khu công nghiệp Mai Sơn.
Ông Nguyễn Thành Công, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La cho biết: Tỉnh sẽ tạo mọi điều kiện để thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh; xây dựng các cơ chế, chính sách; tạo niềm tin cho doanh nghiệp để các doanh nghiệp vào đầu tư, đồng hành cùng với Sơn La phát triển kinh tế - xã hội, hướng tới phát triển nông nghiệp xanh, bền vững và thông minh; và sẽ tiến thêm một bước nữa đó là tổ chức sản xuất nông nghiệp gắn với hoạt động du lịch canh nông...
Hiện thực hóa mục tiêu phát triển Sơn La thành Trung tâm chế biến nông sản theo tinh thần Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 10/2/2022 của Bộ Chính trị, địa phương ưu tiên thu hút đầu tư vào công nghiệp chế biến sâu các sản phẩm nông nghiệp chủ lực, như hoa quả, cà phê, tinh bột sắn, chè, sữa… Đồng thời, triển khai xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao và nghiên cứu lộ trình thành lập Trung tâm quốc gia về nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp tại Mộc Châu.
Bên cạnh đó, Sơn La sẽ xây dựng các đề án phát triển sản phẩm du lịch đến năm 2030, làm cơ sở thực hiện thu hút đầu tư trong lĩnh vực du lịch. Tập trung rà soát phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và có phương án, lộ trình để triển khai cho từng khu công nghiệp, cụm công nghiệp theo quy định.
Thu hút đầu tư phát triển du lịch trên cao nguyên Mộc Châu
Hiện tại, HĐND tỉnh Sơn La đã phê duyệt danh mục khu đất đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư, gồm 6 dự án năng lượng, năng lượng tái tạo quy mô nhỏ và vừa. Đồng thời, tỉnh đang đẩy mạnh triển khai các dự án khu đô thị, khu dân cư nông thôn, cải tạo hạ tầng, gắn với phát triển du lịch nghỉ dưỡng tại Khu du lịch quốc gia Mộc Châu.
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, thu hút nhà đầu tư tiềm năng, trong năm 2025, tỉnh Sơn La phấn đấu hoàn thành Nhà máy chè Mộc Châu, công suất 125 tấn chè tươi/ngày và trang trại chăn nuôi 4.000 con bò sữa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Lê Hạnh/VOV-Tây Bắc
Phát triển thủy sản đặc sản: Cú huých tái cơ cấu nông nghiệp
Nhằm phát triển nuôi trồng thủy sản đặc sản theo hướng tăng giá trị hiệu quả, bền vững, trong những năm qua, nghề nuôi cá đặc sản trên địa bàn tỉnh đang phát triển mạnh mẽ, tạo công ăn việc làm, thu nhập cho người nông dân.
Tiềm năng, lợi thế
Toàn tỉnh có 11.288 ha mặt nước có tiềm năng nuôi trồng thủy sản. Trong đó, sản lượng cá đặc sản hằng năm đạt trên 1.800 tấn. Đây là điều kiện thuận lợi để tỉnh phát triển nghề nuôi trồng thủy sản đặc sản, mang lại nguồn thu nhập cho người dân. Na Hang là điểm sáng trong phát triển thủy sản của tỉnh với 4.583 ha mặt nước nuôi thả các loại thủy sản; tổng sản lượng khai thác thủy sản ước đạt trên 500 tấn/năm. Nuôi cá đặc sản hiện đang được coi là một trong những ngành phát triển nông nghiệp chủ lực trên địa bàn huyện và phát triển mạnh trong những năm gần đây. Tính đến nay, toàn huyện có 1.288 lồng cá của 96 hộ gia đình, 3 doanh nghiệp, 2 hợp tác xã làm nghề cá. Tại các xã Sơn Phú, Yên Hoa, Đà Vị, thị trấn Na Hang, người dân đã tận dụng nguồn nước hồ sinh thái Na Hang phát triển nghề nuôi cá lồng đặc sản như cá lăng, cá bỗng, cá tầm, cá chiên, cá dầm xanh, anh vũ đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Người dân thị trấn Na Hang phát triển nghề nuôi cá lồng đặc sản.
Anh Trịnh Ngọc Hà, thành viên HTX Thủy sản Na Hang, tổ 7, thị trấn Na Hang chia sẻ: Gia đình anh nuôi cá lồng từ năm 2018, hiện đang duy trì 120 lồng cá tại khu vực Bến thủy, thị trấn Na Hang, chủ yếu là cá lăng và cá tầm. Nhờ tuân thủ chặt chẽ các biện pháp kỹ thuật, đảm bảo sự an toàn và tốc độ tăng trưởng, nên cá sinh trưởng và phát triển tốt. Theo tính toán nếu chăm sóc tốt, đúng quy trình kỹ thuật, mỗi năm gia đình anh cung cấp ra thị trường từ 60 - 70 tấn cá/năm. Hiện cá lăng đang bán với giá từ 90.000 - 100.000 đồng/kg, cá tầm dao động từ 250.000 - 300.000 đồng/kg; trừ các khoản cho thu lãi trên 500.000 triệu đồng/năm.
Là một trong những chủ doanh nghiệp đầu tư nuôi cá lồng trên hồ sinh thái Na Hang, anh Phạm Anh Toàn, Giám đốc Công ty TNHH Thủy sản Đức Nguyên cho rằng, để phát triển chăn nuôi cá đặc sản, ngoài quy trình chăm sóc, phòng trừ dịch bệnh tốt thì diện tích lớn, nguồn nước sạch là yếu tố tiên quyết để nuôi trồng thủy sản, đặc biệt đối với thủy sản đặc sản được coi là khó tính nhất như cá Bỗng, Lăng chấm, Chiên... Gần 10 năm nuôi trồng thủy sản trên vùng lòng hồ với quy mô 30 lồng, trong đó có 10 lồng cá đặc sản, chưa năm nào anh gặp bất lợi, cá sinh trưởng, phát triển tốt. Mỗi con cá Chiên, Lăng chấm sau 3 năm đạt trọng lượng từ 2,5 - 3 kg, với giá từ 480 - 600 nghìn/kg mang lại nguồn thu không nhỏ cho công ty.
Với diện tích mặt nước hồ sinh thái Na Hang - Lâm Bình rộng hơn 8.000 ha là điều kiện lý tưởng để anh Nguyễn Quang Minh, thôn Nà Tông, xã Thượng Lâm (Lâm Bình) chăn nuôi 150 lồng cá tại khu vực Bến thủy, xã Thượng Lâm với các loại cá đặc sản như: Chiên, lăng, quất. Anh Minh cho biết, nguồn nước ở đây chảy ra từ các con suối trên rừng nguyên sinh nên rất sạch, giúp cho cá nuôi ít bị bệnh, thịt lại săn chắc, thơm ngon. Mỗi năm gia đình anh cung cấp ra thị trường từ 60 - 70 tấn cá/năm, trừ chi phí thu về trên 400 triệu đồng/năm.
Cần tăng tính liên kết
Tuy nhiên, hiện nay việc nuôi cá đặc sản vẫn còn gặp khó khăn do đầu ra chưa ổn định. Số ít các doanh nghiệp, HTX, hộ chăn nuôi cá lồng liên kết bao tiêu sản phẩm, phần lớn các hộ dân nuôi cá đặc sản chỉ bán cho các thương lái vùng xuôi và các nhà hàng trên địa bàn tỉnh.
Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tuyên Quang, để nghề nuôi cá đặc sản mang lại hiệu quả cao, ngoài tập trung thực hiện hiệu quả Đề án phát triển thủy sản tỉnh Tuyên Quang giai đoạn 2019 - 2025, tỉnh đẩy mạnh tập huấn cho người dân về quy trình nuôi cá lồng đặc sản trên sông theo hướng VietGAP; đa dạng hóa các loại cá nuôi, hướng vào các đối tượng thủy sản nước ngọt có giá trị cao, đặc sản như cá chiên, bỗng, lăng chấm... Làm tốt công tác tăng cường xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu gắn với truy xuất nguồn gốc để tiêu thụ và quảng bá sản phẩm cho người dân; khuyến khích liên kết sản xuất theo chuỗi giữa doanh nghiệp và người nuôi hoặc hình thành các hợp tác xã, tổ hợp tác tạo điều kiện về nguồn lực đầu tư nhằm phát triển nghề nuôi cá lồng đặc sản theo hướng tập trung, tăng giá trị sản phẩm, gắn với thị trường tiêu thụ.
Tỉnh phấn đấu đến hết năm 2025, phát triển nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi cá lồng đặc sản trở thành ngành kinh tế hàng hóa quan trọng trong cơ cấu nông nghiệp của tỉnh; với tổng sản lượng thủy sản đạt hơn 9.714 tấn; trong đó, cá đặc sản đạt hơn 1.144 tấn.
Bài, ảnh: Quốc Việt
Những mô hình sản xuất nông nghiệp hiệu quả ở huyện Châu Thành
Thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong sản xuất nông nghiệp, nhiều nông dân ở huyện Châu Thành mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu, đưa giống cây, con mới vào sản xuất, mang lại hiệu quả thiết thực. Qua đó, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nông dân…
Phát huy tiềm năng trong sản xuất nông nghiệp, huyện Châu Thành tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, góp phần tạo đà tăng trưởng kinh tế. Huyện tích cực tuyên truyền, vận động nông dân thi đua sản xuất - kinh doanh, mạnh dạn áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao giá trị nông sản. Chủ tịch Hội Nông dân huyện Châu Thành Trương Ngọc Lợi cho biết, những năm qua, Hội Nông dân huyện tập trung đổi mới và nâng cao chất lượng tuyên truyền, vận động, phổ biến kiến thức, nâng cao kiến thức sản xuất nông nghiệp cho hội viên, nông dân. Đặc biệt, phong trào nông dân thi đua sản xuất - kinh doanh giỏi đã chuyển biến về chất so với trước đây trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn. Nông dân ngày nay đang giảm dần việc sản xuất độc canh cây lúa, đổi mới tư duy trong làm ăn, đáp ứng với nhu cầu thị trường đặt ra.
Từ đó, đã xuất hiện nhiều điển hình nông dân dám nghĩ, dám làm, mạnh dạn chuyển đổi mô hình sản xuất kém hiệu quả, thực hiện chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, góp phần đa dạng hóa sản xuất, phát triển các ngành nghề, dịch vụ mới trong kinh tế nông thôn. Tiêu biểu như các mô hình: Trồng lúa kết hợp trồng dưa hấu của ông Võ Ngọc Trạng (ấp Trung Thành); trồng lúa kết hợp dịch vụ nông nghiệp của ông Võ Văn Vũ (ấp Trung Thành), ông Dương Thành Nghiệp (ngụ ấp Đông Bình Nhất); ông Võ Phước Hợp, Võ Phước Hội (ấp Đông Phú 1) với mô hình trồng nấm rơm trong nhà; trồng màu kết hợp trồng lúa của ông La Tráng Kiện (ấp Đông Bình Nhất); tưới nước tự động của ông Nguyễn Minh Bổn (ấp Tân Thành); chuyển đổi từ lúa sang cây ăn trái hiệu quả của ông Mai Hồng Tám (ấp Đông Bình Trạch); ông Nguyễn Văn Chuẩn (ấp Đông Bình Nhất) và ông Khưu Văn Lân (ấp Tân Thành), với 4ha áp dụng Chương trình “1 phải, 5 giảm” và các tiến bộ kỹ thuật để sản xuất lúa, lợi nhuận hàng năm trên 100 triệu đồng…
Ứng dụng công nghệ vào sản xuất nông nghiệp
Thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nông dân xã Vĩnh Nhuận duy trì và nhân rộng những mô hình sản xuất - kinh doanh tiêu biểu, mang lại hiệu quả kinh tế cao, như: Cam, quýt, xoài, dưa leo, dưa hấu, nấm rơm, đậu nành rau, rau màu các loại... Việc chuyển đổi đất vườn tạp, đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng rau màu và cây ăn trái được nông dân địa phương hưởng ứng tích cực.
Nhờ sự hỗ trợ, giúp đỡ của ngành nông nghiệp và chính quyền địa phương, ông Bùi Minh Thắng (ngụ ấp Vĩnh Hòa 1, xã Vĩnh Nhuận) cho biết, sau thời gian nghiên cứu, tìm hiểu, năm 2019, ông chuyển đổi 0,2ha đất từ trồng lúa sang trồng sầu riêng, hạnh, rồi tăng lên 1ha. Ngoài ra, ông còn mạnh dạn đầu tư hệ thống tưới phun tự động cho vườn sầu riêng của mình, nhằm tiết kiệm chi phí bơm tưới. Hiện, mô hình mang lại hiệu quả kinh tế cao cho gia đình, khoảng 100 - 150 triệu đồng/năm. Ông Thắng cho biết: “Được chính quyền địa phương tạo điều kiện, giúp đỡ, hỗ trợ tập huấn kỹ thuật chăm sóc kết hợp tham quan mô hình trồng cây ăn trái hiệu quả, tôi mạnh dạn ứng dụng trồng sầu riêng. Mô hình đang mang lại hiệu quả cao, góp phần cải thiện kinh tế gia đình”.
Xác định thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) là nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng nông thôn mới, xã Vĩnh Thành quan tâm hỗ trợ hộ kinh doanh, hợp tác xã phát triển sản phẩm đặc trưng địa phương. Xã có 2 sản phẩm được công nhận đạt chuẩn OCOP 3 sao là sản phẩm nước mắm chay Cô Nành và tàu hủ ky của hộ kinh doanh Võ Thị Yến Phương (ấp Trung Thành). “Tham gia chương trình OCOP, chúng tôi được hướng dẫn mở rộng sản xuất, nâng cao vị thế, sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, góp phần tăng giá trị và uy tín của sản phẩm. Thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp tục hoàn thiện, đổi mới, nâng cao sản phẩm hơn nữa, hướng tới việc có mặt tại siêu thị, nâng tầm chất lượng, đưa thương hiệu quê hương vươn xa” - chị Yến Phương chia sẻ.
Thời gian tới, huyện Châu Thành thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng phát triển công nghệ cao, gắn với khai thác và tận dụng tốt lợi thế của địa phương. Đồng thời, tiếp tục tuyên truyền, vận động nông dân ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, chú trọng tổ chức sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao... Qua đó, góp phần nâng cao giá trị nông sản, tăng sức cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo đầu ra ổn định, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
LÊ HOÀNG
Thu gom, xử lý bao bì thuốc bảo vệ thực vật đúng cách để đảm bảo an toàn
Nguồn tin: Báo Lạng Sơn
Thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) là vật tư thiết yếu sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, sau khi sử dụng, bao bì thuốc BVTV nếu không được xử lý đúng cách sẽ trở thành mối nguy hại đối với môi trường và sức khỏe con người. Hiện nay cơ quan chuyên môn đang tăng cường quản lý, thu gom, hướng dẫn người dân xử lý bao bì thuốc BVTV sau sử dụng đúng cách để đảm bảo an toàn.
Năm 2024, huyện Chi Lăng đã phối hợp với các đơn vị chuyên môn thu gom, xử lý hơn 1,1 tấn vỏ bao bì thuốc BVTV sau sử dụng.
Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Môi trường, hằng năm, có gần 43 tấn thuốc BVTV được người dân sử dụng để bảo vệ cây trồng. Riêng trong năm 2024, toàn tỉnh có khoảng 11,7 tấn bao bì thuốc BVTV được thu gom, trong đó các cơ quan chức năng đã xử lý được 8,7 tấn. Có thể thấy, khối lượng thu gom, xử lý bao bì thuốc BVTV sau sử dụng đúng quy định chưa được nhiều, vẫn còn tình trạng người dân tự xử lý bao bì thuốc BVTV sau sử dụng.
Chị Trình Thị Vịnh ở tổ 4, khối 9, phường Đông Kinh, thành phố Lạng Sơn chia sẻ: Nhà tôi có 3 sào ruộng trồng các loại rau theo mùa vụ. Để phòng trừ sâu bệnh, trung bình mỗi vụ tôi dùng hết 7 gói thuốc BVTV để phun cho cây trồng. Bao bì thuốc BVTV sau sử dụng, gia đình tôi gom lại để nhiều thì đốt luôn tại ruộng.
Theo bà Phùng Thị Kim Khánh, Phó trưởng Phòng Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Sở Nông nghiệp và Môi trường, bao bì, vỏ chai thuốc BVTV chứa các hóa chất độc hại có thể gây ô nhiễm nghiêm trọng nếu không được xử lý đúng cách. Việc người dân tự xử lý, không đảm bảo đúng quy định, các chất độc hại này có thể thẩm thấu vào đất, nước và không khí, gây tổn hại đến hệ sinh thái, sự đa dạng sinh học và sức khỏe con người.
Để giảm thiểu tác hại ô nhiễm môi trường từ bao bì thuốc BVTV, hằng năm các cơ quan chức năng của tỉnh đã đẩy mạnh kiểm tra, giám sát công tác thu gom, xử lý bao bì thuốc BVTV sau sử dụng. Đồng thời tăng cường tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức cho người dân và doanh nghiệp trong việc sử dụng, thu gom, xử lý bao bì thuốc BVTV đúng theo quy định.
Từ năm 2024 đến nay, cơ quan chuyên môn của tỉnh; các huyện, thành phố đã tổ chức trên 180 hội nghị, lớp tập huấn cho trên 13.510 lượt người tham gia, qua đó đã góp phần nâng cao nhận thức của người dân về thu gom, xử lý bao bì thuốc BVTV sau sử dụng.
Cùng đó, những năm qua, từ các nguồn vốn, chương trình mục tiêu quốc gia, ngành nông nghiệp đã đầu tư bể chứa bao bì thuốc BTVT để thu gom, xử lý. Riêng trong năm 2024, các huyện, thành phố đã xây dựng được gần 630 bể chứa, nâng tổng số bể chứa bao bì thuốc BVTV của toàn tỉnh đến nay là 4.125 bể.
Bà Nông Thị Huyền Trang, Phó Trưởng Phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Hữu Lũng cho biết: Hiện nay, huyện Hữu Lũng có diện tích gieo trồng hàng năm ước khoảng 13.000ha, diện tích cây ăn quả là 5.000ha, hằng năm người dân sử dụng khoảng 5 - 7 tấn thuốc BVTV để bảo vệ cây trồng, vì vậy, lượng bao bì thuốc BVTV sau sử dụng là không nhỏ. Cơ quan chuyên môn của huyện đã tăng cường tuyên truyền cho người dân về tác hại của việc vứt bao bì thuốc BVTV sau sử dụng ra môi trường. Đồng thời, quản lý, sử dụng hiệu quả trên 800 bể chứa vỏ bao bì thuốc BVTV, hạn chế lượng thuốc tồn dư ra môi trường. Riêng trong năm 2024, phòng chuyên môn của huyện đã thu gom, xử lý 3,6 tấn bao bì thuốc BVTV.
Nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý bao bì thuốc BVTV sau sử dụng, ngày 11/3/2025, Sở Nông nghiệp và Môi trường đã ban hành hướng dẫn số 01 về thu gom, vận chuyển và xử lý bao bì thuốc BVTV sau sử dụng.
Ông Nguyễn Hữu Chiến, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường cho biết: Hiện sở đang chỉ đạo các phòng chuyên môn tiếp tục xây dựng và triển khai kế hoạch tuyên truyền, tập huấn về thu gom, xử lý bao bì thuốc BVTV theo hướng dẫn tại các huyện, thành phố; hướng dẫn người dân chuyển dần sang sử dụng các loại thuốc BVTV sinh học, thảo dược ít độc hại. Cùng đó, sở cũng đề xuất UBND các huyện, thành phố tiếp tục dành kinh phí hỗ trợ xây dựng bể chứa ở các khu vực sản xuất nông nghiệp tập trung, trọng điểm, tăng cường xã hội hóa trong xây dựng bể chứa, thùng chứa và hoạt động thu gom, xử lý bao bì thuốc BVTV.
HOÀNG HƯƠNG
Nâng cao giá trị sản phẩm nông sản sau chế biến
Nguồn tin: Báo Sơn La
Cùng với ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, việc bảo quản và chế biến nông sản cũng đang được các doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ sản xuất trên địa bàn thị xã Mộc Châu chú trọng, góp phần nâng cao giá trị, chất lượng sản phẩm.
HTX Nông nghiệp Quyết Thanh giới thiệu sản phẩm quả sấy.
Thăm xưởng chế biến quả sấy của HTX Nông nghiệp Quyết Thanh, tổ dân phố Khí Tượng, phường Thảo Nguyên. Khu nhà xưởng được đầu tư xây dựng quy mô, hệ thống dây chuyền chế biến hiện đại. Hiện nay, HTX có 6 sản phẩm OCOP, gồm 4 sản phẩm 4 sao (mận sấy, chuối sấy, hồng sấy, xoài sấy); 2 sản phẩm 3 sao (đu đủ sấy dẻo, nước cốt chanh leo), giúp các thành viên HTX và nông dân yên tâm gắn bó với các loại cây trồng đặc sản của địa phương.
Dẫn chúng tôi đi thăm xưởng chế biến, ông Phạm Văn Quyết, Giám đốc HTX Nông nghiệp Quyết Thanh, chia sẻ: Giải quyết áp lực tiêu thụ hoa quả tươi chính vụ, năm 2020, HTX đã đầu tư hệ thống dây chuyền chế biến sấy khô các loại quả, công suất 1,2 tấn quả tươi/ngày, giúp giảm chi phí và tỷ lệ hao hụt trong quá trình vận chuyển, giảm khâu trung gian và không phụ thuộc vào mùa vụ, sản phẩm sau chế biến có chất lượng, giá trị cao hơn, góp phần nâng cao thu nhập cho các thành viên HTX.
Chế biến quả sấy khô tại HTX Nông nghiệp Quyết Thanh, thị xã Mộc Châu.
Với mong muốn mang đến cho khách hàng được thưởng thức những sản phẩm nông sản tươi ngon, HTX Kinh doanh dịch vụ du lịch nông nghiệp Châu Mộc, tổ dân phố 2, phường Mộc Sơn đã đầu tư hệ thống kho lạnh rộng hơn 100 m² và hệ thống máy sấy lạnh, nồi xào công nghiệp 200 lít. Hằng năm, HTX bao tiêu khoảng 200 tấn hoa quả tươi các loại cho các hộ dân trong vùng.
Anh Nguyễn Thành Trung, thành viên HTX Kinh doanh dịch vụ du lịch nông nghiệp Châu Mộc, cho biết: Hoa quả được chế biến bằng phương pháp sấy lạnh sẽ giữ màu sắc, độ tươi ngon và dinh dưỡng, được người tiêu dùng ưa chuộng. Bên cạnh đó, HTX còn triển khai thành công dự án bảo quản quả mận hậu tươi bằng công nghệ sử dụng màng chuyên dùng, giúp thời gian bảo quản quả mận tươi kéo dài lên 3 tháng, giảm áp lực tiêu thụ chính vụ và nâng cao giá trị của sản phẩm.
Mộc Châu hiện có trên 11.000 ha cây ăn quả các loại, sản lượng trên 55 nghìn tấn quả/năm. Kéo dài thời gian bảo quản nông sản, huyện đã tuyên truyền, vận động các doanh nghiệp, HTX, cơ sở sản xuất ứng dụng khoa học, công nghệ sản xuất, bảo quản và chế biến; cơ cấu lại hệ thống tổ chức sản xuất, thu mua, chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Khuyến khích liên kết, hợp tác sản xuất gắn với chế biến sâu, xây dựng, quảng bá thương hiệu sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; đầu tư nâng cấp dây chuyền máy móc hiện đại gắn với vùng nguyên liệu tập trung chất lượng cao. Thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu và kết nối tiêu thụ, xuất khẩu sản phẩm nông sản.
Sản phẩm dâu tây sấy của HTX Hoa Mộc Châu.
Ông Sa Văn Thượng, Phó trưởng Phòng Nông nghiệp và Môi trường thị xã Mộc Châu, cho biết: Thị xã có 38 cơ sở sơ chế, chế biến chè, hoa quả, sữa; 9 cơ sở sử dụng công nghệ đóng gói hút chân không cho các sản phẩm nông sản; 19 cơ sở đầu tư kho lạnh trong bảo quản nông sản, với tổng diện tích trên 2.600 m², sức chứa trên 2.500 tấn. Nhờ đó, các sản phẩm nông nghiệp chế biến của Mộc Châu ngày càng đa dạng, phong phú về mẫu mã, chất lượng cao, với 32 sản phẩm đạt tiêu chuẩn OCOP; trong đó, 18 sản phẩm đạt 4 sao, 14 sản phẩm đạt 3 sao; giá trị sản phẩm chế biến được nâng lên rõ rệt, được người tiêu dùng đón nhận...
Phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương, thị xã Mộc Châu tiếp tục triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ ứng dụng công nghệ trong sản xuất, chế biến nông nghiệp. Vận động các doanh nghiệp, HTX, cơ sở sản xuất đầu tư nâng cấp dây chuyền máy móc hiện đại, mở rộng sản xuất, tạo ra các sản phẩm chất lượng, nâng cao sức cạnh tranh cho nông sản địa phương trên thị trường.
Huy Thành
Nhân rộng các mô hình kinh tế hiệu quả
Nguồn tin: Báo Thanh Hóa
Thời gian qua các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh đã chỉ đạo các xã, thị trấn hỗ trợ, đồng hành cùng người dân triển khai các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần nhân rộng mô hình, nâng cao thu nhập cho người dân.
Mô hình trồng bí xanh tại xã Vĩnh Tiến (Vĩnh Lộc).
Trên địa bàn huyện Thọ Xuân, mô hình nuôi gà lông màu không còn xa lạ với người dân, bởi đây là con nuôi ít dịch bệnh, thích ứng nhanh với môi trường sống, có thể nuôi công nghiệp, bán công nghiệp, thả vườn mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với những giống gà khác. Từ những mô hình nuôi nhỏ lẻ, đến nay đàn gà lông màu của huyện đã được nhân rộng ra các xã Quảng Phú, Xuân Trường... với nhiều mô hình có tổng đàn lên tới hàng nghìn con. Hiện mô hình này được người dân đầu tư xây dựng hệ thống chuồng trại kiên cố, khép kín, áp dụng các biện pháp phòng, chống dịch bệnh, nuôi theo quy trình VietGAHP, nuôi trên nền đệm lót sinh học để bảo vệ môi trường...
Bà Đỗ Thị Mến, người dân xã Quảng Phú, cho biết: “Trong quá trình nuôi gà, tôi sử dụng đệm lót sinh học để phòng một số bệnh do vi khuẩn gây ra; lắp đặt hệ thống quạt để luôn thoáng khí, hạn chế tối đa mùi hôi; lắp tấm tản nhiệt, hệ thống phun nước mái tự động khi thời tiết nóng, có hệ thống máng ăn, uống tự động phù hợp với từng giai đoạn phát triển của gà... Bên cạnh đó, sản xuất cám hữu cơ từ ngô, đậu tương, cám gạo, cá... ủ men để dùng làm thức ăn cho gà. Để tạo không gian xanh, hạn chế ô nhiễm môi trường cũng như tạo bóng mát cho gà vận động, tôi trồng xen các loại cây trong trang trại”.
Cũng theo bà Mến, nhiều hộ dân trong và ngoài xã đã đến học hỏi kinh nghiệm nuôi gà của bà, bởi đây là mô hình phù hợp với điều kiện sản xuất của người dân, vốn đầu tư ít, con nuôi ít mắc bệnh, tỷ lệ nuôi sống đạt 97%, có đầu ra ổn định...
Hiện nay, mô hình chăn nuôi gà lông màu khá phổ biến tại các địa phương có điều kiện phát triển chăn nuôi như các huyện Yên Định, Vĩnh Lộc, Thọ Xuân, Thường Xuân, Như Xuân... Hầu hết các hộ nuôi đều có ý thức trong công tác phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ môi trường, tiêm phòng vắc-xin; chú trọng đầu tư xây dựng chuồng trại, chuẩn bị thiết bị và dụng cụ chăn nuôi, chọn con giống và kỹ thuật chăm sóc...
Trong trồng trọt, nhiều mô hình đã được người dân học hỏi kinh nghiệm để nhân rộng như trồng rau an toàn, cây ăn quả, dưa Kim Hoàng Hậu, dưa chuột, bí xanh... mang lại hiệu quả kinh tế cao, làm thay đổi tập quán sản xuất, góp phần tạo việc làm cho lao động địa phương. Tại xã Xuân Hòa (Như Xuân), sau thời gian thử nghiệm, người dân nhận thấy bí xanh là loại cây phù hợp với đồng đất, quả có ruột đặc, thơm, dễ bảo quản và phù hợp với việc vận chuyển xa nên rất dễ tiêu thụ. Nếu thực hiện quy trình trồng, chăm sóc đúng kỹ thuật sẽ mang lại năng suất cao, bởi vậy xã đã nhân rộng diện tích lên 30ha; sản phẩm được các thương lái đến đặt mua tại ruộng và tiêu thụ tại chợ đầu mối.
Đối với các mô hình sản xuất bí xanh tại các huyện Cẩm Thủy, Như Xuân, Như Thanh, Hoằng Hóa... đã mở ra triển vọng trong việc thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Tại xã Hoằng Lưu (Hoằng Hóa), bà Lê Thị Ngải, một trong những hộ dân tiên phong phát triển mô hình trồng bí xanh, cho biết: “Bí xanh đã trở thành loại cây được nhiều hộ dân trên địa bàn xã lựa chọn gieo trồng để nâng cao hiệu quả sản xuất, hình thành vùng sản xuất bí xanh tập trung với năng suất đạt từ 7 tạ/ha, hiệu quả kinh tế cao gấp 3 lần so với trồng lúa”...
Từ hiệu quả của các mô hình sản xuất nông nghiêp đang được nhân rộng, các địa phương tiếp tục đẩy mạnh tích tụ, tập trung đất đai, thực hiện chuyển đổi diện tích cây trồng kém hiệu quả sang thử nghiệm các cây, con nuôi có năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao. Hằng năm, trung tâm dịch vụ nông nghiệp các huyện cũng chú trọng tổ chức các lớp tập huấn, chuyển giao khoa học - kỹ thuật mới trong trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản cho người dân. Để phát triển các mô hình sản xuất bền vững, các địa phương sẽ tiếp tục khuyến khích, hỗ trợ, định hướng cho người dân xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp; ưu tiên các mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, ứng dụng khoa học - kỹ thuật, chăn nuôi an toàn dịch bệnh... nhất là phát triển các mô hình gắn với liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm. Tuy nhiên, người dân cần tìm hiểu để xây dựng các mô hình phù hợp với điều kiện sản xuất, không nhân rộng ồ ạt; nghiên cứu, học tập các mô hình mới để áp dụng vào sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả.