Mỹ áp thuế cao, nông nghiệp Việt vẫn đặt mục tiêu xuất khẩu 70 tỷ USD
Kế hoạch của Bộ Nông nghiệp và Môi trường đưa ra, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2025 đạt 65 tỷ USD (cao hơn năm trước 2,5 tỷ USD), phấn đấu đạt 70 tỷ USD.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy vừa ký ban hành kế hoạch hành động và mục tiêu phát triển của ngành năm 2025.
Theo đó, Bộ này phấn đấu cả năm nay giá trị gia tăng khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 4% trở lên.
Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2025 đạt 65 tỷ USD (cao hơn năm trước 2,5 tỷ USD), phấn đấu đạt 70 tỷ USD.
Một trong 8 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu được Bộ Nông nghiệp và Môi trường đặt ra để hoàn thành mục tiêu đề ra là thúc đẩy phát triển thị trường trong nước và xuất khẩu.
Đối với thị trường xuất khẩu, bộ sẽ đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở cửa thị trường, đàm phán để tháo gỡ rào cản kỹ thuật, rào cản thương mại và mở cửa xuất khẩu chính ngạch thêm nhiều nông sản vào thị trường truyền thống, các thị trường có tổng kim ngạch xuất khẩu lớn như Trung Quốc, Mỹ, EU, Nga, Brazil, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Ngành nông nghiệp đặt mục tiêu xuất khẩu 70 tỷ USD trong năm 2025 giữa cơn bão thuế cao từ Mỹ
Mở cửa các thị trường mới, còn nhiều tiềm năng như thị trường thực phẩm Halal của các nước Hồi giáo, Trung Đông, châu Phi... với phương châm đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa thị trường, góp phần từng bước giảm xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới phía Bắc.
Cùng với đó, xây dựng báo cáo thị trường xuất khẩu nông sản, giải pháp ứng phó đối với những thay đổi liên quan đến thuế, xuất xứ, tiêu chuẩn kỹ thuật… tại các thị trường Mỹ, EU, Trung Quốc.
Đồng thời chú trọng xây dựng thương hiệu “Nông sản Việt” đối với các sản phẩm nông sản chủ lực của Việt Nam trên thị trường thế giới. Nghiên cứu xây dựng nghị định về thương hiệu nông sản.
Đối với thị trường trong nước, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đưa ra có lộ trình, phương án giải pháp rõ ràng đẩy mạnh tiêu thụ nội địa đối với những sản phẩm có tính thời vụ cao như rau, hoa, quả.
Có giải pháp ổn định thị trường, kiểm soát sự biến động giá của một số mặt hàng nông sản, thủy sản, thức ăn chăn nuôi, vật tư nông nghiệp.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng sẽ có chính sách hỗ trợ bảo đảm cho người dân yên tâm sản xuất, doanh nghiệp kinh doanh trong trường hợp thị trường biến động, nhất là đối với một số thị trường có nguy cơ không tăng trưởng cao năm 2024 như lúa gạo, một số loại trái cây.
Nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách tín dụng ưu đãi, hỗ trợ miễn giảm tiền thuê đất cho doanh nghiệp đầu tư kho bãi và hệ thống logistics để tránh đứt gãy chuỗi cung ứng nông sản, thủy sản.
Số liệu từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho thấy, trong quý 1/2025, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 15,72 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước.
Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất khi chiếm thị phần 20%, đứng thứ hai là Trung Quốc 17%, thứ ba Nhật Bản gần 8%.
Lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho rằng, việc Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố thuế đối ứng 46% đối với hàng hóa Việt Nam sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu nông lâm thủy sản sang nước này, nhất là các mặt hàng chủ lực như gỗ, thủy sản, tiêu, điều, cà phê.
Do đó, mục tiêu xuất khẩu nông lâm thủy sản cả năm 2025 đạt 65 tỷ USD và phấn đấu 70 tỷ USD sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức hơn nhưng bộ vẫn quyết tâm để về đích.
Tuyết Nhung
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đặt chỉ tiêu cho từng mặt hàng xuất khẩu
Bộ Nông nghiệp và Môi trường vừa ban hành kế hoạch hành động thực hiện mục tiêu tăng trưởng ngành Nông nghiệp và Môi trường và tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2025.
Theo đó, Bộ đề ra mục tiêu, mục tiêu tăng trưởng toàn ngành đạt 4% trở lên, kim ngạch xuất khẩu 65 tỷ USD. Để đạt được mục tiêu này, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã giao chỉ tiêu cho từng nhóm ngành hàng cụ thể.
Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy, quan điểm của Bộ là thống nhất từ tư duy đến hành động trong Bộ và toàn ngành, cùng nỗ lực, quyết tâm thực hiện đồng bộ các nhóm nhiệm vụ, giải pháp để bảo đảm hoàn thành mục tiêu tăng trưởng ngành và tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2025 được Chính phủ giao.
Kế hoạch hành động được xác định phải rõ ràng, cụ thể, khả thi, dễ kiểm tra, giám sát, dễ đánh giá; việc phân công nhiệm vụ bảo đảm 5 rõ: "Rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm, rõ thời gian hoàn thành".
Thống kê, quý I-2025, tăng trưởng toàn ngành Nông nghiệp đạt 3,7%. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng toàn ngành cả năm đạt từ 4,0-4,2%, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã đặt mục tiêu cho các quý còn lại của năm: Quý II đạt 4,1%, quý III đạt 4,2% và quý IV đạt 3,9%.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đặt mục tiêu xuất khẩu ngành hàng rau, quả đạt 7,6 tỷ USD năm 2025. Ảnh: Đỗ Phong
Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đặt mục tiêu cho từng ngành. Cụ thể, với lĩnh vực nông nghiệp (chăn nuôi, trồng trọt) quý II đạt 3,89%, quý III đạt 4,1%, quý IV đạt 3,75%, cả năm đạt 3,85%. Với lâm nghiệp, quý II đạt 5,22%, quý III đạt 5,06%, quý IV đạt 5,25%, cả năm đạt 5,47%. Với thủy sản, quý II đạt 4,07%, quý III đạt 3,97%, quý IV đạt 3,89%, cả năm đạt 4,35%.
Để đạt được con số xuất khẩu 64-65 tỷ USD trong năm nay và hướng đến 70 tỷ USD, lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường đặt chỉ tiêu cho từng nhóm hàng. Đối với cà phê đạt con số 5,5 tỷ USD, cao su 3,3 tỷ USD, chè 270 triệu USD, gạo 5,7 tỷ USD, rau quả 7,6 tỷ USD, hạt điều 4,5 tỷ USD, hồ tiêu 1,35 tỷ USD, sắn và sản phẩm từ sắn 1,3 tỷ USD, chăn nuôi 550 triệu USD, thủy sản 10,5 tỷ USD, gỗ và lâm sản 18,5 tỷ USD và các sản phẩm khác đạt 5,88 tỷ USD.
Ngành hàng cà phê được giao chỉ tiêu xuất khẩu đạt 5,5 tỷ USD. Ảnh: Đỗ Phong
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy yêu cầu, toàn ngành cần bám sát và thực hiện đồng bộ các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển của ngành trong các nghị quyết, chiến lược, quy hoạch ngành cấp quốc gia, các kế hoạch, chương trình, đề án lĩnh vực nông nghiệp và môi trường đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Các nhiệm vụ, giải pháp thúc đẩy tăng trưởng phải bảo đảm hài hòa cả phía cầu và phía cung, coi trọng nâng cao chất lượng, giá trị đi đôi với gia tăng năng suất, sản lượng tương thích, phù hợp trong tấc cả các tiểu ngành, sản phẩm.
Theo đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đề ra 8 giải pháp cụ thể. Thứ nhất, nâng cao nhận thức, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo, tạo xung lực mới trong toàn ngành để đạt mục tiêu tăng trưởng. Thứ 2, hoàn thiện thể chế, chính sách phục vụ tăng trưởng ngành và xuất khẩu nông, lâm, thủy sản; triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nghị quyết, chiến lược, chương trình, đề án, quy hoạch, kế hoạch. Thứ 3, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại ngành, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng sản phẩm và hiệu quả sản xuất, kinh doanh nông, lâm nghiệp và thủy sản. Thứ 4, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính phục vụ người dân, doanh nghiệp. Thứ 5, tăng cường chuyển đổi số; thực hiện đột phá trong ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo. Thứ 6, thúc đẩy phát triển thị trường trong nước và xuất khẩu. Thứ 7, thúc đẩy mạnh mẽ các ngành, lĩnh vực hỗ trợ sản xuất nông, lâm, thủy sản. Thứ 8, đẩy mạnh truyền thông phát triển nông nghiệp và bảo vệ môi trường
Đỗ Minh
Tăng cho vay tín chấp đối với nông hộ và các mô hình sản xuất theo chuỗi
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) vừa trình Chính phủ dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phát triển nông nghiệp, nông thôn. Dự thảo được cập nhật nhiều quy định mới về mức cho vay không có tài sản đảm bảo đối với cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, hộ kinh doanh, HTX, liên hiệp HTX và chủ trang trại.
Vay tiền tỷ không cần tài sản bảo đảm
Theo Dự thảo, sửa đổi khoản 2 Điều 9 Nghị định số 55/2015/NĐ-CP (đã được sửa đổi tại khoản 3 Điều 1 Nghị định số 116/2018/NĐ-CP) như sau: 2. Cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, hộ kinh doanh, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và chủ trang trại được tổ chức tín dụng cho vay không có tài sản bảo đảm theo các mức như sau: a) Tối đa 300 triệu đồng đối với cá nhân, hộ gia đình; b) Tối đa 500 triệu đồng đối với tổ hợp tác và hộ kinh doanh; c) Tối đa 03 tỷ đồng đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, chủ trang trại...
Theo NHNN, mức cho vay này đã được cân nhắc trên cơ sở khảo sát hoạt động cho vay theo Nghị định số 55 tại một số tỉnh như Đồng Tháp, Bến Tre, Lâm Đồng, Ninh Thuận…
Kết quả khảo sát cho thấy, các hạn mức cho vay theo quy định hiện hành chưa đáp ứng được nhu cầu vốn vay của từng nhóm khách hàng trong phát triển sản xuất, kinh doanh nông sản. Việc tăng hạn mức cho vay không có tài sản đảm bảo sẽ tháo gỡ khó khăn về vốn cho hàng nghìn hộ kinh doanh, tổ hợp tác, HTX trong lĩnh vực tam nông; tạo cơ hội cho các mô hình này có nguồn vốn phát triển các kế hoạch sản xuất, kinh doanh trong hoàn cảnh thiếu tài sản thế chấp là bất động sản.
Theo Vụ Tín dụng Các ngành kinh tế (NHNN), hiện nay riêng đối với chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, trong số 3,3 triệu tỷ đồng dư nợ tín dụng cho vay theo Nghị định 55 (tính đến cuối năm 2024), tỷ lệ cho vay không có tài sản đảm bảo đang chiếm tỷ trọng khoảng 20-21%. “Nếu các mức cho vay không có tài sản đảm bảo được tăng lên như đề xuất của dự thảo sửa đổi Nghị định số 55, thì cơ hội vay vốn tín chấp của nhóm khách hàng cá nhân, hộ kinh doanh, tổ hợp tác, HTX sẽ rộng mở và hiệu quả hỗ trợ vốn ở mức cao hơn”, đại diện Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhận định.
Về phía ngân hàng, đại diện một số chi nhánh NHTM tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cho rằng, hiện nay các ngân hàng đang khá chú trọng cho vay vào các chuỗi liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản, trong đó có nhiều gói tín dụng chấp nhận tài sản thế chấp là các giấy tờ có giá ngoài bất động sản. Nếu quy định cho phép các NHTM tăng mức cho vay tín chấp sẽ giúp nhiều HTX, hộ kinh doanh, nhất là các chủ thể thực hiện những mô hình OCOP (mô hình mỗi xã một sản phẩm) hoặc các HTX đang tham gia các chương trình, đề án lớn của Chính phủ (như Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao; Đề án xây dựng 5 vùng nguyên liệu nông sản trọng điểm…) tiếp cận được nguồn vốn lớn, để triển khai kế hoạch sản xuất kinh doanh và đáp ứng đơn hàng xuất khẩu.
Tuy nhiên, khó khăn của các ngân hàng là cơ chế để xử lý nợ đối với các khoản vay không có tài sản bảo đảm theo Nghị định 55 chưa được cụ thể hóa. Vì vậy, nếu Nghị định mới sắp ban hành cập nhật và luật hóa thêm được những cơ chế này thì khả năng tăng trưởng thêm các khoản vay tín chấp đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn là khá lớn.
Tăng quy mô tín chấp vào sản xuất nông nghiệp gắn liền với quản trị rủi ro của các khoản vay
Nhu cầu “bắt tay” chặt hơn trong chuỗi giá trị
Theo ghi nhận của Thời báo Ngân hàng tại các HTX trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam cho thấy, nhu cầu vay vốn không cần tài sản thế chấp của nhóm khách hàng hộ kinh doanh, tổ hợp tác, HTX là khá lớn. Tại một số HTX, như HTX Mãng cầu xiêm Hòa Mỹ (Phụng Hiệp – Hậu Giang); HTX Nông nghiệp tổng hợp Tân Tiến (Đà Lạt – Lâm Đồng)… các ngân hàng đã triển khai cho vay nhiều khoản vay tín chấp có giá trị lớn, được địa phương đánh giá là có hiệu quả hỗ trợ cao.
Về tín dụng chính sách, một số tỉnh khu vực Đông Nam bộ, như Đồng Nai đang triển khai chính sách hỗ trợ vốn để Ngân hàng Chính sách xã hội cho vay đối với cá nhân, hộ gia đình tham gia thực hiện các mô hình OCOP với mức vay tối đa 200 triệu đồng/hộ, không cần tài sản đảm bảo. Các HTX, liên hiệp HTX tại Đồng Nai (nếu đủ điều kiện vay tín dụng chính sách) có thể vay tối đa 4 tỷ đồng/dự án để tổ chức sản xuất kinh doanh lĩnh vực nông nghiệp hữu cơ, ứng dụng công nghệ cao. Các khoản vay này được cân nhắc tỷ lệ tài sản đảm bảo ở mức thấp và được ngân sách địa phương hỗ trợ tối đa về lãi suất vay vốn.
Tuy nhiên, về tín dụng thương mại các tổ chức tín dụng đều cho rằng hoạt động cho vay tín chấp trong lĩnh vực nông nghiệp hiện nay có rủi ro lớn, nhất là những năm gần đây sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng tiêu cực từ thiên tai, dịch bệnh; và giá nông sản luôn biến động mạnh.
Chính vì vậy, để các NHTM mạnh dạn mở rộng chính sách cho vay không có tài sản đảm bảo, ngoài việc có thêm cơ chế pháp lý “mở” hơn, thì không chỉ ngành Ngân hàng mà cả các bộ ngành, địa phương và tất cả các doanh nghiệp, HTX, trang trại cũng cần chung tay hoàn thiện những “mắt xích” trong chuỗi liên kết các “nhà” để tạo thuận lợi cho việc cung ứng vốn tín dụng cho tam nông, góp phần tăng trưởng kinh tế địa phương và tăng GDP của cả nước.
Các địa phương cần có giải pháp hỗ trợ phát triển các mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị trong suốt các khâu từ sản xuất - thu mua - chế biến - tiêu thụ sản phẩm; giữa nông dân với doanh nghiệp, HTX, tổ hợp tác, tạo cơ sở để ngân hàng cho vay theo dòng tiền liên kết, giải ngân theo từng giai đoạn, từng đầu mối. Bên cạnh đó, cần có chiến lược tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp giúp bà con nông dân yên tâm sản xuất, thu nhập ổn định, quay vòng sản xuất kinh doanh và trả nợ ngân hàng đúng hạn.
Trong một diễn biến khác, cuối tháng 2 vừa qua Bộ Tài chính đã có những đánh giá về kết quả triển khai chính sách bảo hiểm nông nghiệp theo Nghị định số 58/2018/NĐ-CP và Chính phủ đã có chỉ đạo nghiên cứu, sửa đổi chính sách này bằng việc ban hành Nghị định mới, sớm hình thành thị trường bảo hiểm nông nghiệp. Theo đó, chuyên gia kinh tế cho rằng, các cơ chế pháp lý này cần được đẩy nhanh để xây dựng “lá chắn” hỗ trợ các mô hình kinh tế nông nghiệp và tạo cơ hội vững chắc cho các NHTM tăng trưởng tín dụng đối với lĩnh vực tam nông.
Dự thảo cũng bổ sung Điều 15a vào Nghị định số 55/2015/NĐ-CP như sau: “Điều 15a. Chính sách tín dụng khuyến khích sản xuất nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn 1. Khách hàng có dự án, phương án sản xuất kinh doanh sản phẩm nông nghiệp hữu cơ hoặc theo mô hình kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp được tổ chức tín dụng xem xét cho vay không có tài sản bảo đảm tối đa bằng 70% giá trị của dự án, phương án. 2. Trường hợp khách hàng có dự án, phương án sản xuất kinh doanh sản phẩm nông nghiệp hữu cơ hoặc theo mô hình kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng thì khoản nợ vay được xử lý tương tự như đối với trường hợp tổ chức đầu mối thực hiện liên kết theo chuỗi giá trị quy định tại Khoản 3 Điều 14 của Nghị định này”.
Đỗ Cường
Nông nghiệp quý I-2025 tăng trưởng ổn định
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I năm 2025 diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi, các địa phương trên cả nước đẩy nhanh tiến độ gieo trồng, chăm sóc vụ đông xuân. Chăn nuôi phát triển ổn định, dịch bệnh cơ bản được kiểm soát; sản xuất lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục duy trì theo hướng tích cực...
Diện tích gieo trồng và sản lượng tăng
Theo Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), đến cuối tháng 3-2025, cả nước đã gieo cấy được 2.949,4 nghìn héc-ta lúa đông xuân, tăng 0,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc gieo cấy được 1.033,4 nghìn héc-ta, giảm 0,7% và các địa phương phía Nam gieo cấy được 1.916 nghìn héc-ta, tăng 1,3%. Sản lượng ước trên diện tích thu hoạch đạt 9,6 triệu tấn, năng suất ước tính trên diện tích thu hoạch lúa đông xuân tại các tỉnh phía Nam ước đạt 71 tạ/ha, tương đương cùng kỳ năm trước.
Nông dân Hà Nội tập trung chăm sóc lúa xuân. Ảnh: Tùng Nguyễn
Hiện các địa phương phía Bắc đang tiến hành chăm sóc lúa đông xuân để cây lúa sinh trưởng thuận lợi, đạt tỷ lệ đẻ nhánh tối ưu và tập trung phòng trừ sâu bệnh gây hại. Các trà lúa xuân sớm đang giai đoạn đẻ nhánh rộ, trà xuân muộn đang hồi xanh - đẻ nhánh.
Chăn nuôi gia cầm phát triển ổn định. Ảnh: Hương Giang
Còn theo Cục trưởng Cục Chăn nuôi và Thú y (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Dương Tất Thắng, chăn nuôi lợn và gia cầm phát triển tốt, thị trường tiêu thụ ổn định. Công tác phòng, chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm được tăng cường, tình hình dịch bệnh cơ bản được kiểm soát. Đến hết quý I-2025, tổng đàn lợn cả nước đạt 31,8 triệu con, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm 2024. Đàn gia cầm cả nước phát triển tốt nhờ kiểm soát được dịch bệnh; các cơ sở chăn nuôi giữ ổn định quy mô, nguồn cung thịt và trứng gia cầm với tổng đàn 574,5 triệu con, tăng 3,4% so với cùng thời điểm năm 2024.
Chăn nuôi lợn tăng trưởng và đạt giá cao. Ảnh: Hương Giang
Nuôi trồng và khai thác thủy sản quý 1-2025 cũng tăng mạnh về sản lượng và giá cả. Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư Trần Đình Luân cho biết, sản lượng thủy sản đạt khoảng 1.993,4 nghìn tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 1.480,3 nghìn tấn, tăng 2,9% và tôm đạt 202,4 nghìn tấn, tăng 4,6%. Ngành thủy sản Việt Nam đang đứng trước triển vọng tươi sáng, được thúc đẩy bởi sự hồi phục của nền kinh tế thế giới. Nhu cầu tiêu dùng thủy sản gia tăng mạnh mẽ tại các thị trường trọng điểm, như: Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc. Bên cạnh đó, việc khai phá các thị trường tiềm năng mới nổi ở châu Phi, Đông Nam Á và Trung Đông hứa hẹn tăng trưởng vượt bậc...
Các địa phương tập trung nuôi trồng thủy sản: Ảnh: Hồng Thắm
Ở góc độ địa phương, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội Nguyễn Xuân Đại thông tin, quý I-2025, tình hình dịch bệnh đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn thành phố cơ bản ổn định, chăn nuôi phát triển. Tổng đàn trâu hiện có 29,6 nghìn con, tăng 1%; đàn lợn khoảng 1,25 triệu con, giảm 1,77%, nhưng sản lượng lợn hơi xuất chuồng đạt 66,1 nghìn tấn, tăng 2,95%; đàn gia cầm có khoảng 35,8 triệu con, tăng 0,56% so với cùng kỳ năm trước…
Toàn thành phố đã gieo cấy 79.749,3ha lúa xuân, đạt 100% kế hoạch; diện tích gieo trồng 19.687ha, đạt 90,9% kế hoạch. Hiện tại, lúa và hoa màu đều sinh trưởng, phát triển tốt, dự kiến cho năng suất, chất lượng cao.
Sản xuất theo nhu cầu thị trường và kiểm soát dịch bệnh
Để bảo đảm nguồn cung thực phẩm phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường yêu cầu các đơn vị phối hợp với địa phương theo dõi sát tình hình thời tiết khí tượng, thủy văn để chỉ đạo thời vụ, cơ cấu cây trồng phù hợp. Chỉ đạo chăm sóc và thu hoạch lúa vụ đông xuân, sản xuất vụ hè thu sớm tại các tỉnh phía Nam; gieo cấy và chăm sóc lúa đông xuân tại các tỉnh phía Bắc; xây dựng kế hoạch sản xuất cụ thể, nhất là kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa.
Các địa phương cũng cần tính toán kỹ thời vụ từng cây trồng để có kế hoạch chuyển đổi diện tích không đủ nước sang gieo trồng rau màu để đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.
Các địa phương tập trung phòng, chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm. Ảnh: Hương Giang
Đối với cây ăn quả chủ lực phục vụ xuất khẩu, như: Thanh long, nhãn, xoài, chôm chôm, sầu riêng, các địa phương cần tuyên truyền nông dân trồng rải vụ, phù hợp thị trường tiêu thụ, bán được giá tốt.
Về chăn nuôi, cần thúc đẩy phát triển, bảo đảm nguồn cung thực phẩm; triển khai mô hình chăn nuôi an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh trên các đối tượng, nhất là chăn nuôi lợn; kiểm soát chất lượng giống thủy sản, vật tư đầu vào trong nuôi trồng thủy sản…
Hà Nội sản xuất nông nghiệp theo hướng trang trại gắn với phát triển du lịch sinh thái, du lịch trải nghiệm. Ảnh: Hương Giang
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội Nguyễn Xuân Đại cho biết, từ nay đến cuối năm, Hà Nội phát triển vùng sản xuất tập trung quy mô lớn, theo hướng hàng hóa. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất rau, đậu, cây ăn quả, hoa và cây cảnh; khai thác có hiệu quả diện tích đất bãi sông Hồng, sông Đà, sông Đáy, sông Đuống để tập trung phát triển cây rau, đậu thực phẩm, cây ăn quả. Mở rộng diện tích sản xuất rau an toàn được kiểm soát; tăng thêm cửa hàng, điểm bán rau an toàn, hình thành thêm nhóm tiêu thụ rau an toàn tại các khu dân cư để nâng cao giá bán; chỉ đạo phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất con giống, cơ cấu lại đàn vật nuôi, tập trung phát triển con giống chất lượng cao trên cơ sở lưu giữ, bảo tồn giống bản địa...
Ngọc Quỳnh
Sản xuất nông nghiệp bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới
Xác định phát triển nông nghiệp bền vững là nền tảng để thực hiện các tiêu chí, chỉ tiêu trong Bộ tiêu chí về XDNTM, các địa phương trong tỉnh đã triển khai các nhiệm vụ, giải pháp sản xuất gắn với XDNTM. Từ đó, không chỉ nâng cao thu nhập cho người dân, chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông thôn, mà còn tạo nguồn lực để các địa phương thực hiện lộ trình XDNTM theo hướng bền vững.
Vùng sản xuất rau màu an toàn tập trung, quy mô lớn tại xã Trường Xuân (Thọ Xuân).
Từ thực tiễn cho thấy, hiệu quả của việc XDNTM ở huyện Thọ Xuân thể hiện rõ nhất ở sự đồng thuận, đoàn kết giúp nhau phát triển sản xuất, vươn lên làm giàu của các tầng lớp Nhân dân. Đối với các xã đã và đang xây dựng xã NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu trên cơ sở quy hoạch các vùng sản xuất tập trung, các địa phương đã chủ động triển khai nhiều mô hình nông nghiệp cũng như chuyển giao khoa học kỹ thuật cho người dân.
Xác định phát triển nông nghiệp theo hướng công nghệ cao là hướng đi tất yếu cả trước mắt và lâu dài, huyện đã thực hiện chuyển giao các quy trình canh tác tiên tiến, áp dụng cơ giới hóa đồng bộ, đầu tư lắp đặt hệ thống tưới tự động, tiết kiệm nước trong sản xuất cây ăn quả... Nhờ đó, người dân đã xây dựng 13 mô hình nhà màng, nhà lưới kết hợp tưới tiết kiệm, lợi nhuận đạt 300 - 400 triệu đồng/ha/năm; gần 600ha cây ăn quả tập trung cho thu nhập cao hơn 15 đến 20% so với diện tích nhỏ lẻ... Bên cạnh đó, huyện đã phát triển các trang trại trồng trọt ứng dụng công nghệ cao với doanh thu từ 1 đến 3 tỷ đồng/trang trại/năm... Đồng thời thực hiện chuyển đổi gần 2.000ha đất kém hiệu quả sang trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao hơn; mở rộng diện tích cây có giá trị kinh tế cao như ớt xuất khẩu, ngô ngọt, dưa các loại, khoai tây...
Tại xã Nam Giang, ngay từ những ngày đầu XDNTM nâng cao, xã đã xác định phải ưu tiên phát triển kinh tế, trọng tâm là phát triển các mô hình sản xuất mang lại thu nhập cao cho người dân; chuyển đổi một số vùng sản xuất kém hiệu quả sang các mô hình sản xuất có hiệu quả hơn, với tổng diện tích 43,5ha. Cùng với đó, xã đã đầu tư xây dựng hệ thống kênh mương, thủy lợi và đường giao thông nội đồng; hình thành các vùng sản xuất tập trung đưa các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao vào sản xuất...
Tại xã Định Hòa (Yên Định), cùng với việc đầu tư xây dựng hạ tầng nông thôn, xây dựng làng quê sáng- xanh - sạch - đẹp, trong quá trình XDNTM nâng cao, xã luôn xác định thực hiện tiêu chí sản xuất là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Bí thư đảng ủy xã Vũ Văn Nhặt cho biết: Xã đã hình thành được các vùng sản xuất giống lúa lai F1, vùng sản xuất lúa năng suất, chất lượng cao, chuyển đổi diện tích sản xuất kém hiệu quả sang trồng các loại cây dược liệu, rau màu có giá trị kinh tế cao; sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP... Là địa phương có điều kiện thuận lợi để phát triển chăn nuôi, xã đã hình thành khu chăn nuôi tập trung, quy mô lớn với các trang trại được đầu tư xây dựng chuồng trại, máy móc hiện đại, áp dụng công nghệ tiên tiến trong xử lý chất thải... doanh thu trung bình của các trang trại từ 1,5 tỷ đồng/trang trại trở lên...
Để hướng tới sản xuất nông nghiệp bền vững gắn với XDNTM, thời gian tới các địa phương cần chú trọng khai thác hiệu quả hơn nữa tiềm năng đất đai thông qua việc đầu tư xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp hiện đại; hình thành và mở rộng diện tích sản xuất quy mô lớn; chuyển đổi diện tích cây trồng kém hiệu quả sang mô hình chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và cây trồng có giá trị kinh tế cao; xác định cây trồng, vật nuôi chủ lực của địa phương gắn với thị trường tiêu thụ; chú trọng, khuyến khích phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, ứng dụng công nghệ cao... Từ đó làm nền tảng vững chắc để Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các địa phương hoàn thành chương trình XDNTM, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân, tạo nên diện mạo nông thôn ngày càng văn minh, giàu đẹp.
Bài và ảnh: Lê Ngọc
Tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng nông sản
Nhằm nâng cao hiệu quả, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng nông sản, đưa các kết quả nghiên cứu, ứng dụng vào sản xuất, góp phần đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ (KH&CN) triển khai hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm các mô hình sản xuất sản phẩm nông nghiệp bằng việc ứng dụng công nghệ cao trong hệ thống nhà màng, nhà lưới thông minh.
Từ những nghiên cứu đã ứng dụng nhân rộng sản xuất trong tỉnh và các tỉnh lân cận. Ảnh Thế Hiển.
Năm 2023 tại Trang trại Khoa học nông lâm nghiệp tại xã Lê Chung thuộc Trung tâm, đã được tỉnh đầu tư công trình xây dựng khu sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thuộc Đề án Nông nghiệp thông minh tỉnh, do Sở KH&CN làm chủ đầu tư. Đề án gồm các hạng mục xây dựng gồm: Nhà ở chuyên gia, khu sản suất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (gồm 1 nhà màng, 2 nhà lưới, hệ thống phòng nuôi cấy mô, phòng giám sát, phòng điều hành...), khu vườn lưu trữ bảo tồn cây giống gốc, cây trội, cây đầu dòng... Công trình được đầu tư nhằm đẩy mạnh tiếp nhận chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới vào các hoạt động nghiên cứu nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp tại địa phương. Sau hơn 1 năm thi công, đến nay các hạng mục đã hoàn thành và được đưa vào hoạt động sản xuất thử nghiệm.
Trong năm 2023 Trung tâm phối hợp với Viện Ứng dụng công nghệ triển khai thực hiện dự án "Ứng dụng công nghệ cao xây dựng mô hình trồng dược liệu lan kim tuyến bản địa và một số loài lan khác tại tỉnh Cao Bằng", thời gian thực hiện năm 2023 - 2025. Năm 2024 có 3.000 cây lan hồ điệp nhỏ đang sinh trưởng và phát triển tốt và 2.700 cây hoa đã nở trong dịp Tết Nguyên đán 2025. Đồng thời, dự án đưa vào trồng 6.000 cây lan kim tuyến, phấn đấu đến tháng 6/2025 sẽ hoàn thành trồng tiếp số cây còn lại. Lan kim tuyến có nguồn gen bản địa của tỉnh, nhân giống bằng công nghệ nuôi cấy mô và nuôi trồng trong nhà màng thông minh. Mục tiêu chung của các mô hình trồng hoa ứng dụng nông nghiêp thông minh là điều khiển điều kiện vi khí hậu để thích hợp cho cây sinh trưởng, phát triển tốt và ra hoa theo ý muốn; số hoa trên 1 cành cây sẽ đạt được theo mục tiêu yêu cầu.
Cùng với mô hình trồng các cây lan hồ điệp, lan kim tuyến, Trung tâm trồng thử nghiệm mô hình các loại cây ăn quả và hoa như: dưa lê Chu Phấn số lượng 1.400 bầu, chanh leo vàng 200 m2, cà chua 200 m2, dưa chuột 300 m2, cúc mâm xôi 500 bầu, dạ yến thảo 800 bầu. Các loại cây hoa và cây ăn quả đều sinh trưởng phát triển tốt, nhiều loại cây đã được thu hoạch như: cà chua, dưa lê Chu phấn, dưa chuột trong nhà lưới thông minh từ tháng 12/2024.
Ngoài trồng dưa lê, Trung tâm trồng thêm các mô hình dưa chuột với diện tích 500 m2 và hiện đã cho thu hoạch được gần 200 kg, chất lượng quả xanh bóng, giòn và có vị ngọt; mô hình cà chua với diện tích 200 m2 hiện đã cho thu hoạch được gần 50 kg… Việc trồng dưa, cà chua trong nhà lưới thông minh hiệu quả hơn loại hình sản xuất nông nghiệp truyền thống, như: giúp bảo vệ cây trồng trước những tác động gây hại của côn trùng, sâu bệnh, chuột phá hoại cây trồng. Trong quá trình sản xuất nông nghiệp dễ dàng kiểm soát và điều chỉnh lượng nước tưới và chất dinh dưỡng cho cây sinh trưởng, phát triển đồng đều, giảm thiểu công chăm sóc, hạn chế sử dụng các chất hóa học.
Theo kế hoạch từ nay đến năm 2030 Trung tâm sẽ thực hiện nhân giống cây dược liệu, giống cây lâm nghiệp và giống cây đặc sản của địa phương, trong đó có cây thất diệp nhất chi hoa, xa nhân tím, thạch đen. Tiếp nhận và nắm vững quy trình nhân giống cây trám đen, công nghệ bảo quản, sơ chế hạt dẻ, công nghệ sản xuất, bảo quản thạch đen; xây dựng mô hình sản xuất đảm bảo an toàn thực phẩm để nhân rộng sản xuất trong tỉnh và các tỉnh lân cận như: cây ăn quả có múi, lê xanh, lê vàng...
Giám đốc Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN Lương Thanh Tuấn cho biết: Với điều kiện cơ sở vật chất đã được tỉnh đầu tư, Trung tâm sẽ nghiên cứu, ứng dụng và sản xuất nhiều mô hình thử nghiệm, đưa các cây trồng dược liệu quý hiếm, cây ăn quả vào nhân giống nhằm phục vụ phát triển nông nghiệp thông minh, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo hướng sản xuất hàng hóa đặc hữu gắn với chế biến góp phần thực hiện Chương trình tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị gắn với xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh.
Đinh Tâm
Nhiều giải pháp nâng cao thu nhập cho người dân khu vực nông thôn
Thu nhập là một trong những tiêu chí quan trọng, tạo động lực để hoàn thành các chỉ tiêu, tiêu chí khác trong thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM). Để thực hiện tiêu chí thu nhập, thời gian qua, các địa phương trong tỉnh đã triển khai nhiều giải pháp, tập trung khai thác tiềm năng, lợi thế để phát triển sản xuất, từng bước nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người dân.
Mô hình nông sản sạch đang được nhân rộng tại xã Hải Lệ, thị xã Quảng Trị góp phần cải thiện thu nhập cho người dân - Ảnh: L.N
Trong bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM và xã NTM nâng cao giai đoạn 2021-2025 của Thủ tướng Chính phủ ban hành, tiêu chí số 10 về thu nhập đòi hỏi chất lượng hoàn thành cao hơn giai đoạn trước. Quy định thu nhập bình quân đầu người thay đổi qua từng năm, đến năm 2025 đạt từ 53 triệu đồng/người/năm trở lên. Tính đến cuối năm 2024, toàn tỉnh có 76 xã đạt tiêu chí về thu nhập (chiếm 75,2%), nhiều xã đạt chuẩn NTM, NTM nâng cao đã có mức thu nhập hoàn thành vượt chuẩn so với yêu cầu của tiêu chí.
Để có được những kết quả đó, trong những năm qua, các địa phương đã tiếp tục thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn; triển khai mạnh mẽ Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) nhằm nâng cao giá trị gia tăng, phù hợp với quá trình chuyển đổi số, thích ứng với biến đổi khí hậu. Đồng thời phát triển mạnh ngành nghề; phát triển du lịch nông thôn; nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã; hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp ở nông thôn; nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn góp phần nâng cao thu nhập người dân theo hướng bền vững.
Thực hiện mục tiêu cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững gắn với chương trình xây dựng NTM, nhiều mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, canh tác tự nhiên và liên kết trong sản xuất tiêu thụ sản phẩm được hình thành. Kinh tế tập thể ngày càng phát huy vai trò tích cực trong quá trình phát triển KT-XH, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.
Đến cuối năm 2024, toàn tỉnh có 318 HTX nông nghiệp và 2 liên hiệp HTX nông nghiệp; 193 HTX xếp loại khá, tốt (đạt 62,66%); 81 HTX có tham gia liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho thành viên của HTX; 23 HTX với 35 sản phẩm OCOP 3 sao trở lên; có 1.981 tổ hợp tác hoạt động trong lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp, trong đó có 237 tổ hợp tác có đăng ký với chính quyền địa phương...
Chương trình OCOP tiếp tục được quan tâm chỉ đạo triển khai thực hiện, toàn tỉnh có 183 sản phẩm OCOP, trong đó có 40 sản phẩm 4 sao (gồm 2 sản phẩm đề nghị hội đồng đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP cấp quốc gia đánh giá, công nhận hạng 5 sao), 143 sản phẩm 3 sao.
Mô hình nuôi bò 3B mang lại thu nhập khá cao tại xã Hải Lệ, thị xã Quảng Trị -Ảnh: L.N
Để thực hiện hiệu quả tiêu chí thu nhập trong chương trình xây dựng NTM, NTM nâng cao, các địa phương còn chú trọng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi nhằm tăng năng suất, cải thiện thu nhập cho người dân. Thực hiện chuyển đổi hình thức chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán sang chăn nuôi tập trung, an toàn dịch bệnh gắn với liên kết, tiêu thụ sản phẩm, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển, nhất là các ngành có thế mạnh; quan tâm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp hoạt động; đẩy mạnh phát triển các sản phẩm làng nghề, sản phẩm tiểu thủ công nghiệp gắn với phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch...
Thực hiện chương trình xây dựng NTM nâng cao, xã Hải Lệ, thị xã Quảng Trị đã triển khai nhiều giải pháp nhằm cải thiện, nâng cao mức sống, thu nhập cho người dân, quan tâm chỉ đạo giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Nhiều lớp đào tạo, nâng cao tay nghề cho lao động nông thôn đã được triển khai cho người dân trên địa bàn.
Cùng với đó, chính quyền địa phương tập trung chỉ đạo phát triển sản xuất nông nghiệp, thương mại- dịch vụ; khuyến khích, tạo điều kiện cho các công ty, doanh nghiệp đóng trên địa bàn phát triển; hỗ trợ người dân tiếp cận các nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng để phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập...
Nhờ vậy, đến cuối năm 2024, thu nhập bình quân đầu người của xã Hải Lệ đạt 55,59 triệu đồng/người/năm; tỉ lệ nghèo đa chiều giảm còn 1,95%; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt 83,8%. Thu nhập cải thiện, đời sống của người dân địa phương được nâng lên đáng kể. Hiện nay trên địa bàn xã không có nhà tạm bợ, dột nát; 64,5% số hộ dân có nhà ở kiên cố.
Là địa phương thuần nông, để thực hiện tiêu chí thu nhập trong xây dựng NTM, NTM nâng cao, xã Hiền Thành, huyện Vĩnh Linh đã tạo điều kiện để người dân tiếp cận vốn vay ưu đãi; đào tạo nghề lao động nông thôn; tập trung nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH địa phương; đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát huy lợi thế địa phương theo hướng sản xuất hàng hóa.
Hiện xã có sản phẩm miến ngũ sắc Loan Hảo được công nhận OCOP 3 sao, có ứng dụng chuyển đổi số để truy xuất nguồn gốc sản phẩm, là mô hình có liên kết tiêu thụ sản phẩm ổn định, đem lại hiệu quả kinh tế, giải quyết việc làm cho lao động địa phương; sản phẩm hồ tiêu VietGap của xã đã được cấp mã vùng trồng. Đến cuối năm 2024, thu nhập bình quân đầu người tại xã Hiền Thành đạt 56,5 triệu đồng/người/năm; tỉ lệ hộ nghèo đa chiều giảm còn 1,36%; mức độ hài lòng của người dân đối với kết quả xây dựng NTM đạt tỉ lệ cao (96,6%).
Trong thời gian tới, xã Hiền Thành sẽ xây dựng kế hoạch phát triển KT-XH phù hợp với điều kiện, đặc điểm, thế mạnh của địa phương nhằm phát triển sản xuất, giữ vững và nâng cao thu nhập.
Được đánh giá là tiêu chí quan trọng trong thực hiện chương trình xây dựng NTM nhưng thu nhập cũng là một tiêu chí khó thực hiện (nhất là đối với các xã khó khăn, vùng sâu, vùng xa) và khó giữ bền vững. Xác định xây dựng NTM “Chỉ có điểm khởi đầu, không có điểm kết thúc”, do vậy, thời gian tới, để giữ vững và nâng cao chất lượng tiêu chí thu nhập, các địa phương cần tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại gắn với phát triển các ngành nghề, dịch vụ, tạo việc làm, tăng thu nhập, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Đồng thời hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp liên kết với HTX và hộ sản xuất hình thành các liên kết chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp chủ lực của địa phương gắn với truy xuất nguồn gốc. Chương trình mỗi xã một sản phẩm cần được triển khai toàn diện hơn để khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế các sản phẩm đặc trưng, có thế mạnh của các địa phương trong tỉnh.
Thanh Lê
Nâng cao ý thức trong sử dụng thuốc bảo vệ thực vật
Hiện nay, trong quá trình canh tác nông nghiệp, nhiều nông dân lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, khiến môi trường bị ô nhiễm, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cộng đồng.
Nông dân xã Hòa Tân Tây phun thuốc trên ruộng lúa. Ảnh: VĂN NAM
Lúa hè thu đang trong giai đoạn trổ đòng, ông Trần Văn Cường ở xã Hòa Tân Tây, huyện Tây Hòa mua thuốc dưỡng hạt về phun 5 sào ruộng của gia đình. Ông Cường cho biết, không chỉ chờ đến khi lúa trổ mới phun thuốc, mà ngay từ khi gieo sạ nông dân đã phun thuốc để bảo vệ cây lúa. Nào là thuốc diệt ốc bươu vàng, chuột, cỏ dại, các loại sâu gây hại. Cả vụ lúa có ít nhất 4 lần phun các loại thuốc bảo vệ thực vật.
Tình trạng lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình canh tác nông nghiệp được xem là thói quen khó bỏ của nhiều nông dân. Hễ họ thấy hoa màu bị sâu bệnh là dùng thuốc. Điều này rất dễ để lại lượng tồn dư thuốc do sử dụng không đúng liều lượng, chủng loại. Chưa hết, sau khi sử dụng, nhiều người vô tư vứt vỏ thuốc bừa bãi ra kênh mương, ao hồ, gây ô nhiễm môi trường - dù chính quyền địa phương bố trí nhiều bi bê tông trên các cánh đồng, tuyên truyền vận động để nông dân tập kết vỏ thuốc bảo vệ thực vật.
Theo điều tra của Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), hằng năm có trên 5.000 trường hợp nhiễm độc hóa chất bảo vệ thực vật phải cấp cứu tại bệnh viện và có trên 300 trường hợp tử vong. Tác hại của thuốc bảo vệ thực vật đối với cơ thể con người và môi trường xung quanh xảy ra khi thuốc được sử dụng không đúng các tiêu chuẩn quy định. Vì vậy, mọi người cần nâng cao ý thức
Chính quyền địa phương và ngành Nông nghiệp - Môi trường đã ban hành nhiều quy định hướng dẫn nông dân về cách sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hợp lý, tuân thủ 4 đúng: đúng thuốc, đúng nồng độ - liều lượng, đúng lúc và đúng kỹ thuật. Đặc biệt, sau khi sử dụng xong, bao bì phải được thu gom và tiêu hủy đúng nơi quy định. Nông dân nên chuyển dần sang các loại thuốc sinh học, ít độc hại; không nên sử dụng liều lượng đậm đặc, vì đây là nguyên nhân chính khiến sâu bệnh kháng thuốc khó tiêu diệt được.
Bên cạnh sự vào cuộc quyết liệt của ngành chức năng và chính quyền địa phương, thì yếu tố quan trọng là người dân cần nâng cao nhận thức trong việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, có như vậy mới giảm thiểu những tác hại do thuốc bảo vệ thực vật gây ra.
NGUYỄN VĂN NAM
Người dân TPHCM làm giàu từ nông nghiệp
Nông dân các thế hệ tại TPHCM đang ra sức sản xuất, áp dụng những tiến bộ khoa học - kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm. Làm giàu trên quê nhà đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp TPHCM theo hướng phát triển tích cực, bền vững.
Nở hoa trên “đất thép”
Năm 2022, ông Huỳnh Đoàn Thông (64 tuổi, huyện Củ Chi) được trao danh hiệu Nông dân Việt Nam xuất sắc. Được xem là nông dân TPHCM đầu tiên sản xuất hạt giống xuất khẩu, ông Thông kể lại, những năm 2002, nhu cầu của nông dân về các loại hạt giống rau màu rất lớn, trong khi doanh nghiệp nhà nước chưa đủ điều kiện cung cấp.
Mô hình sản xuất rau thủy canh tại HTX Tuấn Ngọc (TP Thủ Đức, TPHCM) đón các đoàn khách đến tham quan, học tập. Ảnh: ĐỨC TRUNG
Nước ta hàng năm phải nhập khẩu hạt giống từ nước ngoài, rất tốn kém. Lý do này đã thôi thúc ông huy động vốn từ bạn bè, gia đình và thành lập công ty chuyên sản xuất, lai tạo các loại hạt giống rau màu cung cấp cho thị trường. Ông dùng phương pháp bất dục đực tế bào chất để sản xuất hạt giống. Theo phương pháp này, hệ thống bón phân, tưới nước nhỏ giọt hoàn toàn tự động và cơ giới hóa 100%, trong quá trình vận hành giảm được 70% lượng phân, thuốc, nước mà vẫn cho sản phẩm mẫu mã đẹp và giảm được khoảng 50% chi phí nhân công lai tạo. Thời gian qua, thu nhập từ sản xuất hạt giống của ông Thông là 5 tỷ đồng/năm, sau khi trừ chi phí, lợi nhuận khoảng 2 tỷ đồng/năm.
Là thế hệ nông dân trẻ hơn, tiếp cận nhiều tiến bộ khoa học - kỹ thuật, chị Nguyễn Ngọc Hương chọn tập trung tiềm lực vào khâu chế biến sau thu hoạch. Cô gái sinh năm 1991 này đang là Phó Giám đốc của Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thiên Nhiên Việt, chuyên sản xuất bột rau sấy lạnh. Tốt nghiệp Đại học Kinh tế TPHCM, năm 2016, chị Hương về quê hương Củ Chi lập nghiệp bằng cây rau má với số tiền là 100 triệu đồng. Sau nhiều lần thử sức, vùng trồng rau má đã được chị Hương đưa vào sản xuất ổn định. Ở khâu chế biến, công nghệ sấy lạnh đã giúp công ty của chị sản xuất sản phẩm bột rau chất lượng cao, mùi vị không khác gì rau tươi.
Bà Huỳnh Thị Kim Xuyến, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nông dân TPHCM, đánh giá, thời gian qua thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chuyển đổi sản xuất, nhân rộng những mô hình sản xuất hiệu quả đã tạo động lực cho hội viên nông dân của TPHCM thi đua lao động sản xuất, làm giàu chính đáng. Những tấm gương nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi các cấp đã tạo động lực cho hội viên nông dân tích cực chuyển đổi cơ cấu sản xuất hàng hóa, xây dựng chuỗi liên kết trong sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm. Việc khai thác tốt tiềm năng đất đai, lao động, nguồn vốn, cùng với sự ứng dụng có hiệu quả tiến bộ khoa học kỹ thuật theo hướng thực hành nông nghiệp tốt (GAP) mang lại hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất nông nghiệp.
Trong nước, sản phẩm rau má của chị Hương đã có mặt ở nhiều cửa hàng, đại lý, nhà phân phối và các chuỗi cửa hàng thực phẩm sạch. Cuối năm 2019, công ty xuất khẩu lô hàng đầu tiên sang Hà Lan với 10.000 sản phẩm bột rau. Hơn một năm sau, đơn hàng đã tăng lên 20.000 sản phẩm. Bột rau má không đường, bột tía tô, bột diếp cá, bột lá sen và bột chùm ngây là 5 sản phẩm của Công ty Thiên Nhiên Việt được UBND TPHCM công nhận đạt chuẩn OCOP 4 sao trong đợt xét duyệt hồi tháng 3-2022. Công ty của Nguyễn Ngọc Hương đang liên kết với hơn 10 nông hộ, diện tích hợp tác gần 20ha, tạo công ăn việc làm cho hơn 30 người. Năm 2019, chị Nguyễn Ngọc Hương là 1 trong 12 gương Công dân trẻ tiêu biểu TPHCM.
Cũng có thể kể thêm là năm 2019, tại TP Thủ Đức, HTX rau thủy canh Tuấn Ngọc ra đời với 7 thành viên, sản xuất mô hình trồng rau thủy canh trong nhà kính. Rau thủy canh được trồng tại HTX Tuấn Ngọc chia thành nhiều nhóm. Trong đó, nhóm rau dược liệu gồm: cải kale, cải bồ công anh, cải rocket… Điểm mấu chốt của rau thủy canh tại HTX Tuấn Ngọc là được trồng trong môi trường nhà kính, toàn bộ chỉ số về độ ẩm, nhiệt độ và ánh sáng được kiểm soát bằng hệ thống tự động. Nhờ bán sản phẩm rau thủy canh, HTX Tuấn Ngọc có doanh thu trung bình mỗi năm lên đến 6 tỷ đồng và thu nhập của thành viên HTX đạt 70-100 triệu đồng/năm. Năm 2023, đơn vị này được công nhận là 1 trong 63 HTX tiêu biểu của cả nước.
Cần sự trợ lực
Dù có nhiều thành quả, nhưng thực tế sản xuất nông nghiệp còn rất nhiều khó khăn. Ông Lâm Ngọc Tuấn, Giám đốc HTX Tuấn Ngọc, mong muốn được tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi để đẩy mạnh tự động hóa. Hiện HTX của ông đang được hưởng lãi suất của Agribank là 8%/năm đối với các khoản vay trung và dài hạn. Ông Tuấn hy vọng Agribank có thể tạo thêm những khoản vay ưu đãi nhiều hơn, để ông thêm tự tin đầu tư nông nghiệp công nghệ cao.
Nông dân Huỳnh Đoàn Thông và vườn ớt được trồng từ hạt giống do ông lai tạo
Lãnh đạo Hội Nông dân TPHCM cho biết, trước đây đất nông nghiệp không được phép xây dựng, người dân dựng tạm lều, che mái tạm…, không có nơi dự trữ, bảo quản trang thiết bị, vật tư nông nghiệp, phân bón nên không dám mạnh dạn áp dụng các mô hình mới phục vụ sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, còn có tình trạng không có điện, nước để tưới tiêu; giá điện tính theo giá điện dân dụng, chi phí hàng tháng cao, dẫn đến lợi nhuận sản phẩm nông nghiệp thấp sau khi trừ các chi phí. Tháng 10-2024, Quyết định số 90 của UBND TPHCM được ban hành với kỳ vọng giải quyết bài toán lâu nay nông dân TPHCM và các cấp quản lý “bí” lời giải. Tuy nhiên, vấn đề xây dựng công trình phụ trợ trên đất nông nghiệp còn vướng mắc một số quy định giữa Bộ Xây dựng và Bộ Nông nghiệp và Môi trường (Bộ TN-MT trước đây), nên tùy từng tỉnh, thành mà có hướng áp dụng phù hợp với đặc thù của địa phương.
TPHCM đang triển khai, họp bàn giữa các sở, ban ngành chức năng, thời gian tới sẽ thông qua việc cấp phép xây dựng công trình phụ trợ trên đất nông nghiệp. Theo ông Trần Quân Đức, Chi hội trưởng Chi hội 5, Hội Nông dân TP Thủ Đức, thành phố nên hỗ trợ nông dân thủ tục pháp lý trong việc xin cấp phép xây dựng, giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến quy định mới để đảm bảo quy trình diễn ra nhanh chóng và minh bạch, giúp giảm thời gian và chi phí cho nông dân; khuyến khích hướng dẫn thực hiện hồ sơ, đăng ký qua mạng.
ĐỨC TRUNG
8 giải pháp thực hiện mục tiêu tăng trưởng của ngành Nông nghiệp và Môi trường
Thực hiện kế hoạch hướng đến mục tiêu giá trị gia tăng khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 4% trở lên, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề ra 8 giải pháp trọng tâm, trong đó nhấn mạnh vào hoàn thiện chính sách, quy định pháp luật ngành; đẩy mạnh tái cơ cấu sản xuất; phát triển thị trường xuất khẩu, thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng công nghệ…
Thực hiện đột phá trong ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy vừa ký ban hành văn bản về kế hoạch hành động và mục tiêu phát triển của ngành năm 2025, nhằm hướng đến mục tiêu giá trị gia tăng khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 4% trở lên. Trong đó, giá trị gia tăng lĩnh vực nông nghiệp tăng 3,85%; giá trị gia tăng thủy sản tăng 4,35%; giá trị gia tăng lâm nghiệp tăng 5,47%.
Để đảm bảo mục tiêu đề ra, kế hoạch hành động của Bộ Nông nghiệp và Môi trường nêu 8 nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới.
Một là, tăng cường công tác quản lý, giám sát của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, triển khai cơ chế phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội ngành hàng để nắm bắt tình hình sản xuất, thị trường, xuất khẩu để có phương án điều chỉnh, bổ sung kịp thời..
Hai là, hoàn thiện thể chế, chính sách phục vụ tăng trưởng ngành và xuất khẩu nông lâm thủy sản; triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nghị quyết, chiến lược, chương trình, đề án, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy yêu cầu các cơ quan thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường phải rà soát toàn diện, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành, lĩnh vực Nông nghiệp và Môi trường bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, phù hợp với mô hình tổ chức các cơ quan sau sáp nhập, hợp nhất.
"Có chính sách hỗ trợ bảo đảm cho người dân yên tâm sản xuất, doanh nghiệp kinh doanh trong trường hợp thị trường biến động, nhất là đối với một số thị trường có nguy cơ không tăng trưởng cao như lúa gạo, một số loại trái cây..."
Trích Kế hoạch hành động và mục tiêu phát triển của ngành Nông nghiệp và Môi trường năm 2025
Cùng với đó, đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy định pháp luật để bảo đảm hành lang pháp lý cho hoạt động của ngành Nông nghiệp và Môi trường. Các chính sách hướng đến hỗ trợ cho hợp tác xã, doanh nghiệp, người dân như: chính sách tín dụng, thuế, bảo hiểm nông nghiệp, đất đai phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hóa tập trung, quy mô lớn…
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại ngành, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng sản phẩm và hiệu quả sản xuất, kinh doanh nông lâm nghiệp và thủy sản. Đẩy mạnh chuyển đổi sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo hướng nâng cao hiệu quả từ nông sản có giá trị thấp sang nông sản có giá trị cao, chuyển đổi những vùng lúa năng suất thấp, một vụ sang sản xuất cây trồng hoặc vật nuôi có giá trị kinh tế cao hơn. Chú trọng xây dựng những vùng nguyên liệu lớn, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, phát thải thấp cho những sản phẩm chủ lực cấp quốc gia, cấp tỉnh.
Cùng với đó, phát triển nông nghiệp sinh thái, hiệu quả, bền vững, minh bạch, trách nhiệm gắn với môi trường bền vững. Tổ chức lại sản xuất theo vùng chuyên canh, gắn với chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc và xây dựng mã số vùng trồng, vùng nuôi... đáp ứng yêu cầu thị trường. Thực hiện chuyển đổi hệ thống lương thực, thực phẩm theo hướng “xanh”, ít phát thải và bền vững thông qua việc thúc đẩy phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo trong sản xuất nông nghiệp. Đẩy mạnh nuôi biển và khai thác hải sản bền vững; tập trung giải quyết dứt điểm khuyến nghị của EC để gỡ "thẻ vàng” trong năm 2025, ngăn chặn và xử lý nghiêm tàu cá khai thác trái phép ở ngoài vùng biển Việt Nam.
Bốn là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính phục vụ người dân, doanh nghiệp. Trong đó, thực hiện hiệu quả chuyển đổi số trong cấp phép, kiểm soát mã số vùng trồng, vùng nuôi, ao nuôi bảo đảm truy xuất nguồn gốc. Nghiên cứu xây dựng sàn giao dịch nông sản quốc gia để đưa nông sản Việt Nam đến thị trường quốc tế nhanh và hiệu quả hơn, đồng thời phục vụ quản lý thương hiệu gắn với chất lượng nông sản Việt Nam.
Rà soát cắt giảm, đơn giản hóa quy định, thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của ngành, lĩnh vực. Mục tiêu mỗi lĩnh vực giảm ít nhất 30% thủ tục hành chính, các đơn vị giải quyết thủ tục hành chính giảm ít nhất 30% thời gian xử lý, giảm ít nhất 30% chi phí chi phí tuân thủ của người dân, doanh nghiệp thực hiện thủ tục hành chính. Bãi bỏ ít nhất 30% điều kiện kinh doanh không cần thiết. Thực hiện các thủ tục liên quan đến doanh nghiệp trên môi trường điện tử, bảo đảm thông suốt, liền mạch, hiệu quả.
Năm là, tăng cường chuyển đổi số; thực hiện đột phá trong ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo. Thúc đẩy công nghiệp hóa nông nghiệp; nâng cao trình độ chế biến, bảo quản nông sản và cơ giới hóa nông nghiệp, gắn với ứng dụng khoa học công nghệ, thông minh, tự động hóa trong sản xuất nông nghiệp và bảo vệ môi trường. Chuyển giao, nhân rộng ứng dụng các biện pháp canh tác bền vững, các giải pháp khoa học công nghệ, rải vụ hiệu quả nhằm giảm chi phí phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y và các chi phí trung gian khác để nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao thu nhập cho người sản xuất.
Đẩy mạnh ứng dụng viễn thám và trí tuệ nhân tạo để quan trắc, giám sát, quản lý vùng trồng, cơ sở nuôi, đánh giá sản lượng cây trồng chủ lực, kiểm kê rừng. Ứng dụng trí tuệ nhân tạo và công nghệ mới vào theo dõi giám sát và phân tích dữ liệu thời tiết, đất đai, sâu bệnh, giúp nông dân tối ưu hóa sản xuất và giảm thiểu rủi ro. Hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu cơ bản của ngành nông nghiệp và Môi trường, cập nhật đầy đủ thông tin sản xuất, thị trường giúp công tác điều hành của Bộ và địa phương được chính xác và kịp thời.
"Trong thời gian tới, sẽ xây dựng Bộ tiêu chí phân loại thị trường, xác định chỉ tiêu xuất khẩu theo tiểu ngành, lĩnh vực và thị trường, đặc biệt thị trường còn nhiềm tiềm năng".
Trích Kế hoạch hành động và mục tiêu phát triển của ngành Nông nghiệp và Môi trường năm 2025.
Sáu là, thúc đẩy phát triển thị trường trong nước và xuất khẩu. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở cửa thị trường, đàm phán để tháo gỡ rào cản kỹ thuật, rào cản thương mại. Mở cửa xuất khẩu chính ngạch thêm nhiều nông sản vào thị trường truyền thống, các thị trường có tổng kim ngạch xuất khẩu lớn (Trung Quốc, Hoa Kỳ, EU, Nga, Brazil, Nhật Bản, Hàn Quốc...). Mở cửa các thị trường mới, còn nhiều tiềm năng (thị trường thực phẩm Halal của các nước Hồi giáo, Trung Đông, châu Phi...) với phương châm đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa thị trường.
Bảy là, quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên (nhất là tài nguyên đất, tài nguyên nước) để cùng các yếu tố đầu vào khác thúc đẩy sản xuất nông sản hàng hóa tập trung, quy mô lớn, tăng nhanh năng suất các nhân tố tổng hợp của Ngành.
Xây dựng, cập nhật các kịch bản phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu lĩnh vực nông nghiệp và môi trường. Thực hiện đột phá chiến lược trong xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn đồng bộ, hiện đại và bảo vệ môi trường bền vững.
Tám là, đẩy mạnh tuyên truyền về chính sách phát triển nông nghiệp, các mô hình sản xuất kinh doanh hiệu quả, tiêu biểu; khắc phục tình trạng thông tin không chính xác ảnh hưởng đến tâm lý người tiêu dùng và các tổ chức sản xuất kinh doanh.
Chu Khôi
Huyện Lấp Vò triển khai Đề án 'Nâng cao sức khỏe đất và quản lý dinh dưỡng cây trồng'
UBND Lấp Vò xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Đề án 'Nâng cao sức khỏe đất và quản lý dinh dưỡng cây trồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050', với mục đích triển khai thực hiện có hiệu quả về nâng cao sức khỏe đất trồng trọt trên cơ sở quản lý dinh dưỡng cây trồng hiệu quả nhằm hạn chế suy thoái đất, nâng cao giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích đất trồng trọt, góp phần phát triển nông nghiệp xanh, bền vững, các-bon thấp và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Huyện Lấp Vò tập trung phát triển các ngành hàng chủ lực trong Đề án tái cơ cấu nông nghiệp
UBND huyện Lấp Vò đề ra mục tiêu đến năm 2030, xây dựng 1 mô hình/năm áp dụng các giải pháp kỹ thuật để nâng cao sức khỏe đất trồng trọt gắn với sử dụng phân bón hữu cơ và thuốc bảo vệ thực vật sinh học; tổ chức các lớp tập huấn, tuyên truyền, hướng dẫn các giải pháp kỹ thuật để nâng cao sức khỏe đất trồng trọt gắn với sử dụng phân bón hữu cơ và thuốc bảo vệ thực vật sinh học cho 1.000 lượt nông dân/năm; phối hợp thực hiện các nội dung thuộc phạm vi quản lý của huyện cùng với các ngành chuyên môn tỉnh để hoàn thiện bộ cơ sở dữ liệu về chất lượng các loại đất chính (bao gồm các chỉ tiêu về lý, hóa và sinh học đất) và sử dụng phân bón cho các cây trồng chủ lực trên địa bàn huyện; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật và sự quan tâm của cộng đồng về quản lý sức khỏe đất trồng trọt và dinh dưỡng cây trồng trên địa bàn tỉnh... Đến năm 2050, phấn đấu thực hiện tốt công tác nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý sức khỏe đất trồng trọt và dinh dưỡng cây trồng.
Để thực hiện hiệu quả mục tiêu đề ra, các ngành, các cấp trên địa bàn huyện Lấp Vò triển khai thực các biện pháp nâng cao sức khỏe đất, kết nối với thông tin về trồng trọt; quản lý đất sản xuất nông nghiệp trên các vùng trọng điểm; chủ động liên hệ, phối hợp với các sở, ngành, đơn vị nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách hỗ trợ liên quan đến công tác quản lý và sử dụng đất hợp lý; nghiên cứu thực hiện thí điểm mô hình quản lý sức khỏe đất gắn với phát triển trồng trọt bền vững đối với cây trồng tại một số vùng sản xuất tập trung theo hướng xã hội hóa.
Bên cạnh đó, thực hiện giám sát, quản lý, hướng dẫn việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất sản xuất theo hướng bền vững kết hợp với các mục tiêu bảo tồn tài nguyên và đảm bảo an sinh xã hội và phù hợp với quy hoạch sử dụng đất; tăng cường công tác kiểm tra, xử lý kịp thời các hành vi gây ô nhiễm môi trường đất, thoái hóa đất hoặc sử dụng đất không đúng mục đích, làm ảnh hưởng đến chất lượng và sức khỏe đất trồng trọt trên địa bàn theo quy định của pháp luật...
Nhật Nam
7 nhóm giải pháp cơ cấu lại ngành Nông nghiệp toàn diện, bền vững, hiện đại
Sở Nông nghiệp và Môi trường vừa quyết định phân bổ các đơn vị trực thuộc hơn 19,2 tỷ đồng kinh phí cơ cấu lại ngành Nông nghiệp hướng đến toàn diện, bền vững, hiện đại năm 2025. Theo đó, các nhóm giải pháp gồm: Cơ cấu lại các sản phẩm nông nghiệp chủ lực, chuyển giao khoa học, kỹ thuật, nâng cao chất lượng giống cây trồng, vật nuôi; phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh và cơ giới hóa sản xuất; chủ động phòng, chống thiên tai và dịch bệnh, triển khai mô hình nông nghiệp tuần hoàn; đẩy mạnh chế biến nông sản, phát triển thương hiệu, sản phẩm OCOP và xúc tiến thương mại; ngăn chặn tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất lâm nghiệp, khôi phục và phát triển rừng bền vững; phát triển hệ thống thủy lợi, nước sạch và hiện đại hóa kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất; phát triển chuỗi liên kết sản xuất và xây dựng nông thôn mới.
VĂN VIỆT
Kích hoạt 'lá chắn' bảo hiểm cho HTX nông nghiệp
Những thách thức, rủi ro trong sản xuất của HTX nông nghiệp do biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, việc phát triển bảo hiểm nông nghiệp cho các HTX trở thành nhu cầu cấp thiết để đảm bảo đà tăng trưởng, vươn mình mạnh mẽ của khu vực kinh tế hợp tác.
Với yêu cầu cấp thiết từ thực tế, Liên minh HTX tỉnh Quảng Ninh đã tổ chức Hội thảo “Bàn giải pháp bảo hiểm cho HTX sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh” chiều ngày 9/4 với mục tiêu nhận diện thách thức, rủi ro đối với HTX và sự cần thiết có chính sách hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp phù hợp cho HTX.
Nhóm lại thì giàu, chia ra thành khó
Phát biểu tại hội thảo, bà Cao Xuân Thu Vân – Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam – nhấn mạnh, bảo hiểm nông nghiệp là một công cụ thiết thực, không chỉ giúp HTX quản trị rủi ro mà còn nâng cao tính chủ động, chuyên nghiệp trong sản xuất.
Dẫn lại lời Bác Hồ: “Nhóm lại thì thành giàu, chia ra thì thành khó”, bà Vân cho rằng bảo hiểm chính là biểu hiện cụ thể của tinh thần “nhóm lại” – cùng nhau chia sẻ rủi ro để cùng nhau phát triển.
Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân nhấn mạnh tầm quan trọng của bảo hiểm nông nghiệp cho HTX.
Trong sản xuất nông nghiệp cũng vậy, mua bảo hiểm là để phòng ngừa những rủi ro, bất ngờ có thể gặp phải. Vì vậy, nếu ai cũng mua bảo hiểm sẽ tạo nên một “tấm khiên” vững chắc giúp HTX không bị đe dọa trước những cú sốc thiên tai, dịch bệnh, thị trường. Và muốn làm được điều đó, điều kiện tiên quyết là sự tự giác
"Cách đây 79 năm, vào ngày 11/4/1946, Bác Hồ viết thư kêu gọi điền chủ, nông dân tham gia HTX nông nghiệp. Vì sao là thư kêu gọi chứ không phải sắc lệnh? Bởi HTX là biểu hiện của tinh thần tự nguyện, tự giác. Chính yếu tố này đã và đang mở ra nhiều tiềm năng để bảo hiểm nông nghiệp trong HTX có thể phát triển sâu rộng hơn”, bà Cao Xuân Thu Vân chia sẻ.
Dẫn câu chuyện từ Nhật Bản – quốc gia có hệ thống HTX phát triển bậc nhất – bà Vân cho biết, ở đây các HTX luôn gắn chặt trách nhiệm và quyền lợi. Muốn được hỗ trợ bảo hiểm, HTX phải đáp ứng nghiêm ngặt về sản lượng, quy trình sản xuất, tiêu chuẩn sản phẩm, và chỉ những HTX tuân thủ đúng – đủ mới đủ điều kiện thụ hưởng.
Để nhận được chế độ bảo hiểm các HTX cũng phải tuân theo những điều kiện nghiêm ngặt. Bên cạnh sự giám sát về việc tiêu thụ sản phẩm, các đơn vị còn phải đảm bảo việc sản xuất đúng và đủ. "Giả sử, HTX phải sản xuất đủ 1 tấn gạo thì được bảo hiểm. HTX nào sản xuất thiếu 1kg gạo cũng bị phạt, thừa 1kg cũng bị phạt. Nếu thành viên HTX không theo quy trình, chạy theo phong trào, thì chính sách bảo hiểm không thể áp dụng được”.
Việc áp dụng các quy định chặt chẽ trong sản xuất và tiêu thụ nhằm giữ cho thành viên HTX đi đúng định hướng, tránh tình trạng chạy theo phong trào kiểu "thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào", hôm nay nuôi cua, mai lại chuyển sang nuôi cá. Chính sự thiếu ổn định và thiếu kỷ luật này là một trong những nguyên nhân khiến các chính sách bảo hiểm khó có thể triển khai hiệu quả.
Các vấn đề về bảo hiểm nông nghiệp dành cho HTX được các đại biểu, chuyên gia, đặc biệt là bản thân HTX quan tâm.
Từ câu chuyện thực tế tại Nhật Bản, để bảo hiểm nông nghiệp có thể đi vào thực tiễn tại Việt Nam, bà Vân đề xuất triển khai thí điểm ngay từ bây giờ. “Không thể ngồi chờ chính sách từ trên xuống. Muốn có chính sách, trước hết phải có mô hình thực tế để minh chứng.” – bà nhấn mạnh.
Ví dụ, tại Quảng Ninh, có thể bắt đầu từ mô hình chăn nuôi thủy sản thì được bảo hiểm. Để nhận được bảo hiểm thì phải đảm bảo diện tích bao nhiêu, quy trình nuôi thế nào, ai nuôi...
“Địa phương có thể lựa chọn một vài HTX đủ điều kiện, phối hợp với công ty bảo hiểm hoặc tổ chức quốc tế để thí điểm, từ đó có dữ liệu cụ thể, có căn cứ trình Chính phủ xây dựng khung chính sách chính thức”, bà Cao Xuân Thu Vân phân tích.
Nhiều kinh nghiệm trong và ngoài nước được chia sẻ tại hội thảo tại Quảng Ninh ngày 9/4.
Chia sẻ thêm về chi phí triển khai bảo hiểm, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam nhấn mạnh: trong trường hợp xảy ra thiệt hại, HTX sẽ được bảo vệ bởi chính sách bảo hiểm. Ngược lại, nếu không phát sinh rủi ro, doanh nghiệp bảo hiểm cũng cần tính toán phương án chia sẻ lợi nhuận hợp lý. Một phần lợi nhuận đó có thể được sử dụng để phục vụ mục tiêu phát triển cộng đồng, hoặc hỗ trợ HTX nâng cấp cơ sở hạ tầng, tạo thêm việc làm cho người lao động.
Bên cạnh đó, cần sớm xây dựng chính sách bảo hiểm cho phần vốn, tài sản không chia của HTX, chẳng hạn như quyền sử dụng đất do Nhà nước giao hoặc cho thuê; các khoản trợ cấp, hỗ trợ không hoàn lại; tài sản được tặng, cho theo thỏa thuận là tài sản không chia; hoặc các loại tài sản khác được quy định rõ trong điều lệ HTX.
Dẫn ví dụ từ Hàn Quốc và Nhật Bản, bà Cao Xuân Thu Vân cho biết, các quốc gia này có những quỹ hỗ trợ HTX rất lớn nhờ phần vốn không chia được quản lý chặt chẽ, tích lũy lâu dài và sử dụng đúng mục đích. Nếu Việt Nam áp dụng được chính sách bảo hiểm cho tài sản không chia, những giá trị tích lũy này sẽ được gìn giữ và truyền lại cho thế hệ sau – tạo nền tảng vững chắc cho sự kế thừa và phát triển bền vững của các HTX.
Sự cấp thiết của bảo hiểm cho HTX tại địa phương
Về phía địa phương, ông Phạm Đức Ấn – Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh – cho biết, từ năm 2021 đến nay, khu vực kinh tế hợp tác, HTX trên địa bàn tỉnh đã có những bước phát triển rõ nét, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân tại hầu hết các địa phương trong tỉnh.
Ông Phạm Đức Ấn - Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh đánh giá cao thành tựu đạt được của các HTX trên địa bàn, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của phát triển bảo hiểm cho HTX nông nghiệp.
Tính đến nay, toàn tỉnh có 1.087 HTX, vượt mục tiêu đề ra, trong đó lĩnh vực nông nghiệp chiếm ưu thế với 768 HTX (chiếm 70,6%). Tổng vốn điều lệ đăng ký của các HTX đạt 4.398,5 tỷ đồng.
Đặc biệt, Quảng Ninh hiện thuộc nhóm 4 địa phương dẫn đầu cả nước về số lượng HTX (cùng với Hà Nội, Thanh Hóa và Bắc Giang), đồng thời là tỉnh có tốc độ thành lập HTX mới nhanh nhất, riêng năm 2024 đã có thêm 240 HTX được thành lập.
Hiện có 710 HTX đang hoạt động ổn định và kê khai thuế đầy đủ, huy động được hơn 3.500 tỷ đồng cho sản xuất kinh doanh (chưa tính giá trị tài sản cố định như nhà xưởng, thiết bị…). Các HTX này đang tạo việc làm cho gần 75.000 lao động, chiếm 10,9% lực lượng lao động toàn tỉnh.
“Những kết quả ấn tượng này là minh chứng cho định hướng đúng đắn của tỉnh trong việc phát triển kinh tế hợp tác, HTX, đặc biệt nhờ vào sự đồng hành, hỗ trợ hiệu quả từ Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh”, ông Phạm Đức Ấn nhấn mạnh.
Ông Ngô Tất Thắng - Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh Quảng Ninh phát biểu tại hội nghị.
Đáng chú ý, khi đề cập đến vấn đề bảo hiểm cho HTX, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh, ông Phạm Đức Ấn, đã nhấn mạnh bài học từ những thiệt hại nặng nề do cơn bão số 3 (Yagi 2024) gây ra – một minh chứng rõ nét cho sự mong manh, dễ tổn thương của khu vực sản xuất nông nghiệp.
Tuy nhiên, phần lớn các HTX bị ảnh hưởng gần như không nhận được sự hỗ trợ cần thiết, do quá trình quản lý và hướng dẫn đầu tư sản xuất còn thiếu đồng bộ. Các khâu như cung ứng vật tư, giống, trang thiết bị, tổ chức sản xuất hay xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật chưa được thực hiện chặt chẽ, thống nhất.
Từ thực tế này, ông Phạm Đức Ấn cho rằng, cần phải nghiêm túc nhận diện những khó khăn và rủi ro đặc thù trong sản xuất nông nghiệp, đồng thời học hỏi kinh nghiệm triển khai bảo hiểm nông nghiệp từ quốc tế và trong nước. Trên cơ sở đó, tỉnh cần khẩn trương nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách phù hợp và triển khai thí điểm mô hình bảo hiểm nông nghiệp dành riêng cho các HTX – lực lượng sản xuất nông nghiệp nòng cốt tại khu vực nông thôn Quảng Ninh hiện nay.
Lãnh đạo Liên minh HTX tỉnh Quảng Ninh, đại diện các HTX, đại diện bảo hiểm Agribank, các chuyên gia đóng góp ý kiến về bảo hiểm nông nghiệp dành cho HTX.
Với định hướng đó, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh đề nghị trong thời gian tới, Liên minh HTX tỉnh cần chủ động phối hợp chặt chẽ với các sở, ngành liên quan để nhận diện rõ các ngành hàng có lợi thế, đóng vai trò chủ lực trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp của HTX, như thủy sản, chăn nuôi, lâm nghiệp.
Đồng thời, cần làm việc với các doanh nghiệp bảo hiểm để thiết kế các gói bảo hiểm, sản phẩm bảo hiểm phù hợp với đặc thù sản xuất nông nghiệp của từng ngành hàng, từng địa phương. Trên cơ sở đó, tham mưu, đề xuất xây dựng chính sách và giải pháp cụ thể nhằm triển khai hiệu quả chính sách bảo hiểm nông nghiệp – trước mắt ưu tiên tập trung cho các HTX nông nghiệp.
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước, cần làm rõ tính cấp thiết, hiệu quả và vai trò hỗ trợ của chính sách bảo hiểm nông nghiệp trong việc phát triển sản xuất, khắc phục thiệt hại do rủi ro gây ra. Về phía nông dân và các HTX, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức để hiểu rằng bảo hiểm nông nghiệp không chỉ là giải pháp ứng phó rủi ro mà còn là một phần thiết yếu trong chiến lược đầu tư phát triển sản xuất bền vững.
Đại diện HTX, doanh nghiệp, nông dân, cơ quan chuyên môn tham gia đóng góp chương trình.
Nguyên tắc cốt lõi của bảo hiểm là “lấy số đông bù cho số ít”
PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam, nhấn mạnh: những thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh khiến nhiều nông dân và hợp tác xã (HTX) ngần ngại đầu tư vào các mô hình sản xuất công nghệ cao, dù biết rằng đây là con đường mang lại hiệu quả kinh tế vượt trội.
Việc được tham gia bảo hiểm không chỉ giúp nông dân và thành viên HTX yên tâm sản xuất nhờ có nguồn tài chính bù đắp rủi ro, mà còn tạo động lực để đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa trong lĩnh vực nông nghiệp. Đó là nguồn khích lệ lớn đối với người làm nông, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp.
Ở các quốc gia có nền nông nghiệp phát triển, bảo hiểm nông nghiệp đã trở thành nền tảng không thể thiếu. Tại Mỹ, khoảng 86% nông dân tham gia bảo hiểm; Nhật Bản đã phủ sóng bảo hiểm nông nghiệp trên toàn quốc; Hà Lan đạt mức 100% trang trại chăn nuôi có bảo hiểm. Trong khi đó, ở Việt Nam – một quốc gia nông nghiệp – tỷ lệ tham gia bảo hiểm nông nghiệp vẫn còn quá khiêm tốn, chỉ chiếm khoảng 0,09%.
Theo PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng, để bảo hiểm nông nghiệp phát huy đúng vai trò, cần có cơ chế hỗ trợ và truyền thông mạnh mẽ nhằm thu hút đông đảo nông dân, ngư dân, HTX và doanh nghiệp cùng tham gia. “Nguyên tắc của bảo hiểm là lấy số đông bù số ít. Càng nhiều người tham gia, hệ thống bảo hiểm càng vận hành bền vững, hiệu quả,” ông nhấn mạnh.
Riêng với lĩnh vực nuôi biển, cần đẩy nhanh tiến độ giao quyền sử dụng khu vực biển một cách ổn định, lâu dài, đồng thời luật hóa quyền sử dụng biển thành tài sản rõ ràng (như “sổ xanh” tương tự “sổ đỏ” đối với đất đai), từ đó tạo điều kiện pháp lý vững chắc cho người dân và HTX mua bảo hiểm.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần phát triển các sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp phù hợp với từng nhóm đối tượng, khu vực, ngành hàng và đặc thù rủi ro – đặc biệt là các mô hình bảo hiểm chỉ số rủi ro, dễ triển khai, dễ quản lý và sát thực tế từng địa phương.
Hiến Nguyễn - Ảnh Phạm Hòa
Hiệu quả từ mô hình 'sản xuất xanh - sống an lành'
Những năm gần đây, tại tỉnh Thanh Hóa, nhiều bạn trẻ, nhóm bạn trẻ đã 'bỏ phố về quê' đầu tư nông trại - trang trại. Những nông trại này hướng đến mục tiêu xanh - sạch - tươi và trẻ, tức là không chỉ làm nông nghiệp sạch mà còn kết hợp làm du lịch hướng đến lứa tuổi trẻ.
Chị Lê Thị Trang trong trang trại của mình
Sau khi ra trường, chị Lê Thị Trang (sinh năm 1988, xã Hợp Tiến, huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa) ở lại thành phố làm nhiều nghề kiếm sống. Nhưng cách đây mấy năm, chị chọn "bỏ phố về quê", cùng một số người góp vốn thành lập Hợp tác xã Nông nghiệp và Du lịch Trang Farm.
Chị Trang chia sẻ, ngoài kinh nghiệm sản xuất theo phương pháp truyền thống của người dân địa phương, chị đã đi học hỏi nhiều nơi, tham dự các khóa học, các diễn đàn, tìm hiểu trên Internet để có kiến thức cơ bản nhất về nông nghiệp sạch. Trên cơ sở đó, chị và các cộng sự vừa học vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, kiên trì thực hiện phương châm “sản xuất xanh - sống an lành”.
Đến nay, sau 3 năm gây dựng, từ khu đất làm lúa hơn 1ha kém hiệu quả, bỏ hoang, chị Trang và các cộng sự đã gây dựng nên một nông trại hữu cơ tuần hoàn bài bản, quy mô với nhiều loại rau, củ, quả “mùa nào thức nấy”, từ các giống cây bản địa như bầu, bí, khoai lang, cà chua, dưa hấu… cho đến các loại cao cấp như dâu tây, nho sữa. Ngoài ra, chị còn nuôi nhím để tạo sự sinh động, phong phú cho trang trại, đồng thời nhằm tái sử dụng phân nhím cho cây trồng.
Nhờ được thiết kế bài bản, khoa học, Trang Farm không chỉ giúp cây trồng phát triển tốt, thu hái dễ dàng mà còn tạo nên không gian hấp dẫn cho du khách. Mọi người đến đây bên cạnh được trải nghiệm quy trình sản xuất nông nghiệp sạch, tự mình thu hái củ quả, còn được “selfie” những khoảnh khắc đẹp, đáng nhớ.
Chị Trang chia sẻ: “Cho đến bây giờ, sau những thất bại ban đầu, tôi và cộng sự cũng đã có được thành quả bước đầu. Niềm vui lớn nhất không chỉ là thành công của mô hình “sản xuất xanh - sống an lành”, mà là sự tin tưởng của khách hàng. Sản phẩm làm ra đều được khách hàng thu hái, mua hết ngay tại vườn. Mọi người đến đây, phần lớn là các em nhỏ, các bạn thanh niên. Nhiều trường học cho học sinh đến trải nghiệm theo mùa, các cặp đôi đến chụp ảnh cưới…”.
DUY CƯỜNG
Hiếu Giang tổng hợp