Kỳ vọng phục hồi bưởi Năm Roi
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Hơn 30 năm trước, tại xã Phú Hữu, huyện Châu Thành (tỉnh Hậu Giang), cây bưởi Năm Roi đã được trồng và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nhiều hộ nông dân, nhưng 10 năm trở lại đây cây bưởi Năm Roi đã không “bám rễ sâu” ở đất này...
Mô hình đã giúp cải thiện, nâng cao năng suất, chất lượng trái bưởi tại vùng nghiên cứu.
Tìm cách phục hồi, phát triển lại loại trái cây đặc sản
Hơn 30 năm trước, tại xã Phú Hữu, huyện Châu Thành, cây bưởi Năm Roi đã được trồng và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nhiều hộ nông dân. Với năng suất cao và hương vị thơm ngon, bưởi Năm Roi Phú Hữu đã dần trở thành loại nông sản đặc trưng của Hậu Giang. Nhưng 10 năm trở lại đây, nhiều vườn bưởi tại địa phương này bắt đầu lão hóa, kém phát triển, khiến sản lượng trái giảm mạnh. Không ít nông hộ đã chuyển sang trồng các loại cây khác mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
Một số kết quả nghiên cứu cho thấy, đất của các vườn bưởi chuyên canh tại Hậu Giang có hàm lượng chất dinh dưỡng ở mức trung bình thấp. Trên các vườn canh tác lâu năm, đất bị bạc màu với độ chua gia tăng, và sự giảm thấp của hàm lượng chất hữu cơ, khả năng hấp thụ cation, chỉ số bền của đất,… Trong khi đó, đa số nông dân đều tự cải tạo đất vườn theo kinh nghiệm riêng, gây ra một số vấn đề bất lợi trên cây bưởi.
Trước thực trạng trên, tỉnh đã triển khai đề tài “Xây dựng mô hình quản lý dinh dưỡng bền vững cho cây bưởi Năm Roi ở Hậu Giang”, là nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp tỉnh năm 2018, do GS.TS Ngô Ngọc Hưng làm chủ nhiệm, Trường Đại học Cần Thơ là tổ chức chủ trì, với tổng kinh phí hơn 1,47 tỉ đồng. Tiến hành nghiên cứu trên địa bàn huyện Châu Thành, đề tài được kỳ vọng sẽ giúp địa phương phục hồi, phát triển lại loại trái cây đặc sản.
Trong 3 năm liên tiếp, ban chủ nhiệm đã tiến hành thí nghiệm trên 3ha đất trồng bưởi ở xã Phú Hữu, Đông Thạnh và Đông Phước (huyện Châu Thành). Với việc sử dụng công cụ DRIS (hệ thống khuyến cáo và chẩn đoán tích hợp), ban chủ nhiệm đã chẩn đoán được tình trạng cung cấp dinh dưỡng của đất và cho thấy các vườn tại đây bưởi đang bị thiếu đạm, lân, kali,… Từ đó, xác định công thức phân bón phù hợp để thử nghiệm cho cây bưởi Năm Roi ở vùng nghiên cứu.
Tiềm năng phát triển
Để xây dựng mô hình quản lý dinh dưỡng bền vững cho cây bưởi Năm Roi ở Hậu Giang, ban chủ nhiệm đề tài đã bón phân theo công thức SSNM (quản lý dinh dưỡng theo địa điểm chuyên biệt) kết hợp với sử dụng phân hữu cơ và phân bón lá. Theo TS. Lưu Hồng Mẫn, nguyên Phó viện trưởng Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long: “Đây là lần đầu tiên công thức SSNM được ứng dụng trong nghiên cứu trên cây bưởi ở Hậu Giang. Kết quả cho thấy, việc ứng dụng công thức bón phân này đã góp phần cho năng suất trái cao, đưa kích thước trung bình của trái bưởi đạt yêu cầu theo định hướng của đề tài”.
Mô hình đã giúp năng suất trái đạt 17,3 tấn/ha, cao hơn so với công thức bón phân hóa học cải tiến (15,8 tấn/ha) và công thức bón phân của nông dân (15 tấn/ha). Trái bưởi từ mô hình đạt kích cỡ trung bình là 1,7kg, hàm lượng nước trong trái khoảng 81% và độ Brix là 9%. Bên cạnh đó, ban chủ nhiệm đề tài còn ứng dụng Chỉ thị chất lượng đất (SQI) để đánh giá và chọn mô hình cải thiện độ phì bền vững, phù hợp điều kiện đất đai vùng nghiên cứu với chi phí sản xuất thấp.
Việc triển khai đề tài đã tạo nhiều chuyển biến tích cực cho việc trồng bưởi Năm Roi tại vùng nghiên cứu. Ông Trần Hồng Đức, Phó trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Châu Thành, cho biết: “Đề tài đã tổ chức được một hội thảo cho cán bộ khuyến nông và người dân trên địa bàn huyện để tiếp nhận kết quả nghiên cứu của đề tài. Nếu như trước đây, người dân đa phần sử dụng phân hóa học thì hiện nay, người dân rất ủng hộ việc sử dụng phân hữu cơ, phân bón lá và nấm Trichoderma theo khuyến cáo của đề tài”.
Để tiếp tục cải thiện hiệu quả cho đất trồng bưởi ở vùng nghiên cứu, ban chủ nhiệm đề xuất nông hộ sử dụng phân hữu cơ kết hợp bón vôi. Do phân lân có hiệu quả sử dụng rất thấp trên đất trồng bưởi, cần nghiên cứu các biện pháp khai thác lân lưu tồn trong đất trồng cây ăn trái để tăng cường độ hữu dụng của phân lân. Biện pháp phun phân bón lá với các thành phần N, P, K cho thấy có hiệu quả làm tăng năng suất và chất lượng trái, cần nghiên cứu thêm tác dụng của vi lượng đến chất lượng trái bưởi.
Bên cạnh việc nâng cao năng suất, chất lượng trái bưởi, thì đầu ra và giá cả sản phẩm là vấn đề cần được quan tâm, chú trọng để phục hồi và phát triển bền vững cây bưởi Năm Roi tại huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang trong thời gian tới.
Bài, ảnh: ĐANG THƯ
Xây dựng vùng nguyên liệu cây ăn quả và hiệu quả bước đầu
Nguồn tin: Báo Long An
Từ khi triển khai đến nay, Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu cây ăn quả vùng Đồng Tháp Mười (ĐTM) đạt chuẩn tiêu thụ trong nước và xuất khẩu trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2022-2025 (gọi tắt là Đề án) bước đầu giúp nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân.
“Điểm tựa” để phát triển cây ăn quả
Những năm gần đây, một số vùng cây ăn quả mới được hình thành tại vùng ĐTM của tỉnh Long An, bước đầu mang lại hiệu quả khá cao từ các mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả.
Loại cây ăn quả chuyển đổi chủ yếu trên địa bàn các huyện ĐTM là mít, sầu riêng, xoài, bưởi, chanh,... với diện tích gần 4.100ha, trong đó diện tích trồng mít, sầu riêng, xoài là hơn 2.300ha, định hướng phát triển đến năm 2025 là hơn 3.900ha.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Hồ Thị Ngọc Lan cho biết: “Việc liên kết tiêu thụ còn hạn chế, sản xuất nhỏ, lẻ, thiếu sự hợp tác. Tỷ lệ sản lượng trái cây tiêu thụ thông qua hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác (THT) còn thấp.
Ngoài ra, công nghệ sau khi thu hoạch, chế biến, bảo quản trái cây chưa thật sự được quan tâm nên tổn thất sau thu hoạch còn khá cao làm ảnh hưởng đến chất lượng, giá sản phẩm,...”.
Do vậy, việc thực hiện Đề án là cần thiết, khi mục tiêu chung của Đề án là hình thành vùng sản xuất nguyên liệu cây ăn quả quy mô hàng hóa tập trung, hiện đại, ứng dụng công nghệ tiên tiến trên cơ sở liên kết bền vững giữa các HTX nông nghiệp với các doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ; đồng thời, phát triển và nâng cao vai trò, hiệu quả hoạt động của các HTX, yêu cầu về chất lượng, giảm giá thành sản phẩm nguyên liệu đầu vào phục vụ chế biến và tiêu thụ;...
Ông Đoàn Văn Trí (ấp 3, xã Tân Hiệp) mướn ruộng để trồng dưa hấu giữa 2 vụ lúa. Theo ông, nhờ đường sá được mở rộng mà mỗi lần thu hoạch, nông dân giảm được chi phí vận chuyển vì thương lái đã có thể vào tận nơi để thu mua
Theo Đề án, huyện Thạnh Hóa được giao chỉ tiêu xây dựng vùng cây ăn quả với diện tích 770ha vào năm 2025. Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thạnh Hóa - Nguyễn Kinh Kha thông tin: Huyện đã quy hoạch khu vực có thổ nhưỡng phù hợp để triển khai, thực hiện (thuộc xã Tân Hiệp); đồng thời, nâng cao năng lực cho HTX và thành viên HTX để đầu tư các hạng mục công trình kết cấu hạ tầng. Đến tháng 02/2024, trên địa bàn huyện đã hình thành vùng nguyên liệu cây ăn quả trong vùng Đề án với diện tích sầu riêng gần 78ha, mít hơn 81ha và chanh gần 560ha.
Hiện nay, huyện đã được đầu tư xây dựng 1 nhà kho sơ chế mít tại HTX Nông nghiệp ấp 4 (xã Tân Hiệp) với diện tích 250m2 và đang thi công hoàn thiện công trình Đầu tư nâng cấp và cải tạo đường bờ Nam kênh 61; đồng thời, Tổ khuyến nông cộng đồng vùng cây ăn quả đã tổ chức các hội thảo, tập huấn,... liên quan đến các kiến thức trồng cây ăn quả phù hợp với địa phương để nông dân áp dụng vào thực tế khu vườn nhà mình.
Chuyển sang trồng mít được khoảng 2 năm nay, anh Nguyễn Bảo Du (ấp 2, xã Tân Hiệp) chia sẻ: “Trước đây, gia đình tôi trồng lúa nhưng lợi nhuận không cao nên quyết định chuyển sang trồng mít, hiện có khoảng 1.000 gốc. Mít dễ trồng, ít bị sâu, bệnh, rất phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng tại địa phương, quả to và nhiều.
Nhờ thực hiện Đề án, địa phương được hỗ trợ cơ sở vật chất, đường sá nên mỗi lần thu hoạch thuận tiện cho thương lái vào thu mua, từ đó không còn bị tình trạng “ép giá” như trước”.
“Thời gian tới, huyện tiếp tục nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các HTX, Tổ khuyến nông cộng đồng trong việc hỗ trợ phát triển sản xuất vùng nguyên liệu cây ăn quả. Huyện sẽ tổ chức thêm những chuyến tham quan, học tập kinh nghiệm giúp nông dân có cơ hội tiếp cận kỹ thuật trồng, nhất là đối với cây sầu riêng, từ đó lựa chọn những phương pháp canh tác phù hợp với thổ nhưỡng địa phương” - ông Nguyễn Kinh Kha thông tin thêm.
Hỗ trợ tích cực cho nông dân
Huyện Tân Thạnh được giao chỉ tiêu xây dựng vùng cây ăn quả với diện tích 3.500ha vào năm 2025, trong đó diện tích trồng riêng sầu riêng là 120ha. Hiện nay, huyện có khoảng 200ha sầu riêng nhưng diện tích cho trái chưa nhiều.
Để thích ứng với đất phèn, những năm qua, người dân lên liếp, đắp mô cho cây, mỗi mô đất cao từ 1-2m. Nếu chăm sóc tốt, 1ha sầu riêng cho từ 8-10 tấn trái trong vụ đầu và sẽ tăng theo tuổi của cây.
Thực hiện Đề án, nhiều lớp tập huấn về kỹ thuật trồng và quản lý sâu, bệnh trên sầu riêng được tổ chức giúp nông dân có thêm kiến thức canh tác.
Anh Trần Đăng Khoa (xã Tân Lập, huyện Tân Thạnh) bộc bạch: “Khi có những lớp tập huấn như thế, nông dân ở đây ai cũng hào hứng để có thêm nhiều kiến thức áp dụng cho vườn nhà mình. Nhiều thương lái khi thu mua đánh giá sầu riêng Tân Thạnh rất thơm, ngon”.
Điều kiện để trái sầu riêng có thể xuất khẩu chính ngạch là có mã số vùng trồng và mã số cơ sở đóng gói. Viện Cây ăn quả miền Nam phối hợp UBND huyện Tân Thạnh xây dựng 3 mô hình thâm canh cây sầu riêng theo tiêu chuẩn VietGAP tại xã Tân Lập; xây dựng 3 mã số vùng trồng sầu riêng với tổng diện tích 68,7ha.
Theo Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tân Thạnh - Mai Văn On, tại xã Tân Lập đã hoàn thành và đưa vào sử dụng đường bờ kênh 1000 Nam để phục vụ người dân sản xuất nông nghiệp. Hai bên bờ kênh được bêtông hóa kiên cố, xe tải 2,5 tấn di chuyển dễ dàng, tạo thuận lợi trong việc vận chuyển trái cây sau thu hoạch. Nơi đây sẽ được xây dựng để trở thành khu du lịch sinh thái.
Được biết, thực hiện Đề án, huyện Tân Thạnh đã được hỗ trợ trang thiết bị, máy móc phục vụ sản xuất, sơ chế, bảo quản, chế biến trái cây. Điển hình như Sở Công Thương đã hỗ trợ 1 máy sấy trái cây cho HTX Nông nghiệp, Sản xuất - Thương mại Hoàng Anh với kinh phí hơn 700 triệu đồng; thực hiện 2 mô hình Ứng dụng hệ thống tưới tiên tiến trên cây ăn trái, quy mô 0,5ha/mô hình, nhằm trình diễn ứng dụng biện pháp tưới tiên tiến, cung cấp đủ và kịp thời nhu cầu nước cho cây ăn trái, đặc biệt là trong mùa khô tại xã Tân Lập và xã Nhơn Hòa Lập.
Theo bà Hồ Thị Ngọc Lan, mục tiêu đến năm 2025 sẽ hình thành vùng nguyên liệu cây ăn quả trong vùng Đề án đạt hơn 10.500ha, trong đó diện tích trồng mít hơn 3.500ha, xoài hơn 700ha, sầu riêng 340ha, còn lại hơn 6.000ha các loại cây ăn quả khác (bưởi, chuối, mãng cầu,...). Được biết, tính đến hết năm 2023, tổng diện tích cây ăn quả trong vùng Đề án là hơn 5.300ha (diện tích trồng sầu riêng 519ha, mít trên 2.620ha và xoài hơn 220ha, còn lại 2.000ha chủ yếu là khóm, chanh, bưởi,...), đạt hơn 50,4% kế hoạch diện tích đến năm 2025./.
Khánh Duy - Châu Thanh
Nắng nóng kéo dài, giá chanh, hạnh tăng cao
Nguồn tin: Báo Kiên Giang
Nông dân trồng chanh và hạnh ở Kiên Giang phấn khởi khi giá bán tại vườn đang ở mức cao.
Tại huyện Tân Hiệp và Châu Thành, chanh núm được nông dân bán cho thương lái và các vựa thu mua từ 14.000-15.000 đồng/kg, chanh không hạt có giá từ 18.000-20.000 đồng/kg.
Giá chanh núm bán lẻ tại nhiều chợ ở mức từ 20.000-25.000 đồng/kg. Chanh không hạt đạt chuẩn VietGAP tại một số siêu thị trên địa bàn TP. Rạch Giá giá bán 42.500-43.000 đồng/kg.
Giá chanh tăng do nắng nóng, nhu cầu làm nước giải khát tăng.
Nhân công thu hoạch hạnh tại vườn của ông Trần Văn Hiền, ngụ xã Mỹ Thái, huyện Hòn Đất.
Hiện giá trái hạnh được nông dân các huyện Hòn Đất, Gò Quao bán cho thương lái và vựa thu mua ở mức 10.500-12.000 đồng/kg, còn giá hạnh bán lẻ tại một số chợ truyền thống, siêu thị ở mức 20.000-32.000 đồng/kg.
Ông Trần Văn Hiền, ngụ xã Mỹ Thái, huyện Hòn Đất (Kiên Giang) cho biết: “Mỗi ngày tôi thu hoạch bán cho công ty thu mua từ 500kg đến vài tấn hạnh. Với giá bán 10.500 đồng/kg, trừ chi phí đầu vào cũng còn lời 2.000-5.000 đồng/kg tùy thời điểm. Những ngày nắng nóng hạnh hút hàng, giá tăng lên 12.000 đồng/kg”.
Tin và ảnh: VIỆT AN
Cần hướng đi bền vững cho sầu riêng Kiên Giang
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Toàn tỉnh Kiên Giang có hơn 260ha trồng sầu riêng, sản lượng ước đạt 1.800 tấn/năm. Tuy sản lượng chưa nhiều so với các vùng trọng điểm khác, song, với hiệu quả kinh tế mà sầu riêng mang lại, rất cần hướng đi đúng và bền vững cho loại nông sản có giá trị cao này.
Nhà vườn ấp Hòa B, xã Hòa Lợi (Giồng Riềng) thu hoạch sầu riêng.
Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện năng suất sầu riêng của Kiên Giang bình quân đạt 7 tấn/ha, tập trung chủ yếu tại các huyện Gò Quao, Giồng Riềng, Châu Thành, Tân Hiệp và TP Phú Quốc. Trong đó, chỉ duy nhất xã Vĩnh Hòa Hưng Nam (Gò Quao) được cấp 2 mã vùng trồng với tổng diện tích sầu riêng 28,5ha. Ông Lương Văn Sáng, ngụ ấp Vĩnh Hòa 2, người đại diện vùng mã vùng trồng (VN.KGOR.0102.SAU.EU), cho biết: "Sau gần 2 năm được cấp mã vùng trồng, đến nay 15ha sầu riêng Ri 6 canh tác theo hướng VietGAP của bà con ở đây vẫn chưa liên kết được với doanh nghiệp tiêu thụ. Chúng tôi vẫn phải bán cho thương lái nên bị ép giá là chuyện thường ngày". Theo ông Sáng cũng như các nhà vườn trồng sầu riêng trong tỉnh, nếu giá giữ ổn định từ 40.000-50.000 đồng/kg thì sầu riêng mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều lần so với cây trồng khác. Ông Nguyễn Văn Mưng, ngụ ấp Hòa A, xã Hòa Lợi (Giồng Riềng) cho biết, năm 2023, ông bán sầu riêng tại vườn với giá 48.000 đồng/kg. Trừ chi phí, ông lãi khoảng 700 triệu đồng từ 1,3ha trồng sầu riêng.
Tỉnh Kiên Giang đang vào vụ thu hoạch rộ sầu riêng, giá thu mua đang giảm từ 60.000-70.000 đồng/kg so với đầu vụ cách nay hơn 1 tháng. Cụ thể, sầu riêng Ri 6 hiện có giá 65.000 đồng/kg, Monthong 120.000 đồng/kg. Ông Nguyễn Thanh Phong, ngụ ấp Thạnh Vinh, xã Thạnh Lộc (Giồng Riềng), cho biết: "Nhờ thu hoạch sớm cách nay gần 2 tháng nên tôi bán được hơn chục tấn sầu riêng Ri 6 với giá từ 120.000-130.000 đồng/kg". Theo ông Phong, sầu riêng là cây lâu năm, trồng từ 4-5 năm mới cho thu hoạch. Với chi phí đầu tư cho đến khi có trái vào khoảng 50 triệu đồng/1.000m2. Do đây là vụ thu hoạch đầu tiên nên ông chưa thể tính toán được lợi nhuận cụ thể.
Ðể sầu riêng không bị lép vế trước sầu riêng của vùng trồng ngoài tỉnh và các nước, nhất là đi vào vết xe đổ dội chợ rất cần một hướng đi riêng. Theo ông Ðặng Xuân Bách, Phó Chủ tịch UBND xã Hòa Lợi, toàn xã có 33ha sầu riêng. Trước tình hình giá thị trường sụt giảm mạnh, thương lái ép giá, bỏ cọc, UBND xã chỉ đạo cán bộ chuyên môn thường xuyên cập nhật theo dõi giá cả thị trường, tình hình tiêu thụ sầu riêng của địa phương, báo cáo định kỳ hằng tuần, nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác thu mua, tiêu thụ sầu riêng theo hướng có lợi cho nông dân.
Thực tế cho thấy, hầu hết quy mô trồng sầu riêng ở Kiên Giang là nhỏ lẻ, ít vùng sản xuất tập trung, thiếu tính liên kết sản xuất, đầu ra chưa thật sự ổn định, chủ yếu bán qua thương lái. Chưa kể, hầu hết nông dân chưa được tập huấn về quy trình canh tác cây sầu riêng nên thiếu thông tin về kỹ thuật trồng, chăm sóc, xử lý ra hoa, quản lý sâu bệnh hại để đảm bảo năng suất, chất lượng sầu riêng. Ông Ðỗ Trần Thịnh, Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Kiên Giang, cho biết: "Không đảm bảo chất lượng, không truy xuất được nguồn gốc thì sầu riêng không xuất khẩu được, lại ùn ứ, dội chợ, người nông dân lãnh đủ. Do đó, thời gian tới, đề nghị ngành Nông nghiệp tỉnh đưa sầu riêng vào danh mục cây trồng được theo dõi, trên cơ sở đó xây dựng và ban hành quy trình kỹ thuật chi tiết cho sản xuất sầu riêng đến người nông dân".
Cũng theo ông Ðỗ Trần Thịnh, Hội Nông dân tỉnh lưu ý các cấp hội khi tuyên truyền cần phân tích hiệu quả, lợi ích của việc liên kết hợp tác sản xuất theo chuỗi giá trị, thành lập mã vùng trồng, sản xuất theo hướng an toàn… cho nông dân hiểu và áp dụng vào những vụ mùa sầu riêng tiếp theo. Hội sẽ tích cực tạo điều kiện để liên kết các vùng sản xuất sầu riêng trong tỉnh theo mô hình kinh tế tập thể để liên doanh một số doanh nghiệp mua sầu riêng xuất khẩu. Qua đó, từng bước xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị sản xuất, tăng thu nhập cho nông dân trồng sầu riêng.
Bài, ảnh: ÐẶNG LINH
Tây Ninh: Nông dân xã Lợi Thuận trồng nấm bào ngư cho thu nhập ổn định
Nguồn tin: Báo Tây Ninh
Tuy mới phát triển trong thời gian gần đây nhưng mô hình trồng nấm bào ngư của nông dân xã Lợi Thuận (huyện Bến Cầu, Tây Ninh) đã và đang mang lại nguồn thu nhập ổn định, mở ra hướng sản xuất mới, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nhiều nông dân địa phương. Nấm bào ngư là loại thức ăn ngon, có giá trị dinh dưỡng khá cao, được nhiều người tiêu dùng chọn làm món ăn hằng ngày; hơn nữa, đây là một trong những loại nấm dễ trồng, thời gian thu hoạch nhanh, chi phí đầu tư không lớn, lại nhẹ công chăm sóc. Tuy mới phát triển trong thời gian gần đây nhưng mô hình trồng nấm bào ngư của nông dân xã Lợi Thuận (huyện Bến Cầu) đã và đang mang lại nguồn thu nhập ổn định, mở ra hướng sản xuất mới, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nhiều nông dân địa phương.
Ông Phan Huy Hải- Tổ trưởng Tổ hợp tác trồng nấm bào ngư ấp Thuận Tâm đang thu hoạch nấm.
Ông Phan Huy Hải, ngụ ấp Thuận Tâm, xã Lợi Thuận (huyện Bến Cầu)- Tổ trưởng Tổ hợp tác trồng nấm bào ngư ấp Thuận Tâm là một trong những người tiên phong với mô hình trồng nấm bào ngư, có thu nhập hơn 100 triệu đồng/năm.
Ông Hải chia sẻ, gia đình ông có truyền thống làm nghề nông, trước đây, ông thường trồng thuốc lá vàng, trồng lúa, nuôi bò thịt. Những năm gần đây, tình hình sản xuất, chăn nuôi gặp nhiều khó khăn do giá vật tư nông nghiệp tăng cao, trong khi giá cả nông sản bấp bênh, thường xuyên thua lỗ nên từ tháng 5.2023, ông quyết định tận dụng diện tích chuồng bò của gia đình để cải tạo lại thành nơi trồng nấm bào ngư. Ban đầu, ông trồng thử nghiệm khoảng 2.000 bịch phôi nấm bước đầu mang về thu nhập ổn định hơn 10 triệu đồng mỗi tháng, từ những kinh nghiệm thực tế, ông đã từng bước mở rộng mô hình và chuyển giao cho nhiều hộ cùng trồng.
Theo ông Hải, nấm bào ngư rất dễ trồng, ít tốn công, dễ chăm sóc, phù hợp với những người lớn tuổi, vừa tận dụng thời gian nhàn rỗi của gia đình, chi phí bỏ ra ít nhưng cho thu hoạch liên tục trong vòng 5 tháng. Từ khi trồng cho tới khi thu hoạch mất khoảng 75 ngày. Cứ 15 ngày thu hoạch 1 lần, mỗi đợt thu hoạch từ 100 - 190 kg. Theo ông Hải tính toán, với giá nấm bào ngư trên thị trường từ 45.000 - 50.000/kg, người trồng thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm.
Nguồn phôi nấm cũng không khó tìm, phôi nấm sau khi mua đem về để lên meo khoảng 2 tháng mở bông gòn ra rồi đậy nắp lại khoảng 10 ngày mở nắp ra và tưới nước cho có độ ẩm để nấm dễ mọc, một ngày tưới nước từ 1-2 lần. Khi thấy xung quanh nút chai có sợi tơ thì tiến hành tháo nút, khi thu hoạch nấm xong sẽ tiến hành vệ sinh nút phôi cho sạch sẽ rồi đậy nắp phôi lại, tiếp tục tưới nước theo dõi phôi nấm khoảng 15 ngày sau là bắt đầu thu hoạch lứa tiếp theo. Đặc biệt, nấm bào ngư thu hoạch vào sáng sớm nhằm bảo đảm nấm được tươi và bán cho thương lái được giá cao.
Được sự vận động của Hội Nông dân xã Lợi Thuận, ông Phan Huy Hải cùng 5 hộ trồng nấm bào ngư tại ấp Thuận Tâm đã đứng ra thành lập Tổ hợp tác trồng nấm bào ngư ấp Thuận Tâm với khoảng 20.000 phôi nấm, mỗi tháng chia làm 4 đợt thu hoạch vào những ngày chay để bán được giá cao.
Khoảng 3 tháng nay, gia đình anh Nguyễn Út Lùng ở ấp Thuận Tâm, xã Lợi Thuận, huyện Bến Cầu có nguồn thu nhập ổn định từ mô hình trồng nấm bào ngư sạch trên kệ trong nhà.
Với 7 kệ, anh trồng 3.500 bịch phôi nấm bào ngư, từ khi chất các bịch phôi lên kệ đến khi thu hoạch dứt điểm là hơn 3 tháng. Mỗi lần, một bịch phôi cho thu hoạch 100g nấm bào ngư xám sạch. Với 3.500 bịch phôi, mỗi ngày anh thu hoạch từ 7 - 10kg nấm thương phẩm, bán với giá từ 40.000 - 45.000 đồng/kg. Mỗi tháng, anh có được lợi nhuận ổn định trên 15 triệu đồng.
Anh Út Lùng cho biết, trước đây anh làm công nhân, lương mỗi tháng chưa đến 10 triệu đồng, lại không có thời gian lo cho gia đình, từ khi chuyển sang trồng nấm bào ngư, anh nhận thấy đây là một hướng đi đúng, giúp phát triển kinh tế gia đình ổn định, lại có điều kiện chăm lo cho gia đình nhiều hơn.
Ông Nguyễn Trung Hiếu- Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Lợi Thuận cho biết, thực hiện chuyên đề “Nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi”, thời gian qua, trên địa bàn xã đã xuất hiện nhiều tấm gương nông dân sản xuất giỏi với nhiều mô hình hay, cách làm sáng tạo. Điển hình là mô hình trồng nấm bào ngư của gia đình ông Phan Huy Hải và các hộ dân tại ấp Thuận Tâm. Dù đây là mô hình còn tương đối mới trên địa bàn, nhưng được nhiều nông dân áp dụng thực hiện thành công, giúp nhiều hộ tăng thêm thu nhập, ổn định cuộc sống.
Để tiếp tục nhân rộng mô hình, tháng 2 năm 2024, Hội Nông dân xã đã vận động thành lập Tổ hợp tác trồng nấm bào ngư ấp Thuận Tâm với 6 thành viên, do ông Phan Huy Hải làm tổ trưởng. Nhằm tạo điều kiện cho các thành viên trong tổ đầu tư sản xuất, Hội Nông dân xã Lợi Thuận đã thực hiện giải ngân số tiền 30 triệu đồng từ nguồn vốn Quỹ Hỗ trợ nông dân cho 2 hộ là thành viên Tổ hợp tác. Bên cạnh đó, Hội Nông dân xã phối hợp với phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Bến Cầu giải ngân số tiền 50 triệu đồng từ nguồn vốn giải quyết việc làm cho các hộ trong tổ có vốn đầu tư mở rộng sản xuất.
Theo ông Hiếu, trong thời gian tới, Hội Nông dân xã sẽ có kế hoạch cụ thể tiếp tục nhân rộng mô hình, tạo điều kiện để nông dân của xã phát triển kinh tế hộ gia đình một cách bền vững và vươn lên làm giàu chính đáng.
Ông Nguyễn Thái Bình- Phó Chủ tịch Hội Nông dân huyện Bến Cầu cho biết, với điều kiện đất đai, khí hậu tương đối thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, nhiều năm qua, nông dân trên địa bàn huyện đã mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi mang lại hiệu quả kinh tế. Dù còn nhiều khó khăn nhưng mô hình trồng nấm bào ngư tại ấp Thuận Tâm đã và đang mở ra hướng đi mới, giúp nông dân có thêm việc làm, tăng thu nhập, góp phần phát triển kinh tế gia đình. Trong thời gian tới, Hội Nông dân huyện Bến Cầu cùng với Hội Nông dân xã tiếp tục triển khai các chính sách để hỗ trợ các hộ nông dân trên địa bàn tìm đầu ra ổn định, giúp các hộ yên tâm sản xuất.
Minh Dương
Nắng nóng: rau màu giảm năng suất
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Nắng nóng kéo dài, cộng thêm ảnh hưởng của xâm nhập mặn khiến việc sản xuất rau màu thời điểm này gặp khó. Để rau màu có thể phát triển tốt, nông dân phải bỏ nhiều công chăm sóc, chi phí tăng. Tuy nhiên, giá rau lại ở mức không cao, lợi nhuận thấp.
Nắng nóng khiến rau màu giảm năng suất, nông dân cực công chăm sóc.
Nhiều nông dân trồng màu cho hay, thời tiết nắng nóng kéo dài trong nhiều tháng qua đã ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển, thậm chí làm hư hỏng nhiều loại rau màu, nhất là các loại chịu nhiệt kém.
Anh Phan Văn Tứ (xã Trung Hiếu, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long) cho biết: “Vụ màu này tôi xuống giống trồng ớt, dưa leo. Tuy nhiên, nắng nóng kéo dài, rồi do đóng cống ngăn mặn nên một số loại bị thiếu nước tưới dẫn đến giảm năng suất, chất lượng không như mong muốn. So với năm trước vụ này chăm sóc cực hơn, phải tưới nước nhiều, tốn chi phí hơn, song giá cũng không cao”.
Có 2 công trồng rau ăn lá, chị Nguyễn Thị Hạnh (xã Phước Hậu, huyện Long Hồ) cho biết: “Vụ này nắng nóng quá. Tôi xuống giống rau nhưng cây con không lên nổi, chỉ đạt khoảng 60%.
Tôi phải thường xuyên ra ruộng rau, tưới nước ngày 4 lần, che chắn nắng để rau không bị cháy lá. Giá rau thời điểm này không cao, sức tiêu thụ chậm, nên không lời nhiều”.
Ông Trần Văn Hiền- Giám đốc HTX sản xuất và tiêu thụ rau an toàn Phước Hậu (xã Phước Hậu, Long Hồ), cho hay: Hiện nay HTX xuống giống rau màu 15,5ha với gần 20 chủng loại. Mấy tháng nay, thời tiết nắng gắt ảnh hưởng đến sản xuất. Theo đó, nhiều loại rau màu bị thiệt hại, vì nắng quá cây con chịu không nổi.
Nhiều loại rau dễ mẫn cảm với thời tiết như ngò rí, xà lách, cần ô, cải ngọt,… nắng nóng quá chịu không nổi, sạ không lên, dù sạ đi sạ lại nhiều lần nhưng cũng không có kết quả, vì cây ra mầm không nổi, hoặc mới lú mầm là quéo đọt. Theo đó, tỷ lệ cây con lên chỉ đạt 50-60%.
Còn đợt rau đã thu hoạch thì giá rau ở mức thấp, sức tiêu thụ chậm nên nông dân trồng rau không có lời nhiều.
Theo ông Hiền, trong những ngày nắng nóng, mặt đất rất dễ bị bay hơi nước gây khô hạn. Nhờ hệ thống đê bao thông thoáng nên không thiếu nước tưới, song nắng quá, tưới cũng không kịp cho cây. Nông dân phải tăng lần nước cho rau, 3- 4 lần/ngày, thay vì 1- 2 lần/ngày so với trước đây.
Nông dân cũng đã sử dụng màng nilon đen, rơm rạ, cỏ khô… phủ xung quanh gốc cây để giữ ẩm, hạn chế việc thoát hơi nước khi trời nóng hoặc làm mái lưới che cho rau màu nhưng vẫn rau màu vẫn bị ảnh hưởng.
“So với vụ mưa thì rau màu vụ này ít bệnh hơn, tuy nhiên giá cả hiện nay cũng bấp bênh, không ổn định. Dự báo tình hình nắng nóng kéo dài như vầy thì vụ sạ tháng này vào tháng 6 thu hoạch thì năng suất sẽ giảm 50- 60%, do đó, dự đoán thời gian tới rau màu sẽ tăng giá hơn”- ông Hiền cho hay.
Anh Nguyễn Văn Tám- Đại diện HTX Rau màu Ngãi Tứ (huyện Tam Bình) cũng cho hay: “Hiện mỗi ngày HTX thu mua khoảng 6-7 tấn rau màu các loại của nông dân ở trong huyện Tam Bình, huyện Trà Ôn, TX Bình Minh.
Thời điểm nắng nóng như nhiều tháng qua khiến năng suất rau màu giảm 30-40%, còn chất lượng cũng giảm 20-30%, sức tiêu thụ rau cho các chợ đầu mối cũng không nhiều”.
Trong khi đó, nhiều tiểu thương tại các chợ cũng cho hay, nắng nóng, rau màu giảm năng suất, giá rau cũng ở mức trung bình chứ không tăng.
Cô Trần Thị Ánh- tiểu thương bán rau chợ Phường 2 (TP Vĩnh Long) cho hay: “Hiện, cải ngọt có giá 12.000-15.000 đ/kg, rau ăn lá các loại từ 15.000-20.000 đ/kg, dưa leo 18.000- 22.000 đ/kg…
Nắng nóng, rau củ cũng giảm chất lượng, không đẹp bằng thời điểm mấy tháng trước. Nắng quá khiến rau dễ bị héo nên phải xịt nước thường xuyên. Sức tiêu thụ rau cũng không nhiều, trong mấy ngày nghỉ lễ sức mua có tăng nhưng nhìn chung không bằng những năm trước”.
Để bảo vệ rau màu, ngành chức năng cũng đã khuyến cáo nông dân nên dự trữ nước tại ruộng để thường xuyên tưới ẩm cho rau màu trong thời điểm nắng nóng như hiện nay.
Ngoài ra, nông dân nên sử dụng các biện pháp che phủ như căng lưới nilon, rơm rạ, lá khô trên mặt luống rau. Đặc biệt khuyến cáo nông dân không tưới ướt rau vào thời gian cao điểm nắng nóng trong ngày để tránh cây rau bị bỏng, cháy lá.
Bài, ảnh: NGUYÊN KHANG
Bình Định: An Toàn phát huy thế mạnh từ cây quế
Nguồn tin: Báo Bình Định
Cây quế đang trở thành một trong những loại cây trồng chủ lực cho phát triển kinh tế hộ gia đình, giúp bà con vùng cao xã An Toàn, huyện An Lão (Bình Định) giảm nghèo, góp phần chống sạt lở đất, bảo vệ môi trường, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc.
Với hơn 180 ha, An Toàn là địa phương đang dẫn đầu huyện về phát triển diện tích cây quế, cũng nhờ cây trồng này mà nhiều hộ dân trên địa bàn có cuộc sống ổn định, khấm khá hơn.
Cây quế đã đem lại nguồn thu nhập ổn định cho nông dân xã An Toàn. Ảnh: D.T.D
Ông Đinh Văn Trai, ở thôn 1, xã An Toàn là hộ điển hình có thu nhập khá từ việc trồng quế. Từ năm 2010, khi Nhà nước có chủ trương giao đất, giao rừng, ông Trai tiên phong đưa cây quế về trồng tại địa phương, trong khi không ít người còn hoài nghi. Giống quế hợp với đất đồi và khí hậu An Toàn, phát triển nhanh, chỉ hơn 10 năm, gia đình đã thu hoạch xuất bán. Nhận thấy đây là cây có tiềm năng, ông Trai mạnh dạn mở rộng thêm diện tích, đồng thời vận động các hộ trong vùng cùng làm theo. Đến nay, ông Trai đã có gần 10 ha quế, thu về hàng trăm triệu đồng. Nhờ đó, ông có tiền xây nhà cửa, nuôi các con ăn học. “Nếu không có cây quế thì việc phát triển kinh tế gia đình tôi cũng như các hộ dân ở đây sẽ rất khó khăn. Nhờ cây trồng này mà đời sống ở thôn, xã cải thiện rõ rệt, nhiều hộ xây dựng được nhà cửa cũng từ bán quế”, ông Trai cho biết.
Theo những người trồng quế lâu năm thì cây quế dễ trồng, dễ chăm sóc, phù hợp với thời tiết ở An Toàn, cây chỉ mất 3 năm đầu trồng, chăm sóc, đến năm thứ 5 trở đi cây khép tán, không phải làm cỏ. Giá vỏ quế thị trường mua khá cao, năm cao điểm bà con bán được 30.000 đồng/kg, thấp gần 20.000 đồng/kg.
Nhận thấy hiệu quả từ cây quế, người dân An Toàn đã tận dụng mọi địa hình, quỹ đất trống để trồng, diện tích cây quế trên địa bàn xã đang ngày càng mở rộng và dần trở thành cây trồng chủ lực tại địa phương trong giảm nghèo. UBND xã đã thành lập Chi hội nghề nghiệp trồng cây quế với 26 hộ tham gia.
Ông Lê Minh Tín, Chủ tịch Hội Nông dân xã An Toàn, cho biết: Khi bắt đầu phát triển cây quế, chúng tôi không nghĩ diện tích cây quế lại phát triển nhanh đến vậy. Thấy có hiệu quả kinh tế cao nên bà con cũng chỉ cho nhau nhân rộng mô hình trồng quế đến tất cả thôn trong xã để cùng nhau vươn lên thoát nghèo.
DIỆP THỊ DIỆU
Sản xuất và thị trường
Nguồn tin: Báo Sóc Trăng
Sản xuất không thể tách rời với thị trường là điều không có gì phải bàn cãi. Tuy nhiên, để điều tiết sản xuất sao cho phù hợp với nhu cầu thị trường lại là vấn đề không hề đơn giản bởi cả sản xuất lẫn thị trường vốn luôn chứa đựng những biến số khó lường đến từ thời tiết, môi trường, dịch bệnh hay những biến động về kinh tế và cả tâm lý người sản xuất nữa…
Năm nay, người trồng mía trong tỉnh Sóc Trăng và khu vực đồng bằng sông Cửu Long đã có thể nở nụ cười thật tươi khi mỗi hécta mía cho lợi nhuận 50 - 60 triệu đồng. Đây cũng là mức lợi nhuận được người trồng mía kỳ vọng để có thể yên tâm gắn bó lâu dài hơn với nghề trồng mía. Việc giá mía tăng cao trong niên vụ này không làm cho người trong cuộc bất ngờ, nếu không muốn nói là tất yếu. Nguyên nhân giá mía tăng cao chủ yếu là do diện tích mía trong toàn vùng đã giảm mạnh sau nhiều năm người trồng mía không có lời. Không nói đâu xa, ngay như vùng trọng điểm trồng mía lớn nhất của tỉnh là huyện Cù Lao Dung ở niên vụ này cũng chỉ có 2.700ha, trong khi mọi năm ít gì cũng 7.000 - 8.000ha, thậm chí có năm trên 10.000ha.
Năm nay, mỗi hécta mía cho lợi nhuận 50 - 60 triệu đồng. Ảnh: TÍCH CHU
Tương tự như cây mía, năm nay giá củ hành tím Sóc Trăng cũng duy trì ở mức cao (bình quân 20.000 - 23.000 đồng/kg) trong suốt vụ, giúp người trồng hành có lợi nhuận khoảng 200 triệu đồng/ha. Đây là loại đặc sản, là cây trồng chủ lực ở thị xã Vĩnh Châu, có diện tích gieo trồng bình quân trong những năm gần đây vào khoảng 7.000ha. Giống như cây mía, cây hành tím cũng có những giai đoạn khó khăn trong tiêu thụ, thậm chí có năm phải kêu gọi giải cứu. Bên cạnh nguyên nhân tắc thị trường xuất khẩu còn có nguyên nhân lớn khác là diện tích tăng nhanh, lại thu hoạch trong thời gian ngắn và cùng với đó là chất lượng không ổn định và hạn chế về công nghệ bảo quản. Tuy nhiên, kể từ khi diện tích trồng hành giảm xuống, mùa vụ được rải ra, quy trình canh tác theo hướng hữu cơ được áp dụng rộng rãi, giá hành theo đó cũng quay lại mức cao.
Từ câu chuyện giá mía, giá hành năm nay một lần nữa cho thấy, sản xuất không thể thiếu sự gắn kết với thị trường, bởi mỗi loại sản phẩm, có tồn tại và phát triển hay không đều do thị trường quyết định. Hay nói một cách khác là sản xuất giờ phải theo tín hiệu thị trường, lấy tín hiệu thị trường để làm định hướng cho việc quy hoạch và điều tiết sản xuất. Chỉ có như vậy, các sản phẩm nông sản làm ra không phải lâm vào cảnh dội chợ, rớt giá hay thua lỗ. Điều này các nhà quản lý và thậm chí cả một số nông dân đều biết, nhưng để vận hành một cách trơn tru đúng theo quy luật thị trường lại là vấn đề không hề đơn giản, bởi ngoài biến số thị trường, sản xuất nông nghiệp vốn dĩ phụ thuộc rất nhiều biến số khác, trong đó có cả tâm lý và tư duy đổi mới của nhà nông. Đơn cử như, chỉ cần 1 - 2 vụ trúng mùa, trúng giá, là gần như ngay lập tức, người người, nhà nhà đổ xô vào sản xuất loại cây con đó mà không cần biết nhu cầu thị trường cần bao nhiêu, chất lượng như thế nào, giá cả sẽ ra sao…
Ai cũng biết, việc điều tiết sản xuất theo quy luật cung - cầu là chuyện không hề đơn giản vì nó còn liên quan đến nhiều yếu tố khác, như: thời tiết, dịch bệnh, biến động kinh tế… nhưng có điều, nếu sản xuất theo kiểu “thấy người ăn khoai, vác mai đi đào” thì chắc chắn sẽ khó thành công, chứ nói chi đến chuyện phát triển bền vững. Do đó, vấn đề quản lý sản xuất theo tín hiệu thị trường, trước hết, ngoài công tác dự tính, dự báo tốt, phải làm sao để nông dân hiểu, tin và làm theo những khuyến cáo của nhà quản lý, theo hợp đồng của doanh nghiệp. Hay nói một cách khác, nông dân muốn sản xuất hiệu quả và bền vững, phải biết thị trường đang cần cái gì, tiêu chuẩn ra sao, số lượng khoảng bao nhiêu, sức tiêu thụ mạnh trong thời gian nào… chứ không phải “thích gì, làm nấy” mãi được.
Đến đây có thể thấy, nếu chúng ta làm tốt công tác khảo sát, đánh giá đúng nhu cầu thị trường và có cách tiếp cận thị trường phù hợp thì loại nào cũng có thể bán được, bởi mỗi chủng loại đều có một phân khúc thị trường riêng của nó. Còn nói rộng hơn, hầu như sản phẩm nông sản chủ lực nào cũng có thể xuất khẩu được, nếu chúng ta đảm bảo đúng chất lượng, đủ về số lượng và làm tốt công tác quảng bá, xúc tiến thương mại. Do đó, chủ trương sản xuất gắn với thị trường là hết sức đúng đắn và nếu chúng ta làm tốt công tác thị trường, chắc chắn đầu ra của nông sản sẽ được rộng mở hơn.
Ông Trịnh Đức Vinh, Giám đốc một doanh nghiệp chuyên xuất khẩu hành tím và một số loại nông sản khác, từng tuyên bố: “Hầu như loại rau màu nào Sóc Trăng đang có cũng đều có thể xuất khẩu được, nếu chúng ta có vùng sản xuất tập trung đủ lớn về số lượng và đảm bảo chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm theo tiêu chuẩn các nước”.
TÍCH CHU
Hòa Bình: Bảo vệ cây trồng vụ xuân trước thời tiết diễn biến cực đoan
Nguồn tin: Báo Hòa Bình
Theo dự báo, thời điểm giao mùa, các hiện tượng thời tiết nguy hiểm như giông, lốc, sét, mưa đá có thể ảnh hưởng lớn tới sản xuất nông nghiệp, đồng thời cũng tạo điều kiện cho các đối tượng, dịch bệnh phát sinh, gây hại trên cây trồng. Để bảo vệ diện tích lúa và cây trồng vụ xuân, ngành nông nghiệp và các đơn vị chuyên môn tích cực rà soát các địa bàn có nguy cơ xảy ra thiên tai ảnh hưởng tới sản xuất, đẩy mạnh tuyên truyền, đồng hành với nông dân, bám sát đồng ruộng để kịp thời kiểm soát sâu, bệnh gây hại, xử lý và khắc phục các tổn thất khi có tình huống xảy ra.
Nông dân xã Đông Lai (Tân Lạc) chăm sóc vườn bưởi đỏ niên vụ mới.
Tại huyện Yên Thủy (Hòa Bình), vụ xuân năm 2024 toàn huyện có 669 ha lúa; diện tích ngô đã trồng trên 1.580 ha; lạc trên 95ha. Đồng chí Bùi Thị Xanh, Phó phòng NN&PTNT huyện cho biết: Để chủ động trong công tác chỉ đạo, hướng dẫn nông dân các biện pháp phòng trừ kịp thời, hạn chế thấp nhất thiệt hại do sâu, bệnh gây ra trên cây lúa, ngô và lạc, Phòng NN&PTNT huyện đã ban hành công văn đề nghị UBND các xã, thị trấn, Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp cử cán bộ kỹ thuật thường xuyên đi cơ sở chỉ đạo sản xuất, hướng dẫn nông dân thực hiện tốt phòng, chống bệnh trên cây trồng. Đồng thời, nắm bắt diễn biến tình hình sâu bệnh, thời tiết để khuyến cáo người dân các biện pháp phòng, chống sâu bệnh hại cũng như thời tiết cực đoan ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng cây trồng vụ xuân.
Trong toàn tỉnh, diện tích gieo cấy lúa vụ xuân trên 16.204ha/15.927ha; lúa trà sớm đang giai đoạn ôm đòng - trỗ bông; trà chính vụ giai đoạn đứng cái - ôm đòng; trà muộn cuối đẻ nhánh - đứng cái. Đây là thời điểm cây lúa rất mẫm cảm với các điều kiện bất thuận của thời tiết và nhiều đối tượng sinh vật gây hại. Chuột cũng tiếp tục gây hại nặng và có xu hướng gia tăng trong thời gian tới; bệnh đạo ôn lá tiếp tục phát sinh gây hại trong điều kiện thời tiết âm u, có sương mù, mưa phùn vào đêm và sáng sớm; có hiện tượng gối lứa rầy trên các trà lúa và tiềm ẩn nguy cơ truyền bệnh lùn sọc đen phương Nam rất cao nếu không có các biện pháp quản lý kịp thời. Bên cạnh đó, trên những diện tích trồng cây có múi, các đối tượng bọ trĩ, nhện nhỏ, sâu vẽ bùa, ruồi đục quả... tiếp tục gây hại rải rác; sâu keo mùa thu gây hại trên 15 ha ngô tại huyện Lạc Thủy; sâu xám, sâu cắn lá, bệnh đốm lá... gây hại rải rác với mật độ và tỷ lệ thấp; bọ phấn trắng gây hại nhẹ rải rác trên cây sắn, mật độ phổ biến 1 - 2 con/lá, cao 3 - 5 con/lá...
Theo dự báo của Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, do ảnh hưởng của El Nino duy trì từ nay đến tháng 6/2024, nhiệt độ trung bình có xu hướng cao hơn trung bình nhiều năm từ 1-2 độ C. Nắng nóng có khả năng tiếp tục xuất hiện nhiều đợt, gay gắt hơn trung bình nhiều năm... Để chủ động trong chỉ đạo sản xuất, phòng chống sinh vật gây hại trên lúa và cây trồng vụ xuân, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đề nghị các cơ quan chuyên môn tăng cường bám sát địa bàn, chỉ đạo cơ sở và hướng dẫn nông dân thống kê các vùng, các xã gieo cấy diện tích trà muộn, những khu đồng nhiễm sâu bệnh hại, hiện mật độ sâu hại lứa trước, tỷ lệ bệnh hại tăng cao. Tránh tư tưởng chủ quan, yên tâm khi thấy lúa đã trỗ bông. Chủ động phối hợp tuyên truyền kịp thời về tình hình sâu bệnh hại trên lúa vụ xuân và biện pháp phòng trừ. Thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo định kỳ, báo cáo đột xuất tình hình sinh vật gây hại chính. Tham mưu, trình lãnh đạo các cấp hỗ trợ kinh phí phòng trừ các đối tượng sinh vật gây hại chính trên lúa; ưu tiên sử dụng thiết bị bay không người lái (UAV) nhằm triển khai phòng trừ nhanh, hiệu quả, đồng bộ; hỗ trợ bơm nước tưới cho các diện tích khô hạn...
Đồng chí Vũ Thị Anh Đào, Chi cục phó Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh cho biết: Chi cục đã chỉ đạo các địa phương tích cực chăm sóc cây có múi giai đoạn quả nhỏ, phát triển quả. Với diện tích cây có múi giống chín muộn, đã thu hoạch cần vệ sinh vườn, cắt tỉa, tạo tán, loại bỏ các cành sâu bệnh, bón phân chăm sóc kịp thời giúp cây trồng sinh trưởng, phát triển tốt. Quản lý chặt chẽ các nguồn nước, hồ chứa, điều tiết nước hợp lý phục vụ sản xuất. Đồng thời đặt bẫy bả chua ngọt nhử bắt trưởng thành sâu keo mùa thu, sâu đục thân… trên ngô và rau màu. Duy trì hệ thống bẫy đèn phục vụ dự tính dự báo dịch hại cây trồng; khuyến cáo nông dân tuân thủ các quy trình kỹ thuật, phòng trừ sâu bệnh, chuột gây hại trên lúa và các loại cây trồng để bảo vệ năng suất.
Thu Hằng
Khó khăn bủa vây người nuôi vịt
Nguồn tin: Báo Phú Yên
Đặt nhiều hy vọng vào mùa chạy đồng để mong kéo giảm chi phí, bù bớt thua lỗ phải gồng gánh gần nửa năm qua, nhưng hiện nay, các hộ nuôi vịt đều chưa thể cho vịt chạy đồng vì thời tiết nắng gắt, ruộng đồng khô nẻ.
Lực lượng thú y cơ sở ở huyện Tuy An tiêm vắc xin cúm gia cầm cho đàn vịt chạy đồng của người dân. Ảnh: NGUYỄN CHƯƠNG
Thua lỗ kéo dài
Mặc dù đã chi 150 triệu đồng thuê lại 300ha ruộng lúa đã thu hoạch của một số địa phương để tận dụng nguồn thức ăn rơi vãi trên đồng ruộng nuôi vịt, nhưng đến nay, gia đình ông Nguyễn Văn Đặng ở xã Hòa Quang Bắc (huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên) vẫn chưa thể cho đàn vịt ăn đồng. Hiện mỗi ngày cả đàn ăn hết 18 bao cám với chi phí khoảng 6,5 triệu đồng.
Ông Đặng cho biết: Từ tháng 3 đến giờ trời không mưa, ruộng đồng khô nứt, vì vậy lúa không lên chét được; cua, ốc trong ruộng cũng khó sống nổi nên vịt chưa thể chạy đồng. Trong khi đó, chỉ còn hơn 1 tháng nữa là bà con vào vụ canh tác mới. Người nuôi vịt hy vọng trời sớm có mưa để vịt ăn đồng được ít ngày, thu hồi bớt tiền thuê đồng.
“Hiện nay, tôi phải cho đàn vịt ăn cám hoàn toàn, bơm nước giếng cho uống, nhưng tỉ lệ cho trứng chỉ đạt hơn 80%. Cứ sau mỗi đêm gia đình phải bù lỗ 200.000 đồng tiền thức ăn, chưa kể chi phí thuê người đổ cám”, ông Đặng nói.
Cùng với đó, từ sau tết đến nay, giá trứng vịt hạ thấp, thu không đủ bù chi nên tất cả hộ nuôi vịt đẻ đều thua lỗ nặng. Theo ông Nguyễn Văn Đặng, sau tết, trứng vịt giảm còn 16.000 đồng/chục (10 trứng), sau đó lên được 17.000 đồng/chục và hiện nay khi các đàn vịt đẻ ở Ninh Thuận không còn nhiều thì trứng vịt Phú Yên mới nhích lên 18.000 đồng/chục.
Tuy nhiên, với mức giá này mà nuôi cám ròng thì người nuôi vẫn còn phải bù lỗ. “Từ tết đến nay, gia đình tôi đã lỗ gần 100 triệu đồng tiền cám. Ban đầu tôi còn trông chờ vào mùa ăn đồng để gỡ gạc, nhưng với tình hình này thì không thể. Mới đây, gia đình tôi đã bán bớt 3.000 con vịt cho người nuôi ở Ninh Thuận để họ đưa vào đó ăn đồng, còn giữ lại 4.600 con”, ông Đặng cho hay.
Nhiều hộ nuôi vịt đẻ khác cũng lựa chọn phương án như gia đình ông Đặng. Bà Trần Thị Thành ở xã Hòa Trị (huyện Phú Hòa) cho biết: Trước đây, chồng tôi còn khỏe thì sau mùa ăn đồng ở địa phương, chúng tôi sẽ thuê xe đưa vịt vào ăn đồng ở các tỉnh phía Nam. Nhưng nay sức khỏe vợ chồng không còn tốt, đi lại khó khăn, mùa đồng ở quê cũng không chạy được nên tôi quyết định bán bớt 3.500 con vịt đẻ cho người khác, gia đình bớt lo tiền cám mỗi ngày.
Theo những người nuôi vịt đẻ, để có được lợi nhuận thì trứng vịt phải có giá từ 20.000 đồng/chục và tỉ lệ cho trứng phải đạt từ 85-90%. Nhưng thời tiết đang quá nóng, vịt ăn kém nên tỉ lệ đẻ trứng cũng giảm, mà để thúc vịt đẻ buộc người nuôi phải bổ sung thức ăn, nước uống, khoáng chất và vitamin, kéo chi phí tăng thêm.
Bình quân nuôi nhốt 1.000 con vịt đẻ thì mỗi ngày phải cho ăn 4 bao cám, khoảng 1,6 triệu đồng (giá mua tại đại lý). Nhưng sau mỗi đêm, vịt chỉ đẻ được 850 trứng, bán với giá 18.000 đồng/chục thì người nuôi phải bù vào 70.000 đồng tiền thức ăn, chưa kể các chi phí khác.
Không nên lơ là phòng dịch
Hiện nay, khi trứng vịt mất giá, hầu hết người nuôi vịt đẻ đều trong tình trạng thu không đủ chi nên nhiều người có tâm lý chán nản, lơ là việc phòng ngừa dịch bệnh cho đàn gia cầm. Trong khi dịch cúm gia cầm vẫn còn xảy ra ở nhiều tỉnh thành trong cả nước, cộng với mùa chạy đồng đã đến nên nguy cơ lây nhiễm, bùng phát cúm gia cầm và dịch tả là rất lớn. Theo Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh, ngoài việc thua lỗ do giá trứng hạ thấp, nếu bà con không chủ động, tích cực phòng ngừa dịch bệnh cho đàn gia cầm, thì nguy cơ xảy ra dịch bệnh rất cao, khi đó thiệt hại sẽ còn lớn hơn nhiều.
Ông Nguyễn Văn Lâm, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh: Ngành Thú y tỉnh đang phối hợp cùng các địa phương tổ chức tiêm phòng vắc xin cúm gia cầm, đến nay đã tiêm được 140.000 liều. So với tổng đàn khoảng 4,5 triệu con thì số gia cầm đã tiêm vắc xin cúm gia cầm còn rất hạn chế. Các địa phương cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, vận động người chăn nuôi thực hiện tiêm vắc xin phòng dịch cho gia cầm để nâng cao tỉ lệ tiêm phòng, đảm bảo hiệu quả của việc phòng dịch.
Với thời tiết nắng nóng như hiện nay, cơ thể gia cầm khó thích nghi kịp nên đề kháng giảm, trong khi môi trường chăn nuôi luôn tiềm ẩn vi rút làm tăng nguy cơ nhiễm bệnh nếu người chăn nuôi không vệ sinh, khử trùng thường xuyên. Để hạn chế rủi ro dịch bệnh, người chăn nuôi phải thực hiện tiêm phòng đầy đủ các loại vắc xin ngừa dịch theo quy định của ngành Thú y, chủ động vệ sinh, tiêu độc môi trường chăn nuôi theo định kỳ, cung cấp đủ thức ăn và nước uống để nâng cao sức khỏe, tăng đề kháng cho gia cầm…
Ông Nguyễn Ngọc Đức, Quản lý Trạm Chăn nuôi và Thú y huyện Phú Hòa cho biết: Tổng đàn gia cầm của toàn huyện có khoảng 420.000 con, trong đó có khoảng 200.000 con vịt. Hiện địa phương đã tiêm được 79.000 liều vắc xin cúm gia cầm. Chúng tôi đang tiếp tục tổ chức tiêm phòng, dự kiến cuối tháng 5 sẽ kết thúc đợt tiêm.
Ngoài ra, trạm cũng đang phối hợp với các xã, thị trấn tuyên truyền, hướng dẫn bà con thực hiện các biện pháp phòng dịch cho vật nuôi, trong đó có gia cầm. Trạm cũng tăng cường kiểm soát việc mua bán, giết mổ gia súc, gia cầm trên địa bàn, các trường hợp nhập đàn, xuất đàn đều đảm bảo yêu cầu theo quy định.
Còn theo Trạm Chăn nuôi và Thú y huyện Tuy An, trạm sẽ giám sát chặt chẽ số lượng, kiểm tra giấy tiêm phòng khi có đàn vịt chạy đồng; vận động người dân chủ động báo cho cơ quan chức năng khi phát hiện các đàn vịt chạy đồng từ nơi khác đến; đồng thời đẩy mạnh tiêm phòng, nhất là ở những vùng có nguy cơ, vùng ổ dịch cũ.
THỦY TIÊN
Hiệu quả các mô hình chăn nuôi áp dụng công nghệ cao
Nguồn tin: Báo Nam Định
Thời gian qua, các doanh nghiệp, hộ chăn nuôi lớn ở nhiều địa phương trong tỉnh Nam Định tiếp tục đầu tư ứng dụng công nghệ cao nhằm tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm và phòng, chống dịch bệnh, bảo đảm vệ sinh môi trường, góp phần phát triển chăn nuôi bền vững.
Trang trại chăn nuôi lợn hữu cơ của anh Nguyễn Văn Thục, xã Trực Thái (Trực Ninh).
Gia đình ông Nguyễn Việt Hùng, xã Yên Lợi (Ý Yên) có kinh nghiệm hơn 20 năm chăn nuôi. Tuy nhiên với mô hình trang trại bán công nghiệp nhỏ lẻ, đàn lợn của ông dễ mắc bệnh và chịu nhiều thiệt hại về kinh tế. Được sự hỗ trợ, hướng dẫn của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ông Hùng đã mạnh dạn đầu tư xây dựng 1.000m2 chuồng trại khép kín, đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn. Hiện 2 trang trại của ông Hùng luôn duy trì nuôi khoảng 1.500 con lợn thịt, gần 50 con lợn nái để tạo nguồn giống tại chỗ cho gia đình và các hộ thành viên nuôi lợn thịt. Áp dụng công nghệ cao vào chăn nuôi lợn, các thành viên HTX chăn nuôi Yên Lợi đều tuân thủ nghiêm các công đoạn từ phối trộn thức ăn đến chăm sóc lợn con, lợn thịt và xử lý tốt môi trường nuôi. Nguồn chất thải, nước thải, phế phụ phẩm chăn nuôi không xả trực tiếp ra môi trường mà được thu gom, xử lý qua hầm biogas trước khi sử dụng tưới cho cây. Thời gian cao điểm, đàn lợn thịt của HTX đạt khoảng 3.000 con. Mặc dù giá thịt lợn thương phẩm của HTX cao hơn so với lợn nuôi theo phương pháp truyền thống song vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường. Từ năm 2020, sản phẩm thịt lợn Yên Lợi và thịt heo hun khói của HTX đã được UBND tỉnh xếp hạng sản phẩm OCOP 3 sao. Mô hình HTX chăn nuôi Yên Lợi cũng là đơn vị đầu tiên của huyện Ý Yên tiên phong sản xuất theo chuỗi khép kín với sự đầu tư về khoa học kỹ thuật, bảo đảm đầu ra, được người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh biết đến với sản phẩm thịt lợn chất lượng, an toàn thực phẩm.
Trang trại chăn nuôi lợn công nghệ cao của ông Phạm Tiến Dũng, thôn Cốc Thành, xã Nghĩa Đồng (Nghĩa Hưng) có quy mô trên 2.000 con lợn thịt xuất khẩu, mỗi năm xuất bán khoảng 700 tấn lợn thịt, lợi nhuận trên 1 tỷ đồng. Để có được kết quả đó, trang trại đã áp dụng hệ thống chuồng khép kín, điều khiển tiểu khí hậu chuồng nuôi, có thiết bị cho ăn bán tự động, vòi uống tự động cho lợn. Người nuôi hạn chế ra vào khu vực chuồng nuôi, giảm nguy cơ lây nhiễm, xâm nhập mầm bệnh từ bên ngoài, nhưng vẫn nắm bắt kịp thời tình hình bên trong trang trại để có biện pháp xử lý khắc phục, bảo vệ vật nuôi, giám sát việc tuân thủ quy trình, kỹ thuật của công nhân trong khi chăm sóc lợn theo đúng chuẩn an toàn sinh học. Ngoài ra, trang trại đã đầu tư công nghệ xử lý chất thải khép kín gồm: máy ép phân, hầm biogas. Đặc biệt, hiện trang trại đang sử dụng hệ thống năng lượng tái tạo là máy phát điện khí sinh học EGreen giải quyết phần lớn khí biogas dư thừa và tiết kiệm chi phí tiền điện 15-20 triệu đồng mỗi tháng. Toàn bộ lượng chất thải chăn nuôi của trang trại được tách bã, ủ men vi sinh làm phân hữu cơ phục vụ cho hơn 10 mẫu trồng ngải cứu xuất khẩu sang Hàn Quốc.
Việc ứng dụng công nghệ vào chăn nuôi trên địa bàn tỉnh ngày càng mở rộng đã giúp giảm bớt sức lao động, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, giúp giảm công lao động, giảm chi phí sản xuất, tăng thu nhập cho các HTX, hộ chăn nuôi. Nhiều trang trại hiện áp dụng hệ thống chuồng khép kín, điều khiển tiểu khí hậu chuồng nuôi, có thiết bị cho ăn bán tự động, vòi uống tự động cho lợn; gà uống nước theo nhu cầu; lắp đặt camera để giám sát từ xa toàn bộ chuồng trại. Đặc biệt nhiều mô hình ứng dụng chế phẩm vi sinh giúp tăng sức đề kháng, giảm khẩu phần thức ăn, hạn chế sử dụng thuốc kháng sinh, khử mùi hôi, nâng cao sản lượng, chất lượng và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm chăn nuôi trên thị trường. Các trang trại đã ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để quản lý, xử lý chất thải trong chăn nuôi như: sử dụng hệ thống máy tách phân để xử lý chất thải của lợn làm phân bón hữu cơ; sử dụng các chế phẩm sinh học EM, đệm lót chuồng sinh học, hệ thống xử lý chất thải… không những giải quyết hiệu quả vấn đề bảo vệ môi trường mà còn nâng cao hiệu quả sản xuất, phát triển chăn nuôi an toàn, bền vững.
Trong quá trình chăn nuôi, các trang trại, hộ chăn nuôi không những được địa phương định hướng phát triển nông nghiệp an toàn, bền vững gắn với bảo vệ môi trường mà còn được hỗ trợ về kiến thức chuyển giao khoa học kỹ thuật. Vì vậy nhiều hộ đã mạnh dạn chuyển đổi hình thức sản xuất nhỏ lẻ sang chăn nuôi với quy mô tập trung, cải tạo hệ thống chuồng trại khép kín với tiêu chuẩn đảm bảo “Ấm về mùa đông - mát về mùa hè”, có hầm biogas để xử lý chất thải sử dụng làm khí đốt. Nhiều mô hình chăn nuôi lợn kết hợp đào ao thả cá, cải tạo vườn trồng cây ăn quả để tận dụng các nguồn nguyên liệu trong sản xuất xoay vòng nhằm làm giảm chi phí đầu tư cho sản xuất. Các hộ chăn nuôi cũng quan tâm hơn trong việc áp dụng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP và chủ động liên kết với các doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời xây dựng quy trình giết mổ, chế biến các sản phẩm từ thịt lợn, gia cầm, thủy sản đảm bảo theo quy trình VietGap, cung ứng ổn định cho các chuỗi cửa hàng kinh doanh thực phẩm sạch trong tỉnh và ngoài tỉnh. Trong nuôi trồng thủy sản, các HTX chuyển hướng từ nuôi trồng quảng canh sang thâm canh, chú trọng áp dụng các công nghệ, mô hình nuôi tiên tiến bền vững theo tiêu chuẩn VietGAP hoặc các tiêu chuẩn tương đương, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm gắn với bảo vệ môi trường. Tiêu biểu như HTX nông nghiệp và nuôi trồng chế biến thủy sản An Hòa, xã Hải Đông (Hải Hậu); HTX Chí Thiện, xã Giao Thiện (Giao Thủy) phát triển mô hình nuôi tôm công nghệ cao, sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý môi trường ao nuôi; HTX nông nghiệp và thủy sản Xương Điền, xã Hải Lý (Hải Hậu) với mô hình nuôi ốc hương công nghệ cao…
Với việc chủ động đầu tư ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi, nên hầu hết các sản phẩm tại các trang trại đều có đầu ra ổn định, có hợp đồng liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm lâu dài với các doanh nghiệp lớn. Bên cạnh đó, để các trang trại phát huy được hiệu quả kinh tế, các địa phương trên địa bàn tỉnh cũng tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư các dự án chăn nuôi công nghệ cao, đồng thời đẩy mạnh hỗ trợ chuyển giao khoa học công nghệ, tạo điều kiện về đất đai xây dựng chuồng trại, vùng chăn nuôi tập trung, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực chăn nuôi nhằm xây dựng chuỗi liên kết giá trị, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế cho ngành chăn nuôi của tỉnh phát triển bền vững./.
Bài và ảnh: Hồng Minh
Nuôi gà trên cát mang lại hiệu quả kinh tế cao
Nguồn tin: Khuyến Nông VN
Anh Trần Văn Nga ở thôn Bắc Hòa, xã Yên Hòa được vinh danh là nông dân điển hình sản xuất, kinh doanh giỏi của huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh khi mỗi năm anh thu lãi trên dưới 300 triệu đồng từ việc chăn nuôi gà trên cát.
Mọi người thường có thói quen nuôi gà trên nền đất, tuy nhiên khi gặp trời mưa, nền đất thường dễ bị đọng nước làm cho mặt sân không được khô ráo, dẫn đến độ ẩm trong môi trường cao. Đó chính là điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn gây bệnh cho gà phát triển, làm giảm năng suất chăn nuôi. Ngược lại, nếu nuôi gà trên nền cát có đặc tính thấm hút nước tốt, thoát nước nhanh, từ đó đảm bảo môi trường khô ráo, lý tưởng, đàn gà được nuôi trên cát sẽ phát triển khỏe mạnh hơn.
Khí hậu ở xã Yên Hòa, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh tương đối nắng nóng, diện tích đất cát nhiều, cây cối khó phát triển nhưng lại là điều kiện thuận lợi để phát triển mô hình nuôi gà trên cát. Với hơn 130 hộ nuôi gà trên cát quy mô từ 500 con/lứa trở lên, xã Yên Hòa trở thành địa phương chăn nuôi gà thương phẩm lớn nhất của tỉnh Hà Tĩnh. Trong đó nổi bật lên hộ anh Trần Văn Nga ở thôn Bắc Hòa.
Kinh tế gia đình khó khăn đã làm anh Nga trăn trở, khát vọng vươn làm giàu chính đáng. Năm 2011, anh Nga tiếp thu những kiến thức từ các buổi tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật, cùng với đó tự mình tìm tòi học hỏi kinh nghiệm chăn nuôi gà đã quyết định bắt tay vào chăn nuôi gà trên cát. Xác định vừa nuôi vừa đúc rút kinh nghiệm nên khi mới triển khai, anh Nga xây 2 chuồng và thả nuôi quy mô 200 con/lứa. Dù nuôi ít nhưng anh vẫn cẩn thận trong từng bước, từ khâu chọn giống gà, đến công tác chuẩn bị sân nền cát, máng ăn, máng uống, làm mái che bóng râm cho gà,… Giống gà anh Nga chọn nuôi là giống gà lai Hồ và gà Mía có được kiểm dịch đầy đủ, lựa chọn ở công ty có uy tín, được vào đủ các loại vắc xin trước khi nhập, mỗi con giống có trọng lượng từ 30 - 35 gam/con.
Theo anh Nga chia sẻ, ngoài định kỳ tiêm phòng các loại vacxin nhằm tăng miễn dịch cho đàn gà thì chuồng trại, các máng ăn máng uống cần phải thường xuyên vệ sinh, chùi rửa sạch sẽ để hạn chế tối đa vi khuẩn tích tụ trong thức ăn thừa và nước đọng lại dễ khiến gà mắc bệnh. Đặc điểm của mô hình nuôi gà trên sàn cát là khí hậu nắng nóng nên việc bổ sung nước uống đầy đủ, các chất điện giải để tránh tình trạng gà bị thiếu nước và tăng cường đề kháng nhằm hạn chế được tình trạng gà bị stress là hết sức quan trọng.
Nhờ chịu khó vừa làm vừa đúc rút kinh nghiệm, thực hiện tốt các khâu chăm sóc nên những lứa gà đầu tiên đã mang lại hiệu quả kinh tế cho gia đình anh. Đó cũng chính là động lực để anh tiếp tục mở rộng quy mô chuồng trại và tăng số lượng đàn gà.
Đến nay, trang trại gà của anh Nga đã nâng quy mô lên 6 dãy chuồng, thả nuôi hơn 7.000 con/lứa. Anh phân thành từng khu để thả nuôi cuốn chiếu nhiều lứa gà với độ tuổi khác nhau. Anh bố trí riêng phần sân chơi nền cát ngoài trời để gà “tắm nắng”, “chạy bộ”, các khu chuồng được chắn bằng lưới thép B40 để làm rào chắn chắc chắn, tạo độ thông thoáng, hệ thống nước uống được lắp đặt tự động. Xung quanh bãi cát anh trồng cây làm bóng râm che mát cho gà.
Vợ chồng anh Nga đang chăm sóc đàn gà nuôi trên cát
Bình quân mỗi tháng, gà đạt trọng lượng trên 2,5 kg anh Nga sẽ tiến hành xuất bán 2 lần, mỗi lần khoảng 2.000 con gà thương phẩm. Lứa mới nhất anh bán với giá 80.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, gia đình thu lãi khoảng 30 triệu đồng. Trung bình mỗi năm cho xuất chuồng 3 lứa, cho thu lãi hàng trăm triệu đồng.
Chia sẻ thêm về kinh nghiệm nuôi gà trên cát đạt hiệu quả, anh Nga cho biết: “Để tăng năng suất chăn nuôi gà trên cát thì cần thực hiện tốt khâu phòng bệnh. Đặc biệt là bệnh cầu trùng. Không nên để sân cát trong tình trạng ngập úng khi trời mưa lâu ngày. Cần rắc một chút bột vôi lên trên bề mặt cát để khử vi khuẩn tích tụ lâu ngày trong cát. Phải thường xuyên dọn dẹp chuồng trại, dọn phân và lông rụng trên bề mặt để đảm bảo vấn đề vệ sinh. Có thể bổ sung thêm cát sau mỗi lứa nuôi gà”.
Ông Trần Đình Cúc – Chủ tịch UBND xã Yên Hòa - cho biết thêm: “Mô hình nuôi gà trên cát của anh Trần Văn Nga không chỉ mang lại kinh tế cao cho cho riêng gia đình anh mà còn là địa chỉ học tập kinh nghiệm chăn nuôi nông hộ gắn với bảo vệ môi trường cho nhiều hộ dân khác trên địa bàn xã Yên Hòa. Hơn 10 năm nay, người dân địa phương áp dụng rất thành công mô hình chăn nuôi gà thả vườn trên cát tại các khu vực đồi cát ven biển.”./.
Hoàng Thanh - Trung tâm Khuyến nông Hà Tĩnh
Thuận Nam (Ninh Thuận): Chủ động bảo vệ đàn gia súc trong mùa nắng hạn
Nguồn tin: Báo Ninh Thuận
Trước tình hình thời tiết nắng nóng như hiện nay, để đảm bảo cho đàn gia súc tiếp tục duy trì và phát triển ổn định, nông dân trên địa bàn huyện Thuận Nam đã triển khai thực hiện nhiều biện pháp chăm sóc, bảo vệ đàn gia súc vượt qua nắng hạn
Chăn nuôi được xem là thế mạnh của huyện Thuận Nam với tổng đàn hiện có hơn 106.000 con gia súc; trong đó đàn bò 13.000 con; dê, cừu 51.000 con, đàn heo hơn 4.000 con. Với tổng đàn lớn, nên ngành chăn nuôi của huyện đang đối mặt với những khó khăn, thách thức do nắng hạn dẫn đến thức ăn cho đàn gia súc ngày càng khan hiếm, đồng cỏ bị thu hẹp. Mặc dù trên địa bàn huyện chưa xảy ra tình trạng gia súc chết, nhưng nếu như tình trạng nắng hạn kéo dài thể trạng đàn gia súc sẽ bị suy dinh dưỡng, nguy cơ thiệt hại đối với các hộ chăn nuôi là khó tránh khỏi. Nhằm duy trì và phát triển đàn gia súc trong điều kiện nắng hạn, địa phương đã tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nông dân đào ao dự trữ nước; tận dụng các nguồn phụ phẩm nông nghiệp; khuyến kích, tạo điều kiện cho những hộ chăn nuôi mở rộng diện tích trồng cỏ; thực hiện việc di chuyển đàn gia súc đến các vùng trũng, thấp gần sông suối nếu nắng hạn gay gắt. Đồng thời, hướng dẫn các hộ chăn nuôi cách chăm sóc, tiêm phòng đàn gia súc, hạn chế thấp nhất thiệt hại trong mùa nắng hạn.
Nông dân xã Phước Nam (Thuận Nam) chăm sóc đàn bò mùa nắng hạn.
Với việc triển khai đồng bộ các giải pháp chăm sóc đàn gia súc, ý thức chủ động ứng phó với nắng hạn của các hộ chăn nuôi trên địa bàn được nâng lên rõ rệt. Đơn cử như hộ ông Kiều Quang Trung, thôn Văn Lâm 4, xã Phước Nam, trước tác động của nắng hạn có thể kéo dài, nguồn thức ăn ngoài tự nhiên ngày càng hạn hẹp, khan hiếm. Để duy trì đàn bò 6 con, cừu trên 20 con trong nắng hạn, gia đình ông đã chủ động dự trữ rơm, rạ và trồng thêm 2 sào cỏ làm thức ăn xanh cho đàn gia súc. Ngoài ra, còn bổ sung thức ăn tinh bột và mật mía, muối trộn với nước để tăng sức đề kháng cho đàn gia súc. Nhờ đó, bò và cừu của gia đình có đủ chất dinh dưỡng, mập mạp và phát triển tốt trong mùa nắng hạn.
Ngoài việc tận dụng các phụ phẩm nông nghiệp để làm thức ăn cho gia súc hiện nay, các hộ chăn nuôi trên địa bàn huyện Thuận Nam đã chủ động trồng được 160ha cỏ. Qua đó, giúp nhiều hộ chăn nuôi giải quyết được tình trạng thiếu thức ăn trong mùa nắng hạn để duy trì và phát triển đàn gia súc, hạn chế thấp nhất thiệt hại do nắng hạn gây ra. Bà Kiều Thị Đặng, thôn Văn Lâm 4, cho biết: Trước đây gia đình chủ yếu chăn thả ngoài tự nhiên là chính, vào mùa khô hay xảy ra nắng hạn nên đàn gia súc thường bị suy kiệt do thiếu thức ăn. Lường trước được những khó khăn trong mùa nắng hạn có thể kéo dài, để đảm bảo cho đàn cừu trên 50 con, gia đình đã chủ động chuyển 3 sào đất sang trồng cỏ và 1 sào bắp làm thức ăn tươi đàn gia súc. Đồng thời, gia đình đầu tư chuồng trại chuyển sang nuôi nhốt để tiện chăm sóc. Cùng với đó, gia đình còn phân loại gia súc để có cách chăm sóc phù hợp. Những con bị suy giảm thể trạng sẽ chuyển sang nuôi nhốt và có chế độ dinh dưỡng riêng và chủ động tiêm vắc xin cho đàn gia súc đúng định kỳ. Nhờ đó, đàn gia súc của gia đình được duy trì ổn định và phát triển tốt.
Đồng chí Khưu Lê Khắc Trí, Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thuận Nam cho biết: Dự báo tình hình nắng nóng có thể kéo dài, để duy trì và phát triển đàn gia súc, huyện Thuận Nam tiếp tục chỉ đạo các xã đẩy mạnh tuyên truyền, vận động người dân phát triển các vùng trồng cỏ nhằm tạo thức ăn xanh; tận dụng các nguồn phụ phẩm sau khi thu hoạch vụ đông - xuân làm thức ăn cho gia súc; bổ sung các loại thức ăn tinh cho gia súc; chủ động tận dụng đất có độ ẩm trồng cỏ, chuyển đổi diện tích đất sản xuất lúa, hoa màu kém hiệu quả sang trồng cỏ để cung cấp nguồn thức ăn xanh cho gia súc; khuyến cáo các hộ chăn nuôi nên cơ cấu lại đàn phù hợp và thực hiện việc tách đàn thành những đàn nhỏ theo từng lứa tuổi để chăm sóc, nuôi dưỡng và di chuyển; hướng dẫn người nuôi chuyển hình thức chăn thả sang chăn nuôi tập trung theo hướng bán công nghiệp, trang trại, gia trại mang lại hiệu quả. Đồng thời chỉ đạo cho các địa phương xây dựng kế hoạch di chuyển đàn gia súc đến khu vực có nguồn nước uống như sông, suối... để đảm bảo nguồn thức ăn, nước uống cho gia súc nếu nắng hạn cục bộ; tăng cường các biện pháp bảo vệ đàn gia súc; thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch bệnh trên đàn gia súc... Qua đó, giúp ngành chăn nuôi của huyện được duy trì ổn định.
Tiến Mạnh
Hiếu Giang tổng hợp