Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học, phân bón hữu cơ trong sản xuất nông nghiệp: Giải pháp phát triển nông nghiệp xanh, bền vững
Nguồn tin: Báo Bình Dương
Thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) và phân bón đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, góp phần bảo đảm và cải thiện năng suất cây trồng. Tuy nhiên, lạm dụng hóa chất, bao gồm thuốc BVTV và phân bón hóa học có thể gây ra nhiều hậu quả không mong muốn, phá vỡ đa dạng sinh học, thoái hóa đất, thậm chí ảnh hưởng đến sức khỏe con người và môi trường. Do đó, sử dụng thuốc BVTV sinh học và phân bón hữu cơ hiện được đánh giá là một trong những giải pháp bền vững, phát triển nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn, phát thải các bon thấp, thân thiện với môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến
Theo Chi cục Trồng trọt và BVTV Bình Dương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) đã ban hành Kế hoạch số 1193/KH-SNN ngày 21-5-2024 về việc triển khai thực hiện đề án Phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học, phân bón hữu cơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Chi cục Trồng trọt và BVTV tham quan mô hình áp dụng quy trình sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên cây rau ăn lá của hộ kinh doanh Rau Nhà mình (phường Hòa Lợi, TP.Bến Cát)
Theo đó, mục đích của Kế hoạch là đẩy mạnh sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học, sử dụng phân bón hữu cơ, góp phần phát triển một nền nông nghiệp xanh, nông nghiệp sinh thái, an toàn và bền vững; nâng cao hiệu quả sử dụng thuốc BVTV sinh học và phân bón hữu cơ trong sản xuất nông nghiệp.
Bên cạnh đó, tận dụng, khai thác nguyên liệu hữu cơ sẵn có để sản xuất phân bón hữu cơ, góp phần giảm ô nhiễm môi trường, giảm phát thải khí nhà kính, cân đối dinh dưỡng vô cơ - hữu cơ để duy trì và nâng cao sức khỏe đất phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững, nhằm tạo ra sản phẩm nông nghiệp an toàn, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, tăng hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp.
Trong thời gian qua, triển khai thực hiện đề án này, Chi cục Trồng trọt và BVTV đã lồng ghép trong các chương trình, dự án, nhiệm vụ thường xuyên thực hiện các công tác tuyên truyền, phổ biến. Trong năm 2024, Chi cục đã tổ chức 12 lớp tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chủ trương của Chính phủ, Bộ NN&PTNT, văn bản của địa phương về phát triển sản xuất, sử dụng phân bón hữu cơ và sản xuất, sử dụng thuốc BVTV sinh học cho người dân, doanh nghiệp, hợp tác xã biết và áp dụng.
Mặt khác, Chi cục đã tổ chức 8 lớp tập huấn, khóa đào tạo hàng năm về áp dụng quy trình thực hành nông nghiệp tốt (VietGAP), quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp (IPHM), nông nghiệp hữu cơ... thuộc đề án Phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020 - 2030 theo Quyết định số 885/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh Bình Dương, Chương trình khuyến nông, kế hoạch thực hiện đề án Phát triển quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp (IPHM).
Mô hình ứng dụng phân bón và thuốc BVTV sinh học trên cây dưa leo bảo đảm an toàn thực phẩm, góp phần bảo vệ môi trường (phường Hiệp An, TP.Thủ Dầu Một)
Ngoài ra, Chi cục cũng đã tổ chức nhiều buổi hội thảo, hội nghị, các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn và tham quan thực tế về công nghệ sản xuất phân bón hữu cơ, phát triển sản xuất phân bón hữu cơ quy mô nông hộ; hướng dẫn sử dụng thuốc BVTV sinh học cho các doanh nghiệp, hộ kinh doanh buôn bán, người sử dụng thuốc BVTV sinh học. Qua đó, đã góp phần phổ biến, nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình hoặc nhóm hộ sản xuất, kinh doanh sản phẩm nông nghiệp.
Bên cạnh đó, Chi cục đã đẩy mạnh công tác khuyến nông, trong đó chú trọng đến phân bón hữu cơ có hiệu quả sử dụng cao, hướng dẫn nông dân áp dụng các giải pháp khoa học công nghệ, tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp. Đồng thời, tiếp tục xây dựng và nhân rộng các mô hình canh tác an toàn, có sử dụng thuốc BVTV sinh học trên các cây trồng chủ lực, cây trồng có tiềm năng của tỉnh (như chuối, bưởi, mít, rau…) các mô hình nông dân tự sản xuất và sử dụng chế phẩm sinh học BVTV.
Trong năm 2023 và 2024, Chi cục Trồng trọt và BVTV đã thực hiện 3 mô hình sử dụng phân bón hữu cơ, thuốc BVTV sinh học, chế phẩm sinh học. Mô hình được thực hiện trên cây dưa leo (phường Hiệp An, TP.Thủ Dầu Một), trên cây bưởi (xã Lạc An, huyện Bắc Tân Uyên) và trên cây rau (phường Định Hòa, TP.Thủ Dầu Một). Kết quả từ các mô hình bước đầu thay đổi tập quán canh tác của nông dân từ sử dụng phân bón, thuốc BVTV có nguồn gốc hóa học sang sinh học, đạt hiệu quả trong quản lý đối tượng dịch hại, tăng năng suất cây trồng, bảo vệ sức khỏe người dân và bảo vệ môi trường.
Tăng cường thanh, kiểm tra
Hiện trên địa bàn tỉnh có 9 công ty sản xuất phân bón hữu cơ với công suất gần 200.000 tấn/năm, sản xuất các loại phân hữu cơ, hữu cơ vi sinh, hữu cơ khoáng, hữu cơ sinh học, sử dụng nguyên liệu là than bùn, phân chuồng, than bánh dầu, bã mùn mía…
Để triển khai đề án một cách hiệu quả, Chi cục trồng trọt và BVTV đã đề ra một số giải pháp trọng tâm thực hiện, như tăng cường triển khai các cơ chế chính sách trong lĩnh vực nông nghiệp cho các doanh nghiệp, trang trại, hợp tác xã, người dân tiếp cận và thụ hưởng. Đồng thời rà soát, tham mưu, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định, chính sách hỗ trợ trong sản xuất nông nghiệp chưa thật sự phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương.
Ngoài ra, Chi cục khuyến khích phát triển sản phẩm ứng dụng công nghệ thông tin tạo sự minh bạch thông tin, đảm bảo truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Chi cục giám sát việc ghi chép nhật ký sản xuất trên hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông nghiệp Mtrace (mã truy xuất) của 3 hộ ở xã Bạch Đằng (TP.Tân Uyên).
Không những thế, Chi cục Trồng trọt và BVTV còn chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về lĩnh vực thuốc BVTV và phân bón. Đồng thời, lấy mẫu giám sát chất lượng sản phẩm phân bón, thuốc BVTV tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, buôn bán, nhập khẩu và sử dụng phân bón, thuốc BVTV trên địa bàn tỉnh nhằm bảo đảm theo quy định của pháp luật.
Bộ NN&PTNT đã phê duyệt đề án Phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học, phân bón hữu cơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Việt Nam phấn đấu trở thành quốc gia có tỷ lệ sử dụng thuốc BVTV sinh học dẫn đầu trong trong khu vực. Các cơ sở sản xuất thuốc BVTV sinh học quy mô công nghiệp có công nghệ, trang thiết bị hiện đại, chủ động sản xuất được các thuốc BVTV sinh học tiên tiến đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Phương Anh - Kim Tuyến
Đất khóm nay đã khác xưa...
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Là loại cây trồng đặc trưng, chủ lực tại thành phố Vị Thanh, khóm Cầu Đúc (Hậu Giang) đã tạo nhiều chuyển biến tích cực trong đời sống người dân. Về thăm nơi đây, ai cũng phải cảm thán, vùng khóm nay đã khác xưa.
Đổi đời nhờ khóm
66 tuổi, nhưng ông Lê Thanh Sơn, ở ấp Thạnh Xuân, xã Hỏa Tiến, thành phố Vị Thanh, đã có 46 năm gắn bó với cây khóm. Là cựu chiến binh, từng tham gia kháng chiến chống Mỹ, cuối năm 1978, ông Sơn mới trở về quê hương để làm kinh tế, gây dựng lại cuộc sống gia đình. Lúc bấy giờ, khóm Cầu Đúc đã có mấy chục năm bám rễ ở xứ này, mang lại thu nhập khá cho người dân, được ông Sơn chọn để trồng.
Khóm Cầu Đúc giúp đời sống nhiều người dân từng bước được nâng lên.
Buổi đầu khởi nghiệp lắm gian nan. Thiếu vốn liếng, chưa có kỹ thuật, nên gia đình ông Sơn phải đi vay mượn lãi cao để sửa đất, lên liếp, rồi xin từng cây khóm giống về trồng. Nhờ chịu khó học hỏi và chăm bón, nên sau 2 năm, khóm bắt đầu cho thu hoạch và mang lại lợi nhuận khá. Gia đình ông dần trả được nợ, ổn định cuộc sống. Rồi từ gia đình lớn, ông Sơn lập gia đình riêng và mua thêm 15 công đất để trồng khóm cho đến ngày nay.
Qua 46 năm gắn bó với cây khóm, hơn ai hết, ông Sơn hiểu rõ những giá trị loại cây này mang lại cho đời sống người dân xứ mình. Ông Sơn chia sẻ: “Giờ mà khóm bán từ 8.000 đồng trở lên thì người nông dân có lời. Ngoài khóm trái, thì tụi tui còn bán được con khóm. Rồi khi khai phá thì bán củ hủ để làm món ăn. Dưới mương khóm, tui tận dụng nuôi ốc, cá sặc rằn, cá dày rồi trồng rau nhút để kiếm thêm thu nhập”. Nhờ vậy mà từ những ngày đầu tay trắng, giờ gia đình ông đã có nhà cửa khang trang, cuộc sống khá giả.
Toàn xã Hỏa Tiến hiện có 1.220ha đất trồng khóm, trong đó có hơn 900ha đang thu hoạch. Đây là loại cây có diện tích trồng lớn nhất của địa phương này. Cây khóm đã góp phần giúp đời sống người dân nơi đây từng bước được nâng lên. Từ một xã nghèo, Hỏa Tiến từng bước đạt chuẩn xã nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao rồi nông thôn mới kiểu mẫu. Hiện nay, thu nhập bình quân đầu người của xã đạt khoảng 79 triệu đồng/người/năm.
Thành phố Vị Thanh hiện có 2.475ha đất trồng khóm, trong đó diện tích thu hoạch là 1.766ha, với năng suất trung bình khoảng 16,64 tấn/ha. Mỗi trái loại 1 có giá bán tại rẫy dao động từ 11.000 đồng đến 15.000 đồng. Mức giá này mang lại cho người trồng khóm lợi nhuận khá. Ngoài ra, còn có thu nhập từ việc bán con khóm, củ hủ khóm.
Cứ thế, đời sống người dân xứ khóm từng bước được nâng lên. Nhiều hộ trở nên khá giả nhờ trồng loại cây này.
Đưa khóm Cầu Đúc vươn xa
Để phát triển vùng khóm, thời gian qua, thành phố Vị Thanh đã quan tâm, áp dụng khoa học kỹ thuật trên loại cây này.
Tiêu biểu là việc triển khai các mô hình trồng khóm theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, khóm hữu cơ. Xây dựng mã số vùng trồng cho trái khóm tiêu thụ nội địa và xuất khẩu sang thị trường châu Âu. Tổ chức các chương trình tập huấn, tham quan học tập kinh nghiệm. Đẩy mạnh kinh tế tập thể để người dân canh tác và tiêu thụ khóm thuận lợi hơn.
Ở xã Tân Tiến hiện có 1 hợp tác xã, 4 tổ hợp tác trồng khóm. Ông Huỳnh Văn Trung, Phó Chủ tịch UBND xã, cho biết: “Trong thời gian tới, chúng tôi tiếp tục vận động người dân cải tạo diện tích đất thấp và già cỗi để trồng khóm mới. Tuyên truyền người dân sản xuất khóm an toàn, hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học và tăng cường dùng phân bón hữu cơ. Đẩy mạnh cơ giới hóa trong các khâu của quá trình trồng. Hình thành và củng cố hoạt động của các hợp tác xã, tổ hợp tác trồng khóm trên địa bàn xã”.
Là loại cây lâu đời tại địa phương, người dân không chỉ trồng khóm Cầu Đúc để bán trái tươi, mà còn tận dụng chế biến đa dạng hóa sản phẩm. Tâm huyết với trái khóm, từ năm 2019, anh Lâm Trường Thọ, ở ấp Thạnh Thắng, xã Hỏa Tiến, bắt đầu nghiên cứu các sản phẩm từ khóm. Hiện nay, Cơ sở sản xuất Trường Thọ của anh đã có 2 sản phẩm đạt chuẩn OCOP 3 sao là Rượu khóm Trường Thọ và Nước màu khóm Trường Thọ. “Tôi đang tiếp tục nghiên cứu thêm các sản phẩm bánh, kẹo làm từ khóm để đưa ra thị trường trong thời gian tới, góp phần phát huy giá trị cây khóm xứ mình”, anh Thọ chia sẻ.
Ngoài rượu khóm, nước màu khóm, thành phố Vị Thanh còn có các sản phẩm làm từ khóm đạt chuẩn OCOP như: Mứt khóm, Dưa chua củ hủ khóm (Cơ sở sản xuất Vân Lộc, xã Hỏa Tiến), Siro khóm Huy Minh, Siro khóm củ dền Huy Minh (Cơ sở sản xuất Huy Minh, phường VII),... Ngoài ra, còn có những món ăn được chế biến từ trái khóm và củ hủ khóm. Tất cả đã trở thành đặc sản của địa phương, góp phần đưa hương vị khóm Cầu Đúc vươn xa.
Ngày nay, vùng trồng khóm Cầu Đúc là một điểm du lịch tiềm năng của tỉnh. Đến đây, du khách không chỉ được ngắm nhìn những rẫy khóm bạt ngàn, được trải nghiệm cuộc sống của người nông dân trồng khóm, mà còn được thưởng thức các món ngon từ khóm.
Còn đối với những ai đã từng đến nơi này vào mấy thập kỷ trước, chắc giờ sẽ phải bất ngờ, bởi: Đất khóm nay đã khác xưa!
ĐANG THƯ
Thu nhập khá từ cây dừa xiêm
Nguồn tin: Báo Bình Định
Sau thời gian đi nhiều nơi và làm nhiều công việc khác nhau, ông Lê Đình Mẫn (ở thôn Hội Vân, xã Cát Hiệp, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định) chọn quay về quê để phát triển kinh tế gia đình.
Nhận thấy cây dừa xiêm không những thích nghi và phát triển tốt mà khi trồng trên đất Cát Hiệp còn ngọt nước, được thị trường ưa chuộng, giá cao lại ổn định, năm 2007, ông Mẫn chuyển gần 4.000 m2 đất vườn nhà sang trồng 120 cây dừa xiêm lùn thay cho các cây trồng cạn trước đây.
Ông Mẫn thu hoạch dừa. Ảnh: TRƯỜNG GIANG
Với bản tính cần cù, ông Mẫn tích cực đầu tư chăm sóc, nhờ đó cây dừa sinh trưởng phát triển tốt, sau 36 tháng trồng bắt đầu ra trái và đến khoảng 60 tháng thì ra trái rộ. Từ thành công đó, năm 2018, ông tiếp tục ươm giống trồng thêm 100 cây dừa xiêm nữa, nâng tổng dừa xiêm của gia đình ông đến nay lên 220 cây và tất cả đều sinh trưởng, phát triển tốt, cho trái đều.
Ông Mẫn cho biết, mỗi cây cho từ 100 - 120 trái/năm, được thương lái đến tận vườn mua, với giá bán bình quân 9.000 đồng/trái, mỗi năm vườn dừa đem lại cho ông hơn 200 triệu đồng. Ngoài ra, tận dụng diện tích đất dưới tán dừa và nguồn phụ phẩm từ sản xuất nông nghiệp, ông còn thả nuôi thêm 5 con bò sinh sản, hơn 100 con gà/lứa, không những tạo nguồn phân chuồng bón cho cây dừa mà còn có thêm thu nhập khoảng 80 triệu đồng/năm.
Theo ông Mẫn, hiện nay, nhu cầu sử dụng thực phẩm sạch, thực phẩm hữu cơ ngày càng tăng cao, do đó, ông đang liên kết với một số ngành và DN thực hiện sản xuất dừa theo hướng hữu cơ; đồng thời, áp dụng các tiến bộ KHKT vào khâu chăm sóc, bảo quản để tạo đầu ra ổn định và nâng cao giá trị cây dừa xiêm, tăng thu nhập cho gia đình.
TRƯỜNG GIANG
Vũng Liêm (Vĩnh Long): Đẩy mạnh phát triển vùng nguyên liệu dừa hữu cơ
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Trồng dừa theo hướng hữu cơ đem lại nhiều lợi ích cho nông dân.
Huyện Vũng Liêm (Vĩnh Long) đã và đang tập trung xây dựng vùng nguyên liệu dừa bền vững bằng cách phát triển chuỗi giá trị cây dừa, góp phần tăng lợi nhuận, thu nhập cho nông dân, phát triển kinh tế địa phương.
Nhiều lợi ích cho nông dân
Theo Trạm Trồng trọt-BVTV huyện Vũng Liêm, trong cơ cấu lại ngành nông nghiệp, huyện chọn các cây chủ lực và tiềm năng, trong đó có cây dừa. Để đáp ứng nhu cầu thị trường, nâng cao giá trị ngành hàng dừa, thời gian qua, ngành nông nghiệp huyện đã phối hợp với các địa phương từng bước xây dựng vùng trồng dừa hữu cơ, đạt chuẩn xuất khẩu. Cùng với việc lựa chọn vùng trồng đủ điều kiện, ngành nông nghiệp hướng dẫn nhà vườn thực hiện mã số vùng trồng (MSVT), thống nhất quy trình sản xuất, ghi chép đầy đủ nhật ký canh tác, quản lý sinh vật gây hại theo yêu cầu của nước nhập khẩu và tuân thủ đầy đủ điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm.
Có 15 công trồng dừa theo hướng hữu cơ, cô Nguyễn Thị Đừng (xã Trung An, huyện Vũng Liêm) cho biết: “Trồng dừa theo hướng hữu cơ không quá khó lại được nhiều lợi ích. Tôi không sử dụng phân bón, các loại thuốc BVTV có nguồn gốc hóa học, kiểm soát chất lượng nguồn nước tưới, đồng thời, cung cấp dinh dưỡng cho dừa là từ các loại phân hữu cơ, hữu cơ vi sinh… Nhờ đó, vườn dừa của tôi phát triển tốt, ít tốn chi phí, đạt năng suất cao. Trung bình 1 tháng vườn dừa thu hoạch 2.400 trái, với mức giá 130.000-132.000 đ/chục, gia đình tôi có thu nhập khá”.
Cũng có 10 công dừa trồng theo hướng an toàn, hữu cơ, anh Nguyễn Văn Phước Yên (xã Trung An, huyện Vũng Liêm) cho hay: “Nhiều năm nay tôi không còn sử dụng phân hóa học mà thay vào đó tôi tận dụng phân bò, ủ thêm phân hữu cơ để bón cho cây dừa. Năng suất dừa vẫn đạt tốt, từ 300-350 trái/công, dừa khỏe, ít sâu bệnh, lại bảo vệ môi trường. Thêm vào đó, giá cả đầu ra luôn ổn định, cao hơn giá thị trường khoảng 5-10%, được bao tiêu sản phẩm nên tôi an tâm trồng”.
Bà Ngô Thị Linh Tuyền- cán bộ địa chính nông nghiệp xã Trung An, cho hay: Thời gian qua, cây dừa đem lại giá trị kinh tế cao nên nông dân tập trung chăm sóc vườn dừa. Địa phương cũng phối hợp tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật trồng dừa, hướng dẫn nông dân nhận biết và kiểm soát các loại dịch hại trên cây dừa, cách bảo vệ thiên địch, thả bọ đuôi kìm, ong ký sinh…
Phát triển vùng nguyên liệu dừa hữu cơ bền vững
Tuy nhiên, theo ngành chức năng, việc triển khai thực hiện vùng dừa hữu cơ, MSVT cũng còn gặp không ít khó khăn. Cụ thể, yêu cầu về diện tích cho một vùng trồng cây ăn trái tối thiểu là 10ha trong khi diện tích canh tác của từng hộ nông dân ở huyện Vũng Liêm rất thấp, cần khoảng từ 30-35 nông dân đồng thuận tham gia. Do vậy, rất khó để chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp kỹ thuật tại vùng trồng đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu.
Các vùng trồng chưa cập nhật nhật ký sản xuất của vùng trồng lên cơ sở dữ liệu ngành trồng trọt, chủ yếu nhờ cán bộ NTM xã cập nhật. Trong khi đó, một số địa phương chưa thật sự quan tâm công tác tuyên truyền vận động người dân về xây dựng MSVT nên việc thiết lập mã số vùng trồng gặp nhiều khó khăn. Những quy định về xây dựng và cấp MSVT theo yêu cầu của nước nhập khẩu rất nghiêm ngặt, người nông dân có ý thức chưa cao trong việc chấp hành các quy định này.
Ông Hà Văn Thái- Chủ tịch UBND xã Trung An (huyện Vũng Liêm) cho biết: Trước đây, nông dân trồng dừa theo cách truyền thống, sử dụng phân hóa học, chưa kiểm soát tốt dịch bệnh, hiệu quả kinh tế chưa cao. Do đó, địa phương đã vận động nông dân trồng theo hướng an toàn hữu cơ, nông dân cũng dần nâng cao nhận thức, từng bước thay đổi thói quen sản xuất theo hướng an toàn, nâng cao chất lượng trái dừa.
“Toàn xã hiện có khoảng 400ha trồng dừa, trong đó có 78,4ha trồng theo tiêu chuẩn organic. Bên cạnh việc giữ ổn định diện tích trồng dừa, định hướng thị trường cho nông dân, xã cũng sẽ thành lập nhóm Zalo cộng đồng để công khai giá dừa cho nông dân biết, giúp đạt lợi nhuận cao, tránh tình trạng bị thương lái ép giá. Bên cạnh đó, xã sẽ hoàn thành thủ tục thành lập HTX dừa hữu cơ, đồng thời tiếp tục phát triển vùng nguyên liệu dừa hữu cơ”- ông Thái cho biết thêm.
Theo ông Nguyễn Văn Sáu- Trưởng Trạm Trồng trọt-BVTV huyện Vũng Liêm, thời gian qua, các MSVT đã được cấp xuất khẩu giá trị nông sản tăng lên rõ rệt, đầu ra nông sản ổn định, tăng lợi nhuận cho người nông dân. Theo đó, khi nông dân sản xuất dừa được chứng nhận hữu cơ thì công ty sẽ mua cao hơn giá thị trường 5%. Thời gian tới, huyện tiếp tục tập huấn, tuyên truyền, hướng dẫn, vận động người dân hiểu rõ về lợi ích của việc xây dựng MSVT, cũng như sản xuất hữu cơ, hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật để nông dân tự nguyện tham gia sản xuất.
Vũng Liêm hiện có trên 5.160ha trồng dừa, trong đó, có gần 4.400ha đang cho trái. Huyện có 48ha dừa ở xã Trung An được chứng nhận hữu cơ. Dự kiến, diện tích làm hữu cơ toàn huyện 500ha (kết hợp với Công ty CP Đầu tư dừa Bến Tre Beinco). Toàn huyện có 7 MSVT dừa xuất khẩu ở xã Tân An Luông (trên 86ha với 212 hộ) và xã Trung Nghĩa (10,25ha với 18 hộ); 8 MSVT nội địa ở các xã: Tân An Luông, Hiếu Phụng, Trung An, Trung Nghĩa.
Bài, ảnh: TRÀ MY
Bến Tre: Thả hơn 150 triệu ong ký sinh phòng trừ sâu đầu đen
Nguồn tin: Báo Đồng Khởi
Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (TT&BVTV) tỉnh Bến Tre Võ Văn Nam cho biết, ngành chức năng đang triển khai giải pháp sinh học phòng trừ sâu đầu đen (SĐĐ) hại dừa; trong đó, tập trung nhân nuôi và phóng thích ong ký sinh (OKS) Habrobracon hebetor và Trichospilus pupivorus để quản lý SĐĐ.
Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Võ Văn Nam kiểm tra nhân nuôi ong ký sinh.
Theo đó, từ đầu năm 2024 đến nay, Chi cục TT&BVTV tỉnh, các huyện đã phóng thích hơn 150 triệu OKS SĐĐ hại dừa. Riêng trong năm 2023, toàn tỉnh phóng thích hơn 372 triệu con OKS SĐĐ hại dừa.
Ông Võ Văn Nam cho biết, hiện nay, các tổ TT&BVTV các huyện phối hợp với UBND các xã trên địa bàn tỉnh tăng cường rà soát lại diện tích nhiễm phát sinh từ thời điểm nắng nóng để sớm phát hiện phòng trị, không để lây lan thành ổ dịch lớn khó kiểm soát. Tăng cường công tác truyền thông, tổ chức tập huấn để tuyên truyền, vận động nông dân không phun xịt thuốc sau khi thả ong để bảo vệ nguồn OKS ngoài đồng, đảm bảo hiệu quả phòng trừ. Phối hợp với UBND các xã có vườn dừa nhiễm SĐĐ vận động nông dân thực hiện quy trình quản lý tổng hợp.
“Vào thời điểm nắng nóng là môi trường thuận lợi cho SĐĐ phát triển, nhưng lại là thời điểm bất lợi để nhân nuôi phóng thích OKS. Do đó, gây phát sinh các diện tích nhiễm SĐĐ. Hiện đang vào mùa mưa là điều kiện tốt để nhân nuôi phóng thích OKS, vì vậy, ngành chức năng các địa phương tổ chức nhân nuôi để phóng thích OKS, làm tăng mật độ OKS phòng trừ SĐĐ gây hại”, ông Võ Văn Nam cho biết thêm.
Ông Võ Văn Nam khuyến cáo, người dân cần tuân thủ đúng biện pháp quản lý tổng hợp SĐĐ hại dừa; chủ động thường xuyên thăm vườn để phát hiện sớm SĐĐ gây hại; cắt tỉa tàu lá hoặc lá chét bị sâu gây hại trên cây dừa và cây ký chủ phụ (cau, dừa nước, cọ, chuối...), tiêu hủy bằng cách đốt hoặc vùi xuống nước nhằm làm giảm mật số sâu hại.
Đây là biện pháp rất quan trọng, hiệu quả (diệt cả trứng, sâu non và nhộng), an toàn môi trường và cần phải thực hiện ngay khi phát hiện SĐĐ gây hại; bón phân cân đối, chia làm nhiều đợt bón giúp cây khỏe để nhanh phục hồi sau khi bị gây hại; không vận chuyển cây dừa giống, các cây ký chủ phụ và trái dừa bị nhiễm SĐĐ sang các vùng khác để hạn chế lây lan. Ngoài ra, khi phát hiện vườn dừa bị hại nặng, cần cắt tỉa tiêu hủy tàu lá/ lá chét bị sâu hại trước khi phun thuốc bảo vệ thực vật, sau phun thuốc từ 2 tuần trở lên tiến hành phóng thích OKS và ngừng phun thuốc...
Theo Chi cục TT&BVTV tỉnh, tổng diện tích vườn dừa nhiễm SĐĐ hiện tại hơn 630ha, tăng 16ha so với tuần trước. Lũy kế diện tích phục hồi sau khi thực hiện các biện pháp phòng trừ hóa học và sinh học hơn 2.274ha, diện tích đốn do bị SĐĐ gây hại hơn 93ha. Trong 630ha nhiễm SĐĐ, diện tích nhiễm nhẹ hơn 309ha (tỷ lệ hại 10 - 20%), nhiễm trung bình 181ha (tỷ lệ hại > 20 - 40%) và nhiễm nặng hơn 140ha (tỷ lệ hại > 40%).
Tin, ảnh: Phúc Hậu
Đất lúa dần ‘đói’ dinh dưỡng
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Nâng cao năng lực, nhận thức trong việc bảo vệ “sức khỏe” của đất, cũng chính là bảo vệ sự phát triển của ngành sản xuất nông nghiệp.
Theo các chuyên gia, đất lúa vùng ĐBSCL hiện đang đối mặt với tình trạng mất cân đối dinh dưỡng do khai thác quá nhiều và chưa đúng cách. Việc đẩy cao cường độ thâm canh, tăng vụ, sử dụng phân bón (PB) vô cơ chưa cân đối, chưa tuân thủ các quy trình canh tác tiên tiến đã làm mất cân bằng dinh dưỡng trong đất, làm ảnh hưởng đến các tính chất sinh học đất. Do đó, cần có giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng PB, giảm chi phí, tăng thu nhập cho người dân và giảm phát thải khí nhà kính.
Đất suy giảm chất lượng
Nằm phía cuối hạ nguồn sông Mekong, ĐBSCL là một trong những điểm nóng trên toàn cầu về biến đổi khí hậu, như: nước biển dâng, tình trạng xâm nhập mặn đang ngày càng nghiêm trọng. Điều này, ảnh hưởng trực tiếp đến tính chất của đất, và tác động đến năng suất lúa và đời sống nông dân.
Thực tế sản xuất lúa tại ĐBSCL cho thấy, áp lực thâm canh tăng vụ dẫn đến việc sử dụng PB không hợp lý đã làm cho chất lượng đất giảm đi, có thể nói là làm cho đất bị suy thoái. Tại các vùng đất lúa 3 vụ, qua thời gian, để duy trì năng suất, nông dân buộc phải tăng lượng PB trên đồng ruộng, dẫn đến lãng phí và ô nhiễm môi trường.
Bên cạnh đó, canh tác lúa tại ĐBSCL còn ghi nhận thực trạng đốt rơm rạ ngay trên đồng, hay cày vùi rơm rạ ngay sau thu hoạch mà chưa được xử lý. Việc đốt rơm rạ ngay sau khi thu hoạch không chỉ gây lãng phí và ô nhiễm môi trường mà còn làm mất chất dinh dưỡng của đất, đốt nhiều lần và lâu dài sẽ làm cho đất biến chất và trở nên chai cứng. Việc cày vùi rơm rạ chưa qua xử lý, đất luôn ngập nước sẽ làm ảnh hưởng đến chất hữu cơ trong đất, lúa dễ bị ngộ độc hữu cơ và tạo ra nhiều khí gây hiệu ứng nhà kính.
GS.TS Nguyễn Bảo Vệ- nguyên Trưởng Khoa Nông nghiệp (Trường ĐH Cần Thơ), nhận định đất trồng lúa ở ĐBSCL có chỉ số đạm, lân, kali chưa đến ngưỡng báo động, nhưng độ “dễ tiêu” của đất ngày càng xuống dần.
“Thời gian qua, chúng tôi đã nghiên cứu thực trạng về độ phì nhiêu của đất lúa ở ĐBSCL, tiến hành trên 76 mẫu đất ở toàn vùng với 8 chỉ tiêu dinh dưỡng chính. Điều đáng ngạc nhiên là hàm lượng dinh dưỡng từng thành phần vẫn bảo đảm nhưng đáng chú ý là sự mất cân bằng giữa các thành phần này. Ví dụ, chỉ số Ca/Mg ở một số vùng dưới 1 trong khi theo khuyến cáo từ Viện Nghiên cứu lúa quốc tế IRRI chỉ số này tốt nhất phải từ 3-4. Sự mất cân bằng này làm cho cây lúa hấp thu dinh dưỡng kém, hiệu quả và năng suất giảm. Để khắc phục tình trạng này, nông dân cần phải cải tiến kỹ thuật canh tác và áp dụng các giải pháp sử dụng PB hợp lý”- GS.TS Nguyễn Bảo Vệ cho biết.
Theo các chuyên gia, là vựa lúa của cả nước, với diện tích đất gieo trồng hàng năm khoảng gần 4 triệu hecta, việc canh tác lúa của nông dân vùng ĐBSCL đã và đang có những chuyển biến trong phương thức canh tác, chuyển dần sang cơ giới hóa. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật với công nghệ tiên tiến được áp dụng vào sản xuất giúp giảm lượng giống một cách đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận nông dân hiểu biết chưa đầy đủ về chất đất, độ phì đất, pH đất lúa nên vẫn còn áp dụng các kỹ thuật canh tác truyền thống, làm ảnh hướng đến chất lượng đất trồng lúa. Và để canh tác lúa ở ĐBSCL được bền vững, rất cần một giải pháp canh tác tiên tiến, ứng dụng cơ giới hóa giúp canh tác hiệu quả mà không ảnh hưởng, làm suy giảm chất lượng đất.
Cần có giải pháp đồng bộ nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón
Tại Hội thảo quốc gia “Đất và PB” lần thứ nhất năm 2024, với chủ đề “Thực trạng độ phì nhiêu đất lúa vùng ĐBSCL và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng PB trong canh tác lúa”, các chuyên gia đã đánh giá thực trạng độ phì của đất trồng lúa vùng ĐBSCL trong 5 năm gần đây. Từ đó xác định yếu tố hạn chế của đất để đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng PB, giảm chi phí, tăng thu nhập, giảm phát thải khí nhà kính.
Ông Lê Thanh Tùng- Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp-PTNT) cho biết: Đánh giá về độ phì thực tế của đất có nghĩa là đánh giá trong khoảng 5 năm gần đây những biến động về độ phì thực tế của đất đai sẽ tác động như thế nào đến việc canh tác. Chúng ta đang hướng tới Đề án 1 triệu hecta với những trọng tâm là giảm chi phí, tăng giá trị, giảm phát thải khí nhà kính, tăng trưởng xanh đều liên quan đến đất đai. Đây là dịp để chúng ta cùng nhìn lại những vấn đề còn khiếm khuyết trong canh tác lúa của ĐBSCL ở các vùng sinh thái, giống lúa khác nhau, từ đó, tìm ra được những hướng giải quyết một cách phù hợp”.
Từ cơ sở thực trạng đã nêu ở trên, hội thảo cũng đã trình bày, báo cáo các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng PB trong canh tác lúa, đó là quy trình canh tác lúa thông minh gắn tăng trưởng xanh, phát thải thấp vùng ĐBSCL trong Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao cho kết quả tích cực trong vụ Hè Thu 2024. Trong đó, trọng tâm là giảm lượng giống (còn dưới 80 kg/ha); ứng dụng công nghệ vào trong việc sạ lúa (ứng dụng công cụ sạ hàng, sạ cụm để giảm lượng giống nhưng đảm bảo năng suất); tuân thủ quy trình rút nước ướt khô xen kẽ. Đây là điều quan trọng để giúp lượng khí phát thải trên đồng ruộng và giúp rễ lúa ăn sâu hơn, hạn chế quá trình đổ ngã và cuối cùng là không đốt đồng, mà đem rơm sau khi thu hoạch để phục vụ mục đích khác.
Theo GS.TS Nguyễn Bảo Vệ, để giải quyết vấn đề này cần giải pháp kỹ thuật từ nông dân và giải pháp từ PB. Cụ thể, rơm rạ không nên đốt, bán đi, mà cần trả lại, vùi lại trong đất bằng xử lý chế phẩm vi sinh; làm cho tầng canh tác trở nên dày hơn, lý tưởng từ 10-15cm, thay vì làm 7-8cm như hiện nay; cần có thời gian phơi ải đất, thời gian phơi đất trong khoảng 3 tuần là lý tưởng. Đồng thời, làm những rãnh nước trên đồng ruộng, việc này sẽ có ảnh hưởng tới độ phì của đất. Sau một thời gian phơi ải thì tới thời gian ngâm đất khoảng 2 tuần để cải thiện độ chua của đất. Giải pháp cuối là sử dụng PB tác động vào đầu vụ.
TS Phùng Hà- Chủ tịch Hội PB Việt Nam, cho biết: Việc sử dụng kết hợp PB vô cơ và hữu cơ sinh học một cách hài hòa sẽ giúp sản xuất lúa bền vững và thân thiện với môi trường. Bên cạnh đó, nông dân nên áp dụng sáng kiến “4 đúng” trong quản lý PB: đúng loại, đúng tỷ lệ, đúng lúc và đúng cách.
Các chuyên gia nông nghiệp cũng đã đề xuất nhiều giải pháp thiết thực trong việc phát triển lúa bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu. Bón phân đừng nghĩ đến PB mà nghĩ tới đất đai và cây trồng trước. Nếu chúng ta tiếp tục duy trì tình trạng lạm dụng PB như hiện nay thì vài chục năm sau con cháu chúng ta có còn canh tác được nữa không. Chúng ta cần phải thay đổi tư duy và hành động để giải phóng dinh dưỡng trong đất. Bên cạnh đó cần nghiên cứu, phát triển công nghệ xử lý rơm rạ trên đồng ruộng.
Bài, ảnh: THẢO LY
Niềm vui của người trồng cau
Nguồn tin: Báo Đắk Lắk
Hiện nay giá cau đang tăng cao, mang lại niềm vui cho nhiều nhà nông trên địa bàn tỉnh về một vụ mùa bội thu.
Gia đình ông Lê Văn Đức (xã Ea Tiêu, huyện Cư Kuin, Đắk Lắk) có khoảng 2.000 cây cau từ 5 - 7 năm tuổi.
Ông Đức cho hay, cau là loại cây dễ trồng, ít công chăm sóc và chi phí phân bón thấp. Đặc biệt, loại cây này không chiếm nhiều diện tích đất nên người dân thường trồng xen canh với các loại cây công nghiệp lâu năm. Thời gian thu hoạch cau cũng được chia làm nhiều đợt, thường kéo dài 3 - 5 tháng, mang lại cho người trồng một nguồn thu khá và liên tục.
Thương lái thu mua cau ngay tại vườn nhà người dân.
Giá cau năm ngoái chỉ dao động trong khoảng 15.000 - 20.000 đồng/kg. Tuy nhiên, năm nay giá cau đã tăng cao ngay từ đầu vụ (vào khoảng tháng 6) với hơn 40.000 đồng/kg. Đến thời điểm hiện tại, giá cau đã tăng lên gần 80.000 đồng/kg (tùy loại). Việc giá cau liên tục lập "đỉnh" đã thu hút thương lái từ khắp nơi đổ về vườn cau của gia đình ông Đức để thu mua, thậm chí là đặt cọc tiền trước, chờ đến ngày thu hoạch sẽ tới hái. Dù giá đang tăng mạnh, nhưng gia đình ông vẫn chưa vội nhận cọc của thương lái, cũng không thu hoạch cau non nhằm bảo đảm năng suất cho các vụ sau. “Giá cau đang tăng cao nhưng vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt. Nếu giá cau tiếp tục ổn định đến hết vụ, gia đình tôi có thể lãi hàng trăm triệu đồng”, ông Đức phấn khởi.
Không giấu được niềm vui khi vừa bán được lứa cau với giá tốt, anh Y Dlen Niê (xã Ea Tu, TP. Buôn Ma Thuột) hồ hởi cho biết, từ đầu mùa đến nay, thương lái đã đến nhà thu mua 6 - 7 lượt, mỗi lần thu hái từ 2 - 3 tạ cau tươi. Trong quá trình thu hái, người trồng cau không phải tốn công sức thu hoạch như những loại cây khác, bởi thương lái sẽ đến thu mua cả buồng, cân cả nhánh với mức giá hợp lý. Trung bình mỗi buồng cau nặng 7 - 10 kg và với mức giá như hiện tại, người dân có thể lãi cả triệu đồng từ mỗi cây cau. Đặc biệt, những loại cau non, quả dài, thon nhỏ luôn được thương lái ưu tiên lựa chọn và trả giá cao hơn so với loại cau to, quả tròn. “Năm nay, giá các loại nông sản như hồ tiêu, cà phê, sầu riêng… đều tăng cao, khiến người làm nông như chúng tôi vô cùng phấn khởi. Giờ đến mùa cau, giá cũng tăng mạnh nên bà con rất kỳ vọng vào một vụ mùa bội thu, có thêm thu nhập trang trải cuộc sống”, anh Y Dlen chia sẻ.
Những ngày này, dọc theo các tuyến quốc lộ, hình ảnh thương lái hối hả thu mua cau trở nên quen thuộc. Những buồng cau nặng trĩu quả được chất đầy trên các phương tiện xe cơ giới tạo nên khung cảnh nhộn nhịp. Anh Trần Thanh Tú (xã Hòa Thắng, TP. Buôn Ma Thuột) với hơn 10 năm kinh nghiệm trong nghề, mỗi ngày phải vượt hàng chục cây số, len lỏi vào từng ngõ ngách để tìm kiếm, thu mua cau tươi về bán lại cho các vựa, cơ sở chế biến.
Anh Tú cho hay, nghề hái cau vất vả hơn nhiều so với các công việc khác và tiềm ẩn không ít rủi ro. Tuy nhiên, tiền công từ công việc này đem lại cũng xứng đáng với công sức đã bỏ ra. Hiện nay, cau tươi đang “sốt giá” nên việc kinh doanh, mua bán trở nên dễ dàng và thuận lợi hơn so với những năm trước. “Vào mùa cau rộ, mỗi ngày tôi có thể thu mua từ vài chục ký, thậm chí lên đến 2 - 3 tạ cau tươi, thu lợi nhuận từ vài trăm nghìn đồng đến cả triệu đồng từ công việc hái cau”, anh Tú bộc bạch.
Khi cau vào chính vụ thu hoạch, cũng là lúc các lò sấy cau khô trên địa bàn tỉnh liên tục đỏ lửa, hoạt động hết công suất. Tuy nhiên, tại cơ sở thu mua, chế biến cau của gia đình bà Hoàng Thị Sao (xã Ea Bhốk, huyện Cư Kuin) không khí mua bán có phần trầm lắng hơn mọi năm. Bà Sao cho biết, mùa cau năm ngoái, mỗi ngày cơ sở của bà thu mua khoảng 10 tấn cau tươi. Tuy nhiên, năm nay do giá cau tăng vọt nên bà không đủ nguồn vốn để có thể vừa thu mua, vừa sấy cau khô bán cho thương lái như mọi năm. Thêm vào đó, đầu ra của loại quả này hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, nếu thị trường này "đóng băng", nhiều chủ lò cau sẽ phải đối mặt với cảnh nợ nần chồng chất. Do đó, vụ mùa năm nay, cơ sở của bà Sao chỉ nhận sấy cau thuê cho các thương lái Trung Quốc để thu lãi.
Bà Sao chia sẻ, mặc dù không thu mua cau như mọi năm, nhưng để kịp tiến độ bàn giao hàng cho thương lái, mỗi ngày, cơ sở của bà vẫn duy trì công việc cho hàng chục lao động tại địa phương. Mỗi người đảm nhiệm một công việc khác nhau như tách cau tươi, phân loại, vận chuyển cau vào lò sấy… Tùy vào từng vị trí công việc mà thu nhập của nhân công cũng khác nhau, trung bình từ 5 - 10 triệu đồng mỗi tháng, giúp họ có thêm chi phí trang trải cuộc sống hằng ngày.
Thúy Nga
Bạc Liêu: Chủ động bảo vệ vụ lúa thu đông
Nguồn tin: Báo Bạc Liêu
Theo ngành Nông nghiệp, sản xuất vụ lúa thu đông gặp nhiều khó khăn do thời gian này thời tiết mưa, bão nhiều, đây cũng là điều kiện lý tưởng để các loại sâu bệnh phát triển, phá hại lúa. Để hạn chế thiệt hại, đảm bảo sản xuất an toàn cho nông dân, ngành Nông nghiệp đề nghị các xã, thị trấn xây dựng kế hoạch sản xuất vụ thu đông 2024 theo kế hoạch chung của tỉnh; riêng nông dân cần áp dụng đúng kỹ thuật và lịch thời vụ.
Nông dân xã Vĩnh Thanh (huyện Phước Long) cải tạo đất chuẩn bị xuống giống vụ lúa thu đông. Ảnh: C.L
Vệ sinh kỹ đồng ruộng
Ngay sau khi thu hoạch dứt điểm trà lúa hè thu 2024, nông dân một số địa phương đã nhanh chóng bắt tay vào cải tạo mặt ruộng để tiến hành gieo sạ nối vụ. Theo khuyến cáo của ngành Nông nghiệp, thời gian phơi đất giãn cách mỗi vụ phải từ 15 - 20 ngày, để rơm rạ của vụ trước có thời gian phân hủy, tránh ngộ độc hữu cơ cho cây lúa vụ sau. Vụ lúa thu đông năm nay, toàn huyện Phước Long (Bạc Liêu) xuống giống khoảng 6.670ha, tập trung chủ yếu ở xã Vĩnh Thanh, hiện bà con đã hoàn tất việc xuống giống. Lão nông Trần Thanh Phong (xã Vĩnh Thanh) cho biết: “Mấy năm nay tuy có trạm bơm tập trung, giảm bớt khó khăn trong quản lý, kiểm soát nguồn nước trên mặt ruộng nhưng tình hình sâu, bệnh trên trà lúa thu đông thường rất phức tạp và tốn nhiều chi phí phòng, trị. Đúc kết từ những vụ trước lúa non thường bị vàng lá sau vài tuần do nhiễm độc hữu cơ từ do rơm rạ cũ phân hủy gây ra, vụ này gia đình tôi cải tạo kỹ lắm mới dám gieo giống xuống. Hy vọng vụ lúa này sẽ thành công”.
Bên cạnh việc chuẩn bị tốt khâu đảm bảo xuống giống đúng lịch thời vụ, khi xuống giống nông dân cần tuân thủ theo nguyên tắc chung là gieo sạ tập trung, đồng loạt trên từng khu vực, từng cánh đồng; sử dụng lúa giống cấp xác nhận, sạ thưa, sạ hàng hoặc cấy với lượng giống 80 - 100kg/ha. Tuyệt đối không xuống giống nhiều trà lúa trên một tiểu vùng. Đồng thời, nên chọn sử dụng các giống ngắn ngày, có chất lượng cao, kháng sâu bệnh, cho năng suất cao, khá an toàn về dịch bệnh, phù hợp với điều kiện thực tế sản xuất và thị trường tiêu thụ thời gian qua như: OM9582, Đài thơm 8, OM5451, OM7347, OM6976, OM18, OM4900…
Đầu tư cho hệ thống thủy lợi
Theo Sở NN&PTNT, trước dự báo mưa, lũ, bão, triều cường có khả năng diễn biến bất thường, các địa phương cần tập trung đầu tư cho công tác thủy lợi để đảm bảo an toàn, nhất là công trình thủy lợi nội đồng cần được tiến hành sớm nhằm tiêu thoát nước, chống ngập phục vụ diện tích lúa đã gieo sạ. Song song đó, nhu cầu đầu tư sửa chữa các trạm bơm tiêu cố định hiện có và lắp thêm các trạm bơm di động (giải pháp tiêu bằng động lực) ở những khu ruộng trũng, khó tiêu tự chảy, cũng rất cần thiết và rất lớn để tiến tới chủ động trong tiêu thoát nước hết diện tích lúa đã gieo sạ khi gặp những điều kiện bất lợi về thời tiết xảy ra.
“Vụ lúa thu đông năm nay, huyện Hòa Bình xuống giống khoảng 8.000ha, tập trung chủ yếu ở các xã có hệ thống trạm bơm khép kín. Đồng thời, để chủ động các phương án bảo vệ mùa vụ cho bà con, Phòng Nông nghiệp cũng đã xuống thăm đồng, hướng dẫn bà con xử lý mầm bệnh ở giai đoạn đầu của trà lúa cũng như sẵn sàng các phương án tiếp theo để hướng đến một vụ thành công”, ông Cổ Tân Xuyên - Trưởng phòng NN&PTNT huyện Hòa Bình, cho biết.
Bên cạnh việc tăng cường triển khai thực hiện các giải pháp kỹ thuật nhằm giúp vụ lúa thu đông vừa an toàn trước thiên tai vừa giúp tăng năng suất, sản lượng lúa, thì các địa phương cũng cần chú trọng đến vấn đề xã hội khác như: sự liên kết giữa nông dân, tổ chức sản xuất (hợp tác xã, tổ hợp tác) với doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất, về giá cả đầu vào - đầu ra trong sản xuất, thị trường tiêu thụ... nhằm đảm bảo hài hòa về thu nhập, lợi nhuận cho người trồng lúa và doanh nghiệp liên kết sản xuất, thu mua lúa gạo.
Theo khuyến cáo của ngành Nông nghiệp, thời gian phơi đất giãn cách mỗi vụ phải từ 15 - 20 ngày, để rơm rạ của vụ trước có thời gian phân hủy, tránh ngộ độc hữu cơ cho cây lúa vụ sau. Trường hợp không đủ thời gian phơi đất, có thể dọn sạch rơm rạ, đồng thời cải tạo mặt ruộng thật kỹ, kết hợp với việc xử lý bằng các sản phẩm sinh học để đẩy nhanh quá trình phân hủy của rơm rạ cũng như loại bỏ các mầm bệnh trong đất. Tuyệt đối tránh sử dụng nhớt cặn như chất mồi lửa để đốt với mục đích xử lý nhanh lượng rơm rạ còn lại trên đồng.
Chí Linh
Đổi mới sáng tạo - ‘Chìa khóa’ giúp hợp tác xã phát triển bền vững
Nguồn tin: Báo Đắk Lắk
Đổi mới sáng tạo là một trong những công cụ đắc lực để thúc đẩy, nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nắm bắt được điều đó, nhiều hợp tác xã (HTX) trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã tích cực đổi mới sáng tạo nhằm tăng nội lực, phát triển nhanh, bền vững.
Theo ông Trần Vũ Tuấn Phan, quyền Giám đốc Trung tâm dịch vụ Khoa học và Công nghệ (Học viện Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo), đối với Đắk Lắk, các doanh nghiệp, HTX khởi nghiệp đổi mới sáng tạo có thể tập trung vào những lĩnh vực thế mạnh đặc trưng địa phương như nông nghiệp, sản phẩm OCOP, dịch vụ du lịch, chế biến sản phẩm tạo ra giá trị gia tăng cao, các vật liệu đặc thù, văn hóa địa phương…
Khởi nghiệp liên quan đến các lĩnh vực đó sẽ có sức cạnh tranh nhờ lợi thế địa phương, nền tảng vững chắc để có thể phát triển dài hạn. Trong đó, yếu tố quan trọng nhất để thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo vẫn là con người.
Hợp tác xã Nấm dược liệu Chư Yang Sin (xã Cư Kty, huyện Krông Bông) đã trồng thành công nấm linh chi đỏ dưới tán rừng keo lai.
Một tín hiệu rất tích cực là những năm gần đây, trình độ của cán bộ quản lý HTX ngày càng được nâng cao. Đặc biệt, hiện nay kinh tế tập thể, HTX đang được rất nhiều sinh viên, cán bộ các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp quan tâm và tham gia thành lập, quản lý, điều hành.
HTX Nông nghiệp dịch vụ thương mại Tân Hòa (huyện Buôn Đôn) nổi bật là một HTX trẻ, luôn tiên phong đổi mới sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh. Giám đốc HTX Nông nghiệp dịch vụ thương mại Tân Hòa Vũ Đăng Minh cho hay, với ưu điểm 60% nhân lực trẻ, năng động, đơn vị đã tập trung xây dựng HTX nông nghiệp có quy mô, tập trung và hiện đại, được quản lý bằng công nghệ. Ngay từ khi thành lập, HTX đã thường xuyên cập nhật các xu hướng mới trong sản xuất, bán hàng; áp dụng công nghệ số vào quá trình quản trị và điều hành. Hiện HTX đã áp dụng công nghệ AI (trí tuệ nhân tạo) vào việc viết bài, làm video quảng cáo sản phẩm của mình để chia sẻ trên các nền tảng thương mại điện tử như TikTok, Shopee, Nông sản Đắk Lắk, Lazada… Thời gian tới, HTX sẽ thực hiện dán tem mã định danh từng cây, xây dựng vườn nhãn hữu cơ, gắn camera, chip điện tử để người dùng có thể trực tiếp xem và đặt mua trước.
Trong bối cảnh thị trường cạnh tranh khốc liệt, đổi mới sáng tạo được xem là “chìa khóa” để giúp HTX phát triển bền vững, Liên minh HTX tỉnh đã tập trung tư vấn, hướng dẫn các HTX thực hiện những ý tưởng, dự án khởi nghiệp phù hợp với tiềm lực của bản thân, lợi thế của địa phương. Đồng thời, hướng dẫn các HTX trên địa bàn tiếp cận một số nguồn vốn hỗ trợ để đầu tư phát triển kinh tế. Cụ thể, đến nay, Liên minh HTX tỉnh đã hướng dẫn, thẩm định và hoàn thiện hồ sơ cho 3 dự án vay vốn từ Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX tỉnh với số tiền 1,9 tỷ đồng; khảo sát 14 HTX, qua đó thẩm định, lựa chọn một số HTX để hỗ trợ ứng dụng đổi mới công nghệ, áp dụng công nghệ cao vào sản xuất… nhằm củng cố nguồn lực để các HTX phát triển.
Như trường hợp của HTX Nuôi trồng nấm Hòa Xuân (TP. Buôn Ma Thuột), sau 5 năm đi vào hoạt động, hiện HTX đã có 12 xã viên và 3 thành viên liên kết, với 13.000 m2 nhà trại trồng nấm. Trước đây sản phẩm nấm của HTX chỉ tập trung bán lẻ cho các thương lái trên địa bàn tỉnh, nhưng hiện nay các thành viên đang ngày càng mở rộng diện tích, sản lượng nấm tăng lên nên cần thị trường lớn hơn.
Giám đốc HTX Nuôi trồng nấm Hòa Xuân Nguyễn Thọ Kiên cho hay, để phát triển bền vững, tìm được thị trường lớn hơn, HTX phải tự làm mới mình, đặc biệt là phải đổi mới công nghệ, sản xuất. HTX đầu tư hơn 3 tỷ đồng để chuyên nghiệp hóa dây chuyền sản xuất. Từ đó, sản xuất thêm các sản phẩm phụ từ nấm như trà nấm linh chi đỏ, trà nấm linh chi vàng, rượu… để đa dạng sản phẩm. Năm 2023, HTX được Liên minh HTX tỉnh tạo điều kiện cho vay 90 triệu đồng để mua máy xay mùn cưa phục vụ quá trình làm phôi nấm; 500 triệu đồng từ nguồn Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX để đầu tư phát triển sản xuất. Hiện nay, HTX đã có một hệ thống dây chuyền khép kín từ khâu nuôi trồng đến xuất bán, thuận lợi cho việc mở rộng thêm nhà trại trồng nấm, sản phẩm được xuất bán ở các thị trường khó tính hơn trên cả nước, thu nhập của thành viên ngày một nâng lên.
Nhờ thay đổi trong tư duy sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất mà các HTX trên địa bàn tỉnh đã tạo ra những sản phẩm chất lượng, tiếp cận được với các thị trường lớn, khó tính, góp phần tăng thu nhập cho người dân trên địa bàn tỉnh. Cụ thể, doanh thu bình quân của HTX đạt 2,5 tỷ đồng/năm; lợi nhuận trung bình 300 triệu đồng/HTX/năm; thu nhập bình quân người lao động 60 triệu đồng/năm.
Toàn tỉnh hiện có 100 HTX nông nghiệp có ứng dụng công nghệ cao, 150 HTX có liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp.
Thùy Dung
Đẩy mạnh cấp mã số vùng trồng
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Quảng Ninh
Để nâng cao giá trị các mặt hàng nông sản chủ lực, thời gian qua, Quảng Ninh đã tập trung thực hiện cấp mã số vùng trồng, từ đó kiểm soát một cách hiệu quả từ quy trình sản xuất đến truy xuất nguồn gốc trên thị trường. Đồng thời mở ra nhiều cơ hội thuận lợi cho nông sản xuất khẩu chính ngạch sang thị trường các nước, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân.
Vùng vải chín sớm Phương Nam đang trong lộ trình chuẩn hóa dữ liệu vùng trồng theo chuẩn OTAS, nhằm đáp ứng các tiêu chí để có thể xuất khẩu quả vải chín sớm Phương Nam vào các nước châu Âu. Ảnh: Hoàng Nga
Theo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, mã số vùng trồng là mã định danh cho một vùng trồng trọt, nhằm giúp cơ quan chức năng và người tiêu dùng dễ dàng truy xuất nguồn gốc, xác định quy trình sản xuất của nông sản. Đặc biệt, đây cũng được xem là "tấm vé thông hành" cho nông sản xuất khẩu, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị.
Việc mã hóa vùng trồng mang lại nhiều ích lợi thiết thực cho nông dân như: Chuẩn hóa quá trình chăm sóc, quản lý cây trồng, vật nuôi, quản lý được diện tích trồng, đưa ra quy trình chuẩn trong chăm sóc; cảnh báo tình hình dịch bệnh, lên kế hoạch chăm sóc, danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng và ước lượng năng suất… Từ đó, cây trồng cho năng suất, chất lượng ngon, đồng đều, đáp ứng tiêu chuẩn của những thị trường khó tính nhất. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để sản phẩm nông sản được xuất khẩu theo đường chính ngạch.
Nhận thấy tính cấp thiết của việc cấp mã số vùng trồng, thời gian qua, ngành NN&PTNT tỉnh luôn đồng hành hỗ trợ, hướng dẫn người dân, HTX, doanh nghiệp đẩy mạnh việc thiết lập, xây dựng mã vùng trồng, mã cơ sở đóng gói cho một số cây trồng, sản phẩm chủ lực của tỉnh. Đến nay, toàn tỉnh đã cấp được 62 mã số vùng trồng (trong đó có 46 mã số vùng trồng phục vụ xuất khẩu và 16 mã số vùng trồng phục vụ nội tiêu) với tổng diện tích trên 1.520ha và 9 mã số cơ sở đóng gói. Hiện tỉnh đang tiếp tục duy trì, cập nhật dữ liệu tại mô hình chuẩn hóa dữ liệu mã số vùng trồng theo hệ thống/tiêu chuẩn OTAS phục vụ nội tiêu và xuất khẩu với tổng diện tích 60ha; duy trì các vùng sản xuất hàng hóa tập trung khoảng 6.300ha đối với các sản phẩm rau, lúa chất lượng, lúa nếp cái hoa vàng, cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm, hoa, cây cảnh…
Để được cấp mã số vùng trồng, nông sản được sản xuất theo một quy trình nhất định từ yêu cầu về diện tích canh tác, điều kiện canh tác, sổ sách ghi chép, vệ sinh trên đồng ruộng, thành phần dịch hại trong vùng sản xuất đến yêu cầu về thuốc bảo vệ thực vật. Điển hình như tại xã Việt Dân (Đông Triều) đã sớm xây dựng thương hiệu, bộ nhãn hiệu nhận diện cho quả na, hình thành các vườn na, vùng na được công nhận tiêu chuẩn VietGAP, được cấp mã vùng trồng, quả na được cấp mã QR, cấp tem chống hàng giả… Đó là những dữ liệu để dễ dàng truy xuất nguồn gốc sản phẩm, là điều kiện của thương mại điện tử cũng như đưa sản phẩm na Đông Triều với chất lượng tốt, đảm bảo an toàn tới người tiêu dùng tại các tỉnh, thành trong cả nước và hướng tới xuất khẩu.
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng quá trình triển khai cấp mã số vùng trồng trên địa bàn tỉnh cũng còn gặp không ít khó khăn, bởi Quảng Ninh là một tỉnh vùng núi có địa hình trải dài, rộng, nhiều địa hình hiểm trở gặp nhiều trở ngại trong việc kiểm tra thực địa, thiết lập, quản lý, giám sát vùng trồng. Thêm vào đó, việc sản xuất trên địa bàn còn nhỏ lẻ, diện tích sản xuất tập trung chưa nhiều nên việc đảm bảo theo tiêu chí diện tích đối với một số loại cây trồng (cây ăn quả,...) tại nhiều nơi chưa đạt. Công tác tuyên truyền về mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói còn hạn chế nên các tổ chức, cá nhân, người dân chưa hiểu rõ vai trò, lợi ích của việc cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói nên không chủ động làm hồ sơ để cấp mã. Một số ít chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm và định hướng đến việc thiết lập và quản lý vùng trồng, cơ sở đóng gói.
Trước những yêu cầu ngày càng chặt chẽ về quản lý chất lượng nông sản, hiện ngành nông nghiệp tỉnh đang đẩy mạnh công tác tuyên truyền để các tổ chức, cá nhân, người dân trên địa bàn tỉnh hiểu rõ vai trò, lợi ích của việc cấp mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói. Đồng thời xây dựng kế hoạch quản lý, cấp mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói giai đoạn 2023-2025; mở rộng mô hình ứng dụng hệ thống/tiêu chuẩn OTAS trong quản lý mã số vùng trồng trên các cây trồng có tiềm năng xuất khẩu như quế, hồi, chè, trà hoa vàng... Ngành cũng tích cực tổ chức thanh tra, kiểm tra việc quản lý và sử dụng mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói tại địa phương; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm; tiếp tục hướng dẫn các địa phương rà soát, quy hoạch những vùng sản xuất chuyên canh tập trung, ổn định đối với những loại cây trồng chủ lực, có giá trị kinh tế cao, phù hợp với điều kiện từng vùng và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu.
Có thể nói, việc xây dựng mã số vùng trồng không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho sản phẩm nông sản khi tiêu thụ trên thị trường trong và ngoài nước, mà còn góp phần tác động, thay đổi nhận thức, tập quán canh tác của người dân, chuyển hướng sang sản xuất theo tiêu chuẩn an toàn, hướng đến nền sản xuất nông nghiệp chuyên nghiệp và bền vững hơn.
Hoài Anh
Phụ nữ làm kinh tế giỏi
Nguồn tin: Báo Long An
Bà Trần Thị Lệ Hằng (SN 1956, ngụ ấp 2, xã Tân Long, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An) là một trong những phụ nữ làm kinh tế giỏi điển hình của địa phương.
Tuy tuổi cao nhưng bà không ngừng lao động, nhạy bén nắm bắt cơ hội, chuyển đổi cây trồng phù hợp với thị trường. Bên cạnh đó, bà còn sáng tạo giải pháp kỹ thuật giúp quá trình sản xuất thuận tiện, tiết kiệm.
Bà Trần Thị Lệ Hằng (ấp 2, xã Tân Long, huyện Thủ Thừa) bên máy tưới phân bón và rẫy khóm của mình
Sau khi lập gia đình, bà Hằng chuyển đến TP.HCM sống 20 năm. Năm 2004, bà nhận thấy lối sống phố thị không phù hợp nên chuyển về quê mua 8ha đất để làm nông nghiệp. Phần đất này khi ấy còn nhiều cây bụi, chưa thể sản xuất nhưng nhờ bàn tay cần cù và sự đồng lòng của cả gia đình mà cây khóm dần bén rễ. Bên cạnh trồng khóm, bà còn mua ghe 25 tấn chở thuê cho người dân trong vùng.
Do rẫy khóm bị chuột phá hoại nên bà chuyển sang trồng khoai mì. Theo bà, năm 2011 nước lớn, khoai mì rớt giá chỉ còn 500 đồng/kg và không có người mua. Không chấp nhận cảnh mất trắng, bà ra tỉnh Đồng Nai mua máy cắt lát mì rồi phơi khô, đóng bao chở xuống tỉnh An Giang bán, nhờ vậy đỡ một phần thiệt hại.
Khi cây mai vàng có giá, bà mạnh dạn chuyển toàn bộ 8ha khoai mì sang loại cây này. Mấy năm đầu trúng mùa, được giá, mang lại cho bà thu nhập không nhỏ.
Hiện tại, bà trồng 14ha mai vàng (trong đó có 4ha thuê ở huyện Bến Lức), 5ha khóm. Rút kinh nghiệm từ lần trồng khóm trước, bà chủ động phòng, chống sinh vật hại.
Khóm là loại cây đang phát triển tại xã Tân Long. Trước đây, người dân thường rải phân bón bằng tay nên tốn nhiều công sức và thời gian. Bên cạnh đó, công lao động ngày càng khan hiếm, giá cao. Trước thực trạng ấy, bà Hằng tìm tòi, học hỏi và sáng tạo ra máy tưới phân bón tự động.
Thiết bị tạo nên máy tưới phân bón tự động gồm: Máy xe (hoặc máy dầu) và bình ắc-quy, hệ thống ống làm mưa lớn, ống hút phân, phuy chứa phân, mô-tưa đánh tan phân. Các chi tiết có thể tháo, lắp nhanh chóng, gọn, nhẹ. Khi máy hoạt động, chỉ cần 1 nhân công vận hành. Phân bón hòa tan vào nước, không bị lắng xuống đáy phuy nên cây khóm nhận được lượng phân đều, dễ hấp thụ, phát triển nhanh. Bà Hằng ước tính, với loại máy này, bà tiết kiệm khoảng 6 triệu đồng/ha/vụ tiền công tưới.
Hiện tại, bà Hằng là Chi Hội phó Chi hội Nông dân ấp 2, Chi hội phó Chi hội Phụ nữ ấp 2, thành viên Ban Công tác Mặt trận ấp. Nhờ làm kinh tế giỏi, bà Hằng có điều kiện nuôi các con ăn học, có việc làm ổn định, thu nhập khá. Bà là nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi cấp huyện.
Theo Chủ tịch Hội Nông dân xã Tân Long - Nguyễn Ngọc Trinh, bà Trần Thị Lệ Hằng cần cù, chịu khó, nhiều lần thất bại nhưng vẫn vươn lên, không bỏ cuộc. Bà còn là hội viên nông dân hoạt động năng nổ, tích cực.
Sáng kiến máy tưới phân bón tự động của bà có ý nghĩa thiết thực trong hoạt động nông nghiệp (cụ thể là cây khóm) của địa phương, giúp nông dân tiết kiệm chi phí và giải quyết vấn đề nhân công đang thiếu hiện nay./.
Châu Thanh
Giữ giá hay tăng giá?
Nguồn tin: Báo Sóc Trăng
Đó là vấn đề đang được người chăn nuôi heo quan tâm, bàn luận khi thị trường heo hơi dịp cuối năm 2024 vẫn còn khá nhiều biến số thuận - nghịch đan xen. Và đó cũng là lý do vì sao câu hỏi trên đến thời điểm này vẫn chưa có câu trả lời nào đi trực tiếp vào vấn đề trên, mà thay vào đó là những nhận định khá dè dặt, rằng giá heo hơi cuối năm sẽ khó giảm như ở năm 2023.
Sau 9 tháng ổn định ở mức bình quân trên 6 triệu đồng/tạ (100kg), giá heo hơi đã giúp người chăn nuôi có lãi trở lại, thậm chí có thời điểm mức lãi lên đến 2 triệu đồng/tạ. Theo quy luật của thị trường, thời điểm từ tháng 6 đến tháng 8, giá thịt heo xuống thấp do vào đợt nghỉ hè của học sinh, sinh viên, nhưng mấy tháng hè vừa qua, cung - cầu không cân đối nên heo hơi vẫn giữ được giá khá cao. Đây cũng là cơ sở để các doanh nghiệp chăn nuôi, nhà quản lý đưa ra nhận định, mức giá heo hơi bình quân chung cả năm 2024 sẽ cao hơn năm 2023 khoảng 12% trở lên. Nguyên nhân giá heo hơi tăng thời gian qua chủ yếu là do nguồn cung sụt giảm chứ không phải vì nhu cầu tiêu thụ của thị trường tăng lên.
Người chăn nuôi đang rất kỳ vọng giá heo hơi sẽ giữ ở mức cao dịp cuối năm để có một cái kết đẹp cho một năm chăn nuôi đầy khó khăn. Ảnh: TÍCH CHU
Theo đó, việc giảm nguồn cung được xác định do 2 nguyên nhân chính là: dịch tả heo châu Phi và cơn bão số 3 vừa qua. Theo Cục Thú y, tính đến ngày 10/7, cả nước đã xảy ra 645 ổ dịch tại 44 tỉnh, thành phố, buộc tiêu hủy 41.742 con heo, tăng 3,4 lần so với cùng kỳ năm 2023. Quan trọng hơn, dịch bệnh này đã làm tổng đàn heo nái sụt giảm 11%, do mắc bệnh gây thiệt hại và cả do người chăn nuôi bán chạy do lo ngại dịch bệnh phát sinh gây thiệt hại. Sự sụt giảm đàn nái còn có một phần nguyên nhân do một số trại bỏ nuôi heo nái, chuyển sang nuôi heo thịt để tranh thủ lúc giá heo hơi ở mức cao. Còn theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, bão số 3 vừa qua đã khiến hơn 21 ngàn con gia súc, 2,6 triệu con gia cầm bị chết. Một số trại chăn nuôi bị ngập, làm heo nuôi bị chết, số khác phải “bán chạy” do chuồng trại bị hư hỏng. Theo ước tính, dịch tả heo châu Phi và cơn bão số 3 đã làm nguồn cung thịt heo ra thị trường giảm 20%, nên giá heo hơi giữ ở mức cao từ đầu năm đến nay là điều có thể hiểu được.
Từ nay đến tết Nguyên đán còn chưa đầy 4 tháng, tức không đủ cho một chu kỳ tái đàn heo hơi (khoảng 4 - 5 tháng) để phục vụ thị trường này. Đó là chưa kể, sau dịch bệnh tả heo châu Phi, rồi đến thiên tai bão lũ, kinh tế của người chăn nuôi lúc này phần lớn đều ở trong tình cảnh khó khăn. Do đó việc tái đàn trở lại phục vụ cho dịp Tết là thách thức lớn đối với người chăn nuôi heo hiện nay.
Nếu nhìn vào các diễn biến trên thì khả năng cung không đáp ứng cầu thị trường cuối năm là rất dễ xảy ra và giá heo hơi tăng hay chí ít cũng giữ được mức cao như hiện nay là hoàn toàn có khả năng xảy ra. Tuy nhiên, thực tế lại không hẳn như vậy, khi phần lớn thiệt hại do dịch bệnh và bão lũ vừa qua chủ yếu rơi vào các trang trại nuôi quy mô vừa và nhỏ, cùng một số ít trang trại, doanh nghiệp chăn nuôi lớn. Mặt khác, theo dự báo, nguồn thịt heo và các sản phẩm từ thịt heo nhập khẩu sẽ tăng lên dịp cuối năm do chênh lệch cung - cầu trong nước. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự dè dặt trong việc nhận định về thị trường heo hơi dịp cuối năm, dù khả năng hụt nguồn cung là rất dễ xảy ra.
Tuy nhiên, đối với người chăn nuôi heo, nhất là người chăn nuôi ở khu vực phía Nam, việc giá heo hơi có tăng lên thêm hay không cũng không quan trọng bằng việc chăm sóc, quản lý đàn heo đang có từ nay đến cuối năm có thuận lợi hay không, bởi chỉ cần giá heo hơi giữ được mức 6,4 - 6,9 triệu đồng/tạ như thời điểm đầu tháng 9 này là đã có mức lợi nhuận khá cao. Theo các doanh nghiệp chăn nuôi heo lớn, giá thành mỗi tạ heo hơi hiện tại chỉ vào khoảng 5 triệu đồng, còn với người nuôi nhỏ lẻ cũng chưa đến 6 triệu đồng. Mức giá kỳ vọng này có giữ được hay không vẫn chưa thể đoán định được, bởi nó còn tùy thuộc vào các biến số khác, như: sản lượng heo hơi dịp Tết nhiều hay ít; lượng thịt và các sản phẩm từ thịt heo nhập khẩu tăng hay giảm; tình hình dịch bệnh từ nay đến cuối năm như thế nào…?
Tất cả vẫn còn phải chờ, nhưng chí ít, người chăn nuôi vẫn thấy được điểm sáng ở thị trường dịp cuối năm, đó là giá thức ăn chăn nuôi trong ngắn hạn khó có thể tăng thêm và nhất là giá heo hơi gần như rất khó giảm về mức 5,2 - 5,6 triệu đồng/tạ như đã từng xảy ra ở thời điểm cuối năm 2023. Hay nói một cách khác, người chăn nuôi đang rất vững tin vào một tổng kết đẹp của năm 2024 trước khi bước vào kế hoạch tái đàn của năm 2025.
TÍCH CHU
Nông dân chung tay xử lý chất thải chăn nuôi
Nguồn tin: Báo Lào Cai
Thay đổi phương thức xử lý chất thải chăn nuôi bằng những mô hình nhỏ, dễ làm đang được các cấp hội nông dân trong tỉnh chú trọng, bởi vừa nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho nông dân, vừa đảm bảo hiệu quả sản xuất.
Giữa năm 2023, bà Nguyễn Thị Lý ở thôn Làng Lân, xã Xuân Quang (huyện Bảo Thắng, Lào Cai) được tham gia lớp tập huấn về một số phương pháp xử lý rác thải chăn nuôi thân thiện với môi trường. Sau đó, bà Lý áp dụng ngay phương pháp nuôi gà trên đệm lót sinh học dày vào chăn nuôi của gia đình.
Bà Lý cho biết: Trước đây, gia đình tôi chưa chú trọng xử lý chất thải nuôi gà, thường chỉ làm theo kinh nghiệm như rải trấu, dùng rơm lót chuồng.. nên tốn nhiều công sức dọn dẹp hằng ngày mà chuồng trại vẫn có mùi hôi. Từ khi được tập huấn kỹ thuật nuôi gà trên đệm lót sinh học, tôi biết sử dụng dung dịch men vi sinh phun lên trấu, rơm giúp phân giải nước tiểu, phân thải, hạn chế sự phát triển của các loại vi sinh vật có hại. Nhờ đó, chuồng trại không còn mùi hôi, môi trường sạch sẽ, gà ít bệnh tật, giảm nhân công dọn dẹp hằng ngày.
Gia đình ông Lù Văn Lịch (cùng thôn Làng Lân) sau khi tham gia lớp tập huấn cũng xây dựng mô hình tuần hoàn khép kín trong trồng trọt, chăn nuôi. Ông nuôi gà trên nền đệm lót sinh học dày, nuôi sâu canxi để xử lý môi trường và cung cấp thức ăn cho gà. Gia đình ông tận dụng những phụ phẩm dồi dào tại địa phương như thân cây chuối, rau, củ, quả, chất thải động vật làm thức ăn nuôi sâu canxi. Sâu canxi trưởng thành là nguồn thức ăn dinh dưỡng cho gà. Chất thải chăn nuôi là nguồn phân hữu cơ rất tốt bón cho vườn rau, cây ăn quả. Theo ông, mô hình này không đòi hỏi kỹ thuật phức tạp và đầu tư nhiều kinh phí nên ai cũng có thể áp dụng.
Được biết, nhờ nguồn thức ăn bổ dưỡng và chuồng trại đảm bảo vệ sinh, đàn gà hơn 100 con của gia đình ông Lịch sinh trưởng, phát triển khỏe mạnh, giảm được chi phí mua thức ăn.
Xã Xuân Quang hiện có 1.700 hộ chăn nuôi gia cầm. Triển khai Dự án xử lý rác thải trong chăn nuôi, Hội Nông dân xã đã xây dựng 20 mô hình kỹ thuật về nuôi gà trên nền đệm lót sinh học dày, nuôi sâu canxi, trùn quế nhằm xử lý chất thải chăn nuôi tại 9 thôn.
Bà Trần Thị Mai, Chủ tịch Hội Nông dân xã Xuân Quang cho biết: Các mô hình xử lý chất thải chăn nuôi cho thấy hiệu quả rõ rệt. Nuôi gà trên đệm lót sinh học dày giúp cải thiện môi trường chăn nuôi, diệt mầm bệnh gây hại giúp gà lớn nhanh, khỏe mạnh. Nhờ nuôi sâu canxi, nhiều hộ tiết kiệm được chi phí chăn nuôi, lại có nguồn phân hữu cơ bón cho cây trồng.
Triển khai Dự án “Tuyên truyền, vận động nông dân xử lý rác thải tại Việt Nam, góp phần vào nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính của cộng đồng quốc tế”, Hội Nông dân tỉnh đã hỗ trợ xây dựng 450 mô hình cho nông dân tại 9 xã thuộc 3 huyện Bảo Thắng, Bảo Yên, Bát Xát. Dự án còn vận động được hơn 300 hộ khác tham gia.
Thông qua các buổi tập huấn, tuyên truyền giúp nhiều người dân nắm được cách phân loại rác thải hữu cơ, kỹ thuật lên men phụ phẩm cây trồng làm thức ăn chăn nuôi, kỹ thuật làm đệm lót sinh học dày trong chăn nuôi gà; kỹ thuật ủ phân hữu cơ từ phụ phẩm cây trồng, tận dụng nguồn phụ phẩm nông nghiệp làm phân bón hữu cơ; giúp hội viên nông dân, người chăn nuôi hiểu những ưu điểm, lợi ích của kỹ thuật nuôi sâu canxi, trùn quế.
Ông Bùi Quang Hưng, Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh cho biết: Sau hơn 2 năm triển khai dự án, các hộ tham gia cơ bản nắm được kỹ thuật xử lý chất thải chăn nuôi và đã áp dụng vào thực tế sản xuất của gia đình, tạo sự chuyển biến tích cực, giúp vật nuôi nhanh lớn, ít bệnh, môi trường chăn nuôi được cải thiện.
Thời gian tới, các cấp hội nông dân trên địa bàn tỉnh tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, tổ chức tham quan, học tập kinh nghiệm mô hình thu gom, xử lý rác thải hữu cơ tại các địa phương đang triển khai, giúp các hộ nâng cao nhận thức, dần thay đổi tập quán cũ, chuyển sang phương pháp chăn nuôi mới thân thiện với môi trường, hướng tới nền nông nghiệp xanh, bền vững.
Kim Thoa
Ông Đỗ Trường Mây - Bước đầu thành công với mô hình nuôi đà điểu
Nguồn tin: Báo Bạc Liêu
Sau lần được tham quan mô hình chăn nuôi đà điểu hiệu quả ở tỉnh Long An, ông Đỗ Trường Mây (ấp Kinh Lớn, xã Tân Thạnh, TX. Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu) đã đầu tư trang trại, mở hướng đi mới mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho gia đình và người dân địa phương.
Ông Đỗ Trường Mây (TX. Giá Rai) chăm sóc đàn đà điểu của gia đình. Ảnh: C.L
Ban đầu, ông Mây mua 20 con đà điểu giống (gần 50 triệu đồng) về nuôi thử. Sau 2 năm thả nuôi, đàn đà điểu phát triển tốt với cân nặng từ 90 - 110kg/con. Đà điểu giống có trọng lượng từ 5 - 6kg/con đã tiêm phòng vắc-xin đầy đủ được bán với giá từ 2,5 - 2,8 triệu đồng/con. Thông thường thời gian sinh trưởng của đà điểu thương phẩm từ 8 - 10 tháng, đạt trọng lượng từ 100 - 150kg/con có giá bán dao động từ 100.000 - 120.000 đồng/kg thịt. Với mức giá này, nuôi đà điểu sinh sản hoặc thương phẩm đều có lãi cao. Thấy được tính hiệu quả của mô hình nên gia đình ông tiếp tục đầu tư, mở rộng chuồng trại.
“Để nuôi đà điểu thành công thì trước tiên người nuôi phải hiểu rõ về tập tính và môi trường sống của chúng. Sân, chuồng nuôi phải sạch, rải cát khô để đà điểu tắm cát giúp làm sạch cơ thể, loại bỏ các loại ký sinh trùng ngoài da. Ngoài ra, chuồng nuôi cần có diện tích lớn vì loài chim khổng lồ này rất thích chạy. Thức ăn của đà điểu dễ kiếm, chủ yếu là rau lang, rau muống...”, ông Mây chia sẻ kinh nghiệm nuôi đà điểu đúc kết được từ năm 2022 đến nay. Song song với phát triển kinh tế, ông Mây luôn sẵn sàng chia sẻ về kinh nghiệm chăn nuôi đà điểu, hướng dẫn kỹ thuật, cung cấp con giống, thức ăn, thuốc thú y tới các hộ dân. Cùng đó, bao tiêu đầu ra giúp các hộ chăn nuôi yên tâm, mạnh dạn đầu tư phát triển kinh tế.
Mô hình trang trại nuôi đà điểu không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cao cho gia đình ông Mây mà còn góp phần thay đổi tư duy, mở lối đi mới cho người dân địa phương xã Tân Thạnh và trên địa bàn TX. Giá Rai về khởi nghiệp phát triển kinh tế trên chính mảnh đất quê hương.
Song Nguyên
Người chăn nuôi gặp khó
Nguồn tin: Báo Long An
Thời gian qua, người chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Long An gặp nhiều khó khăn do giá thức ăn chăn nuôi tăng cao, dịch bệnh diễn biến phức tạp và giá nhiều sản phẩm chăn nuôi liên tục giảm. Vì vậy, nhiều người lo ngại trong việc tái đàn vật nuôi, phục vụ nhu cầu của thị trường những tháng cuối năm.
Giá bán thấp, giá thức ăn tăng cao
Không ít người nuôi gà ở huyện Cần Giuộc, Cần Đước giảm đàn hoặc “treo” chuồng do nuôi gà không có lợi nhuận. Nhiều tháng liền, giá gà thịt và trứng bán ra ở mức thấp, trong khi giá thức ăn luôn ở mức cao.
Anh Lê Văn Hoàng (xã Phước Lâm, huyện Cần Giuộc) vừa xuất bán khoảng 2.000 con gà thịt với giá 48.000 đồng/kg, cho biết: “Giá gà giống, thức ăn, thuốc thú y đều tăng cao trong khi giá gà bán ra thấp nên tôi không có lãi. Tôi dự định “treo” chuồng một thời gian, chờ giá gà tăng mới tái đàn”.
Thông thường, khi trọng lượng gà đạt từ 1,8-2,2kg/con, người nuôi sẽ xuất bán và chuẩn bị nuôi lứa tiếp theo.
Tuy nhiên, do giá gà đang thấp nên nhiều hộ chưa muốn bán nhưng nếu gà có trọng lượng lớn hơn lại không được thương lái lựa chọn, sức cạnh tranh trên thị trường giảm.
Người chăn nuôi cần quan tâm công tác phòng, chống dịch bệnh cho vật nuôi
Theo nhiều người nuôi gà thịt, chi phí thức ăn chiếm từ 65-70% trong cơ cấu giá thành sản xuất. Từ năm 2022 đến nay, giá thức ăn chăn nuôi liên tục tăng khiến người nuôi có thể lỗ từ 15-20 triệu đồng trên tổng đàn 1.000 con.
Không chỉ người nuôi gà thịt gặp khó, người nuôi gà lấy trứng cũng rơi vào tình trạng tương tự. Giá trứng gà giảm từ sau Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023 đến nay, hiện chỉ còn 1.800-2.200 đồng/trứng (giảm hơn 500 đồng/trứng so với trước).
Anh Dương Hoài Thanh (xã Phước Đông, huyện Cần Đước) cho biết: “Trước đây, tôi nuôi mỗi lứa khoảng 8.000 con gà lấy trứng nhưng đợt tái đàn giảm chỉ còn 5.000 con. Chi phí sản xuất tăng trong khi giá trứng gà lại giảm nên gia đình tôi có lợi nhuận thấp”.
Ông Dương Văn Tỷ (xã Phước Đông, huyện Cần Đước) đang nuôi đàn gà lấy trứng hơn 11.000 con, hơn 2 tháng nay, ông không có lợi nhuận.
Ông Tỷ cho biết: “Thời tiết ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe đàn gà, trứng gà vì vậy mà cũng nhỏ hơn, giá bán thấp hơn. Cùng với đó, gần đây, giá điện, nước cũng tăng, gây áp lực không nhỏ cho người chăn nuôi”.
Bà Hồ Thị Kim Phượng là một trong những hộ nuôi gà đẻ công nghiệp có quy mô lớn tại xã Tân Lân, huyện Cần Đước, với hơn 16.000 con. Bình quân mỗi ngày, gia đình bà cung cấp ra thị trường khoảng 12.000 trứng.
“Từ đầu năm 2024 đến nay, giá trứng gà rất thấp. Người nuôi gà lấy trứng như tôi chủ yếu duy trì đàn, kiếm “đồng ra, đồng vô” chứ không có lãi để tăng đàn. Tôi mong các ngành chức năng sớm có giải pháp để bình ổn thị trường, hỗ trợ người chăn nuôi” - bà Phượng thông tin.
Dịch tả heo châu phi vẫn gây nhiều lo lắng
Sau thời gian dài giảm mạnh, giá heo hơi liên tục tăng nhanh trong vài tháng trở lại đây. Hiện nay, giá heo hơi duy trì ở mức từ 62.000-65.000 đồng/kg, có thời điểm hơn 70.000 đồng/kg.
Mặc dù giá heo hơi cao nhưng người chăn nuôi vẫn thận trọng tái đàn, tăng đàn vì sợ rủi ro về dịch bệnh và giá cả.
Những ngày qua, gia đình ông Bùi Văn Đường (xã Bình Tịnh, huyện Tân Trụ) phấn khởi khi giá heo tăng. Ông Đường cho biết, gia đình ông chăn nuôi với quy mô nhỏ, chỉ từ 10-20 con heo thịt. Đây là một trong những nguồn thu nhập chính của gia đình. Vừa qua, ông xuất bán đàn heo 18 con, đúng lúc giá heo tăng cao.
“So với thời điểm này năm trước thì giá heo tăng 15.000-20.000 đồng/kg. Với giá bán 65.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, tôi có lãi khoảng 1 triệu đồng/con” - ông Đường cho biết thêm.
Giá heo hơi tăng cao đã thắp lên hy vọng cho người nuôi heo. Tuy nhiên, nhiều hộ chăn nuôi vẫn lưỡng lự nên hay không nên tăng đàn, tái đàn trong thời điểm hiện nay. Bởi, rủi ro về dịch bệnh vẫn đang rất khó lường và giá heo hơi trên thị trường còn bấp bênh, rất khó dự đoán.
Anh Nguyễn Văn Thành (xã Hưng Thạnh, huyện Tân Hưng) là một trong những hộ chăn nuôi heo quy mô lớn trên địa bàn xã, tuy nhiên, hiện nay, anh chưa tái đàn, tăng đàn. Theo anh Thành, chưa tái đàn vì lo giá heo hơi không ổn định và sợ gặp rủi ro về dịch bệnh, nhất là dịch tả heo châu Phi.
Thông tin từ Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh, từ đầu năm 2024 đến nay, dịch tả heo châu Phi trên địa bàn tỉnh diễn biến khá phức tạp.
Lũy kế từ đầu năm 2024 đến nay, bệnh dịch tả heo châu Phi đã xảy ra tại 42 hộ thuộc 24 xã ở 7 huyện: Mộc Hóa, Tân Thạnh, Tân Hưng, Vĩnh Hưng, Châu Thành, Thủ Thừa, Thạnh Hóa. Tổng số lượng heo đã tiêu hủy là 1.212 con, với tổng trọng lượng 66.862,9kg.
Theo khuyến cáo của ngành chức năng, khi xem xét, lựa chọn tái đàn, người chăn nuôi cần cân nhắc, chủ động theo dõi tín hiệu từ thị trường; đồng thời, chú trọng thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch bệnh, bảo đảm an toàn cho đàn vật nuôi.
Đối với các hộ đã bị dịch tả heo châu Phi, cần lưu ý công tác tiêu độc, khử trùng chuồng trại để tránh những rủi ro về dịch bệnh tái phát sau khi tái đàn./.
Bùi Tùng
Hiếu Giang tổng hợp