Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 11 tháng 4 năm 2025

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 11 tháng 4 năm 2025

 

Bảo hiểm nông nghiệp – 'tấm khiên' vững chắc cho Hợp tác xã

Bảo hiểm Agribank (ABIC) đề xuất mô hình bảo hiểm tổng thể cho HTX Quảng Ninh là nội dung mà ABIC đã tham gia Hội thảo 'Bàn giải pháp bảo hiểm cho HTX sản xuất nông nghiệp trên địa bàn Quảng Ninh' do Liên minh HTX tỉnh Quảng Ninh tổ chức chiều ngày 9/4/2025. Hội thảo không chỉ là diễn đàn trao đổi chuyên môn, mà còn là nơi khơi nguồn cho những mô hình thử nghiệm thực tiễn – nhằm tiến tới xây dựng một hệ sinh thái bảo hiểm nông nghiệp bền vững.

“Nhóm lại thì thành giàu” – bảo hiểm là công cụ chia sẻ rủi ro cộng đồng

Tại Hội thảo, bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam phát biểu lời khai mạc của mình bằng việc dẫn lời Bác Hồ năm 1946: “Nhóm lại thì thành giàu, chia ra thì thành khó” để nhấn mạnh rằng bảo hiểm chính là biểu hiện cụ thể của tinh thần “nhóm lại” trong sản xuất nông nghiệp – nơi mỗi người cùng chia sẻ rủi ro để ổn định và phát triển lâu dài.

Ông Phạm Đức Ấn – Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh phát biểu tại Hội thảo

“Chúng ta không thể ngồi chờ chính sách từ trên xuống. Muốn có chính sách, trước hết phải có mô hình thực tế để minh chứng. Hãy bắt đầu từ các mô hình HTX đủ điều kiện, phối hợp với doanh nghiệp bảo hiểm để thí điểm, từ đó tạo căn cứ xây dựng chính sách chính thức,” bà Vân cho biết.

Dẫn ví dụ từ Nhật Bản – quốc gia có hệ thống HTX phát triển bậc nhất thế giới, bà Vân cho biết, chỉ những HTX tuân thủ đúng sản lượng, quy trình sản xuất và tiêu chuẩn mới đủ điều kiện được hưởng bảo hiểm. Việc áp dụng các điều kiện chặt chẽ giúp đảm bảo tính bền vững, trách nhiệm và minh bạch trong sản xuất – yếu tố tiên quyết để chính sách bảo hiểm phát huy hiệu quả.

“Bảo hiểm không dành cho những người "thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào". Sản xuất phải ổn định, có kỷ luật thì mới có thể triển khai bảo hiểm hiệu quả”, bà Vân thẳng thắn chỉ rõ.

Ông Đỗ Minh Hoàng – Thành viên HĐQT Bảo hiểm Agribank chia sẻ tại Hội thảo

Bảo hiểm Agribank đề xuất mô hình bảo hiểm tổng thể cho HTX Quảng Ninh

Tại hội thảo, lãnh đạo Bảo hiểm Agribank – đại diện doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đã trình bày tham luận với 4 phần chính bao gồm bài học quốc tế, thực tiễn trong nước và đặc biệt là đề xuất một chương trình bảo hiểm tổng thể dành riêng cho HTX tại Quảng Ninh.

Bảo hiểm Agribank đã tổng kết bài học từ các quốc gia có nền nông nghiệp phát triển như Trung Quốc, Thái Lan, Philippines. Những điểm chung của các mô hình bảo hiểm nông nghiệp thành công đều tập trung vào việc Chính phủ đóng vai trò chủ đạo trong việc ban hành khung pháp lý, trợ cấp phí bảo hiểm và giám sát triển khai; Bảo hiểm được tích hợp vào chiến lược phát triển nông nghiệp tổng thể, gắn với chuỗi giá trị và các vùng sản xuất tập trung. Ứng dụng công nghệ trong quản lý, giám định tổn thất và thanh toán bồi thường để đảm bảo minh bạch, nhanh chóng.

Tại Việt Nam, bảo hiểm nông nghiệp đã từng được thí điểm (Quyết định 315) và mở rộng (Nghị định 58), song kết quả còn hạn chế do sản phẩm bảo hiểm chưa sát thực tế, chính sách hỗ trợ chưa đủ hấp dẫn và quy trình thủ tục còn rườm rà. Dù vậy, Bảo hiểm Agribank vẫn là một trong những đơn vị tiên phong phát triển sản phẩm bảo hiểm cho khu vực “Tam nông”, với doanh thu hơn 2.000 tỷ đồng/năm, bảo vệ hơn 3 triệu hộ nông dân.

Theo ông Đỗ Minh Hoàng – Thành viên HĐQT Bảo hiểm Agribank, các HTX cần được đặt trong chuỗi liên kết sản xuất có sự tham gia chặt chẽ của ngân hàng, doanh nghiệp bảo hiểm, đơn vị cung ứng đầu vào, đầu ra và cả hệ thống quản lý nhà nước. Trong đó, bảo hiểm trở thành một “mắt xích” không thể thiếu, bảo vệ toàn diện: cây trồng, vật nuôi, tài sản, sức khỏe và thu nhập của thành viên HTX.

Với mong muốn đồng hành cùng chính quyền và người dân tỉnh Quảng Ninh phát triển kinh tế, Bảo hiểm Agribank đề xuất chương trình bảo hiểm cho các HTX sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh với 5 nhóm giải pháp cụ thể nhằm triển khai bảo hiểm nông nghiệp cho HTX tại Quảng Ninh: Xây dựng chuỗi liên kết giá trị trong nông nghiệp, trong đó HTX là hạt nhân, doanh nghiệp bảo hiểm là một thành tố; Xây dựng chương trình bảo hiểm tổng thể, không chỉ bảo vệ cây trồng, vật nuôi mà cả tài sản, con người – yếu tố nền tảng của sản xuất nông nghiệp; Phối hợp chia sẻ phí bảo hiểm giữa ngân sách Nhà nước, ngân hàng, doanh nghiệp bảo hiểm và HTX – để người dân giảm gánh nặng tài chính; Tận dụng vai trò của ngân hàng thương mại như Agribank, kết hợp tín dụng và bảo hiểm để giảm thiểu rủi ro tín dụng trong nông nghiệp; Thành lập quỹ dự phòng rủi ro tại địa phương, dùng để hỗ trợ phần tổn thất vượt quá khả năng chi trả của doanh nghiệp bảo hiểm.

Những kiến nghị này hướng đến xây dựng một hệ sinh thái bảo hiểm nông nghiệp toàn diện, góp phần hiện thực hóa tầm nhìn phát triển nông nghiệp xanh, bền vững.

Từ thí điểm đến chính sách cần sự đồng hành bền vững

Bảo hiểm nông nghiệp không còn là khái niệm xa vời, mà đã trở thành nhu cầu thiết yếu trong quản trị rủi ro và phát triển nông nghiệp hiện đại.

Tính đến tháng 4/2025, tỉnh Quảng Ninh đã có 1.087 HTX, trong đó 768 HTX nông nghiệp (chiếm hơn 70%), tạo việc làm cho gần 75.000 lao động (chiếm 10,9% lực lượng lao động toàn tỉnh) đã minh chứng cho định hướng đúng đắn trong phát triển kinh tế hợp tác.

Tuy nhiên, theo ông Phạm Đức Ấn – Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh, thực tiễn gần đây hậu quả nặng nề từ cơn bão số 3 - Yagi năm 2024 đã bộc lộ rõ những lỗ hổng trong việc quản trị rủi ro tại các HTX.

“Phần lớn các HTX bị thiệt hại đều không nhận được hỗ trợ cần thiết do thiếu đồng bộ trong quản lý, cung ứng vật tư, tổ chức sản xuất và áp dụng quy chuẩn kỹ thuật. Chúng ta cần nghiêm túc nhìn nhận điều này để có bước đi thực chất hơn”, ông Ấn nêu rõ.

Chủ tịch UBND tỉnh cũng nhấn mạnh sự cấp thiết phải xây dựng chính sách bảo hiểm riêng cho HTX, đề nghị Liên minh HTX tỉnh chủ động phối hợp với các sở, ngành, doanh nghiệp bảo hiểm như Bảo hiểm Agribank để thiết kế các sản phẩm phù hợp với đặc thù từng ngành hàng. Trước mắt cần ưu tiên cho các lĩnh vực có thế mạnh như thủy sản, chăn nuôi, lâm nghiệp.

Tại Quảng Ninh, nơi HTX đang trên đà phát triển mạnh mẽ, bảo hiểm cần được triển khai song hành với quy trình sản xuất và tín dụng để hình thành một hệ sinh thái nông nghiệp thông minh, bền vững. “Chúng ta cần một mô hình thực tế có dữ liệu, có người thật, việc thật để thuyết phục trung ương ban hành cơ chế chính thức,” bà Vân kết luận đầy tâm huyết.

Và để bảo hiểm không chỉ là giấy tờ, mà trở thành “tấm khiên” vững chắc bảo vệ sinh kế, cần một điều kiện tiên quyết – sự tự giác và cam kết thực chất từ chính các HTX và người nông dân.

Hội thảo đã thống nhất cao về việc cần sớm thí điểm mô hình bảo hiểm nông nghiệp tại Quảng Ninh, trước khi nhân rộng và đề xuất chính sách cấp quốc gia. Với hạ tầng HTX phát triển, sự đồng hành của doanh nghiệp như Bảo hiểm Agribank và định hướng quyết liệt từ chính quyền địa phương, Quảng Ninh hoàn toàn có thể trở thành hình mẫu đi đầu cả nước về triển khai bảo hiểm nông nghiệp trong HTX.

Nguyễn Ngọc

 

Hà Nội đơn giản hóa 34 thủ tục hành chính lĩnh vực nông nghiệp và môi trường

UBND TP Hà Nội phê duyệt phương án đơn giản hóa 34 thủ tục hành chính của Sở Nông nghiệp và Môi trường, giúp rút ngắn hàng chục ngày xử lý, cải thiện hiệu quả phục vụ người dân.

Hà Nội tiếp tục cải cách hành chính mạnh mẽ, thúc đẩy chính quyền điện tử và nâng cao chất lượng phục vụ công dân, doanh nghiệp.

UBND TP Hà Nội vừa phê duyệt phương án đơn giản hóa 34 thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội. Đây là bước đi quan trọng trong nỗ lực cải cách hành chính, giúp giảm bớt gánh nặng thủ tục, nâng cao chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp trong các lĩnh vực nông nghiệp, môi trường và phát triển nông thôn.

Theo nội dung quyết định, tổng số thời gian xử lý được rút ngắn lên tới hàng chục ngày, trải đều ở nhiều lĩnh vực chuyên môn.

Cụ thể, nông nghiệp đơn giản hóa 3/3 thủ tục, rút ngắn 3 ngày; Bảo hiểm nông nghiệp đơn giản hóa 2/2 thủ tục, rút ngắn 2 ngày; Chăn nuôi 4/7 thủ tục được đơn giản hóa, rút ngắn 4 ngày; Thủy sản 6/9 thủ tục, rút ngắn 8 ngày; Thú y đơn giản hóa 1/11 thủ tục, rút ngắn 2 ngày; Lâm nghiệp và kiểm lâm 5/22 thủ tục, rút ngắn 5 ngày; Thủy lợi và phòng chống thiên tai 5/25 thủ tục, rút ngắn 3 ngày; Kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn 1/6 thủ tục, rút ngắn 1 ngày; Bảo vệ thực vật: 5/7 thủ tục, rút ngắn 8 ngày; Khoa học công nghệ và môi trường 1/2 thủ tục, rút ngắn 2 giờ; Quản lý chất lượng nông, lâm sản và thủy sản 1/1 thủ tục, rút ngắn 0,5 ngày

UBND TP Hà Nội giao Sở Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai hiệu quả phương án này. Đồng thời, Trung tâm Phục vụ Hành chính công thành phố sẽ tham mưu, hỗ trợ giám sát và hướng dẫn thực hiện đúng theo quy định pháp luật.

Bên cạnh đó, UBND TP Hà Nội cũng đã ban hành Quyết định số 1974/QĐ-UBND về việc ủy quyền cho Sở Nông nghiệp và Môi trường giải quyết hàng loạt thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền của thành phố. Các lĩnh vực được ủy quyền bao gồm: khoa học - công nghệ - môi trường, khuyến nông, thủy lợi, kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn, tài nguyên nước, môi trường, địa chất và khoáng sản, ứng phó sự cố tràn dầu.

Thời hạn ủy quyền kéo dài từ ngày ký quyết định đến hết ngày 31/12/2025. Sở Nông nghiệp và Môi trường có trách nhiệm định kỳ báo cáo UBND TP Hà Nội kết quả thực hiện và các vấn đề phát sinh, đảm bảo việc ủy quyền được thực thi minh bạch, hiệu quả và đúng quy định.

Với quyết định này, Hà Nội tiếp tục khẳng định cam kết cải cách hành chính mạnh mẽ, thúc đẩy chính quyền điện tử và nâng cao chất lượng phục vụ công dân, doanh nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi số.

Việc đơn giản hóa thủ tục hành chính lĩnh vực nông nghiệp và môi trường không chỉ tiết kiệm thời gian, chi phí mà còn góp phần thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững nông thôn mới trong giai đoạn tới.

Vũ Linh

 

'Phù phép' đất nông nghiệp thành đất thổ cư, hàng loạt cán bộ sắp hầu tòa

Nguyễn Sơn La, Giám đốc Công ty TNHH Mạnh La đã dùng nhiều thủ đoạn để cấu kết, móc nối với cán bộ cấp xã, cấp huyện Kiến Xương (tỉnh Thái Bình) để 'phù phép' hàng loạt đất nông nghiệp thành đất thổ cư, gây thiệt hại cho nhà nước gần 5 tỉ đồng.

Mua đất nông nghiệp chuyển đổi thành đất thổ cư

Theo cáo trạng của VKSND tỉnh Thái Bình, từ năm 2019 đến năm 2022, khi Nguyễn Sơn La, Giám đốc Công ty TNHH Mạnh La đặt vấn đề, các bị can: Ngô Thị Bích Liên, Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường (TNMT) huyện Kiến Xương cùng với Đặng Ngọc Oánh, Phó Chủ tịch UBND huyện Kiến Xương (năm 2019); Đỗ Xuân Khu, Phó Chủ tịch UBND huyện Kiến Xương (năm 2021); Trần Văn Thành, cán bộ Phòng TNMT huyện Kiến Xương; Nguyễn Công Triều, Chủ tịch UBND xã Quang Hưng (năm 2019), huyện Kiến Xương; Bùi Hữu Chỉnh, Chủ tịch UBND xã Quang Hưng (năm 2021), huyện Kiến Xương; Phạm Thiên Tư, cán bộ Địa chính xã Quang Hưng, huyện Kiến Xương đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, trái pháp luật đối với 24 thửa đất với tổng diện tích 9.935,1m2 tại thôn Hữu Tiệm (xã Minh Quang, huyện Kiến Xương), gây thiệt hại cho Nhà nước 4,537 tỉ đồng.

Lực lượng chức năng khám xét nơi ở và làm việc của bị can Nguyễn Sơn La.

Cụ thể, trước năm 2019, các thửa đất số 564, 565, 566, 567, 568 có nguồn gốc là đất chuyên trồng lúa nước thuộc cánh đồng Bến Chợ (thôn Hữu Tiệm, xã Quang Hưng (nay là xã Minh Quang), huyện Kiến Xương) được nhà nước giao cho các hộ gia đình ở thôn Hữu Tiệm để trồng lúa.

Tháng 6/2019, Nguyễn Sơn La mua các thửa đất trên của 5 hộ gia đình. Trong tháng 7 và tháng 9/2019, La gửi đơn xin chuyển mục đích sử dụng đất từ đất trồng lúa sang đất ở nông thôn đến UBND xã Quang Hưng, đồng thời đặt vấn đề với Nguyễn Công Triều, nguyên Chủ tịch UBND xã; Phạm Thiên Tư, nguyên cán bộ địa chính xã Quang Hưng về việc tạo điều kiện được chuyển mục đích sử dụng đất đối với 5 thửa đất trên từ đất trồng lúa sang đất ở nông thôn. Phạm Thiên Tư báo cáo Nguyễn Công Triều là diện tích đất lúa mà Nguyễn Sơn La xin chuyển đổi lớn, chỉ tiêu đề nghị chuyển mục đích sử dụng đất đối với đất trồng lúa của xã đã hết, nếu chuyển đổi 5 thửa đất trên sẽ vượt hạn mức quy định trong Kế hoạch sử dụng đất năm 2019.

Với mục đích tạo nguồn thu cho xã để xây dựng nông thôn mới nâng cao, tạo uy tín của bản thân và là họ hàng của nhau, nên Triều đồng ý tạo điều kiện để Nguyễn Sơn La được chuyển mục đích sử dụng đất. Để có sự thống nhất, tại Hội nghị họp Ban chấp hành Đảng bộ xã ngày 24/7/2019, Nguyễn Công Triều báo cáo về việc Nguyễn Sơn La có đơn đề nghị chuyển mục đích sử dụng đất và xin ý kiến các Đảng ủy viên nhưng không báo cáo rõ các thửa đất mà Nguyễn Sơn La xin chuyển đổi đã vượt hạn mức quy định, không được phép chuyển đổi nên được đa số Đảng ủy viên nhất trí, giao cho UBND xã hoàn thiện hồ sơ theo quy định. Sau đó, Triều chỉ đạo Tư hoàn thiện thủ tục, hồ sơ để đề nghị UBND huyện chuyển mục đích sử dụng đất cho Nguyễn Sơn La.

Ngày 26/7/2019, Nguyễn Công Triều ký Tờ trình số 03/TT-UBND đề nghị Phòng TNMT huyện Kiến Xương chuyển mục đích sử dụng đất diện tích 959,7m2 đất trồng lúa thuộc thửa 564, 565 sang đất ở nông thôn cho Nguyễn Sơn La.

Ngày 29/7/2019, Nguyễn Sơn La đến phòng làm việc của Ngô Thị Bích Liên đặt vấn đề xin chuyển mục đích sử dụng đất và đưa các bộ hồ sơ xin chuyển mục đích sử dụng đất tại 2 thửa số 564, 565 với tổng diện tích 959,7m2. Nhận hồ sơ, Ngô Thị Bích Liên giao cho Trần Văn Thành, chuyên viên Phòng TNMT thẩm định. Sau khi thẩm định, Thành báo cáo lại với Liên, khi đó có mặt Nguyễn Sơn La và Phạm Thiên Tư với nội dung: “Diện tích đất lúa mà Nguyễn Sơn La xin chuyển sang đất ở không nằm trong kế hoạch sử dụng đất, không chuyển đổi được”. Nguyễn Sơn La nói: “Việc này đã trao đổi với lãnh đạo UBND huyện, cứ hoàn thiện hồ sơ trình lãnh đạo ký”. Thấy vậy, Liên chỉ đạo Thành hoàn thiện hồ sơ để Liên trình lãnh đạo UBND huyện.

Thực hiện theo chỉ đạo, Thành soạn tờ trình và các quyết định chuyển mục đích sử dụng đất đối với 2 thửa đất trên, nhưng không ký xác nhận vào các hồ sơ với vai trò là cán bộ thẩm định; rồi đưa cho Liên ký vào tờ trình và ký nháy vào quyết định trình Đặng Ngọc Oánh. Đặng Ngọc Oánh biết xã Quang Hưng đã hết kế hoạch chuyển đổi mục đích sử dụng đất nhưng tạo điều kiện cho xã Quang Hưng hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới nâng cao, qua đó nâng cao uy tín cá nhân cũng như tạo điều kiện cho Nguyễn Sơn La; cùng ngày, Oánh ký ban hành Quyết định số 1407/QĐ-UBND chuyển đổi mục đích sử dụng đất với tổng diện tích chuyển đổi 959,7m2.

Ngày 23/9/2019, Nguyễn Công Triều ký tờ trình số 04/TT-UBND đề nghị Phòng TNMT huyện Kiến Xương cho phép Nguyễn Sơn La chuyển mục đích sử dụng đất từ đất trồng lúa sang đất ở nông thôn đối với 3 thửa đất số 566, 567, 568 với tổng điện tích 2.121,6m2. Ngày 27/9/2019, Nguyễn Sơn La, Phạm Thiên Tư đến phòng làm việc của Ngô Thị Bích Liên đặt vấn đề xin chuyển mục đích sử dụng đất và đưa các bộ hồ sơ xin chuyển mục đích sử dụng đất tại 3 thửa đất trên. Tương tự như lần trước, Liên chỉ đạo Thành soạn thảo tờ trình, quyết định chuyển đổi mục đích sử dụng đất rồi cầm đến trình Đặng Ngọc Oánh, cùng ngày Oánh ký ban hành Quyết định số 1682/QĐ-UBND diện tích chuyển đổi 2121,6m2.

Tổng diện tích đất trồng lúa, các bị can chuyển đổi sang đất ở nông thôn không đúng pháp luật là 3.081,3m2, định giá đất tại thời điểm năm 2019, trị giá 677,8 triệu đồng.

Hàng loạt thửa đất bị chuyển đổi trái pháp luật

Tiếp tục hành vi sai phạm năm 2021, các bị can đã chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật đối với 19 thửa đất, tờ bản đồ số 4 (tại thôn Hữu Tiệm, xã Minh Quang, huyện Kiến Xương). Những thửa đất này trước đây là đất trồng lúa thuộc cánh đồng Bến Chợ, thôn Hữu Tiệm. Tổng diện tích đất nông nghiệp các bị can chuyển đổi sang đất ở nông thôn không đúng quy định đối với 19 thửa đất, tổng diện tích 6.853,8m2, định giá đất tại thời điểm năm 2021, trị giá 3,85 tỉ đồng.

Cơ quan Cảnh sát điểu tra bắt tạm giam Nguyễn Sơn La.

Trên cơ sở từ những tài liệu, chứng cứ nêu trên và các tài liệu có trong hồ sơ, VKSND tỉnh Thái Bình xác định: Năm 2019, để tạo điều kiện cho xã Quang Hưng sớm hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và nâng cao uy tín cho bản thân, khi Nguyễn Sơn La đặt vấn đề, các bị can Ngô Thị Bích Liên, Đặng Ngọc Oánh, Trần Văn Thành, Nguyễn Công Triều, Phạm Thiên Tư đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn chuyển đổi mục đích sử dụng đất trồng lúa sang đất ở nông thôn trái pháp luật đối với 5 thửa đất số 564, 565, 566, 567, 568 thôn Hữu Tiệm với tổng diện tích trên 3.081.33m2 tạo điều kiện để Nguyễn Sơn La hưởng lợi, gây thiệt hại cho nhà nước số tiền 677,88 triệu đồng.

Tương tự như trên, đến năm 2021, khi Nguyễn Sơn La đặt vấn đề, các bị can Ngô Thị Bích Liên cùng với Đỗ Xuân Khu, Phó Chủ tịch UBND huyện Kiến Xương; Trần Văn Thành; Bùi Hữu Chỉnh, Chủ tịch UBND xã Quang Hưng và Phạm Thiên Tư tiếp tục lợi dụng chức vụ, quyền hạn, chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất ở nông thôn trái pháp luật đối với 19 thửa đất, thôn Hữu Tiệm với tổng diện tích là 6.853,8m2, gây thiệt hại cho nhà nước với số tiền 3,85 tỉ đồng. Như vậy trong năm 2019, 2021, các bị can đã thực hiện hành vi chuyển đổi mục đích sử dụng đất trái pháp luật tại thôn Hữu Tiệm với tổng diện tích 9.935,1m2, gây thiệt hại cho nhà nước số tiền 4,537 tỉ đồng.

Hành vi nêu trên của các bị can: Nguyễn Sơn La, Ngô Thị Bích Liên, Phạm Thiên Tư, Bùi Đức Chỉnh, Trần Văn Thành, Đỗ Xuân Khu, đã phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” quy định tại khoản 3 Điều 356 Bộ luật Hình sự; bị can Đặng Ngọc Oánh, Nguyễn Công Triều đã phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 356 Bộ luật Hình sự.

Ngày 18/2/2025, VKSND tỉnh Thái Bình đã truy tố các bị can. Dự kiến, phiên tòa sẽ xét xử vào tháng 4/2025.

Hoài Thu

 

Thúc đẩy Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao

Trong năm 2025, Sở Nông nghiệp và Môi trường sẽ triển khai các biện pháp thúc đẩy, hỗ trợ nông dân tham gia Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao (đề án) nhằm thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp xanh, bền vững của tỉnh.

Xây dựng mô hình

Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường, năm 2024, toàn tỉnh đã thực hiện 22 mô hình tham gia đề án với diện tích 1.117ha. Trong đó, 18 mô hình được thực hiện bằng nguồn vốn theo Nghị định 62/2019/NĐ-CP của Chính phủ; 4 mô hình thực hiện triệt để theo các tiêu chí của Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Ngoài ra, còn có các mô hình khác được thực hiện theo một trong các tiêu chí của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các vùng dự án chuyển đổi nông nghiệp bền vững (VnSAT). Tổng hợp chung diện tích áp dụng theo quy trình của Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao là 8.536ha/20.609ha, đạt 41,4% diện tích kế hoạch.

Các địa phương chủ động tham gia tốt đề án, gồm: Tri Tôn, Châu Thành, Thoại Sơn, Phú Tân và Châu Phú. Riêng Châu Phú được chọn làm điểm để tổ chức Ngày hội thu hoạch diện tích lúa tham gia đề án, tạo động lực thúc đẩy các địa phương trong tỉnh tham gia. Phó Chủ tịch UBND huyện Châu Phú Lê Quốc Phong cho hay, thực hiện các khâu đột phá về phát triển nông nghiệp theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2020 - 2025 đề ra, địa phương đã hình thành 10/14 vùng sản xuất tập trung, đạt 71,43% kế hoạch. Nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường, ngành nông nghiệp huyện Châu Phú đã phối hợp các ngành, địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội tích cực vận động nông dân tham gia đề án và đạt được những kết quả tích cực.

“Với quyết tâm của cả hệ thống chính trị huyện, sự hỗ trợ của các cơ quan chuyên môn, sự đồng hành của các doanh nghiệp và đặc biệt là ủng hộ của nông dân, trong vụ đông xuân 2024 - 2025, chúng tôi đã thực hiện 16 mô hình sản xuất lúa theo quy trình canh tác của đề án, với diện tích trên 250ha. Đến nay, ngành nông nghiệp huyện Châu Phú đã vận động nông dân sản xuất lúa theo quy trình đề án được 2.753/2.483ha, đạt 110,88% so kế hoạch đề ra. Đây là thành quả đáng khích lệ, tạo động lực để chúng tôi tiếp tục nỗ lực hướng tới mục tiêu đến năm 2030 có 22.983ha tham gia đề án trên toàn huyện” - ông Lê Quốc Phong nhấn mạnh.

Tăng cường hỗ trợ các hợp tác xã áp dụng cơ giới hóa trong quá trình tham gia đề án

Ông Lê Quốc Phong cũng xác định, UBND huyện Châu Phú sẽ tiếp tục phối hợp với các ngành, các cấp để hỗ trợ nông dân mở rộng diện tích canh tác lúa đạt chuẩn theo đề án. Đẩy mạnh liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, xây dựng thương hiệu gạo địa phương nhằm gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo phát triển sản xuất theo hướng xanh, bền vững.

Thúc đẩy đề án

Theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Hiệp, năm 2025, An Giang phấn đấu có 44.051ha tham gia đề án, trên cơ sở diện tích vùng dự án VnSAT trước đây, các vùng thực hiện áp dụng tiến bộ kỹ thuật “3 giảm, 3 tăng”, “1 phải, 5 giảm”, các mô hình nhân rộng từ nguồn kinh phí hỗ trợ của Nhà nước và doanh nghiệp.

“Thuận lợi cơ bản là chúng tôi được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xuyên suốt của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, của Tỉnh ủy, UBND tỉnh trong quá trình triển khai, thực hiện đề án. Đồng thời, đã có một số các địa phương tham gia thực hiện dự án VnSAT, WB9 nên đã tạo đà để triển khai đề án trong năm 2025. Bên cạnh, Sở Nông nghiệp và Môi trường cùng các sở, ngành tỉnh còn chủ động triển khai kịp thời các chính sách về đất trồng lúa, các kế hoạch sản xuất theo từng vụ, nhằm tạo cơ sở để các địa phương vận động nông dân tích cực tham gia đề án. Đặc biệt, với sự vào cuộc tích cực của hệ thống khuyến nông cộng đồng đã giúp nông dân tự tin hơn khi tham gia đề án” - ông Trần Thanh Hiệp phân tích.

Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp tham gia liên kết với các hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác (THT) để đầu tư, bao tiêu sản phẩm còn hạn chế; kiến thức, hiểu biết của nông dân về đề án chưa nhiều, bà con còn sản xuất theo tập quán cũ; năng lực đàm phán, kết nối, ký kết với doanh nghiệp thực hiện chuỗi ngành hàng lúa gạo của các HTX, THT còn hạn chế… đã ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện đề án trên toàn tỉnh.

Để thực hiện thắng lợi mục tiêu của đề án trong năm 2025 và những năm tới, Sở Nông nghiệp và Môi trường sẽ đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức nông dân trên cơ sở chỉ rõ lợi ích của bà con khi tham gia đề án. Tăng cường tập huấn, nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác khuyến nông trong việc kết nối, hướng dẫn HTX, THT thực hiện quy trình canh tác lúa chất lượng cao. Tích cực phổ biến kiến thức về thị trường, chuyển đổi số, hướng dẫn kinh doanh sản phẩm nông nghiệp trên các sàn thương mại điện tử.

Đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động tập huấn, tuyên truyền xây dựng các mô hình áp dụng triệt để quy trình sản xuất lúa theo đề án do Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành. Tập trung đầu tư, trang bị cho các HTX, THT áp dụng cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất làm tiền đề thúc đẩy, nhân rộng mô hình theo kế hoạch đề ra. Hỗ trợ HTX, THT, nông dân tiếp cận các gói chính sách của Trung ương, của tỉnh. Trao đổi với các đơn vị tín dụng để triển khai các gói tín dụng phù hợp điều kiện, năng lực của HTX, THT nhằm đảm bảo nguồn lực tài chính thực hiện sản xuất lúa theo đề án...

MINH QUÂN

 

Cam xanh nghĩa tình - Mô hình nông nghiệp sẻ chia

Giữa mùa thu hoạch nhưng đầu ra bấp bênh, trái cam sành miền Tây không chỉ được 'giải cứu' mà còn trở thành biểu tượng của tinh thần sẻ chia trong chương trình 'Cam xanh nghĩa tình' - mô hình đã mở rộng thành giải pháp nông nghiệp bền vững, kết nối người nông dân, người tiêu dùng và cộng đồng trên nền tảng số.

Chương trình “Cam xanh nghĩa tình”, mở ra hướng tiếp cận bền vững, kết nối người sản xuất – người tiêu dùng – cộng đồng thông qua mô hình nông nghiệp chia sẻ

Mạng lưới Ngân hàng thực phẩm (Foodbank) Việt Nam phối hợp với Hội Chữ thập đỏ tỉnh Vĩnh Long, Foodbank Vĩnh Long, hệ thống siêu thị Foodshare Market và Mạng lưới nông dân Farmers Vietnam triển khai chương trình “Cam xanh nghĩa tình”, mở ra hướng tiếp cận bền vững, kết nối người sản xuất – người tiêu dùng – cộng đồng yếu thế thông qua mô hình nông nghiệp chia sẻ, dựa trên nền tảng số và tinh thần trách nhiệm xã hội (https://camxanh.vn)

Nền tảng trực tuyến camxanh.vn đóng vai trò trung tâm, cho phép người tiêu dùng đặt mua cam sạch đạt chuẩn từ nhà vườn, hợp tác xã, đồng thời lan tỏa tinh thần tương trợ và kết nối cộng đồng.

Điểm đặc biệt của chương trình là ngoài việc mua để sử dụng, người dân còn có thể đặt mua để tặng cho các mái ấm, viện dưỡng lão, cơ sở bảo trợ thông qua Hội Chữ thập đỏ và hệ thống thụ hưởng của mạng lưới Foodbank Việt Nam. Đây là mô hình gắn kết giữa sản phẩm nông nghiệp với hoạt động thiện nguyện thiết thực, thể hiện tinh thần nhân văn theo hướng nông nghiệp kinh tế sẻ chia.

Điểm đặc biệt của chương trình là ngoài việc mua để sử dụng, người dân còn có thể đặt mua để tặng cho các mái ấm, viện dưỡng lão

Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ tỉnh Vĩnh Long Nguyễn Thị Yến Phương cho biết, chương trình “Cam xanh nghĩa tình” không chỉ dừng lại ở việc giải cứu nông sản mà còn góp phần lan tỏa những giá trị sẻ chia, trách nhiệm và kết nối giữa người dân và cộng đồng. Người dân không chỉ mua một trái cam mà là mua cả sự an tâm, sự tử tế và nghĩa tình gửi gắm trong đó. Cùng với việc đưa vào vận hành mô hình Foodbank Vĩnh Long, chúng tôi mong muốn qua Dự án Cam xanh nghĩa tình sẽ mở ra cách làm sáng tạo, bền vững hơn, từ đó thu hút sự tham gia tích cực của nhiều cá nhân, tổ chức trong xã hội, giúp cộng đồng một cách lâu dài hơn”.

Theo Chủ tịch sáng lập mạng lưới Foodbank Việt Nam Nguyễn Tuấn Khởi, nếu trước đây việc hỗ trợ nông dân chủ yếu mang tính ngắn hạn thì nay, chương trình hướng tới xây dựng một hệ sinh thái nông nghiệp bền vững, kết nối người sản xuất có trách nhiệm, người tiêu dùng thông minh và cộng đồng thiện nguyện. “Cam xanh nghĩa tình" sẽ là mô hình mẫu để từ đó có thể nhân rộng ra với nhiều loại nông sản khác trong tương lai”.

Chủ tịch sáng lập mạng lưới Foodbank Việt Nam Nguyễn Tuấn Khởi (áo vàng) đang lựa chọn cam chuyển đi tiêu thụ giúp bà con nông dân

Những trái cam mọng nước

Cùng với tiêu thụ cam tươi, chương trình còn định hướng thành lập các hợp tác xã chế biến sâu, phát triển các sản phẩm từ cam như tinh dầu, mứt, nước ép…; đồng thời gắn kết với phát triển du lịch cộng đồng, góp phần nâng cao giá trị gia tăng cho trái cam miền Tây.

Với nền tảng trực tuyến https://camxanh.vn, người dân trên cả nước dễ dàng tiếp cận thông tin minh bạch về sản phẩm, nhà vườn, đồng thời thuận tiện đặt mua – từ vài ký cam cho gia đình đến những đơn hàng lớn phục vụ công tác xã hội, thiện nguyện.

Chương trình “Cam xanh nghĩa tình” là bước đi thiết thực trong việc chuyển hóa mô hình “giải cứu” mang tính ngắn hạn sang một mô hình kết nối bền vững – nơi trái cam không chỉ là sản phẩm nông nghiệp mà còn là biểu tượng của sự sẻ chia và trách nhiệm cộng đồng.

Thạc Hiếu

 

HTX biến phụ phẩm thành 'vàng', góp phần kiến tạo nền nông nghiệp tuần hoàn

Sau gần 5 năm hoạt động, HTX Đầu tư phát triển Sông Giá (phường Trần Hưng Đạo, Thủy Nguyên, Hải Phòng) đã trở thành một điểm sáng trong lĩnh vực nông nghiệp sinh thái. Mô hình kinh tế xanh, tuần hoàn mà HTX đang xây dựng không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn kiến tạo một hệ sinh thái nông nghiệp bền vững, thân thiện với môi trường.

Giám đốc HTX Đầu tư phát triển Sông Giá Đỗ Thị Thúy Hà chia sẻ: “Theo tôi, kinh tế xanh và tuần hoàn chính là cách sử dụng tài nguyên thông minh, khép kín, không để lãng phí bất kỳ thứ gì. Phát triển xanh không chỉ là không gây hại, mà còn phục hồi đất, nước và hệ sinh thái địa phương”.

Nông nghiệp không rác thải

Trong khi nhiều cơ sở sản xuất nông nghiệp còn loay hoay với bài toán rác thải, tồn dư hóa chất và thiếu bền vững, thì HTX Sông Giá đã tạo dựng thành công một hệ sinh thái khép kín, nơi mọi phụ phẩm đều được tái sinh thành giá trị mới.

Sản xuất phân trùn quế cao cấp từ nguyên liệu bèo lục bình.

Tại HTX, bèo lục bình – một loài thực vật tưởng như bỏ đi, đã trở thành nguyên liệu đầu vào để nuôi trùn quế. Sản phẩm thải của trùn quế được sản xuất thành phân hữu cơ, sản xuất men vi sinh. Những sản phẩm phân bón, men vi sinh được ứng dụng vào trồng trọt, chăn nuôi theo mô hình khép kín. Từng mắt xích đều hỗ trợ nhau, không có rác thải, không tồn dư hóa chất độc hại.

Anh Đỗ Đăng Phú – cán bộ kỹ thuật cho biết, trang trại trùn quế của HTX Sông Giá có tổng diện tích 7.000m2, trong đó trại nuôi trùn là khoảng 850m2 (350m2 đã đi vào hoạt động được 4 năm, 500m2 đang xây dựng, cơ bản hoàn thành), còn lại là khu vực sản xuất các chế phẩm từ phân trùn. Nguồn thức ăn chính của trùn là bèo lục bình thu gom từ sông Giá, rau và củ quả thải từ nhà bếp, phân bò ủ hoai mục…

HTX thu hút những lao động trẻ tâm huyết với nghề.

Sản phẩm từ trùn quế được HTX sản xuất thành các sản phẩm hữu cơ cao cấp như: phân viên trùn quế (được sản xuất 100% từ phân trùn, trộn với dịch trùn), dành bón cho hoa lan, cây cảnh cao cấp; phân viên hữu cơ (được làm ra từ phân trùn trộn với các loại giá thể như đất, trấu, bột vỏ hàu nung...) sau đó cho vào máy ép thành viên. Loại thứ ba là phân trùn quế bột, được trộn từ phân trùn với các loại giá thể để bón lót, bón thúc cho các vườn cây cảnh, cây ăn quả... Loại thứ từ là phân bón nước từ dịch trùn quế cao cấp, dùng để pha với nước tưới cho cây.

Bên cạnh diện tích trang trại trùn quế, HTX còn có khu vực trồng hoa cây cảnh, cây ăn quả theo mùa với diện tích 3.500m2. HTX sử dụng các sản phẩm phân bón từ trùn quế, thuốc trừ sâu bệnh sinh học tự sản xuất để canh tác nông nghiệp... Kết quả cho thấy cây phát triển rất tốt, chất lượng quả ngon, ngọt.

Cán bộ kỹ thuật HTX chăm sóc dưa trồng trong nhà lưới.

Sản phẩm chủ lực dưa vàng của HTX được cơ quan quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản kiểm định theo định kỳ, tất cả các chỉ số liên quan (41 chỉ số) đều đạt chất lượng tốt, đủ tiêu chuẩn để có thể xuất khẩu.

Gắn nông nghiệp với khoa học và sức khỏe cộng đồng

Giám đốc HTX Đỗ Thị Thúy Hà – người phụ nữ mạnh mẽ, bản lĩnh, khẳng định: "Kinh tế xanh và tuần hoàn là tương lai của nông nghiệp. Đó không chỉ là sản xuất không gây hại mà còn phục hồi tự nhiên, trả lại sự sống cho đất, cho nước và cho môi trường sống của chúng ta".

Tuy nhiên, con đường phát triển mô hình này không hề dễ dàng. Những vướng mắc pháp lý trong việc thuê đất làm nông nghiệp, thiếu nguồn nhân lực chuyên sâu về vi sinh học, sự e dè của thị trường với giá thành của sản phẩm xanh... là những thách thức mà HTX phải đối mặt. "Nhưng thay vì chùn bước, chúng tôi coi đó là động lực để không ngừng cải tiến, học hỏi và mở rộng quy mô sản xuất", chị Hà chia sẻ.

HTX đã mở thêm một cửa hàng bán phân bón, các chế phẩm sinh học tại đường Hoàng Minh Thảo - Chợ Hàng - Hải Phòng.

Để sản phẩm của HTX tiếp cận với nhiều người tiêu dùng, HTX đã có những giải pháp như: Tích cực tham gia các chương trình xúc tiến thương mại, hội chợ nông sản, kết nối cung cầu ở cả trong và ngoài nước. Đồng thời, HTX cũng phát triển kênh truyền thông qua Fanpage Sông Giá, website thương mại điện tử và các kênh phân phối trực tiếp tới hộ nông dân, tổ chức nông nghiệp hữu cơ. Hiện tại, HTX đang xúc tiến liên kết xuất khẩu thử nghiệm một số dòng phân bón và men vi sinh sang thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc.

Đồng hành cùng HTX Sông Giá còn có sự hỗ trợ tích cực từ các cơ quan như Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Công thương, Sở Nông nghiệp và Môi trường, Liên minh HTX thành phố, Hội Liên hiệp Phụ nữ Hải Phòng và chính quyền thành phố Thủy Nguyên. “Những hỗ trợ này không chỉ đến từ các chính sách cụ thể mà còn là sự kết nối, tư vấn chuyên môn và tạo điều kiện để HTX tiếp cận các chương trình nghiên cứu, chuyển giao công nghệ mới. Đặc biệt, Sở Nông nghiệp và Môi trường đã có những hướng dẫn rất thiết thực giúp HTX hoàn thiện hồ sơ pháp lý liên quan đến sử dụng đất và đánh giá tác động môi trường trong quá trình mở rộng mô hình. Đây là nền tảng quan trọng giúp chúng tôi tự tin triển khai mô hình nông nghiệp tuần hoàn ở quy mô lớn hơn”, chị Hà bày tỏ.

Chặng đường 5 năm nỗ lực không ngừng nghỉ.

Không dừng lại ở các dòng sản phẩm chủ lực như phân hữu cơ vi sinh từ bèo lục bình – được sản xuất bằng công nghệ vi sinh hiếu khí, giàu dưỡng chất và thân thiện với đất; men vi sinh bản địa BioFlow và BioSofix – phục vụ cải tạo đất, xử lý rác thải hữu cơ và làm đệm sinh học cho chăn nuôi; các loại phân bón từ trùn quế, các sản phẩm rau, củ, quả hữu cơ…, HTX Sông Giá đang mở rộng tầm nhìn sang lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Bởi theo chị Hà, trùn quế không chỉ mang giá trị trong canh tác nông nghiệp mà còn chứa nhiều dưỡng chất tiềm năng để phát triển thành thực phẩm chức năng.

"Chúng tôi đang nghiên cứu các dòng sản phẩm bảo vệ sức khỏe có nguồn gốc từ trùn quế – vừa thân thiện, vừa có lợi cho người dùng. Ngoài ra, HTX cũng lên kế hoạch trồng cây dược liệu như đinh lăng, nghệ đen, gừng, trà hoa vàng… trên vùng đất được cải tạo bằng phân hữu cơ của chính HTX. Đây là bước tiến mới trong chuỗi giá trị khép kín mà chúng tôi hướng đến", chị Hà thông tin.

Với triết lý phát triển lấy sinh thái làm gốc, công nghệ làm đòn bẩy và sức khỏe con người làm đích đến, HTX Sông Giá đang chứng minh nông nghiệp xanh - tuần hoàn - bền vững không phải là lý thuyết xa vời, mà hoàn toàn có thể hiện thực hóa bằng những hành động cụ thể. Và trong hành trình ấy, mỗi chiếc lá bèo lục bình, mỗi sinh vật nhỏ bé như con trùn cũng đều mang theo một sứ mệnh lớn lao - sứ mệnh kiến tạo tương lai xanh cho nông nghiệp Việt Nam.

Thanh Vân

 

Diễn đàn HTX Quốc gia 2025: Chuyển đổi sản xuất xanh - động lực cho khu vực KTTT, HTX phát triển bền vững

Sản xuất xanh đang là hướng đi bền vững giúp nâng cao hiệu quả sản xuất cũng như tăng thu nhập cho người dân. Nâng cao vai trò của HTX là đầu mối liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp tiêu thụ, quyết định đến sự thành công của khu vực kinh tế tập thể (KTTT), HTX. Từ đó, đi đến hành động thiết thực, bắt tay ngay vào thực hiện ứng dụng khoa học - công nghệ, sử dụng năng lượng hiệu quả, bền vững trong hoạt động sản xuất, mở rộng quy mô hoạt động của HTX, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trên thị trường.

Hoàn thiện và phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn

Ông Trần Văn Lô Ba, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX nông nghiệp Phú Thạnh, tỉnh An Giang

Ông Trần Văn Lô Ba, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX nông nghiệp Phú Thạnh, tỉnh An Giang

HTX nông nghiệp Phú Thạnh được thành lập ngày 26/05/2005 trên cơ sở hợp nhất 03 HTX Đức Lộc, Phú Cường và Trường Thạnh. Diện tích phục vụ 1.700ha. Đến nay, số thành viên là 388, góp vốn 28.000 cổ phần, tổng vốn góp là 2,8 tỷ đồng. Hàng năm, HTX hoạt động đều có lãi và tích lũy. Tổng nguồn vốn hoạt động hiện nay là 12,9 tỷ đồng.

Trong xây dựng chuỗi giá trị xanh, cần làm rõ quyền lợi và nghĩa vụ của tất cả các bên khi tham gia chuỗi giá trị (nông hộ – HTX nông nghiệp – doanh nghiệp). Cụ thể: Nông hộ (nông dân) phải tuân thủ quy trình, kỹ thuật canh tác để đảm bảo về sản lượng, chất lượng sản phẩm trong hợp đồng đã quy định và cam kết bán sản phẩm cho doanh nghiệp sau khi thu hoạch; HTX nông nghiệp (HTXNN) thực hiện khâu tổ chức sản xuất, làm đầu mối trong việc cung ứng sản phẩm đầu vào (giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, dịch vụ bơm tưới,…) và lo đầu ra cho nông hộ sau khi thu hoạch; Doanh nghiệp phải cam kết thu mua hết sản lượng hàng hóa mà HTXNN đã thu hoạch theo giá được thỏa thuận trong hợp đồng hoặc giá thị trường tại thời điểm giao dịch.

Đồng thời, hoàn thiện và phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn, quay vòng hoàn trả lại hữu cơ cho đất, không đốt rơm rạ, thúc đẩy sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường; tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Nhà nước để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hiện đại. Kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải, trong bối cảnh thực tế hiện nay, chúng ta thực hiện mô hình này trong nông nghiệp sẽ tạo ra những giá trị lớn và tương thích với nền nông nghiệp hiện đại, vừa bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Để tăng thêm thu nhập, giá trị tăng thêm từ phụ phẩm nông nghiệp, góp phần sản xuất theo hướng nông nghiệp tuần hoàn, cần xây dựng và phát triển mô hình sinh kế, tận dụng thu gom rơm làm nấm rơm, ủ rơm sau trồng nấm sản xuất phân hữu cơ. Đề xuất chính sách đặc thù để khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp theo kinh tế tuần hoàn cho các nông hộ và HTX tham gia tái chế phụ phẩm nông nghiệp.

Tại Diễn đàn HTX Quốc gia 2025, HTX Phú Thạnh đề xuất xây dựng Chương trình hỗ trợ phát triển HTXNN giai đoạn 2025-2030 trên cơ sở rà soát, bổ sung, sửa đổi nội dung các văn bản luật, nghị định, thông tư, quyết định hiện hành còn bất cập, chồng chéo để phù hợp với thực tiễn và có tính khả thi cao.

Tăng cường và nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác quản lý HTXNN (Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, Ban Kiểm soát/Kiểm soát viên) các kiến thức, kỹ năng về quản trị, điều hành, kế toán, kiểm toán, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu sản phẩm, đàm phán hợp đồng kinh tế.

Có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, HTX vay vốn với lãi suất ưu đãi thu mua diện tích nếp trong đề án tăng 100-200 đồng/kg để tác động người nông dân tham gia; Ngành nông nghiệp có chính sách hỗ trợ HTX đầu tư mua máy thu gom rơm, máy sạ cụm kết hợp vùi phân… nhằm thực hiện cơ giới hóa đồng bộ theo hình thức Nhà nước hỗ trợ 50% và HTX đối ứng 50%.

Phương án "lấy ngắn nuôi dài" mang lại giá trị cao, góp phần chuyển đổi xanh

Ông Lưu Văn Diễn, Chủ tịch HĐQT HTX Cơ giới – Xây dựng Vĩnh Thái, Nha Trang, Khánh Hòa

Ông Lưu Văn Diễn, Chủ tịch HĐQT HTX Cơ giới – Xây dựng Vĩnh Thái, Nha Trang, Khánh Hòa

Khánh Hòa có địa thế đặc biệt vì là nơi giao thoa của hai dòng hải lưu nóng và lạnh, thuận lợi tạo nên những sản vật quý giá. Nhắc đến Khánh Hòa, chúng ta sẽ nhớ đến yến sào đầu tiên, sau đó là tới trầm hương.

Tổng diện tích trồng cây Dó bầu trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa hiện nay vào khoảng 350 ha, tập trung nhiều ở các huyện Khánh Vĩnh, Ninh Hòa, Diên Khánh. Tuy nhiên, không phải cây Dó nào cũng tạo ra trầm hương, quá trình tạo trầm phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tự nhiên, giống như quá trình tạo nên hạt ngọc trai vậy. Giữa trăm cây Dó bầu chỉ có một vài cây tạo được trầm hương, và vùng đất nổi tiếng nhất bằng sự ban tặng của tạo hóa, tỉ lệ tạo trầm rất cao là vùng Tu Bông, Vạn Giã thuộc huyện Vạn Ninh.

Trầm hương Khánh Hòa được tạo nên từ mủ cây Dó bầu, như minh chứng cho sự kiên cường, bất khuất của chính con người và mảnh đất này. Dù mang đau thương hay mất mát cũng không đầu hàng, không bỏ cuộc, đó cũng chính là linh hồn, là sức mạnh dân tộc Việt. Đến ngày nay, trầm hương đã trở thành sản vật nổi danh, đại diện cho sự quý giá, uy nghiêm núi non của Khánh Hòa. Du khách khi có dịp đến đây luôn không quên mua vài món quà từ trầm để làm quà cho gia đình, người thân của mình.

Đây là loại cây có ý nghĩa về sinh thái và lịch sử tại vùng đất trầm hương Khánh Hòa. Hiện, cây Dó bầu trầm hương tự nhiên có thời gian cho kết quả lấy trầm từ hơn 10 năm trở lên với nhiều biện pháp kỹ thuật khá phức tạp mới cho ra trầm và xác suất cho trầm không cao. Còn cây Dó bầu hương Kỳ Hải Nam là loại cây có thời gian sinh trưởng và cho thu hoạch từ 5-7 năm tùy loại giống và cho ra trầm xác suất khá cao, kỹ thuật ít phức tạp.. Trồng cây Dó bầu Kỳ Hải Nam phải có phương án "Lấy ngắn nuôi dài" thì mới mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần vào mục tiêu chuyển đổi sản xuất xanh cho phát triển bền vững.

Hiện, HTX có liên doanh liên kết với các HTX có đất rừng trong tỉnh ở khu vực Vạn Ninh, Ninh Hòa, Diên Khánh, Khánh Vĩnh… nhằm nhân rộng loại cây Dó bầu trầm hương có giá trị cao này.

Ứng dụng số hóa vào sản xuất tạo ra giá trị sản phẩm xanh

Ông Nguyễn Văn Đời, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX dịch vụ nông nghiệp Bình Thành, tỉnh Đồng Tháp

HTX dịch vụ nông nghiệp Bình Thành, xã Bình Thành, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp được thành lập năm 1989.

Ông Nguyễn Văn Đời, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX dịch vụ nông nghiệp Bình Thành, tỉnh Đồng Tháp

HTX có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển nông nghiệp và dịch vụ, các tuyến đường trên địa bàn xã được kết hợp làm đê bao khép kín vừa phục vụ giao thông được bê tông hóa. Ngoài điều kiện phát triển nông nghiệp, xã Bình Thành còn có điều kiện phát triển nhiều dịch vụ khác, cơ hội tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần quan trọng thực hiện đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội của địa phương.

Ngoài việc định hướng cho hộ thành viên trong HTX ổn định và phát triển sản xuất nâng cao thu nhập, tăng cường tình đoàn kết gắn bó tình làng nghĩa xóm trong cộng đồng dân cư; cùng cấp ủy và chính quyền địa phương thực hiện tốt công tác xây dựng nông thôn mới, hiện nay HTX đang đảm nhận thực hiện 3 tiêu chí trong 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới nâng cao: tiêu chí 2, tiêu chí 3, tiêu chí 13 và hỗ trợ cho nhiều tiêu chí khác.

HTX Bình Thành cũng như các HTX khác trong tỉnh đang ra sức đẩy mạnh chuyển đổi số theo Chỉ thị 19/CT-TTCP ngày 03/6/2023 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh chuyển đổi số trong kinh tế hợp tác, HTX, theo đó thực hiện Đề án chuyển đổi số ngành nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2022 – 2025, định hướng đến năm 2030.

Để thích nghi với tình hình phát triển mới, HTX đang quản lý và thực hiện gần 1.200ha đất sản xuất nông nghiệp có gần 100% người nông dân được sử dụng công nghệ tiến tiến “máy bay phun thuốc bảo vệ thực vật” nhằm giúp bà con nông dân tiếp cận và áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, từ đó tối ưu hóa năng suất, giảm chi phí đầu tư, dễ dàng ứng dụng cho nhiều loại cây trồng và địa hình khác nhau, nhất là giảm tiếp xúc trực tiếp với các hóa chất, bảo vệ sức khỏe người nông dân. Hiện tại, các sản phẩm làm ra tại HTX như: Lúa, gạo, nước uống đóng bình, đóng chai được gắn mã QR minh bạch trong sản xuất, đảm bảo chất lượng và tính an toàn của sản phẩm hàng hóa, thuận tiện trong công tác quản lý, truy xuất thông tin nhanh chóng và chính xác. Ngoài ra, HTX triển khai các công việc được số hóa như: sử dụng phần mềm kế toán, thuế điện tử, hóa đơn điện tử, chữ ký số, thiết bị bơm nước tự động, xây dựng website để giới thiệu sản phẩm,….. cũng là những nội dung trọng tâm và tiếp tục thực hiện nhân rộng; hướng tới HTX sẽ đầu tư mô hình “trạm giám sát sâu rầy thông minh” tự động đưa ra cảnh báo và dự báo sâu rầy giúp người nông dân an tâm sản xuất. Có thể thấy, việc chuyển đổi số, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp mang lại hiệu quả sản xuất và kinh tế cao, góp phần phát triển HTX theo hướng bền vững.

Chuyển đổi năng lượng xanh, hướng đi bền vững trong tương lai

Ông Đinh Công Hành, Chủ tịch HĐQT HTX Vận tải Phú Thành – Tuyên Minh, tỉnh Quảng Bình

Ông Đinh Công Hành, Chủ tịch HĐQT HTX Vận tải Phú Thành – Tuyên Minh, tỉnh Quảng Bình

Vấn đề ô nhiễm không khí ở các địa phương trên toàn quốc có chiều hướng gia tăng cả về quy mô, mức độ, nhất là tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM. Một trong những nguồn gây ô nhiễm không khí là phát thải từ hoạt động của các loại phương tiện giao thông sử dụng nhiên liệu hóa thạch.

Với mục tiêu phát triển phương tiện giao thông vận tải và hệ thống giao thông vận tải công cộng thân thiện với môi trường nhằm giảm ô nhiễm môi trường không khí, giảm phát thải khí nhà kính; hướng đến mục tiêu phát thải ròng bằng "0" đến năm 2050 và tăng trưởng xanh, ngành giao thông vận tải đang nghiên cứu "Xây dựng chương trình quốc gia phát triển phương tiện giao thông vận tải, hệ thống giao thông vận tải công cộng thân thiện với môi trường, trong đó có phương tiện giao thông điện", đặc biệt là đưa ra các chính sách ưu tiên phát triển, khuyến khích người dân sử dụng phương tiện giao thông vận tải, hệ thống vận tải công cộng thân thiện môi trường (xe buýt CNG/điện, taxi điện, đường sắt đô thị...).

Đối với HTX Vận tải Phú Thành – Tuyên Minh, trong quá trình hoạt động đã góp phần giúp các thành viên vượt qua khó khăn, phát huy sự tích cực, chủ động, sáng tạo trong tổ chức vận tải; đổi mới công tác tổ chức quản lý, nâng cao năng lực quản trị, nâng cao chất lượng phương tiện, chất lượng dịch vụ vận tải, tiết kiệm chi phí, giữ vững hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Do đó, vận tải hành khách đã đáp ứng yêu cầu đi lại của nhân dân; vận tải hàng hóa phục vụ tốt, kịp thời cho các yêu cầu về xây dựng phát triển kinh tế-xã hội.

Nhằm đẩy mạnh chuyển đổi sử dụng năng lượng xanh đối với các lĩnh vực thuộc ngành giao thông vận tải đối với các HTX, cần xây dựng lộ trình hợp lý, phù hợp với khả năng huy động nguồn lực, đảm bảo tính khả thi, hiệu quả và bền vững trong thực hiện thông qua các chương trình, kế hoạch hành động cụ thể. Đồng thời, tăng cường xây dựng lộ trình phù hợp để triển khai thực hiện mục tiêu chuyển đổi năng lượng xanh của ngành giao thông vận tải, đổi mới chất lượng dịch vụ để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nâng cao năng lực cạnh tranh, tiếp nhận sự hỗ trợ của Nhà nước, phát huy mạnh mẽ các liên kết với doanh nghiệp và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của hội nhập quốc tế.

Tạo việc làm ổn định từ những mô hình sản xuất xanh

Ông Trần Đình Thọ, Giám đốc HTX nông nghiệp Thượng Giang, tỉnh Bình Định

HTX nông nghiệp Thượng Giang được thành lập năm 1980, năm 1998 chuyển đổi đăng ký lại hoạt động theo Luật HTX 1996 và tháng 4/2015 chuyển đổi đăng ký lại theo Luật HTX 2012. Trong năm 2022 sáp nhập 2 HTXNN Hữu Giang và Tả Giang vào HTXNN Thượng Giang.

Ông Trần Đình Thọ, Giám đốc HTX nông nghiệp Thượng Giang, tỉnh Bình Định

Là đơn vị kinh tế có số lượng thành viên chiếm trên 70% tổng số hộ trong xã nên kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của HTX đã có tác động tích cực đến đại bộ phận nông dân trong xã như: công tác áp dụng tiến bộ KH-KT vào sản xuất, thực hiện nghiêm lịch thời vụ, làm đúng cơ cấu giống; luôn có ý thức sản xuất đi đôi với bảo vệ môi trường, các thành viên luôn đoàn kết tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất cũng như trong cuộc sống, thi đua sản xuất vươn lên làm giàu chính đáng.

Đó là những nhân tố góp phần đáng kể trong việc phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng nông thôn mới của địa phương. Ngoài ra, hàng năm, HTX đã xuất quỹ phúc lợi hàng chục triệu đồng để góp phần lo cho thành viên, lo cho cộng đồng…. cũng là những đóng góp thiết thực, tích cực để chương trình nông thôn mới của xã ngày càng thành công hơn.

Nông nghiệp xanh có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất theo chuỗi giá trị và cũng là xu hướng tất yếu của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Các HTX nông nghiệp đã đóng vai trò quan trọng trong phát triển liên kết chuỗi giá trị, thúc đẩy nông nghiệp xanh và giảm phát thải.

Những mô hình sản xuất xanh của HTX đang từng bước khắc phục điểm yếu cố hữu của sản xuất nông nghiệp như mất an toàn thực phẩm, gây ô nhiễm môi trường, đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế cao và tạo việc làm ổn định.

Tuy nhiên, dù được coi là hướng đi đúng, phù hợp với yêu cầu nhập khẩu của nhiều nước trên thế giới nhưng nhiều ý kiến cho rằng cần có thêm cơ chế, định hướng rõ ràng để tạo thuận lợi cho HTX khi áp dụng nông nghiệp xanh vào thực tiễn.

Tôi đề xuất các ban, ngành cần sớm xây dựng, triển khai sàn giao dịch chuyên về nông sản an toàn để kết nối giữa nhà sản xuất, HTX với người tiêu dùng.

Cùng đó, các địa phương cần tạo thêm cơ chế giúp HTX hoàn thành mục tiêu sản xuất theo hướng xanh, nâng chất lượng cho sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh và thu nhập cho thành viên HTX.

Cần cơ chế đủ mạnh cho các đơn vị xuất khẩu và phát triển vùng nguyên liệu lúa gạo

Ông Trịnh Văn Cường, Chủ tịch HĐQT HTX nông nghiệp Vĩnh Cường, tỉnh Bạc Liêu

Trong sản xuất, chuỗi liên kết sản xuất lúa của HTX hiện bao gồm thành viên, các hộ liên kết và hơn 15 HTX vệ tinh thuộc địa bàn các tỉnh Bạc Liêu, Hậu Giang và An Giang thực hiện sản xuất theo các tiêu chuẩn hiện đại, đạt chất lượng xuất khẩu. Đến nay, HTX đã được cấp mã vùng trồng lúa nguyên liệu đạt tiêu chuẩn xuất Châu Âu (SRP) với 800 ha; được cấp mã vùng trồng truy xuất nguồn gốc với diện tích 7.000 ha.

Đến vụ thu hoạch, HTX thực hiện thu gom cho thành viên và các HTX vệ tinh trên tổng diện tích liên kết bình quân khoảng 50.000 ha/năm. HTX tổ chức thu mua lúa hàng hóa theo giá thị trường, hạn chế việc thương lái ép giá, phá giá.

Về phần đầu ra, HTX nông nghiệp Vĩnh Cường thực hiện bao tiêu lúa hàng hóa cho hơn 10.000 hộ.

Ông Trịnh Văn Cường, Chủ tịch HĐQT HTX nông nghiệp Vĩnh Cường, tỉnh Bạc Liêu

Liên kết với 03 tập đoàn và 09 doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu gạo, một phần sơ chế thành gạo thành phẩm để cung ứng cho thị trường tiêu thụ trong tỉnh Bạc Liêu và các tỉnh lân cận.

Ngoài những đơn vị đã liên kết, nhiều doanh nghiệp, HTX khác cũng chủ động đề xuất hợp tác trực tiếp với HTX trong sản xuất và tiêu thụ lúa.

Tại Diễn đàn HTX Quốc gia 2025, HTX đề xuất cần có cơ chế, chính sách ưu đãi mạnh mẽ hơn nữa cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu lúa gạo. Tháo gỡ cho doanh nghiệp, HTX có đủ năng lực về điều kiện trang thiết bị, nguồn tài lực để thu mua, bảo quản hết diện tích liên kết trong vùng nguyên liệu khi vào vụ thu hoạch chính vụ. Đồng thời, có giải pháp kiểm tra, giám sát và xử lý việc doanh nghiệp tuân thủ quy định về phát triển vùng nguyên liệu khi tham gia kinh doanh, xuất khẩu gạo.

Tăng cường các giải pháp để nâng cao ý thức của thành viên, hộ nông dân trong tham gia liên kết. Tự nguyện sẽ quy định trách nhiệm của các bên tham gia trong việc thực hiện liên kết, cùng hưởng lợi; đồng thời cũng chia sẻ những rủi ro nếu có trong quá trình liên kết.

Tăng cường tập huấn, hướng dẫn cho thành viên HTX, hộ nông dân sản xuất theo quy trình xanh, hữu cơ đạt tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu, gắn với đẩy mạnh cấp mã vùng trồng, ghi chép nhật ký sản xuất cho các vùng nguyên liệu; đảm bảo yêu cầu truy xuất nguồn gốc.

Quy hoạch và xây dựng hệ thống hạ tầng kinh tế - kỹ thuật cho từng vùng nguyên liệu với quy mô, diện tích phù hợp.

Các ngành chức năng cần tham gia mạnh mẽ hơn trong hỗ trợ doanh nghiệp, HTX, thành viên và hộ nông dân trong thúc đẩy chuỗi liên kết sản xuất; nhất là khâu quản lý. Xử lý tình trạng phá giá lúa của “cò lái” gây khó khăn cho doanh nghiệp, HTX trong thu mua, hay xử lý các trường hợp phá vỡ hợp đồng, gây thiệt hại cho HTX, doanh nghiệp và ngược lại.

Minh Thành (thực hiện)

 

Mùa dâu tằm Phúc Thọ – Trái ngọt từ nông nghiệp xanh

Nắng tháng 4 làm bừng sáng những vườn dâu ven sông Đáy (huyện Phúc Thọ, Hà Nội), khi những chùm quả đỏ tím căng mọng bước vào mùa chín rộ. Không chỉ điểm tô cho bức tranh làng quê thanh bình, dâu tằm còn mở ra câu chuyện về một hướng đi nông nghiệp xanh đang định hình ở vùng đất này.

Từng gắn bó với nghề nuôi tằm truyền thống, khoảng 17 năm trở lại đây, người dân xã Hiệp Thuận, huyện Phúc Thọ (Sơn Tây - Hà Nội) đã chuyển sang trồng dâu lấy quả, mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt.

Hiện, toàn xã Hiệp Thuận có gần 6ha dâu tằm, với khoảng 60 hộ canh tác tập trung tại các thôn Hiệp Thuận 1, 2, 3; mỗi hộ trồng trung bình từ 1 đến 3 sào.

Lợi thế đất đai ven sông cùng khí hậu thuận lợi giúp cây dâu phát triển xanh tốt, cho năng suất ổn định. Năm nay, nhờ thời tiết ít sương muối và lượng mưa vừa phải, chất lượng quả được đánh giá cao, giá bán đầu vụ tại vườn dao động từ 15.000-20.000 đồng/kg.

Những trái dâu vào mùa chín rộ ở Hiệp Thuận (Phúc Thọ).

Bà Nguyễn Thị Tê, 75 tuổi (thôn Hiệp Thuận 2) cho biết, gia đình có hơn 4 sào dâu trồng trên 10 năm, Vườn bắt đầu chín cách đây 15 ngày, đến nay đã bán được khoảng 1,5 tấn. Dự kiến còn thu hoạch trong vòng 1 tháng tới, thu khoảng hơn 50 triệu đồng/vụ.

Không chỉ dừng ở trồng và bán quả, nhiều hộ còn phát triển mô hình “vườn sinh thái”. Ông Nguyễn Văn Lân (55 tuổi) chia sẻ: “Chăm sóc kỹ hai tháng trước vụ thu hoạch là bí quyết giúp dâu trĩu quả, thu nhập cao gấp 3-4 lần trồng lúa. Ngoài bán quả, mô hình du lịch trải nghiệm “vườn sinh thái” còn giúp gia đình ông tăng thêm khoảng 20% thu nhập.

Những cây dâu được chăm sóc tốt vươn mình tỏa bóng tại nhà vườn ông Lân.

Dâu tươi được thu hái ngay tại những nhà vườn ở Hiệp Thuận (Phúc Thọ).

Thị trường tiêu thụ dâu Phúc Thọ hiện cũng sôi động. Chị Nguyễn Thị Hậu – tiểu thương tại chợ Phúc Thọ cho biết, đầu vụ có thể tiêu thụ tới 7 tấn dâu/ngày thông qua hệ thống thương lái địa phương.

Trong khi đó, chị Tô Hòa Phương (Ba Vì), người gắn bó gần 10 năm với nghề thu mua dâu, đánh giá: “Dâu tằm Phúc Thọ có quả đẹp, vị ngọt thanh, dễ bảo quản nên rất được thị trường ưa chuộng. Nhu cầu khách hàng tiêu thụ loại nông sản này rất cao.

Mỗi mùa dâu không chỉ là mùa thu hoạch, mà là mùa "vàng" cho cả người trồng lẫn tiểu thương.

Hướng tới phát triển bền vững, nhiều hộ dân Hiệp Thuận đã áp dụng canh tác hữu cơ, tận dụng phụ phẩm nông nghiệp, đồng thời kết hợp du lịch trải nghiệm để gia tăng giá trị sản phẩm. Cây dâu tằm không chỉ đem lại thu nhập, mà còn trở thành nhịp cầu kết nối nông nghiệp với văn hóa địa phương.

Với tiềm năng lớn, cây dâu tằm Phúc Thọ rất cần được đầu tư xây dựng thương hiệu, áp dụng chỉ dẫn địa lý và tham gia chuỗi giá trị nông sản sạch. Khi được định vị đúng, dâu tằm hoàn toàn có thể trở thành một đặc sản của Hà Nội, góp phần thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển theo hướng xanh-bền vững.

THẾ DƯƠNG

 

Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng, hướng đi phát triển nông nghiệp bền vững

Sau hơn một năm thực hiện, Đề án một triệu ha lúa chất lượng cao đã khẳng định là bước đi chủ động đi trước đón đầu xu hướng tiêu dùng xanh, nhờ vậy mà các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu lúa gạo vững vàng hơn trên thị trường quốc tế.

Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng, hướng đi phát triển nông nghiệp bền vững.

Vẫn còn điểm nghẽn trong Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, sau 1 năm triển khai Đề án "1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030" (gọi tắt là Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao) tại 5 tỉnh Kiên Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Đồng Tháp và Cần Thơ với 7 mô hình thí điểm kết quả bước đầu mang lại những lợi ích rõ rệt cả về kinh tế lẫn môi trường.

Cụ thể, các mô hình giúp giảm chi phí sản xuất từ 8,2% đến 24,2% nhờ giảm 30-50% lượng giống, tiết kiệm 30-70kg phân bón/ha, giảm 1-4 lần phun thuốc bảo vệ thực vật và cắt giảm 30-40% lượng nước tưới. Đồng thời, năng suất tăng 2,4-7,0%, giúp nâng cao thu nhập của nông dân thêm 12%-50%, tương đương lợi nhuận tăng từ 4-7,6 triệu đồng/ha so với canh tác truyền thống.

Quan trọng hơn, mô hình đã góp phần giảm phát thải khí nhà kính, với mức giảm trung bình 2-12 tấn CO2 tương đương/ha. Đặc biệt, toàn bộ sản lượng lúa thu hoạch đều được các doanh nghiệp cam kết bao tiêu với giá cao hơn 200-300 đồng/kg thóc, tạo động lực mạnh mẽ cho nông dân tham gia.

Mặc dù ghi nhận nhiều kết quả, thực tế quá trình triển khai Đề án một triệu ha vẫn còn những tồn tại, thách thức.

Theo Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy, hiện nay, một số địa phương còn lúng túng trong việc hiểu rõ nội hàm của đề án.

“Có một số địa phương đặt vấn đề phải đầu tư hạ tầng trước. Điều này đúng, nhưng phải làm song song, không phải chờ làm xong hạ tầng mới triển khai. Có những khâu có thể làm được ngay, kế thừa những dự án đầu tư trước đây”, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy phân tích.

Mặt khác, một số địa phương còn chú trọng vào mục tiêu trao đổi tín chỉ carbon, trong khi mục tiêu chính của đề án là chuyển đổi sản xuất bền vững, giảm chi phí, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng sản phẩm và thu nhập nông dân. Dẫn đến, một số khâu dù rất quan trọng nhưng chưa được chú trọng như: quy trình canh tác, chế biến sâu, đầu tư hệ thống logistics…

Bên cạnh đó, việc xây dựng hạ tầng thủy lợi phục vụ yêu cầu tưới tiêu, quản lý đồng ruộng chưa theo kịp tiến độ, trong khi đây là điều kiện tiên quyết để áp dụng các biện pháp canh tác tiên tiến.

Nhiều nơi, nông dân, hợp tác xã và cả doanh nghiệp chưa chủ động đổi mới phương thức sản xuất. Nhất là trường hợp phải đầu tư thêm chi phí ban đầu, còn tâm lý trông chờ vào hỗ trợ của Nhà nước.

Hay vấn đề xử lý phụ phẩm (rơm, rạ) để giảm phát thải mới chỉ dừng lại ở việc thí điểm một số mô hình và khối lượng xử lý còn ở mức thấp.

Những tồn tại, thách thức trên đang trở thành điểm nghẽn, cần được nhận diện và có giải pháp tháo gỡ kịp thời để triển khai đề án hiệu quả hơn trong thời gian tiếp theo.

Các giải pháp đồng bộ

Để Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng hoạt động hiệu quả hơn nữa, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy đề nghị các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long khẩn trương phê duyệt dự án/đề án. Đồng thời ban hành chính sách hỗ trợ theo thẩm quyền và điều kiện cụ thể của địa phương.

Tiếp tục mở rộng diện tích áp dụng quy trình canh tác bền vững theo lộ trình, xác định diện tích các vùng canh tác, bao gồm các vùng đệm và xây dựng kế hoạch, triển khai cụ thể.

Bên cạnh đó, ưu tiên đầu tư nâng cấp hệ thống thủy lợi nội đồng, phát triển các mô hình tưới tiết kiệm nước, giảm phát thải; cải thiện hạ tầng, kho chứa, logistics, để giảm thất thoát sau thu hoạch…

"Đối với hạ tầng cấp vùng và liên vùng, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ chịu trách nhiệm chính, đề xuất với Chính phủ để tìm kiếm các nguồn lực thực hiện. Nhưng hạ tầng trong từng quy mô diện tích, vùng sản xuất các địa phương phải hết sức chú trọng, bố trí ngân sách địa phương và nguồn vốn lồng ghép để triển khai", Bộ trưởng Đỗ Đức Duy cho biết.

Bộ trưởng cũng đề nghị Bộ Công thương nghiên cứu, tham mưu Chính phủ điều chỉnh, bổ sung chính sách quản lý hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo bảo đảm hiệu quả bền vững; hỗ trợ các đơn vị, doanh nghiệp trong xúc tiến thương mại, phát triển thị trường.

Đối với các tổ chức quốc tế, đối tác phát triển, Bộ trưởng đề nghị phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhằm hỗ trợ kỹ thuật, tài chính, chia sẻ kinh nghiệm, nhất là sáng kiến huy động nguồn lực tài chính xanh, phục vụ triển khai các mô hình giảm phát thải trong sản xuất lúa.

Đối với các đơn vị thuộc Bộ, Bộ trưởng giao Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật khẩn trương hoàn thiện quy trình đo đếm, báo cáo và kiểm định kết quả phát thải (MRV), quy trình canh tác bền vững trong phạm vi đề án.

Vụ Hợp tác quốc tế được giao nhiệm vụ phối hợp với Cục Biến đổi khí hậu tham mưu, trình thành lập tổ đàm phán Thỏa thuận chi trả giảm phát thải (ERPA). Đồng thời hoàn thiện thủ tục phê duyệt chủ trương đầu tư và triển khai nghiên cứu tiền khả thi cho dự án vốn vay Ngân hàng thế giới (WB) hỗ trợ đầu tư hạ tầng cho các vùng tham gia đề án.

THANH TRÀ

 

Doanh nghiệp 'miễn nhiễm' với thuế Mỹ

Bất chấp căng thẳng thuế quan từ Mỹ, nhiều doanh nghiệp nông nghiệp Việt vẫn 'sống khỏe', thậm chí còn hưởng lợi nhờ chiến lược xuất khẩu linh hoạt và thị trường đầu ra ổn định.

Trong bối cảnh Tổng thống Mỹ Donald Trump chính thức áp thuế toàn cầu, trong đó có thuế đối ứng lên tới 46% với hàng hóa từ Việt Nam, thị trường tài chính trong nước đã có những phản ứng mạnh. Tuy nhiên, một góc nhìn khác cho thấy không phải lĩnh vực nào cũng bị ảnh hưởng tiêu cực. Ngành nông nghiệp – đặc biệt là nhóm doanh nghiệp xuất khẩu nông sản sang thị trường châu Á – vẫn ghi nhận tăng trưởng ổn định, thậm chí bứt phá.

Nông trại chuối của Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai tại Lào.

Theo TS. Lê Xuân Nghĩa – nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia – chính sách thuế mới từ chính quyền Tổng thống Trump có thể tác động đến cán cân thương mại song phương, nhưng không ảnh hưởng đồng đều đến tất cả ngành hàng.

“Với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc – những thị trường không chịu tác động trực tiếp từ thuế Mỹ – hoạt động kinh doanh vẫn diễn ra bình thường, thậm chí có chiều hướng tích cực”, TS Lê Xuân Nghĩa chia sẻ. Dù căng thẳng thuế quan nhưng nhiều doanh nghiệp đang hưởng lợi kép từ chiến lược thị trường thông minh và biến động tỷ giá.

Điển hình như Hoàng Anh Gia Lai (HAGL), Thagrico hay Tập đoàn TH – những đơn vị đang xuất khẩu hàng trăm ngàn tấn nông sản như chuối, sầu riêng mỗi năm sang các nước châu Á. Trong đỉnh điểm căng thẳng thuế quan, giá chuối xuất khẩu của HAGL sang Trung Quốc thậm chí tăng vọt hơn 10% chỉ trong một tuần, đạt 12,5 USD/thùng – mức cao nhất từ đầu năm đến nay.

Thứ hai, tỷ giá USD tăng cao thời gian qua mang lại lợi ích rất tốt khi doanh thu xuất khẩu bằng USD, còn phần lớn chi phí sản xuất - như nhân công, vật tư - được thanh toán bằng VND. Việc chênh lệch tỷ giá này giúp doanh nghiệp gia tăng lợi nhuận, tối ưu hóa hiệu quả tài chính mà không cần tăng thêm sản lượng.

"Đây là điểm lợi rõ ràng cho xuất khẩu, vì khi tỷ giá tăng, doanh thu tính bằng tiền đồng sẽ tăng theo trong khi chi phí không đổi," ông nhận định.

Thứ ba, nhu cầu tiêu thụ nông sản – nhất là chuối, sầu riêng, thịt heo – vẫn tăng đều đặn cả trong và ngoài nước. Đây là nhóm hàng thiết yếu, ít chịu tác động của biến động chính trị – thương mại, giữ được đà tăng trưởng ổn định ngay cả trong thời điểm thị trường thế giới biến động. Đây đều là nhóm hàng có sức tiêu thụ cao, ít chịu ảnh hưởng bởi căng thẳng thương mại và chính sách thuế của Mỹ.

Chuối của Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai trồng tại Lào được Tập đoàn Ân Group của Nhật Bản bao tiêu toàn bộ

Ông Ngô Hồng Phong, Cục trưởng Cục Chất lượng Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho rằng, chính sách thuế mới của Mỹ sẽ ảnh hưởng tới cán cân thương mại song phương, đặc biệt với các mặt hàng nông, lâm, thủy sản xuất khẩu vào Mỹ. Tuy nhiên, mức thuế 46% được áp dụng khác nhau tùy từng ngành, do đó cần có phân tích chi tiết theo nhóm sản phẩm để nhận định chính xác mức độ tác động. Dù vậy, với các doanh nghiệp đã có thị trường ổn định ở châu Á, tác động từ thuế Mỹ gần như bằng không.

Căng thẳng thương mại đôi khi lại là cơ hội để doanh nghiệp tái định vị thị trường xuất khẩu, điều chỉnh chiến lược sản phẩm và nâng cao khả năng chống chịu trước biến động quốc tế. Với ngành nông nghiệp – một trong những trụ cột kinh tế quan trọng – việc chủ động trước rủi ro thuế quan, tận dụng ưu thế về giá và tỷ giá là yếu tố then chốt giúp doanh nghiệp không chỉ "sống khỏe" mà còn tăng trưởng bền vững trong dài hạn. “Những gì HAGL đang làm là ví dụ rõ ràng nhất”, TS. Lê Xuân Nghĩa khẳng định.

Thúy Ngà

 

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong nông nghiệp: Hướng đi mới để định vị hạt gạo Việt

Trí tuệ nhân tạo (AI) đang mở ra một lối đi mới đầy tiềm năng. Không chỉ là công cụ hỗ trợ sản xuất, AI có thể trở thành nền tảng để định vị lại toàn bộ chuỗi giá trị – từ cánh đồng đến bàn ăn – của hạt gạo Việt Nam.

Thu hoạch lúa tại huyện Tháp Mười. Ảnh: Interne t.

Trong nhiều năm qua, Việt Nam luôn nằm trong nhóm những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, sự hiện diện của gạo Việt trên thị trường quốc tế phần lớn vẫn gắn với hình ảnh “gạo trắng giá rẻ”, cạnh tranh bằng số lượng hơn là chất lượng.

Trong khi đó, các thị trường cao cấp ngày càng đặt ra những yêu cầu khắt khe về tiêu chuẩn, truy xuất nguồn gốc và tính bền vững. Đó chính là bài toán lớn đặt ra cho ngành lúa gạo Việt Nam: làm sao để thoát khỏi “vòng lặp giá rẻ” và vươn lên bằng giá trị?

Trên thực tế, việc ứng dụng AI vào nông nghiệp không còn là điều quá xa lạ. Tại nhiều vùng trồng lúa lớn, các hệ thống cảm biến đã được triển khai để đo độ ẩm, nhiệt độ đất, phát hiện sớm sâu bệnh, thậm chí dự báo thời tiết vi mô nhằm đưa ra khuyến nghị gieo trồng chính xác hơn. Những công nghệ này giúp tối ưu quá trình canh tác, giảm thiểu chi phí và rủi ro, đồng thời nâng cao năng suất và chất lượng hạt gạo.

Tuy nhiên, điều đáng nói hơn là vai trò của AI trong việc thu thập và phân tích dữ liệu xuyên suốt chuỗi sản xuất – điều mà trước đây gần như bị bỏ ngỏ. Nhờ khả năng lưu trữ và xử lý dữ liệu lớn theo thời gian thực, AI cho phép từng lô gạo được “định danh” rõ ràng: trồng ở đâu, ai trồng, giống gì, canh tác bằng phương pháp nào, sử dụng phân bón hay thuốc trừ sâu ra sao, thu hoạch khi nào...

Mỗi thông tin không chỉ giúp doanh nghiệp dễ dàng truy xuất mà còn tạo nên niềm tin với người tiêu dùng toàn cầu – những người ngày càng ưu tiên sản phẩm có tính minh bạch và bền vững.

Chính từ đây, cơ hội để xây dựng thương hiệu gạo Việt cũng bắt đầu rõ ràng hơn. Thay vì là nhà cung cấp “nguyên liệu gạo” cho bên thứ ba đóng gói và phân phối, Việt Nam hoàn toàn có thể tiến tới xây dựng những thương hiệu gạo riêng – có câu chuyện, có nguồn gốc và có giá trị. Một khi dữ liệu được minh bạch hóa bằng công nghệ, giá trị sản phẩm sẽ không chỉ nằm ở hạt gạo mà còn ở quá trình tạo ra nó.

Tuy nhiên, AI không thể phát huy hết tiềm năng nếu thiếu một hệ sinh thái đồng bộ. Việc số hóa ngành lúa gạo cần được nhìn nhận như một quá trình chuyển đổi toàn diện – từ chính sách, hạ tầng công nghệ, năng lực người sản xuất đến sự đồng hành của doanh nghiệp.

Không thể kỳ vọng một nông dân đơn lẻ áp dụng AI nếu không có sự hỗ trợ kỹ thuật, tài chính và kết nối thị trường từ các đơn vị chuyên môn. Cũng không thể hy vọng vào những “mô hình mẫu” nếu chúng không được mở rộng trên quy mô vùng nguyên liệu và gắn kết với thị trường đầu ra.

AI không phải là đích đến, mà là công cụ – công cụ để ngành gạo Việt thoát khỏi tư duy sản xuất truyền thống dựa vào kinh nghiệm, sang sản xuất dựa trên dữ liệu và thị trường.

Nếu được triển khai một cách bài bản và dài hơi, trí tuệ nhân tạo hoàn toàn có thể trở thành “chìa khóa vàng” để tái định vị hạt gạo Việt: không chỉ là một sản phẩm nông nghiệp, mà là một thương hiệu quốc gia mang tính toàn cầu.

Lê Hương

 

Tiền Giang: Phát triển hợp tác xã nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới và Chương trình OCOP

Qua 5 năm triển khai thực hiện Chương trình phối hợp phát triển kinh tế tập thể (KTTT), hợp tác xã (HTX) giữa ngành Nông nghiệp, Liên minh HTX và Hội Nông dân, kinh tế hợp tác phát triển mạnh mẽ, đóng góp quan trọng vào quá trình xây dựng nông thôn mới (NTM) gắn với tái cơ cấu ngành Nông nghiệp.NHIỀU KẾT QUẢ NỔI BẬT

Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) tỉnh Tiền Giang, thực hiện chương trình ký kết liên ngành, một trong các nhiệm vụ quan trọng mà ngành Nông nghiệp tập trung triển khai thực hiện là phát triển mô hình HTX nông nghiệp gắn với xây dựng NTM và Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP).

Nhiều HTX trên địa bàn tỉnh đã đẩy mạnh liên kết tiêu thụ sản phẩm gắn với phát triển sản phẩm OCOP.

Theo đó, xây dựng NTM và OCOP là 2 chương trình trọng điểm mà ngành Nông nghiệp đang tập trung thực hiện trong quá trình tái cơ cấu ngành. Trong đó, các HTX nông nghiệp đã đóng góp tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu này. Các HTX trở thành lực lượng nòng cốt trong phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm nông sản của địa phương.

Đồng thời, tạo ra chuỗi giá trị bền vững cho các sản phẩm OCOP. Đặc biệt, các HTX tham gia vào việc đào tạo, chuyển giao công nghệ mới cho các hộ nông dân, giúp nâng cao chất lượng sản phẩm và tối ưu hóa quy trình sản xuất; hỗ trợ tích cực trong việc phát triển sản phẩm và mở rộng thị trường cho sản phẩm OCOP.

Qua hơn 12 năm triển khai xây dựng NTM, hơn 5 năm thực hiện Chương trình OCOP, tỉnh đã đạt được những kết quả nhất định. Một trong những điểm nhấn nổi bật là KTTT đã ổn định, phát triển nhanh cả về chất lượng và số lượng. Nhiều mô hình liên kết tiêu thụ theo chuỗi giá trị được hình thành.

Song song đó, nhiều sản phẩm nông nghiệp nông thôn xây dựng thương hiệu thông qua chứng nhận OCOP. Các vùng nguyên liệu nông sản chủ lực được hình thành đáp ứng yêu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Đến cuối năm 2024, toàn tỉnh có 199 HTX nông nghiệp với trên 47.000 thành viên, tăng 150 HTX so với trước khi xây dựng NTM.

Tỉnh đã hỗ trợ xây dựng và công nhận 350 sản phẩm OCOP gồm: 1 sản phẩm 5 sao (trà trái mãng cầu Xiêm Vĩnh Phát), 17 sản phẩm tiềm năng 5 sao, 82 sản phẩm 4 sao và 250 sản phẩm 3 sao với tổng số 165 chủ thể tham gia (31 HTX, 54 doanh nghiệp và 80 hộ sản xuất, kinh doanh).

Theo Sở NN&MT, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình phát triển HTX gắn với xây dựng NTM và sản phẩm OCOP trên địa bàn tỉnh cũng còn có những tồn tại, hạn chế.

Trước hết là một số địa phương nóng vội, gò ép thành lập HTX để đạt tiêu chí về tổ chức sản xuất hoặc mở rộng quy mô thành viên áp đặt, không tự nguyện dẫn đến trường hợp một số HTX sau thành lập hoạt động không hiệu quả, thành viên không tham gia góp vốn, không sử dụng sản phẩm dịch vụ.

Sau khi được đánh giá thẩm định xã đạt tiêu chí về tổ chức sản xuất, một số nơi không quan tâm hỗ trợ để duy trì, nâng chất tiêu chí. Về nội tại hoạt động của HTX nông nghiệp, năng lực quản lý điều hành yếu dẫn đến việc vận hành không hiệu quả.

Điều này gây khó khăn trong việc xây dựng và triển khai kế hoạch phát triển. Do thiếu vốn, kiến thức nên các HTX chưa mạnh dạn trong việc áp dụng khoa học công nghệ, vẫn sử dụng phương pháp sản xuất truyền thống, dẫn đến năng suất thấp và chất lượng sản phẩm chưa ổn định, khó cạnh tranh với các sản phẩm của các mô hình khác.

Việc phát triển kênh phân phối, marketing và quảng bá sản phẩm, đặc biệt là đối với các sản phẩm OCOP còn hạn chế.

Trong đó, các sản phẩm của HTX được chứng nhận OCOP gồm các sản phẩm tươi và chế biến gắn với nông sản chủ lực của tỉnh như: Xoài cát Hòa Lộc, khóm Tân Phước, sầu riêng Cai Lậy, mứt sơ ri Gò Công, thanh long Chợ Gạo…

Bên cạnh đó, trong quá trình xây dựng NTM đã xuất hiện nhiều mô hình HTX nổi bật, điển hình với cách làm mới, sản xuất gắn với chuỗi giá trị, phát triển sản phẩm OCOP. Điển hình như trong lĩnh vực sản xuất và tiêu thụ lúa có mô hình liên kết giữa HTX DVNN Mỹ Quới với Công ty TNHH Phước Lộc Thiên Hộ tại xã Hậu Mỹ Bắc B, huyện Cái Bè theo Nghị quyết 07 của HĐND tỉnh. Quy mô liên kết 200 - 300 ha/năm với giống lúa ST24, Nàng Hoa 9 và sản phẩm gạo đã được chứng nhận OCOP 4 sao.

Hay trong lĩnh vực sản xuất cây ăn trái, có các mô hình HTX sầu riêng Ngũ Hiệp, Cẩm Sơn, Hiệp Đức tổ chức thành viên sản xuất đạt chứng nhận VietGAP, xây dựng mã vùng trồng. Các HTX liên kết với doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm thông qua dự án/kế hoạch liên kết ổn định lâu dài. Sản phẩm của các HTX đều được chứng nhận OCOP 3 sao.

Trong lĩnh vực sản xuất và tiêu thụ rau màu, một số HTX điển hình như: Rau an toàn (RAT) Gò Công, RAT Tân Đông, RAT Thạnh Hưng, Phú Quới, Hòa Thạnh đã ký kết hợp đồng liên kết tiêu thụ lâu dài ổn định với Saigon CO.OP, Bách Hóa Xanh, BigC… với sản lượng khoảng 5 - 7 tấn rau/ngày/HTX. Một số sản phẩm của các HTX được chứng nhận OCOP như: Cải dún, cải ngồng, cải thìa.

TIẾP TỤC ĐỒNG HÀNH, HỖ TRỢ

Thực tế cho thấy, dù đạt được nhiều kết quả nội bật, song việc phát triển mô hình HTX nông nghiệp gắn với xây dựng NTM và sản phẩm OCOP cũng còn đối mặt với nhiều khó khăn. Để đạt được mục tiêu đề ra như kỳ vọng, đòi hỏi phải có sự chung tay hỗ trợ của các ngành.

Các HTX trên địa bàn tỉnh cần được trợ lực để phát triển.

Theo Sở NN&MT, trong quá trình xây dựng NTM để nâng cao năng lực hoạt động cho HTX nông nghiệp, ngành Nông nghiệp đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ. Trong đó, đặc biệt là 2 chính sách hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng và hỗ trợ cán bộ trẻ làm việc cho HTX.

Kết quả trong giai đoạn 2019 - 2024, ngành đã thực hiện hỗ trợ 61 hạng mục công trình cho 45 HTX nông nghiệp với kinh phí đầu tư 42,75 tỷ đồng. Từ năm 2018 đến nay, ngành Nông nghiệp cũng đã thực hiện hỗ trợ 70 lao động trẻ về làm việc ở 50 HTX với kinh phí hỗ trợ khoảng 5,5 tỷ đồng.

Trong quá trình xây dựng và phát triển sản phẩm OCOP, ngành Nông nghiệp cũng tập trung triển khai các chính sách hỗ trợ các chủ thể tham gia hoạt động xúc tiến thương mại, hội chợ triển lãm; hỗ trợ kinh phí xây dựng cửa hàng trưng bày sản phẩm OCOP (14 cửa hàng). Điều này đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, HTX, cơ sở sản xuất giới thiệu quảng bá, tìm kiếm cơ hội, kết nối cung cầu, tăng cường hợp tác, liên kết tiêu thụ sản phẩm...

Cũng theo Sở NN&MT, trong thời gian tới, ngành Nông nghiệp sẽ tiếp tục phối hợp với Liên minh HTX tỉnh, Hội Nông dân tỉnh triển khai một số nhiệm vụ, giải pháp để phát triển HTX nông nghiệp gắn với xây dựng NTM và sản phẩm OCOP.

Theo đó, một trong những giải pháp trọng tâm là tiếp tục phối hợp đẩy mạnh thực hiện các giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động của HTX nông nghiệp trên cơ sở triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ HTX theo các quy định hiện hành.

Cụ thể là tăng cường công tác tư vấn, bồi dưỡng để nâng cao năng lực quản lý và sản xuất; thực hiện chính sách hỗ trợ về vốn, đất đai, cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ, xúc tiến thương mại cho các HTX tham gia vào chương trình xây dựng NTM và phát triển sản phẩm OCOP.

Ngành Nông nghiệp sẽ tiếp tục xây dựng phát triển các mô hình HTX kiểu mẫu, điển hình trong việc áp dụng công nghệ cao, sản xuất sạch, đảm bảo chất lượng sản phẩm, từ đó lan tỏa mô hình này ra cộng đồng. Đồng thời, khuyến khích liên kết, hợp tác giữa HTX với HTX, với doanh nghiệp, cơ sở chế biến thông qua chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ theo Nghị quyết 07 của HĐND tỉnh.

Về phía các HTX cũng cần chủ động trong việc tổ chức sản xuất, đổi mới phương thức hoạt động và sáng tạo trong việc phát triển sản phẩm OCOP. Các HTX không trông chờ, phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ cơ quan nhà nước, mà cần chủ động tìm kiếm cơ hội, thị trường.

T. ĐẠT

 

Hội thảo về biến đổi hệ sinh thái tự nhiên rừng - rẫy - ruộng ở Việt Nam

Theo CHESH, việc thực hiện các phương pháp nông nghiệp mới cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, nhằm đảm bảo sự bền vững cho cả hệ thống rừng, rẫy và ruộng ở Việt Nam.

Ngày 10/4, tại xã Sơn Kim 1 (Hương Sơn), Trung tâm Nghiên cứu Sinh thái nhân văn vùng cao (CHESH) tổ chức hội thảo chuyên đề “Lịch sử nông nghiệp trên thế giới từ cuộc cách mạng xanh (1960) tới quá trình biến đổi cơ thể hệ sinh thái tự nhiên rừng - rẫy - ruộng ở Việt Nam và các quốc gia trong lưu vực sông Mê Kông".

Tham dự hội nghị có Tiến sỹ Keith Barber - nhà nhân chủng học xã hội, Đại học Waikato, Hamilton, New Zealand và các chuyên gia tư vấn độc lập về địa chính, công nghệ bản đồ và số hóa trong ứng dụng công thức tính trữ lượng gỗ và Carbon của bể sinh khối rừng tự nhiên trên bề mặt thuộc rừng mưa nhiệt đới Tây Nguyên và Bắc Trung Bộ; lãnh đạo ngành NN&MT, huyện Hương Sơn.

Toàn cảnh buổi hội thảo.

Chuyên đề “Lịch sử nông nghiệp trên thế giới từ cuộc cách mạng xanh (1960) tới quá trình biến đổi cơ thể Hệ sinh thái tự nhiên rừng - rẫy - ruộng” giới thiệu về các hình thái nông nghiệp mà loài người đã trải qua từ những năm 1960 đến nay.

Trong đó, cuộc Cách mạng xanh (1960) đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong phát triển nông nghiệp toàn cầu. Đây là thời kỳ áp dụng các công nghệ mới như: giống cây trồng năng suất cao, phân bón hóa học và các phương pháp tưới tiêu hiện đại nhằm tăng sản lượng nông nghiệp. Cuộc cách mạng này đã có những ảnh hưởng sinh thái và xã hội to lớn đối với loài người.

Tiến sỹ Keith Barber - nhà nhân chủng học xã hội, Đại học Waikato, Hamilton, New Zealand trình bày bài thuyết trình về lịch sử nông nghiệp thế giới, từ nông nghiệp hóa học – nông nghiệp công nghiệp, nông nghiệp hữu cơ đến nông nghiệp sinh thái.

Tại Việt Nam, sản xuất nông nghiệp vào các thập niên 70 - 80 của thế kỷ XX cũng chịu những ảnh hưởng của Cách mạng xanh. Theo đó, Cách mạng xanh là sự chuyển giao công nghệ nông nghiệp, tác động đến năng suất và an ninh lương thực, đồng thời làm biến đổi hệ sinh thái tự nhiên ở Việt Nam, đặc biệt thông qua việc áp dụng công nghệ mới vào tập quán canh tác truyền thống. Quá trình chuyển đổi từ mô hình rừng - nương - rẫy sang hệ thống sản xuất nông nghiệp quy mô lớn đã làm thay đổi cấu trúc sinh học và sinh thái.

Đại biểu tham gia thảo luận tại buổi hội thảo.

Tại hội nghị, đại biểu đã được nghe trình bày các bài thuyết trình về lịch sử nông nghiệp thế giới, từ nông nghiệp hóa học - nông nghiệp công nghiệp, nông nghiệp hữu cơ đến nông nghiệp sinh thái; "ứng dụng công nghệ GPS/GIS và các công thức tính trữ lượng carbon trong sinh khối trên bề mặt đất" quy đổi thành lượng tín chỉ carbon tương đương trên diện tích rừng mưa nhiệt đới vùng Bắc Trung Bộ, lưu vực đầu nguồn sông Ngàn Phố (Hương Sơn, Hà Tĩnh).
Đồng thời, đại biểu cũng được thông tin về vấn đề nông nghiệp sinh thái - một loại hình quy hoạch sử dụng đất lưu vực đầu nguồn sông Mê Kông, hướng tới an toàn sinh kế và phục hồi sức khỏe đất.

Từ đó, cung cấp một bức tranh tổng quan trên toàn thế giới từ năm 1960 tới nay cùng những thăng trầm và thách thức của người nông dân trên hành trình phát triển mà nông nghiệp là trung tâm.

Đại biểu tham gia hội nghị đều cho rằng, việc thực hiện các phương pháp nông nghiệp mới trong bối cảnh biến đổi hệ sinh thái cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng, nhằm đảm bảo sự bền vững cho cả hệ thống rừng, rẫy và ruộng ở Việt Nam. Cần kết hợp giữa phát triển nông nghiệp hiện đại với bảo vệ môi trường để duy trì được các tài nguyên tự nhiên cũng như sự sinh tồn, hướng tới truy suất nguồn gốc trên từng sản phẩm và tác động xã hội, kinh tế và môi trường đối với sức khỏe của cộng đồng nông dân.

Thái Oanh - Thế Tuấn

 

Đòn bẩy từ công nghệ số trong sản xuất nông nghiệp

ĐTO - Thời gian qua, công tác triển khai chuyển đổi số nông nghiệp trên địa bàn tỉnh được thực hiện sâu rộng. Người dân ứng dụng ngày càng nhiều công nghệ số vào hoạt động sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả về năng suất, chất lượng sản phẩm, đưa nền nông nghiệp của tỉnh dần chuyển đổi từ nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp hiện đại.

Đại diện Công ty Cổ phần RYNAN Technologies VietNam giới thiệu với lãnh đạo tỉnh về Hệ thống giám sát phát thải khí methane thông minh tại Diễn đàn khởi nghiệp đồng bằng sông Cửu Long lần II năm 2024

Nhiều kết quả nổi bật

Trên tinh thần Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án Chuyển đổi số ngành nông nghiệp tỉnh đến năm 2025, UBND tỉnh giao nhiệm vụ cụ thể cho các sở, ngành tỉnh và UBND huyện, thành phố. Theo đó, kết quả thực hiện đến năm 2024 đạt 12/12 chỉ tiêu. Trong đó có 6 chỉ tiêu vượt so kế hoạch. Cụ thể, đối với chính quyền số có 100% thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Sở Nông nghiệp và Môi trường) thực hiện đủ điều kiện được cung cấp dưới dạng dịch vụ công trực tuyến toàn phần, một phần vượt 3% so kế hoạch năm 2024, đạt 100% so với kế hoạch đến năm 2025. Đồng thời có 100% cơ sở dữ liệu thuộc lĩnh vực ngành nông nghiệp quản lý (từ tuyến tỉnh, huyện, xã) được số hóa và cung cấp dữ liệu mở phục vụ người dân và phát triển kinh tế - xã hội; vượt 10% so với kế hoạch năm 2024, đạt 100% so với kế hoạch đến năm 2025.

Đối với kinh tế số, các chỉ tiêu vượt là lũy kế có 20 hội quán có ứng dụng IoT vào sản xuất; tăng 16 hội quán so năm 2023, vượt 11 hội quán so với kế hoạch năm 2024 và vượt 13 Hội quán so với kế hoạch đến năm 2025; lũy kế có 25% hội quán, hợp tác xã (HTX) ứng dụng Internet vạn vật vào sản xuất (IoT); có 22,5% hội quán, HTX ứng dụng công nghệ để truy xuất nguồn gốc, có hoạt động thương mại điện tử thông qua Tổ Công nghệ số cộng đồng đạt và vượt so với kế hoạch năm 2024 và đến năm 2025. Tư vấn hỗ trợ trên 58% doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn kinh doanh trên các sàn giao dịch thương mại điện tử đạt và vượt 8% so với kế hoạch năm 2024 và 3% đến năm 2025.

Đối với nhóm xã hội số, thông qua Tổ công nghệ số cộng đồng, hỗ trợ, tư vấn cho 162.283/259.396 nông dân (chiếm 62,56%) biết ứng dụng IoT vào quy trình sản xuất, khai thác thông tin cung - cầu thông qua mạng Internet, cách thức quảng bá trực tuyến, buôn bán trực tuyến đạt và vượt 12,56% so kế hoạch năm 2024, vượt 2,56% so với kế hoạch đến năm 2025.

Thực hiện các nhiệm vụ giải pháp của đề án về phát triển hạ tầng kỹ thuật, bước đầu, tỉnh triển khai lắp đặt và vận hành 17 hệ thống giám sát côn trùng thông minh tại các vùng sinh thái trồng lúa và cây ăn trái. Đồng thời, UBND tỉnh đã phê duyệt dự án hệ thống nền tảng nông nghiệp số tại Quyết định số 160/QĐ-UBND.HC ngày 28/02/2024, bố trí nguồn kinh phí đầu tư hạ tầng thiết bị cho công tác chuyển đổi số ngành nông nghiệp nhằm xây dựng mạng lưới giám sát tự động, nhanh chóng, độ chính xác cao. Đây được xem là những yếu tố dẫn dắt công nghệ tỉnh nhà trong tiến trình chuyển đổi số.

Trong công tác phát triển nền tảng số, dữ liệu số, tỉnh thực hiện nhiệm vụ do Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số giao nghiên cứu phát triển Nền tảng dữ liệu số về nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp tại địa chỉ https://vdapes.com với 6 phân hệ chính, gồm: Trồng trọt và Bảo vệ thực vật; Chăn nuôi, Thú y; Thủy sản; Phát triển nông thôn; Thủy lợi; Lâm nghiệp. Đồng thời thực hiện chia sẻ, tích hợp dữ liệu của ngành tài nguyên và môi trường nhằm chia sẻ dữ liệu quản lý để phục vụ công tác cảnh báo, dự báo đối với các tác động của môi trường (đất, nước, không khí) cùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Đến nay, nhiệm vụ thí điểm thực hiện Nền tảng dữ liệu số về nông nghiệp cơ bản hoàn thành, đáp ứng nhu cầu sử dụng cho địa phương và có khả năng nhân rộng trong khu vực và toàn quốc.

Ứng dụng công nghệ số vào sản xuất

Việc triển khai thiết bị giám sát mặt đất giúp thu thập dữ liệu tự động và số hóa quy trình canh tác tại một số mô hình cho các sản phẩm chủ lực được tỉnh chú trọng. Theo đó, lắp đặt 6 Trạm quan trắc nước thông minh; 17 Trạm giám sát côn trùng thông minh phục vụ công tác triển khai các mô hình ứng dụng công nghệ IOT, trí tuệ nhân tạo AI tự động thu thập dữ liệu canh tác phục vụ cảnh báo, dự báo, truy xuất nguồn gốc cho các đối tượng nông sản chủ lực, đồng bộ dữ liệu lên nền tảng truy xuất nguồn gốc đã xây dựng.

Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, thời gian qua, trên địa bàn tỉnh hình thành một số mô hình về chuyển đổi số nông nghiệp. Đơn cử như mô hình thí điểm “Xã thương mại điện tử Mỹ Xương, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp”, trong đó nông dân ở các HTX, tổ hợp tác, hội quán biết và khai thác ứng dụng công nghệ Internet vạn vật (IoT) vào quy trình sản xuất, khai thác thông tin cung - cầu thông qua mạng Internet, mua bán trực tuyến...

Huyện Cao Lãnh xây dựng hệ thống Tem QR để quét mã vạch cung cấp cho HTX kích hoạt tem QR code truy xuất nguồn gốc trên quả xoài; xây dựng Ứng dụng di động “Cao Lãnh đồng hành” tích hợp các phân hệ. Đối với huyện Tam Nông phối hợp với Viện Biến đổi khí hậu - Trường Đại học An Giang, Trường Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh và các chuyên gia của Mekong Organics, Công ty TNHH Wildbird tổ chức canh tác lúa hữu cơ sinh thái, tái sinh và thương mại cho nông dân trên địa bàn huyện.

Đáng chú ý, hầu hết các huyện, thành phố đã áp dụng mô hình nông nghiệp thông minh với hệ thống tưới tiêu tự động, sử dụng máy bay không người lái (drone) để phun thuốc và bón phân, giúp tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả sản xuất. Hệ thống giám sát từ xa và điều khiển tự động hóa giảm thiểu công lao động, nâng cao năng suất và tạo ra sản phẩm đạt chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước. Về triển khai thực hiện mô hình Làng thông minh áp dụng trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, trong năm 2024, có 6 mô hình Làng thông minh được công nhận.

Với những kết quả đạt được, năm 2025, tỉnh đề ra một số chỉ tiêu thực hiện Đề án chuyển đổi số ngành nông nghiệp. Đối với nhóm Chính quyền số, duy trì 100% thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực nông nghiệp (do Sở Nông nghiệp và Môi trường thực hiện) đủ điều kiện được cung cấp dưới dạng dịch vụ công trực tuyến toàn trình và một phần, duy trì 100% văn bản được trao đổi qua môi trường mạng dưới dạng văn bản điện tử, được ký số bởi chữ ký số chuyên dùng, trừ văn bản mật theo quy định của pháp luật. Duy trì 100% cơ sở dữ liệu thuộc lĩnh vực ngành nông nghiệp quản lý (từ tuyến tỉnh, huyện, xã) được số hóa và cung cấp dữ liệu mở phục vụ người dân và phát triển kinh tế - xã hội; duy trì 100% lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức được bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng số để sử dụng thành thạo các ứng dụng công nghệ thông tin cơ bản cho yêu cầu công việc.

Nhóm kinh tế số, hoàn thành cơ sở dữ liệu về sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn theo các cấp quản lý (tỉnh, huyện, xã); xây dựng nền tảng chuyển đổi số nông nghiệp giúp quản lý nông nghiệp số và phát triển kinh tế nông nghiệp, sẵn sàng tích hợp vào hệ thống dữ liệu của tỉnh. Lũy kế xây dựng 7 Làng thông minh; xây dựng thêm ít nhất 7 hội quán ứng dụng IoT vào sản xuất; có 20% hội quán, HTX có ứng dụng công nghệ để truy xuất nguồn gốc, có hoạt động thương mại điện tử thông qua Tổ công nghệ số cộng đồng. Hoàn thiện mô hình ứng dụng đồng bộ công nghệ số và thiết bị giám sát IoT, viễn thám giúp thu thập, xây dựng cơ sở dữ liệu lớn của ngành thông qua nền tảng hệ sinh thái nông nghiệp số. Duy trì 100% sản phẩm thuộc Chương trình OCOP có mặt trên các sàn thương mại điện tử; tư vấn hỗ trên 60% doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn kinh doanh trên các sàn giao dịch thương mại điện tử.

Nhóm xã hội số, thông qua Tổ công nghệ số cộng đồng, Tổ khuyến nông cộng đồng, hỗ trợ, tư vấn cho trên 60% nông dân biết ứng dụng công nghệ thông tin vào quy trình sản xuất, khai thác thông tin cung - cầu thông qua mạng Internet, cách thức quảng bá trực tuyến, buôn bán trực tuyến.

Y DU

 

Nông dân Sóc Sơn được nâng cao kiến thức khoa học, kỹ thuật

Ngày 11-4, Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội phối hợp với UBND huyện Sóc Sơn tổ chức Diễn đàn khuyến nông @ nhịp cầu nhà nông. Diễn đàn có sự tham gia của hơn 200 đại biểu đại diện cho các nông hộ, chủ trang trại, hợp tác xã trên địa bàn huyện Sóc Sơn, cùng các nhà cố vấn là chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành Nông nghiệp.

Ban Cố vấn là các nhà khoa học, quản lý trao đổi, thông tin về kiến thức khoa học, kỹ thuật cho nông dân. Ảnh: Tuấn Anh

Theo Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Sóc Sơn, trong những năm qua, ngành Nông nghiệp huyện Sóc Sơn đã có nhiều chuyển biến rõ rệt, huyện đã hình thành vùng chuyên canh bưởi với quy mô trên 700ha, phát triển gần 2.000 đàn ong lấy mật theo hướng VietGAP, mở rộng diện tích trồng rau hữu cơ, chè, cây dược liệu…Nhiều sản phẩm chủ lực của đã có thương hiệu, như: Nếp cái hoa vàng Sóc Sơn, gà đồi, dưa lê siêu ngọt, mật ong rừng. Các mô hình liên kết chuỗi giá trị đã được hình thành và từng bước mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, nông nghiệp Sóc Sơn vẫn còn gặp không ít khó khăn, việc tiêu thụ sản phẩm chưa ổn định, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, khả năng tiếp cận thị trường của người dân và hợp tác xã còn hạn chế. Trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc tổ chức sản xuất theo chuỗi liên kết, gắn sản xuất với tiêu thụ, nâng cao chất lượng và giá trị nông sản là yêu cầu cấp thiết.

Chăm sóc cây dưa lưới tại Hợp tác xã Công nghệ cao Quyết Tiến, xã Minh Trí (huyện Sóc Sơn). Ảnh: Đỗ Tâm

Diễn đàn hôm nay do Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội tổ chức là dịp để các nhà quản lý, chuyên gia, doanh nghiệp, hợp tác xã và bà con nông dân cùng nhau trao đổi, thảo luận, tìm kiếm giải pháp tháo gỡ khó khăn, kết nối cung cầu, mở rộng thị trường cho nông sản địa phương. Đây cũng là cơ hội để huyện Sóc Sơn tiếp thu thêm kinh nghiệm, định hướng phát triển nông nghiệp hiệu quả, bền vững hơn.

Vùng chè tập trung tại xã Bắc Sơn (huyện Sóc Sơn). Ảnh: Lâm Nguyễn

Tại diễn đàn, các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý đã tư vấn, trao đổi thông tin, phổ biến kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp, đi sâu vào một số bệnh hại trong lĩnh vực trồng trọt và biện pháp phòng trừ. Một số tiến bộ khoa học, kỹ thuật, góp phần phát triển sản xuất cây ăn quả có múi theo hướng bền vững; một số bệnh cơ bản ở bò, như: Bệnh tiêm mao trùng, bệnh sán lá gan… và một số bệnh cơ bản ở lợn, như: Bệnh phó thương hàn, nhận biết và các biện pháp phòng ngừa bệnh dịch tả lợn châu Phi…; bệnh của cá nuôi và biện pháp phòng trị… Qua đó, nông dân có thêm kiến thức, kỹ thuật, kinh nghiệm để áp dụng vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp. Cùng với đó, các nhà khoa học, nhà quản lý cũng thông tin cho người dân về những cơ chế chính sách của thành phố, huyện đối với phát triển nông nghiệp…

Ngọc Quỳnh

 

Hiếu Giang tổng hợp

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop