Hoạt động trên địa bàn xã Hòa Mỹ, huyện Cái Nước, HTX Chế biến - Thương mại - Dịch vụ - Nuôi trồng thủy sản Cái Bát là một trong những đơn vị tiên phong ở Cà Mau trong việc ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, mang lại giá trị kinh tế vượt trội cho thành viên, nông dân liên kết.
Động lực từ sản xuất hiện đại
Thành lập năm 2014 với 12 thành viên và 47 ha đất nuôi tôm, đến nay, HTX Cái Bát đã mở rộng quy mô lên 26 thành viên chính thức và 104 thành viên liên kết, quản lý tổng diện tích nuôi trồng thủy sản 178 ha.
Nhờ sản xuất theo quy trình hiện đại, HTX trở thành đơn vị đầu tiên trong cả nước đạt chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế ASC cho nuôi tôm sú và cua biển. Tiêu chuẩn này dựa trên 4 nền tảng chính, gồm môi trường, xã hội, an sinh động vật và an toàn thực phẩm.
Sản xuất với tư duy mới giúp nông dân, HTX ở Cà Mau nâng cao thu nhập (Ảnh: BCM)
Bên cạnh đó, HTX còn đạt tiêu chuẩn quốc tế cho nhà xưởng sơ chế và chế biến, cùng với chứng nhận hữu cơ cho vùng nuôi. Các sản phẩm như tôm sú cấp đông, bánh phồng tôm, tôm khô, chả cá rô phi và cua biển sống của HTX đều đạt chứng nhận OCOP từ 3 đến 4 sao.
Nhờ chất lượng vượt trội, định hình thương hiệu bài bản, các sản phẩm của HTX được tiêu thụ rộng rãi tại các thành phố lớn như Cần Thơ, TP.HCM, Hà Nội, Hải Phòng…
Đặc biệt, nhờ áp dụng công nghệ cao và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế giúp HTX tiếp cận được các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Brazil. Đây là bước tiến quan trọng, góp phần nâng cao giá trị và thương hiệu cho sản phẩm thủy sản của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Không chỉ là trường hợp đơn lẻ, việc ứng dụng khoa học công nghệ đang được nhiều HTX tại Cà Mau đẩy mạnh. Điển hình, một số HTX trên địa bàn tỉnh đã ứng dụng phần mềm nhật ký sản xuất điện tử (FaceFarm) và phần mềm hạch toán chi phí sản xuất - kế toán (WACA) vào hoạt động quản lý.
Điển hình, các HTX Ba Khía Đầm Dơi và HTX Dịch vụ nông nghiệp thủy sản Dân Phát đã áp dụng hiệu quả các phần mềm trên, giúp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
Số hóa để phát triển bền vững
Các HTX trên địa bàn tỉnh Cà Mau cũng đang đẩy mạnh số hóa để nâng cao hiệu quả sản xuất. Đơn cử, nhận thấy tiềm năng từ sản vật địa phương, năm 2021, HTX Ba Khía Đầm Dơi (xã Quách Phẩm Bắc, huyện Đầm Dơi) chính thức được thành lập với mục tiêu xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm ba khía theo hướng bền vững và hiện đại.
Tận dụng chính sách hỗ trợ phát triển nông thôn mới và chương trình OCOP, HTX đã đầu tư dây chuyền chế biến ba khía muối hiện đại, lắp đặt hệ thống đóng gói hút chân không, ứng dụng công nghệ bảo quản lạnh và kiểm soát chất lượng theo tiêu chuẩn an toàn thực phẩm.
Sản phẩm ba khía muối, ba khía rang me, ba khía tẩm sả ớt… của HTX liên tục được chuẩn hóa về bao bì, nhãn mác và đã có mặt trên nhiều kệ hàng siêu thị lớn tại Cần Thơ, TP.HCM và các tỉnh lân cận.
Điểm đột phá của HTX Ba Khía Đầm Dơi là việc chủ động kết nối với các đơn vị nghiên cứu để áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào quy trình sản xuất. Ngoài ra, hệ thống quản lý sản xuất thông minh được áp dụng giúp theo dõi quá trình ủ muối, lên men tự nhiên và xử lý vi sinh nhằm tăng độ đồng đều và giữ trọn hương vị đặc trưng của ba khía Cà Mau. Các thành viên HTX còn được tập huấn kỹ năng vận hành thiết bị, quản lý chất lượng sản phẩm và chuyển đổi số trong tiếp thị trực tuyến.
Các HTX, nông dân trên địa bàn tỉnh Cà Mau đang đẩy mạnh số hóa trong sản xuất (Ảnh: BCM).
Từ khi áp dụng công nghệ vào sản xuất, thu nhập bình quân của các thành viên HTX tăng gấp 2–3 lần so với trước đây. Nếu trước kia, người dân chỉ thu được vài chục nghìn đồng mỗi ngày từ việc đánh bắt thủ công, thì nay, thành viên HTX có thể thu về 5 - 7 triệu đồng/tháng nhờ tham gia vào chuỗi giá trị sản phẩm.
Hiện nay, HTX Ba Khía Đầm Dơi đang tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất và hướng đến mục tiêu xuất khẩu sản phẩm sang thị trường châu Á. Mô hình này được kỳ vọng sẽ là hình mẫu cho nhiều địa phương khác trong việc ứng dụng khoa học công nghệ để phát triển kinh tế hợp tác gắn với bảo tồn giá trị bản địa.
Hướng tới nông nghiệp thông minh
Có thể thấy, các HTX đang đóng góp tích cực vào quá trình chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp ở Cà Mau. Trong thời gian qua, Liên minh HTX Việt Nam đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ thiết thực, hướng tới nâng cao năng lực quản lý và sản xuất cho các HTX, tổ hợp tác.
Điển hình, Liên minh HTX Việt Nam, phối hợp với Liên minh HTX tỉnh Cà Mau, đã tổ chức các khóa đào tạo cho hơn 6.400 lượt thành viên HTX, với tổng kinh phí hàng tỷ đồng. Các khóa học tập trung vào lĩnh vực hoạt động của HTX và chuỗi giá trị sản phẩm hàng hóa, giúp đội ngũ quản lý HTX nâng cao kỹ năng và kiến thức cần thiết.
Cùng với đó, nhằm hỗ trợ các HTX quảng bá sản phẩm và tìm kiếm đối tác kinh doanh, Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Cà Mau đã tạo điều kiện cho các HTX tham gia hội chợ, triển lãm và các hoạt động xúc tiến thương mại. Điều này đã góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ và nâng cao giá trị sản phẩm của các HTX.
Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Cà Mau cũng đẩy mạnh công tác tư vấn, hỗ trợ các HTX về pháp lý, giúp giải quyết các vướng mắc trong quá trình hoạt động, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các thành viên.
Ngoài ra, các HTX cũng được hỗ trợ tiếp cận các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, máy móc và chuyển giao công nghệ, giúp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường.
Điển hình, HTX Lý Văn Lâm (TP. Cà Mau) đã nhận được hỗ trợ trong việc canh tác dưa hấu theo tiêu chuẩn VietGAP trên diện tích 17ha, với năng suất bình quân 40 tấn/ha. HTX cũng được hỗ trợ đầu tư thực hiện chứng nhận, liên kết đầu ra, cung ứng sản phẩm vào các siêu thị như Co.opmart Cà Mau và Co.opmart Sài Gòn.
Những chương trình hỗ trợ của Liên minh HTX Việt Nam tại Cà Mau đã và đang mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của các HTX, thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển bền vững.
Hiệu quả của các HTX cũng là một trong những cơ sở để tỉnh Cà Mau hướng tới xây dựng nông thôn mới thông minh thông qua việc ứng dụng công nghệ số vào công tác tuyên truyền và sản xuất. Giúp các HTX, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh đưa sản phẩm lên sàn giao dịch thương mại điện tử, nâng cao giá trị sản xuất và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Tựu trung lại, quá trình chuyển đổi số và ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp tại Cà Mau đã mang lại những kết quả đáng khích lệ. Các mô hình HTX tiêu biểu như Cái Bát, Lý Văn Lâm và Ba Khía Đầm Dơi đã chứng minh hiệu quả của việc áp dụng công nghệ vào sản xuất, tạo ra giá trị kinh tế cao và góp phần phát triển nông nghiệp bền vững.
Tuy nhiên, để tiếp tục phát huy và mở rộng, cần có sự hỗ trợ đồng bộ từ các cấp chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng, nhằm đưa nông nghiệp Cà Mau tiến xa hơn trong kỷ nguyên số.
Đông Phong
Nông dân Phong Điền bắt tay phá điệp khúc 'được mùa - rớt giá' để làm giàu
Phong Điền là một huyện nằm ở cửa ngõ phía Tây Nam của thành phố Cần Thơ, không chỉ nổi tiếng với những vườn cây ăn trái trĩu quả mà còn là điểm sáng trong quá trình tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững.
Giữa bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, trong thời gian qua, huyện đã chủ động chuyển đổi phương thức sản xuất, đẩy mạnh liên kết chuỗi giá trị và ứng dụng công nghệ số vào quản lý, canh tác nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và thu nhập cho người nông dân.
Phá điệp khúc được mùa - rớt giá
Sản xuất nông nghiệp tại Phong Điền trước đây chủ yếu mang tính nhỏ lẻ, tự phát, thiếu sự liên kết giữa các khâu sản xuất – chế biến – tiêu thụ. Tình trạng “được mùa, rớt giá” xảy ra thường xuyên khiến thu nhập của nông dân bấp bênh, khó tích lũy vốn đầu tư lâu dài.
Trước thực trạng đó, huyện đã quyết liệt triển khai Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, lấy liên kết chuỗi giá trị làm trọng tâm.
Liên kết sản xuất khi tham gia HTX giúp nông dân Phong Điền giảm nghèo, làm giàu (Ảnh: BCT)
Hiện nay, Phong Điền đã xây dựng được nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị, đặc biệt là trong lĩnh vực cây ăn trái – thế mạnh của địa phương. Các mô hình này không chỉ giúp đảm bảo đầu ra ổn định mà còn thúc đẩy quá trình truy xuất nguồn gốc, nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm.
Một ví dụ điển hình là mô hình trồng cam mật theo tiêu chuẩn VietGAP tại xã Nhơn Ái, HTX Nông nghiệp tổng hợp Nhơn Ái triển khai. Với diện tích hơn 15 ha, HTX đứng ra làm cầu nối giữa nông dân sản xuất và doanh nghiệp tiêu thụ. Nhờ ứng dụng kỹ thuật chăm sóc tiên tiến, sản phẩm cam của HTX đạt chuẩn an toàn, được bao tiêu với giá ổn định, cao hơn thị trường 10-15%.
Theo thống kê, Phong Điền hiện có gần 10 HTX hoạt động hiệu quả trong lĩnh vực sản xuất cây ăn trái, rau màu và thủy sản. Trong đó, mô hình sản xuất sầu riêng theo tiêu chuẩn hữu cơ tại xã Tân Thới đã cho thấy hiệu quả rõ rệt. Bên cạnh việc sử dụng phân bón hữu cơ và quy trình canh tác không hóa chất, mô hình còn kết hợp du lịch sinh thái vườn, giúp nông dân tăng gấp đôi thu nhập so với trước.
Một mô hình khác đáng chú ý là chuỗi liên kết trồng và tiêu thụ dâu Hạ Châu – đặc sản nổi tiếng của huyện. Nhờ hợp tác với doanh nghiệp và kênh bán lẻ hiện đại, dâu Hạ Châu hiện đã có mặt tại nhiều siêu thị lớn trong nước và được sơ chế thành nước ép, mứt để gia tăng giá trị. Người trồng dâu không còn phụ thuộc vào thương lái và có thể yên tâm sản xuất theo hướng bền vững, an toàn.
Đòn bẩy giảm nghèo, làm giàu bền vững
Mô hình nông nghiệp kết hợp du lịch trải nghiệm cũng đang mang lại hiệu quả cao cho nhiều nông dân, HTX ở Phong Điền. Những năm gần đây, nhiều HTX, hộ dân trên địa bàn huyện đã cải tạo vườn cây ăn trái thành điểm du lịch sinh thái, kết hợp bán nông sản tại chỗ và cung cấp trải nghiệm “làm nông dân” cho du khách, từ đó không chỉ nâng cao giá trị nông sản mà còn tạo thêm việc làm cho lao động địa phương.
Điển hình, thời gian qua, HTX Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Giọt Phù Sa ở thị trấn Phong Điền liên tục đưa ra thị trường nhiều sản phẩm từ nấm đông trùng hạ thảo, trong đó có sản phẩm đông trùng hạ thảo sấy thăng hoa đã được gắn sao OCOP, nổi tiếng khắp trong Nam ngoài Bắc.
Để nâng cao giá trị sản phẩm và mở rộng thị trường tiêu thụ, HTX đã chủ động quảng bá sản phẩm gắn với ứng dụng công nghệ sản xuất tiên tiến, chế biến sâu, đa dạng các sản phẩm chất lượng, tiện dụng, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Nhờ đó, HTX đã tạo công ăn việc làm thường xuyên cho khoảng 20-30 lao động, với thu nhập bình quân 8-10 triệu đồng/người.
Chuyển đổi tư duy sản xuất theo hướng hàng hóa giúp nông dân, HTX ở Phong Điền tăng thu nhập (Ảnh: BCT).
Đáng chú ý, nhằm giúp người tiêu dùng nhận biết được sản phẩm nấm đông trùng hạ thảo chất lượng và thúc đẩy phát triển sản xuất, tiêu thụ sản phẩm gắn với du lịch, HTX đã quyết định thành lập điểm tham quan miễn phí đông trùng hạ thảo tại các địa phương trong huyện Phong Điền.
Khách tham quan khi đến với các phiên chợ của HTX sẽ được tư vấn, giới thiệu về sản phẩm, đồng thời có cơ hội tham quan thực tế quy trình sản xuất, cũng như dùng thử miễn phí một số dòng sản phẩm đông trùng hạ thảo chất lượng cao do các hộ thành viên HTX làm ra.
“Thông qua việc mở điểm tham quan đông trùng hạ thảo, HTX muốn đưa sản phẩm tiếp cận được với nhiều khách hàng, nhất là khách du lịch. Việc lồng ghép hiệu quả giữa sản xuất và du lịch giúp thành viên HTX nâng cao đáng kể thu nhập, vươn lên làm giàu”, anh Phạm Ngọc Đá, đại diện HTX Giọt Phù Sa chia sẻ.
Có thể thấy, quá trình giảm nghèo, phát triển kinh tế tại Phong Điền đang có sự đóng góp tích cực từ các HTX, tổ hợp tác. Để có được những kết quả hiện tại, bên cạnh các chính sách hỗ trợ của địa phương, không thể không nhắc tới sự đồng hành của Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX TP.Cần Thơ.
Một trong những điểm nhấn nổi bật trong các chương trình hỗ trợ tại Phong Điền là đẩy mạnh chuyển đổi số trong HTX. Thông qua sự phối hợp giữa Liên minh HTX Việt Nam và Trung tâm Khoa học công nghệ & Môi trường (Coste), nhiều HTX đã được hướng dẫn xây dựng website, fanpage bán hàng, kết nối với các sàn thương mại điện tử như Postmart, Voso, Sendo Farm….
Thúc đẩy liên kết, phát triển bền vững
HTX Sản xuất và Dịch vụ Nông nghiệp Tân Thới là một trong những đơn vị đi đầu trong ứng dụng công nghệ số. Năm 2022, HTX được hỗ trợ xây dựng gian hàng điện tử và hệ thống mã số vùng trồng cho sản phẩm sầu riêng – mặt hàng chủ lực của địa phương. Nhờ đó, HTX không chỉ mở rộng thị trường trong nước mà còn từng bước tiếp cận xuất khẩu chính ngạch.
"Trước kia, sản phẩm của HTX chủ yếu phụ thuộc vào thương lái. Từ khi được hỗ trợ đưa lên sàn TMĐT, chúng tôi bán hàng trực tiếp đến người tiêu dùng, lợi nhuận tăng 20-30%, lại chủ động hơn trong sản xuất", ông Phan Thanh Bình – đại diện HTX Tân Thới cho biết.
Cùng với đó, Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX TP Cần Thơ đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ trọng điểm, tập trung vào đào tạo, chuyển giao kỹ thuật và đầu tư trang thiết bị.
Đơn cử, năm 2023, Chương trình hỗ trợ phát triển HTX gắn với chuỗi giá trị đã được triển khai tại HTX Nông nghiệp tổng hợp Nhơn Ái, với nội dung tập huấn về kỹ thuật trồng cam mật theo tiêu chuẩn VietGAP, xây dựng thương hiệu và ứng dụng truy xuất nguồn gốc. Đồng thời, HTX cũng được hỗ trợ máy móc sơ chế, đóng gói và phần mềm quản lý sản xuất, giúp nâng cao chất lượng sản phẩm và chuyên nghiệp hóa quy trình vận hành.
Có thể thấy, sự đồng hành chặt chẽ của Liên minh HTX Việt Nam, Liên minh HTX TP Cần Thơ không chỉ giúp các HTX tại Phong Điền nâng cao năng lực cạnh tranh mà còn lan tỏa tinh thần liên kết, hợp tác cùng phát triển trong cộng đồng nông dân. Từ chỗ e dè, ngại đổi mới, nhiều hộ dân nay đã chủ động tham gia HTX, đề xuất mô hình sản xuất mới và cùng nhau xây dựng chuỗi giá trị bền vững.
Nhìn chung, nhờ triển khai đồng bộ các giải pháp liên kết chuỗi và chuyển đổi số, thu nhập bình quân của nông dân huyện Phong Điền trong lĩnh vực nông nghiệp đã không ngừng tăng lên. Theo thống kê, đến năm 2024, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt gần 65 triệu đồng/người/năm, trong đó nhiều hộ sản xuất theo mô hình chuỗi đạt trên 100 triệu đồng/năm.
Nam Phong
Tái cơ cấu nông nghiệp gắn với phát triển kinh tế nông thôn - Bài 1: Khẳng định vai trò 'trụ đỡ' nền kinh tế
Đối mặt với những thách thức chưa từng có từ biến đổi khí hậu, suy thoái tài nguyên, vấn đề mất an ninh lương thực và áp lực tăng trưởng bền vững, nông nghiệp - ngành vốn được xem là 'trụ đỡ' của nền kinh tế đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải đổi mới toàn diện. Việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp đã được xác định là một hướng đi chiến lược nhằm nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững và thích ứng linh hoạt với biến động thị trường.
Nông dân xã Bản Mù, huyện Trạm Tấu thu hoạch khoai sọ nương.
Đối với Yên Bái - tỉnh miền núi có thế mạnh về nông, lâm nghiệp và tiềm năng phát triển sinh thái, yêu cầu cơ cấu lại ngành nông nghiệp được xác định nhất quán quan điểm theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng, đẩy mạnh phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới (NTM) bền vững. Kỳ vọng năm 2025 Yên Bái đạt tốc độ tăng trưởng toàn ngành khoảng 5,85%.
Mặc dù chỉ chiếm tỷ trọng 21,84% trong cơ cấu kinh tế song với hơn 70% dân số sống ở khu vực nông thôn và chủ yếu làm nông nghiệp; gần 60% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản; kim ngạch xuất khẩu năm 2024 chiếm tới trên 37% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh, đạt trên 160 triệu USD…, ngành nông nghiệp Yên Bái đang khẳng định vai trò là "trụ đỡ” vững chắc cho nền kinh tế, góp phần tạo việc làm, bảo đảm sinh kế cho phần lớn người dân khu vực nông nghiệp, nông thôn của tỉnh.
Chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa
Với xuất phát điểm của tỉnh miền núi nghèo, sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ và phân tán, Yên Bái đang phải đối mặt với nhiều thách thức về năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng. Cơ cấu lại ngành đồng nghĩa với việc tái định hình vùng sản xuất, lựa chọn cây trồng, vật nuôi chủ lực có lợi thế cạnh tranh gắn với chế biến sâu và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị. Đây không chỉ là giải pháp thích ứng với thị trường và biến đổi khí hậu mà còn là vấn đề căn cốt để nâng cao thu nhập cho người dân, thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế địa phương.
Nhìn vào thực tế phát triển của ngành nông nghiệp, không khó để nhận ra một sự chuyển đổi mạnh mẽ từ sản xuất truyền thống sang sản xuất hàng hóa ở không chỉ các địa bàn vùng thấp mà rất rõ nét, hiệu quả đối với cả các huyện vùng cao khi tiềm năng, thế mạnh của vùng, địa phương đã và đang được đánh thức. Cây khoai sọ nương ở huyện nghèo Trạm Tấu là một ví dụ.
Từ cây trồng chống đói khi giáp hạt, khoai sọ nương Trạm Tấu đã được quy hoạch phát triển thành vùng sản xuất hàng hóa với diện tích lên tới gần 700 ha, trở thành một trong những sản phẩm nông nghiệp chủ lực của địa phương.
Tại thôn Sáng Pao, xã Xà Hồ - khoai sọ nương đang là cây trồng chính dần thay thế những nương đồi trồng ngô, trồng lúa năng suất thấp với diện tích trên 20 ha. Cả thôn Sáng Pao có gần 200 hộ, khoảng 60% là hộ nghèo. Khoai sọ nương - cây trồng kinh tế bậc nhất ở thời điểm này đang là cứu cánh để nhiều gia đình đồng bào người Mông ở đây vươn lên thoát nghèo.
Tiêu biểu có hộ anh Chớ A Lử. Với diện tích gần 1 ha khoai sọ nương, cho thu 5 tấn củ, một năm gia đình anh cũng có thu nhập gần trăm triệu đồng. Năm 2024, cả xã Xà Hồ đã giảm được hơn 50 hộ nghèo. Chủ tịch UBND xã Xà Hồ Giàng A Sáy cho biết: "Ngoài cây lúa, khoai sọ nương hiện là cây kinh tế cho thu nhập tốt nhất hiện nay đối với người dân ở Xà Hồ. So sánh với lúa - cây chủ lực truyền thống của địa phương thì giá trị kinh tế mà cây khoai sọ nương mang lại thực tế đang cao gấp hai, thậm chí là 3 lần”.
Không còn phải hoài nghi, khoai sọ nương - giống khoai bản địa của huyện Trạm Tấu đã trở thành một mặt hàng nông sản có giá trị như một đặc sản địa phương. Với diện tích trồng khoảng 600 ha, năng suất bình quân 14 tấn/ha, sản lượng trên 11.000 tấn, khoai sọ nương đang mang về giá trị kinh tế trên 200 tỷ đồng mỗi năm cho nông dân địa phương này. Mở rộng diện tích, phát triển vùng chuyên canh khoai sọ nương gắn với xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị nông sản, năm 2025, Trạm Tấu đặt mục tiêu trồng 1.000 ha khoai sọ nương, tập trung chủ yếu ở xã Bản Mù 212 ha, Xà Hồ 188 ha, Bản Công 170 ha, các xã còn lại trồng từ 35 - 110 ha.
Phát triển các vùng chuyên canh, tập trung
Thực hiện Đề án tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021 - 2025, ngành nông nghiệp Yên Bái đã nỗ lực, phát huy mọi lợi thế, chung tay cùng nhân dân thực hiện hoạt động sản xuất nông nghiệp theo định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp. Yên Bái đã xây dựng quy hoạch ngành, quy hoạch sản phẩm nông - lâm nghiệp chủ lực gắn với phát huy tiềm năng, lợi thế của tỉnh; đồng thời xây dựng, ban hành và triển khai đồng bộ nhiều nghị quyết, đề án, chính sách hỗ trợ sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, chuyên canh, tạo sản phẩm sạch, chất lượng cao, an toàn thực phẩm; khuyến khích phát triển vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh, tập trung.
Đối với cây lúa - cây lương thực chủ lực truyền thống của tỉnh với khoảng 42.600 ha, diện tích lúa chất lượng cao đang có xu hướng tăng và tăng nhanh trong những năm gần đây, chiếm gần 39%, tương đương trên 16.500 ha. Yên Bái đã hình thành một số cánh đồng thâm canh lúa lớn, tập trung theo hướng hàng hóa như cánh đồng Mường Lò trên 2.000 ha, sản lượng trên 20.000 tấn/năm; cánh đồng lúa nếp đặc sản Tú Lệ trên 100 ha, sản lượng 450 tấn/năm; cánh đồng Đại Phú An - Đông Cuông, huyện Văn Yên 600 ha; cánh đồng Mường Lai, Vĩnh Lạc, Liễu Đô, Minh Xuân, huyện Lục Yên gần 500 ha, sản lượng 4.500 tấn/năm.
Với nhiều nỗ lực nâng cao chất lượng, Yên Bái đã có trên 8.000 ha sản xuất áp dụng SRI, 600 ha áp dụng IPM và một số diện tích lúa canh tác theo hướng thuận thiên. Đặc biệt, đã có gần 250 ha được chứng nhận và duy trì sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP; 56 ha được cấp mã số vùng trồng. Vùng chè ổn định với khoảng 7.400 ha, sản lượng đạt trên 68.000 tấn/năm, trong đó sản lượng chè búp tươi chất lượng cao đạt khoảng 21.000 tấn. Diện tích sản xuất tập trung, chuyên canh đạt 5.000 ha tại các huyện.
Công nhân Công ty TNHH Hương gia vị Sơn Hà sơ chế quế.
Cơ cấu lại các vùng sản xuất chè gắn với công nghiệp chế biến, Yên Bái đã xây dựng được vùng chè thâm canh cao, cung cấp nguyên liệu chế biến chè đen xuất khẩu với quy mô diện tích 2.500 - 3.000 ha gắn với các cơ sở chế biến tại các vùng trồng chè truyền thống ở thị xã Nghĩa Lộ và huyện Văn Chấn, năng suất bình quân đạt trên 15 tấn/ha/năm, sản lượng chè búp tươi đạt 38.000 - 45.000 tấn/năm. Các vùng chè xanh chất lượng cao tại các huyện vùng thấp với một số giống chè nhập nội như Phúc Vân Tiên, Bát Tiên… được quy hoạch chừng 1.500 ha. Đến nay, toàn tỉnh đã có trên 1.000 ha chè đạt tiêu chuẩn chứng nhận hữu cơ, VietGAP, R.A. Riêng diện tích sản xuất hữu cơ tập trung đạt 1.200 ha, sản lượng 2.000 tấn/năm; diện tích chè được cấp mã số vùng trồng gần 400 ha.
Cũng sau nhiều năm nỗ lực, Yên Bái đã cơ cấu lại các vùng trồng cây ăn quả theo hướng nâng cao chất lượng, giá trị và hiệu quả với diện tích tập trung, chuyên canh khoảng 5.000 ha, sản lượng gần 40.000 tấn, tập trung ở các huyện: Mù Cang Chải 130 ha, Văn Chấn 1.730 ha, Văn Yên 450 ha, Trấn Yên 600 ha, Lục Yên 600 ha, Yên Bình 1.330 ha…
Trong đó, có gần 400 ha được sản xuất theo tiêu chuẩn chứng nhận (VietGAP, bảo đảm an toàn thực phẩm) và được cấp mã số vùng trồng; tổ chức sản xuất theo hướng liên kết hình thành hợp tác xã, nhóm hộ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Đặc biệt, tiềm năng thổ nhưỡng và khí hậu đã cho phép Yên Bái phát triển diện tích cây dược liệu trên 4.000 ha, sản lượng gần 11.000 tấn/năm. Tỉnh cũng đã phát triển được vùng cây dâu tằm gần 1.300 ha, liên kết và tiêu thụ sản phẩm ổn định.
Trong đó, Công ty cổ phần Dâu tằm tơ Yên Bái tại xã Báo Đáp, huyện Trấn Yên đã đầu tư nhà máy với công suất 150 tấn tơ sản phẩm/năm, tương ứng với lượng kén thu mua là 1.200 tấn/năm, thực hiện bao tiêu sản phẩm kén tằm cho các hộ nông dân.
Đáng mừng nhất là quế - 1 trong 10 cây trồng chủ lực của Yên Bái với trên 80.000 ha, tập trung tại các huyện Văn Yên, Trấn Yên, Lục Yên; sản lượng vỏ quế khô mỗi năm đạt 22.000 tấn, tinh dầu quế gần 600 tấn và trên 70.000 m2 gỗ quế các loại, mang lại nguồn thu trị giá trên 1.000 tỷ đồng cho nông dân trong tỉnh.
Thực tế, việc quy hoạch và phát triển được các vùng chuyên canh, tập trung đã và đang giúp các địa phương trong tỉnh khai thác tối đa lợi thế nông nghiệp, phát triển sản phẩm đặc trưng, từ đó xây dựng thương hiệu và tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Điều này bảo đảm đầu ra cho sản phẩm, giảm rủi ro cho nông dân, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản Yên Bái. Trong giai đoạn hiện nay, khi tỉnh Yên Bái đang hướng tới chuyển đổi xanh, vai trò "trụ đỡ” của nông nghiệp lại càng được khẳng định rõ nét.
Minh Thúy
Lợi ích kép từ nguồn phế phẩm, phụ phẩm nông nghiệp
Trong quá trình sản xuất nông nghiệp, với nguồn phế, phụ phẩm (PPP) thải ra môi trường lớn, người dân các địa phương đã tận dụng, xử lý để làm thức ăn chăn nuôi, chất độn chuồng, làm phân bón, nhiên liệu... Bên cạnh lợi ích giảm chi phí đầu vào, hạn chế sử dụng các loại vật tư nông nghiệp, cách làm trên còn góp phần giảm nguy cơ ô nhiễm môi trường.
Người dân xã Thành Minh (Thạch Thành) ngâm ủ các loại phế, phụ phẩm nông nghiệp làm phân bón hữu cơ.
Trước thực trạng giá thức ăn chăn nuôi tăng cao, người chăn nuôi ở các địa phương trên địa bàn tỉnh đã tận dụng thân cây ngô, rơm, rau màu... thái nhỏ, phơi khô, ủ lên men để làm thức ăn đảm bảo dinh dưỡng cho gia súc, gia cầm với chi phí thấp. Bên cạnh đó, việc tận dụng PPP phơi khô làm thức ăn cho gia súc là cách giúp người dân dự trữ trong thời gian dài, nhất là chủ động được nguồn thức ăn cho trâu bò vào mùa mưa lạnh. Chị Lê Thị Trâm, xã Hoằng Đồng (Hoằng Hóa), cho biết: “Trước đây, sau mỗi vụ thu hoạch lúa, tôi và người dân trong xã vẫn có thói quen đốt rơm rạ ngay tại đồng ruộng. Sau khi tham gia nhiều lớp tập huấn, tôi mới biết điều này đã phá vỡ hệ vi sinh vật có lợi, chất dinh dưỡng, làm đất đai ngày càng thoái hóa, mất cân bằng hệ sinh thái đồng ruộng. Gần đây, để chủ động tạo nguồn thức ăn cho đàn bò của gia đình, ngoài trồng cỏ chăn nuôi, tôi đã giữ lại lượng rơm để làm thức ăn chăn nuôi. Ngô cùng rơm sau khi được ủ sẽ tăng giá trị dinh dưỡng, hàm lượng protein thô, tăng tỷ lệ tiêu hóa, giúp bò ăn được nhiều hơn và cho năng suất cao hơn. Bên cạnh đó, phương pháp ủ cũng dễ dàng thực hiện, tận dụng các điều kiện sẵn có ở nơi chăn nuôi như bể xây, ô chuồng trống, thùng nhựa... sử dụng một số nguyên liệu trộn cùng rơm, sau đó nén chặt, hạn chế không khí lọt vào”.
Bên cạnh đó, tại nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh, người dân đã hình thành thói quen làm phân bón hữu cơ từ rơm rạ. Ông Ngô Văn Ngọc, xã Thiệu Ngọc (Thiệu Hóa), cho biết: “Sau khi thu hoạch lúa, lượng rơm thu được sẽ được phơi khô, trộn với chế phẩm sinh học. Sau một thời gian, sẽ tạo ra phân hữu cơ để bón cho đất trước khi gieo trồng cây ăn quả, rau màu... Từ đó, nâng cao độ phì nhiêu của đất, làm cho đất tơi, xốp... Nhất là, chúng tôi đã tiết kiệm được nhiều chi phí mua phân bón hóa học, nâng cao năng suất, chất lượng nông sản”.
Đối với đàn gia cầm, chị Trịnh Thị Thúy, xã Cẩm Tâm (Cẩm Thủy) đã đến các hộ trồng ngô trong xã để xin lá, thân, hạt ngô không bảo đảm chất lượng rồi xay nhỏ làm thức ăn cho đàn gà. Thực tế, mỗi kilogam thân ngô chứa từ 600 đến 700 gam protein và khoảng 320 gam chất xơ, có thể cho gà ăn trực tiếp hoặc ủ chua để bảo quản lâu dài, còn hạt ngô có thể nghiền nhỏ, trộn với cám gạo để cho gà ăn”. Tuy nuôi gà theo phương pháp này đòi hỏi nhiều công chăm sóc hơn nhưng được nhiều lợi ích hơn so với phương pháp nuôi sử dụng thức ăn công nghiệp. Theo đó, gà lớn nhanh, da vàng, thịt săn chắc, thơm ngon hơn. Mặt khác, chất thải khi gà ăn thức ăn nguồn gốc tự nhiên này, hạn chế mùi hôi thối, ít gây ô nhiễm môi trường hơn cho ăn thức ăn công nghiệp.
Trong chăn nuôi, nhất là chăn nuôi lợn, nhiều hộ dân đã đầu tư xây dựng hầm biogas để chăn nuôi an toàn sinh học. Theo đó, tại các trang trại, chuồng nuôi khép kín được thiết kế thành 2 phần, trong đó 1/2 diện tích nền chuồng phía sau thấp hơn 1/2 diện tích nền phía trước; phía cuối chuồng nuôi được đặt ống thoát chất thải nối với hầm biogas để xử lý loại bỏ mùi, giảm các chất gây ô nhiễm môi trường. Chất thải chăn nuôi sau khi được xử lý sẽ được đưa vào hầm khí biogas để làm khí đốt hoặc nước thải dùng để tưới cho cây trồng. Từ đó, không những xử lý môi trường trong chăn nuôi mà còn tiết kiệm chi phí sinh hoạt cho gia đình.
Từ các mô hình có thể thấy, nếu biết tận dụng và xử lý đúng cách, PPP nông nghiệp sẽ là nguồn nguyên liệu mang lại lợi ích kép đối với sản xuất, bởi không những góp phần tạo ra các sản phẩm nông nghiệp an toàn, giảm chi phí đầu tư, giúp người dân nâng cao hiệu quả kinh tế mà còn giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, khi tận dụng nguồn PPP nông nghiệp, người dân cũng cần chú ý kỹ thuật xử lý như phơi, sấy, nghiền... để mang lại hiệu quả cao cho gia súc, gia cầm hay phương pháp ủ men chua để bảo quản lâu mà không mất chất dinh dưỡng; xác định được nhu cầu sử dụng, tỷ lệ dinh dưỡng với từng loại vật nuôi ở các giai đoạn khác nhau... Bên cạnh đó, người chăn nuôi nên đẩy mạnh ứng dụng kỹ thuật vào thu gom, đảo trộn, ủ phân... nhằm có được nguồn phân bón hữu cơ đảm bảo chất lượng.
Bài và ảnh: Lê Ngọc
Lạc Dương: Thúc đẩy sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Lạc Dương là một huyện có lợi thế về phát triển nông nghiệp, do đó phát triển nông nghiệp đang là nhiệm vụ chính trị quan trọng, nòng cốt, chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Để thực hiện mục tiêu đề ra, huyện Lạc Dương đã tập trung cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp theo lợi thế của từng địa phương nhằm tạo ra sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao, đáp ứng cho thị trường, gia tăng thu nhập trên đơn vị diện tích.
Diện tích sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn huyện Lạc Dương không ngừng tăng lên qua từng năm
Ông Hoàng Xuân Hải - Trưởng Phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Lạc Dương cho biết, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/HU của Huyện ủy Lạc Dương về phát triển nông nghiệp công nghệ cao, ứng dụng nông nghiệp thông minh; xây dựng các chuỗi liên kết tiêu thụ sản phẩm gắn với xây dựng thương hiệu các sản phẩm đặc trưng, ngành Nông nghiệp huyện đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Cụ thể, tình hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tiếp tục được phát triển. Hiện, toàn huyện có 3.100 ha sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, chiếm trên 35% diện tích canh tác toàn huyện (tăng 950 ha so với năm 2020), đóng góp trên 30% giá trị sản xuất của ngành Nông nghiệp; diện tích nông nghiệp sản xuất trong nhà kính 1.648,2 ha (tăng 848,2 ha so với năm 2020). Các chương trình dự án nông nghiệp thực hiện đạt 100% kế hoạch; phát triển nông nghiệp công nghệ cao trong người dân địa phương được quan tâm; diện tích sản xuất nông nghiệp có chứng nhận ước đạt 566,37 ha.
Đến nay, trên địa bàn huyện đã được phê duyệt 5 quy hoạch khu sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Trong đó, UBND tỉnh phê duyệt 4 khu gồm: Khu sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao khu vực Ấp Lát, xã Đạ Sar với quy mô 346 ha; Khu sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao khu vực Đa Đeum, xã Đạ Sar với quy mô 172 ha; Khu sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Klong Klanh, xã Đạ Chais với quy mô 181 ha; Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Lâm Đồng tại xã Đạ Sar với quy mô: 221,32 ha (đang triển khai). Đồng thời, UBND huyện Lạc Dương cũng đã phê duyệt 1 vùng sản xuất cà phê ứng dụng công nghệ cao với quy mô 300 ha trên địa bàn thị trấn Lạc Dương (đang triển khai đầu tư thực hiện).
Ngoài ra, UBND huyện Lạc Dương đã chỉ đạo cơ quan chuyên môn, rà soát, đưa vào quy hoạch, một số vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao trong thời gian tới. Cụ thể, 100 ha vùng sản xuất rau công nghệ cao tại Tiểu khu 115 xã Đạ Sar; 100 ha vùng sản xuất rau, hoa công nghệ cao tại thôn Păng Tiêng, xã Lát. Xây dựng chỉ đạo định hướng phát triển một số sản phẩm có lợi thế đặc trưng của huyện như cây dược liệu atiso; xây dựng vùng trồng nấm hương, tái canh các giống cà phê chất lượng cao như: tipyca, bourbon, moka…
Đặc biệt, nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, huyện Lạc Dương đã tập trung cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp theo lợi thế của từng địa phương để tạo ra sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao, đáp ứng cho thị trường, gia tăng thu nhập trên đơn vị diện tích. Đối với cây rau, hoa, dược liệu, huyện Lạc Dương ưu tiên phát triển các sản phẩm chủ lực huyện như: cây hoa hồng với diện tích 335 ha, tập trung tại thị trấn Lạc Dương và một số xã lân cận, hàng năm cung cấp ra thị trường trung bình 422 triệu cành bông/năm; đầu tư phát triển 60 ha trồng dâu tây, trong đó có khoảng 10 ha trồng trong nhà kính, công nghệ cao, nhiều giống, chủng loại mẫu mã sản phẩm đẹp, năng suất chất lượng, giá thành cao như: giống dâu Nhật, Newzeland, Hàn Quốc, doanh thu trung bình 1 - 1,5 tỷ đồng/ha/năm; cây dược liệu atiso với tổng diện tích đạt 37 ha, hàng năm người dân thu nhập trung bình đạt từ 500 - 700 triệu đồng/ha/năm; trồng rau thủy canh (4 ha) trồng được từ 10 - 11 vụ, doanh thu trung bình 9 tỷ đồng/năm; ngoài ra, có nhiều loại rau, hoa cao cấp xuất khẩu trong nhà kính như hoa ly ly, các loại xà lách, ớt chuông, dưa leo Baby…
Riêng đối với cây cà phê, đây vẫn là cây trồng chủ lực là nguồn thu nhập chính của nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số, huyện Lạc Dương, địa phương đang đẩy mạnh thực hiện tái canh 30 ha trên các diện tích già cỗi, nhiễm sâu bệnh, năng suất thấp gắn với các mô hình canh tác bền vững như sản xuất cà phê có chứng nhận. Đến nay, địa phương đã có 584,21 ha đạt chứng nhận sản xuất cà phê an toàn RA, trồng cây che bóng để đa dạng hóa cây trồng, tăng thu nhập cho người dân. Cùng với đó, người dân đã ứng dụng cơ giới hóa trong khâu canh tác, vận chuyển, thu hoạch, bảo quản, sơ chế nhằm giảm tổn thất và nâng cao chất lượng cà phê nhân; thu hoạch và bảo quản đúng quy trình, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sấy tự động, đầu tư hệ thống sân phơi và kho bảo quản đạt tiêu chuẩn nhằm giảm tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch.
Mặt khác, với lợi thế tiềm năng sẵn có, huyện Lạc Dương đang duy trì và phát triển ổn định diện tích nuôi cá nước lạnh (cá tầm), qua đó khai thác tiềm năng, thế mạnh, hiệu quả, bền vững diện tích mặt nước hồ chứa thủy lợi, mặt nước, nguồn nước trên địa bàn huyện. Hiện, toàn huyện có 23,5 ha/13 tổ chức, cá nhân thực hiện nuôi cá nước lạnh, sản lượng hằng năm 1.020 tấn, năng suất bình quân đạt 60 tấn/ha/năm, doanh thu hàng năm của doanh nghiệp đạt trên chục tỉ đồng/ha.
Trong thời gian đến, UBND huyện Lạc Dương sẽ tiếp tục chỉ đạo cho ngành Nông nghiệp huyện và các đơn vị tiếp tục đẩy mạnh thực hiện kế hoạch tái cơ cấu ngành Nông nghiệp nhằm hướng đến một nền nông nghiệp sạch, nâng cao hiệu quả, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng nông sản; đồng thời, tăng cường cơ giới hóa, tự động hóa trong sản xuất nông nghiệp để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả; giảm bớt lao động, giảm chi phí sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp; trọng tâm là khâu sơ chế, bảo quản, chế biến nông sản nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch. Cùng với đó, tăng cường sản xuất theo quy chuẩn, truy xuất nguồn gốc nhằm tạo được sức hút trong liên kết tiêu thụ sản phẩm. Thực hiện quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả các nhãn hiệu nông sản đã được cấp chứng nhận, sản phẩm OCOP, chú trọng mở rộng phạm vi sử dụng nhãn hiệu “Đà Lạt - Kết tinh kỳ diệu từ đất lành”, “Cà phê Arabica LangBiang"...
HOÀNG SA
Hợp tác xã nông nghiệp - Điểm tựa của kinh tế nông thôn
Huyện Nguyên Bình tập trung khai thác tiềm năng, thế mạnh nông nghiệp, vận dụng các chính sách của tỉnh về khuyến khích, hỗ trợ hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) phát triển sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Nhiều HTXNN phát triển về số lượng, chất lượng, khẳng định vai trò nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, xây dựng nhãn hiệu hàng hóa, sản phẩm OCOP gắn với tiêu thụ sản phẩm, kết nối giữa nông hộ nhỏ lẻ với các bên có liên quan hình thành chuỗi giá trị ngành hàng bền vững, góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa.
Xác định HTXNN là “chìa khóa” giúp khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh các sản phẩm của địa phương, huyện phối hợp với các ngành chức năng triển khai nhiều chương trình, dự án hỗ trợ HTXNN; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ quản trị, sản xuất cho cán bộ quản lý hợp tác xã (HTX) và thành viên. Hỗ trợ HTX tiếp cận các nguồn vốn của nhà nước phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, tổ chức sản xuất; tạo điều kiện để các hộ, nhóm hộ liên kết thành lập HTXNN, tổ hợp tác, phát triển doanh nghiệp đa dạng các lĩnh vực, ngành nghề. Phối hợp với Liên minh HTX tỉnh tuyên truyền về chuyển đổi HTX hoạt động theo Luật HTX năm 2023, mở lớp tập huấn công tác chuyển đổi HTX…
Các địa phương, các cấp, ngành rà soát tình hình hoạt động, những khó khăn, vướng mắc của HTXNN xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh hiệu quả; đưa giống mới có năng suất, chất lượng vào sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật theo tiêu chuẩn an toàn và kết nối sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm… Qua đó, các HTXNN mở rộng quy mô sản xuất, tiếp cận khoa học kỹ thuật, năng suất, chất lượng và giá trị nông sản ngày càng được nâng cao, hoạt động của các HTXNN cũng được tăng thêm một bước.
HTX Chăn nuôi, du lịch nông nghiệp, dược liệu Đông Sơn thành lập năm 2024, tạo việc làm thường xuyên cho 6 lao động địa phương với mức thu nhập ổn định từ 6 - 7 triệu đồng/người/tháng. Sau khi mở rộng quy mô, HTX duy trì nuôi hơn 400 con dê/lứa theo hình thức nuôi nhốt kết hợp chăn thả. Mỗi năm, HTX xuất bán từ 3 - 4 lứa dê thịt, thị trường tiêu thụ chính tại tỉnh Ninh Bình, Bắc Giang, Thanh Hóa, Hà Nội và một số nhà hàng trong tỉnh. Giá bán từ 140 - 150 nghìn đồng/kg, trừ chi phí sản xuất, thu nhập trên 300 triệu đồng/năm.
Anh Lý Văn Huấn, Giám đốc HTX Chăn nuôi, du lịch nông nghiệp, dược liệu Đông Sơn cho biết: Để nâng cao hiệu quả quy trình chăn nuôi, HTX lựa chọn con giống có nguồn gốc, cho năng suất, chất lượng cao; đầu tư xây dựng chuồng trại đạt chuẩn, hạn chế dịch bệnh; đặc biệt chú trọng sản phẩm sạch, an toàn. Khi thành lập HTX, bước vào môi trường chuyên nghiệp hơn, chúng tôi nỗ lực phấn đấu nâng cao giá trị sản phẩm cũng như khẳng định chỗ đứng của mình. HTX đang từng bước vận động các hộ nuôi dê tham gia vào HTX chăn nuôi trên địa bàn để xây dựng chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, nâng cao kỹ thuật sản xuất cho các thành viên nhằm tăng lợi nhuận trong chăn nuôi, phát triển sản xuất theo hướng bền vững, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm thu nhập, việc làm cho người dân khu vực nông thôn.
Khu trại nuôi dê của Hợp tác xã chăn nuôi, du lịch nông nghiệp, dược liệu Đông Sơn, xã Minh Tâm (Nguyên Bình).
Được thành lập từ năm 2017, HTX Nông sản Tân Việt Á xác định ngành nghề kinh doanh chính là sản xuất sản phẩm miến dong Phja Đén, với nguyên liệu chính là bột dong thu mua từ các địa phương trong huyện. HTX còn liên kết sản xuất, cung cấp giống, phân bón và tiêu thụ sản phẩm, hình thành vùng nguyên liệu tập trung, mở rộng diện tích cây dong riềng theo hướng hàng hóa, áp dụng khoa học kỹ thuật, tạo việc làm cho lao động nông thôn. Nhờ thực hiện liên kết sản xuất, HTX có vùng nguyên liệu sạch, chất lượng, thực hiện các giải pháp, không ngừng nâng cao chất lượng, sản phẩm miến dong Tân Việt Á dần khẳng định được thương hiệu và chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Sản phẩm miến dong Tân Việt Á được cấp chứng nhận sản phẩm OCOP 4 sao và đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn để xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Tháng 1/2025, lô hàng đầu tiên, 4 tấn miến dong Tân Việt Á đã được xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Đây là bước phát triển lớn của HTX.
Ông Trần Đức Hiếu, Giám đốc HTX Nông sản Tân Việt Á, cho biết: Sản phẩm miến dong Phja Đén được đóng gói với đầy đủ thông tin về thành phần, hướng dẫn sử dụng, bảo quản, mã vạch, mã QR code để truy xuất nguồn gốc. Giá bán dao động từ 80.000 - 100.000 đồng/kg, tùy vào thời điểm. Năm 2024, HTX tiêu thụ hơn 60 tấn miến dong, tạo việc làm cho gần 10 lao động thời vụ tại địa phương.
Cùng với sản xuất sản phẩm miến dong, HTX Nông sản Tân Việt Á còn hỗ trợ bao tiêu, xúc tiến thương mại các loại nông sản, như: bánh chưng, thạch đen, mộc nhĩ, lạp sườn, nấm hương…, đưa đặc sản của địa phương đến với người tiêu dùng trên cả nước.
Các HTXNN từng bước trở thành mắt xích quan trọng trong phát triển chuỗi giá trị liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản; là tiền đề quan trọng thúc đẩy hình thành các tổ hợp sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản quy mô vừa và nhỏ tại nhiều vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung. Hiện nay, huyện có 22 HTXNN hoạt động trong lĩnh vục nông nghiệp, với 258 thành viên. Trong đó, 19 HTXNN hoạt động hiệu quả, chủ yếu là sản xuất miến dong, doanh thu bình quân mỗi HTXNN 132 triệu đồng. Một số sản phẩm OCOP của các HTXNN xếp hạng từ 3 sao trở lên, có những HTXNN tham gia vào sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị, tạo các sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, có bao bì, truy suất nguồn gốc, mã vạch sản phẩm… Nhờ đó, người tiêu dùng dễ dàng nhận biết thương hiệu sản phẩm của HTX, nâng cao giá trị sản phẩm, cải thiện thu nhập cho các HTX cũng như tạo việc làm thường xuyên cho lao động là người dân địa phương với mức lương bình quân từ 6 - 7 triệu đồng/người/tháng.
Trưởng Phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Nguyên Bình Hoàng Thị Hòa cho biết: Huyện tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân về HTXNN, vai trò của kinh tế tập thể, kinh tế HTXNN; xây dựng, nhân rộng các mô hình HTXNN điển hình; hỗ trợ HTXNN tiếp cận vốn vay ưu đãi để phát triển sản xuất. Thúc đẩy sự phát triển các HTXNN gắn với chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm…
Ngọc Dung
Đề xuất miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp từ 01/01/2026 đến hết năm 2030
Chính sách này nhằm góp phần thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nâng cao hơn nữa giá trị sản phẩm nông nghiệp, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Theo Chương trình phiên họp thứ 44 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội - UBTVQH (dự kiến khai mạc ngày mai - 14/4/2025), sáng 15/4, UBTVQH sẽ cho ý kiến về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Tài chính sẽ trình bày Tờ trình, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội trình bày báo cáo thẩm tra, sau đó Thường vụ Quốc hội sẽ thảo luận và kết luận, trước khi Chính phủ trình ra Quốc hội tại Kỳ họp thứ 9 khai mạc ngày 5/5 tới.
Trước đó, chính sách miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp được quy định tại Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội; được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 28/2016/QH14 ngày 11/11/2016 và Nghị quyết số 107/2020/QH14 ngày 10/6/2020 của Quốc hội.
Đến 31/12/2025, thời hạn áp dụng của chính sách này sẽ kết thúc
Theo dự thảo Nghị quyết mới, Quốc hội sẽ quyết nghị về việc kéo dài thời hạn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp từ ngày 01/01/2026; giao Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Nghị quyết này để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước.
Đối tượng áp dụng của dự thảo Nghị quyết là: Người nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp là tổ chức, cá nhân, hộ gia đình; Cơ quan quản lý, cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân khác có liên quan.
Tờ trình của Chính phủ cho biết, tổng kết, đánh giá 20 năm thực hiện chính sách miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp cho thấy, tổng số thuế sử dụng đất nông nghiệp được miễn, giảm giai đoạn 2001-2010 trung bình khoảng 3.268,5 tỷ đồng/năm; giai đoạn từ 2011-2016 trung bình khoảng 6.308,3 tỷ đồng/năm; giai đoạn 2017-2020 khoảng 7.438,5 tỷ đồng/năm; giai đoạn 2021-2023 trung bình khoảng 7.500 tỷ đồng/năm.
Đến nay, có những quy định không còn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội như cách xác định thuế lạc hậu, giá trị thu được thấp (thuế được tính bằng thóc, thu bằng tiền) và phần lớn các nội dung hiện không còn được áp dụng trên thực tế do thi hành chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho toàn bộ diện tích đến hết ngày 31/12/2025.
Chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp mặc dù được ban hành từ năm 1993 nhưng thực tế, từ năm 2001 đến nay, chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp chỉ thay đổi về quy định ưu đãi thuế (miễn, giảm) nhằm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Theo Tờ trình, nguồn thu từ thuế sử dụng đất nông nghiệp rất nhỏ, chỉ mang tính chất bù đắp một phần nhỏ để hỗ trợ chính quyền thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với đất nông nghiệp (số thu chỉ chiếm khoảng 0,00057% tổng thu NSNN năm 2023).
Việc miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong thời gian qua mặc dù làm giảm thu NSNN nhưng đây là giải pháp góp phần thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng hiện đại hóa, giảm bớt khó khăn cho người nông dân, khuyến khích đầu tư, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển bền vững; và phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế.
Do đó, để tiếp tục thực hiện kết quả đạt được của việc miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, Chính phủ trình Quốc hội ban hành Nghị quyết của Quốc hội để kéo dài thời gian thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp theo quy định tại Nghị quyết số 55/2010/QH12, Nghị quyết số 28/2016/QH14 và Nghị quyết số 107/2020/QH15 đến hết ngày 31/12/2030.
Ngoài nội dung nói trên, tại phiên họp thứ 44, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ cho ý kiến về một số chính sách miễn giảm thuế, phí để "khoan sức dân", hỗ trợ doanh nghiệp, nhằm kích thích tăng trưởng như:
- Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về giảm thuế giá trị gia tăng (VAT) cho 6 tháng cuối năm 2025 và cả năm 2026 (sáng 24/4);
- Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về miễn học phí cho học sinh mầm non, phổ thông công lập từ năm học 2025-2026 (chiều 25/4).
Minh Minh
ĐBSCL vẫn 'loay hoay' xoay chuyển cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang có sự phụ thuộc vào lĩnh vực nông nghiệp ngày tăng. Cuộc sống của người dân cũng bấp bênh theo mùa vụ và các điều kiện tự nhiên khách quan. Nhưng để xoay chuyển cơ cấu kinh tế hướng đến sản xuất nông nghiệp giá trị cao và bền vững vẫn không phải là chuyện đơn giản.
Cơ cấu kinh tế vùng ĐBSCL phụ thuộc quá nhiều vào lĩnh vực nông nghiệp. Ảnh: Trung Chánh
“Phụ thuộc” nông nghiệp nhiều hơn
Năm ngoái, ĐBSCL có tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 41,9 tỉ đô la Mỹ, trong đó, xuất khẩu đạt 28,1 tỉ đô la Mỹ và nhập khẩu là 13,8 tỉ đô la Mỹ. Điều này cho thấy, ĐBSCL giữ vai trò vô cùng quan trọng khi đạt mức xuất siêu khoảng 14,3 tỉ đô la Mỹ, chiếm hơn một nửa xuất siêu cả nước.
TS Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright (FSPPM) tại sự kiện công bố báo cáo kinh tế thường niên ĐBSCL năm 2024 diễn ra mới đây, nhấn mạnh ĐBSCL hoàn toàn có quyền tự hào khi chiếm 17% dân số, nhưng đóng góp gần 58% tổng thặng dư thương mại cả nước năm ngoái.
Tuy nhiên, có một thực tế đáng buồn, đó là đời sống của người dân khu vực ĐBSCL gắn với hoạt động sản xuất nông nghiệp, nhất là với cây lúa vẫn chưa thể... làm giàu.
Trao đổi với KTSG Online, ông Trần Vũ Chí, một nông dân sản xuất lúa ở xã Tân Công Sính, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp, người có 10 héc ta sản xuất lúa thừa nhận, tiền lời từ cây lúa mang lại cho gia đình ông trong vụ đông xuân 2024-2025 vừa qua là không đáng kể, chỉ khoảng 10 triệu đồng/héc ta sau ba tháng sản xuất. “Nếu đất thuê sẽ lỗ”, ông nói.
Sản xuất quy mô 10 héc ta còn chật vật, thì với một thực tế khoảng 50% số hộ nông dân ở ĐBSCL có diện tích đất trồng lúa chỉ khoảng 0,5 héc ta/hộ, tức lợi nhuận mang lại từ cây lúa là không đáng kể cho các hộ gia đình.
Thu nhập từ nông nghiệp rất bấp bênh, nhưng nền kinh tế ĐBSCL vẫn phải phụ thuộc quá nhiều vào nông nghiệp, thậm chí tăng lên.
Ông Tự Anh dẫn chứng, kinh tế của ĐBSCL chậm chuyển đổi trong suốt giai đoạn 10 năm qua, thậm chí cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp trong năm 2024 đã tăng thêm 1,1 điểm phần trăm so với năm trước đó, tức mức độ lệ thuộc vào nông nghiệp đang tăng.
Cụ thể, năm 2024, khu vực I (nông, lâm, thủy sản) chiếm 30,08%; khu vực II (công nghiệp và xây dựng) chiếm 27,93%; khu vực III (dịch vụ) chiếm 36,96% và phần còn lại là thuế sản phẩm.
Điều gì khiến ĐBSCL “phụ thuộc” nhiều vào nông nghiệp?
Vị chuyên gia của FSPPM cho rằng, sự ràng buộc an ninh lương thực, yếu kém về hạ tầng cũng như những hạn chế về thể chế là nguyên nhân dẫn đến kết quả ĐBSCL chưa thể dịch chuyển được về cơ cấu kinh tế, tức vẫn lệ thuộc quá lớn vào khu vực I.
Kết quả của sự lệ thuộc khi nhìn ở bức tranh toàn cảnh, đó là thu nhập của dân cư ĐBSCL dù đã tăng 24,4% từ năm 2010 đến 2022, nhưng thuộc nhóm thấp nhất cả nước, chỉ bằng 50% so với mặt bằng chung cả nước. “Đây là lý do ĐBSCL tụt hậu và đó cũng là nguyên nhân người dân Đồng bằng tiếp tục phải di cư đến các vùng khác để kiếm sống”, ông Tự Anh cho biết.
Thực tế, báo cáo Kinh tế thường niên ĐBSCL do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chi nhánh ĐBSCL (VCCI ĐBSCL) phối hợp cùng FSPPM thực hiện đã chỉ ra, ĐBSCL có gần 1,1 triệu người đã rời quê đi… “Bình Dương”
Dịch chuyển sang công nghiệp chế biến để tận dụng nền tảng nông nghiệp. Ảnh: Trung Chánh
“Xoay chuyển” cách nào?
Do phụ thuộc nông nghiệp nên động lực tăng trưởng của vùng ĐBSCL thời gian qua cũng dựa vào lĩnh vực này, khi chiếm hơn 30% GDP của vùng. Thế nhưng, thực tế con số còn lớn hơn, bởi công nghiệp chế biến cũng sử dụng đầu vào của nông nghiệp, tức nông nghiệp gián tiếp tạo ra nhiều GDP và công ăn việc làm ở lĩnh vực công nghiệp.
Để ĐBSCL có thể “đi lên” từ nền tảng nông nghiệp, cần phải thu hút đầu tư, phát triển thêm doanh nghiệp, nhất là ở lĩnh vực chế biến. Đây sẽ là động lực để giải quyết vấn đề tăng năng suất lao động, tạo công ăn việc làm phát triển lĩnh vực công nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế cho ĐBSCL.
Rõ ràng, ĐBSCL có thể phát triển được lĩnh vực công nghiệp, bởi chỉ số sản xuất công nghiệp của vùng năm ngoái đạt 12,2%, cấp gấp 1,5 lần so với cả nước. “Điều này cho thấy, chúng ta hoàn toàn có thể phát triển được công nghiệp”, ông Tự Anh đánh giá và cho rằng, thương mại dịch vụ cũng có thể phát triển mạnh ở vùng này khi tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ năm ngoái đạt 14,5%, cao gấp 1,7 lần so với cả nước.
Để ĐBSCL xoay chuyển cơ cấu kinh tế, rõ ràng phải phát triển doanh nghiệp mạnh hơn để thay đổi, nhất là ở lĩnh vực công nghiệp chế biến để đi lên từ tảng của nông nghiệp.
Trao đổi với KTSG Online, ông Đậu Anh Tuấn, Phó tổng thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho biết để phát triển được doanh nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng, vấn đề quan trọng là thực hiện tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. “Ví dụ, doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông sản chế biến, thì các địa phương phải tập trung tháo gỡ, nhất là chi phí kinh doanh cao, logistics…”, ông gợi ý.
Tuy nhiên, một vấn đề quan trọng hơn, nhà nước phải tập trung đầu tư công để tạo nền tảng, điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, có thể là hệ thống kho lạnh, hệ thống logistics cho nông nghiệp...
Ông Tự Anh của FSPPM đồng quan điểm khi nhấn mạnh, đầu tiên phải tăng đầu tư công cho ĐBSCL để xứng đáng với những đóng góp của vùng này cho cả nước. Bởi lẽ, hiện đầu tư công của ĐBSCL đứng cuối bảng các vùng kinh tế khi chỉ chiếm 12% tổng đầu tư công cả nước.
Khi có nguồn lực đầu tư công lớn hơn, thì phải xác định được ưu tiên cho các lĩnh vực mang lại hiệu quả lan tỏa cao như: cơ sở hạ tầng giao thông, hạ tầng viễn thông và những lĩnh vực đặc thù của vùng, bao gồm nông nghiệp công nghệ cao; giống cây trồng, vật nuôi; trung tâm chế biến, logistics và hậu cần cho nông sản.
Theo ông Tự Anh, việc đầu tư như nêu trên, một mặt giúp ĐBSCL đa dạng hóa được hoạt động kinh tế, mặt khác tạo nền tảng để tăng năng suất, giúp kết nối tốt hơn của chính bản thân chuỗi giá trị cũng như kết nối nền kinh tế nội vùng với các vùng khác và thế giới.
Song song đó, ở góc độ chính quyền các địa phương, cần cải thiện môi trường kinh doanh, khả năng tiếp cận tín dụng, đất đai, giảm bớt chi phí tuân thủ pháp luật và rào cản hành chính. “Đặc biệt, với chính sách tín dụng cần “thiết kế” gói tín dụng riêng, phù hợp với đặc tính mang tính mùa vụ ngành nông nghiệp của vùng”, ông Tự Anh gợi ý.
Ở góc độ doanh nghiệp, trao đổi với KTSG Online, ông Trần Văn Đức, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần đầu tư dừa Bến Tre, cho biết bên cạnh môi trường đầu tư kinh doanh, các địa phương ĐBSCL cần có chính sách thu hút đầu tư đủ tốt. Chẳng hạn, chi phí để ổn định hạ tầng cho một nhà xưởng ở ĐBSCL rất tốn kém, cao gấp đôi so với các vùng khác.
Rõ ràng, với những biện pháp được gợi ý như nêu trên, việc thu hút và phát triển doanh nghiệp, nhất là ở lĩnh vực công nghiệp chế biến sẽ được cải thiện cho khu vực ĐBSCL. Khi đó, cơ cấu kinh tế của vùng sẽ được dịch chuyển tích cực hơn, giúp phát triển kinh tế ĐBSCL, nâng cao đời sống người dân từ nền tảng thế mạnh nông nghiệp…
Trung Chánh
Tạo nguồn nhân lực cho phát triển nông nghiệp
Nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp, các ngành có liên quan và địa phương trong tỉnh đã tích cực triển khai nhiều chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn, giúp người lao động có việc làm và nâng cao thu nhập.
Người dân xã Tam Chung (Mường Lát) tham gia lớp tập huấn trồng sắn nguyên liệu.
Xác định đào tạo nghề nâng cao trình độ cho lao động nông thôn là nhiệm vụ quan trọng trong phát triển nông nghiệp, huyện Triệu Sơn đã tích cực khảo sát nhu cầu học nghề của người lao động tại các xã, thị trấn, qua đó mở các lớp dạy nghề phù hợp với thực tiễn ở địa phương. Trên cơ sở đó, huyện tập trung đào tạo nghề nông nghiệp gắn với phát triển cây trồng và vật nuôi chủ lực có thế mạnh của địa phương. Hàng năm, ngành nông nghiệp huyện phối hợp với Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp – Giáo dục thường xuyên huyện mở các lớp đào tạo cho người dân các xã, thị trấn trên địa bàn phục vụ sản xuất nông nghiệp thông minh, nông nghiệp sinh thái, hữu cơ và chuyển đổi số trong nông nghiệp. Trong năm 2024, huyện đã phối hợp thực hiện được 8 lớp nghề lao động nông thôn ngắn hạn cho 260 học viên của các xã Triệu Thành, Hợp Thắng, Thọ Cường, Thái Hòa, Tiến Nông, Đồng Tiến, thị trấn Nưa và cấp chứng chỉ cho học viên hoàn thành khóa học.
Theo ông Lê Hữu Hải, Giám đốc Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện Triệu Sơn: "Bám sát định hướng phát triển nông nghiệp, trung tâm đã phối hợp thực hiện các lớp đào tạo nghề để người lao động nâng cao giá trị các sản phẩm chủ lực, phát triển sản phẩm OCOP, sản phẩm đặc hữu của địa phương. Trong đó, tập trung đào tạo cho người lao động nắm được các tiêu chuẩn, quy chuẩn trong sản xuất nông nghiệp, nông nghiệp thông minh, quy trình kỹ thuật mới, công nghệ mới trong sản xuất, chế biến, quản lý vùng chuyên canh, truy xuất nguồn gốc, mô hình kinh tế tuần hoàn sử dụng hiệu quả phụ phẩm nông nghiệp. Qua thống kê sơ bộ, hiện số lao động sau đào tạo phát huy được hiệu quả làm việc trên địa bàn huyện đạt khoảng 80%. Nhiều lao động thuộc hộ nghèo đã có việc làm và thoát nghèo, có hộ đã có thu nhập khá. Trung tâm đang phối hợp với các ngành có liên quan của huyện và tỉnh tổ chức các lớp đào tạo cho người lao động biết ứng dụng các công nghệ thông tin, áp dụng các quy trình sản xuất tốt, tiên tiến, công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, an toàn, thích ứng với biến đổi khí hậu. Cùng với đó, tổ chức các lớp đào tạo cho người dân, các doanh nghiệp, HTX trên địa bàn nâng cao kỹ năng về quản lý, xây dựng các phương án sản xuất đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu".
Hiện nay, nền nông nghiệp của tỉnh phát triển khá toàn diện và đang chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn với năng suất và chất lượng ngày càng cao. Cùng với đó, nông nghiệp cũng từng bước chuyển từ tư duy sản xuất sang tư duy kinh tế nông nghiệp, góp phần nâng cao giá trị trên cùng một đơn vị diện tích và thu nhập cho nông dân. Do đó, yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng lớn. Vì vậy, tỉnh đã tập trung đào tạo nhân lực chất lượng cao phục vụ sản xuất nông nghiệp thông minh, nông nghiệp sinh thái, hữu cơ và chuyển đổi số trong nông nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông nghiệp.
Trong năm 2024 thông qua nguồn vốn từ các chương trình, dự án, toàn tỉnh đã đào tạo được 9.381 học viên với tổng kinh phí hơn 32,15 tỷ đồng. Trong đó, Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đã hỗ trợ đào tạo nghề nông nghiệp cho 649 học viên; Chương trình Mục tiêu quốc gia XDNTM đào tạo nghề nông nghiệp cho 105 học viên; Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đào tạo nghề nông nghiệp cho 8.627 học viên. Các lao động được học nghề nông nghiệp đã vận dụng kiến thức và áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi. Nhiều địa phương đã gắn XDNTM với đào tạo nghề, từng bước chuyển dịch dần một số bộ phận lao động nông nghiệp sang làm nông nghiệp dịch vụ, phục vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Bài và ảnh: Lê Hợi
Phú Xuyên: Kết nối du lịch làng nghề với nông nghiệp trải nghiệm
Không chỉ nổi danh với những làng nghề thủ công truyền thống, huyện Phú Xuyên còn sở hữu hàng chục nghìn héc-ta đất nông nghiệp màu mỡ, là lợi thế hiếm có. Nếu biết kết nối hài hòa giữa du lịch làng nghề và nông nghiệp trải nghiệm, Phú Xuyên hoàn toàn có thể định vị được trên bản đồ du lịch ngoại thành Hà Nội.
Thế mạnh từ nông nghiệp và làng nghề
Từ lâu, huyện Phú Xuyên được biết đến là vùng đất trăm nghề của Thủ đô, với các sản phẩm phong phú, từ giày da, dép, đồ gỗ đến mây, tre đan, cỏ tế, khảm trai... Không những vậy, nơi đây còn là một trong những vùng nông nghiệp trọng điểm của Hà Nội, với những cánh đồng lúa trải dài, hệ thống trang trại, vườn - ao - chuồng ngày càng phát triển, hình thành không gian nông thôn giàu tiềm năng du lịch trải nghiệm.
Du khách thích thu tham gia trải nghiệm các mô hình trang trại tại thôn Lưu Xá, xã Phú Túc. Ảnh: Sơn Tùng
Thực tế, nhiều xã nghề, như: Chuyên Mỹ, Phú Túc không chỉ gìn giữ nghề truyền thống, mà còn mạnh dạn chuyển đổi đất nông nghiệp, hình thành các mô hình trang trại quy mô lớn, cảnh quan đẹp và rất phù hợp để đón khách tham quan. Khi hai loại hình du lịch: Làng nghề và nông nghiệp được tích hợp, bổ trợ cho nhau, Phú Xuyên sẽ có cơ hội nâng tầm hình ảnh, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và xây dựng một mô hình phát triển bền vững cho vùng quê này.
Không chỉ có nghề khảm trai nổi tiếng, xã Chuyên Mỹ còn khiến nhiều người ngỡ ngàng bởi những cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay và hệ thống trang trại xanh mướt đang từng ngày định hình diện mạo mới cho vùng quê. Với hơn 500ha đất nông nghiệp, trong đó có 240ha đã chuyển đổi thành mô hình trang trại tổng hợp, Chuyên Mỹ đang dần khẳng định một hướng phát triển nông nghiệp bền vững, song song với bảo tồn và phát huy giá trị làng nghề.
Đáng chú ý, Chuyên Mỹ đã được thành phố Hà Nội công nhận là Điểm đến du lịch làng nghề. Theo Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Phú Chuyên, xã Chuyên Mỹ Vũ Văn Đình, những tiềm năng về không gian làng nghề kết hợp trang trại sinh thái chính là điều kiện thuận lợi để xã khai thác, phát triển du lịch một cách bài bản, chuyên nghiệp. “Nếu kết nối được loại hình du lịch làng nghề và nông nghiệp trải nghiệm, không chỉ sản phẩm làng nghề địa phương được nâng giá trị, mà đời sống người dân cũng sẽ thay đổi theo hướng xanh, sạch, bền vững”, ông Vũ Văn Đình chia sẻ.
Tương tự, xã Phú Túc - nơi nổi danh với nghề đan cỏ tế truyền thống hơn 300 năm tuổi cũng đã được Hà Nội công nhận là điểm đến du lịch làng nghề của thành phố. Không chỉ giữ gìn, phát triển nghề truyền thống, Phú Túc còn mở rộng quy mô những vùng chuyên canh, xây dựng hệ thống trang trại, vườn cây ăn quả xanh mướt, phong phú, tạo nên một bức tranh nông thôn giàu sức sống. Theo ông Đặng Quốc Triệu, Trưởng thôn Lưu Xá, xã Phú Túc, nếu kết hợp khéo léo giữa du lịch làng nghề và du lịch nông nghiệp trải nghiệm, thì đây chính là cơ hội mở ra một hướng phát triển bền vững cho người dân. Du khách về Phú Túc tham quan, trải nghiệm, không chỉ nhìn ngắm bàn tay người thợ làm nên những sản phẩm cỏ tế tinh xảo, mà còn có thể thả mình giữa những vườn cây trái, ao cá của quê hương.
Làng nghề cỏ tế Phú Túc với nhiều sản phẩm thủ công độc đáo. Ảnh: Sơn Tùng
Không chỉ Chuyên Mỹ, Phú Túc, các xã: Phượng Dực, Vân Từ, Phú Yên cũng có nhiều tiềm năng phát triển du lịch làng nghề gắn với sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt, xã Vân Từ còn có thôn Cựu, một ngôi làng cổ mang đậm dấu ấn kiến trúc Pháp, với những dãy nhà biệt thự rêu phong, cổng làng xưa cũ, đậm chất “hồi ức thời gian”, nằm ngay gần những trang trại, cánh đồng xanh mướt, tạo điểm nhấn cho bức tranh du lịch của Phú Xuyên.
Bứt phá nhờ kết hợp du lịch làng nghề và nông nghiệp
Trên địa bàn huyện Phú Xuyên hiện có 4 địa phương được UBND thành phố công nhận là Điểm du lịch làng nghề, gồm: Vân Từ, Chuyên Mỹ, Phú Yên và Phú Túc. Trong năm 2025, huyện phấn đấu có thêm ít nhất một điểm du lịch làng nghề được công nhận, góp phần mở rộng không gian trải nghiệm cho du khách.
Huyện Phú Xuyên định hướng rõ, phát triển kinh tế du lịch, nông nghiệp nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Huyện cũng tích cực xây dựng các tuyến du lịch kết nối các điểm đến đặc sắc, từ chùa Ráng (Quang Lãng) đến đình làng Giẽ Hạ, Giẽ Thượng, làng nghề da giày Phú Yên, làng Cựu (Vân Từ), làng nghề khảm trai Chuyên Mỹ, các cơ sở đồ gỗ Tân Dân, Quang Hà...
Đặc biệt, những tháng đầu năm 2025, Phú Xuyên tiếp tục đón nhận nhiều hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế ý nghĩa, như: Phối hợp sản xuất chương trình truyền hình thực tế với đoàn nghệ sĩ Rumani tại làng Tò he Xuân La (Phượng Dực), hay tổ chức các tour thực tế cho hàng trăm sinh viên từ các trường đại học danh tiếng của Hà Nội đến khảo sát, trải nghiệm không gian làng nghề.
Chủ tịch UBND huyện Phú Xuyên Lê Văn Bính cho biết, Phú Xuyên có lợi thế kép, vừa là vùng đất giàu truyền thống với nhiều nghề thủ công, vừa sở hữu diện tích đất nông nghiệp lớn và không gian quê thanh bình, rất phù hợp để phát triển du lịch trải nghiệm nông nghiệp, sinh thái kết hợp du lịch làng nghề.
Xã Vân Từ không chỉ nổi tiếng với nghề may, mà không gian làng Cựu cổ kính, đem tới nhiều tiềm năng phát triển du lịch cho địa phương. Ảnh: ST
“Thời gian tới, Phú Xuyên tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy hoạch các điểm du lịch làng nghề, đồng thời hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông nông thôn và đào tạo nguồn nhân lực để đón đầu xu hướng du lịch trải nghiệm, du lịch xanh”, Chủ tịch UBND huyện Phú Xuyên Lê Văn Bính nhấn mạnh.
Bạch Thanh
Chi phí đầu vào tăng, sản xuất nông nghiệp gặp khó
Từ đầu năm đến nay, giá các mặt hàng vật tư nông nghiệp như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi, giống cây trồng, vật nuôi liên tục tăng khiến người dân gặp nhiều khó khăn trong phát triển sản xuất.
Khan hiếm nguồn heo giống
Cùng với việc giá heo hơi trên thị trường liên tục tăng cao, thời điểm này, giá heo giống cũng tăng mạnh so với năm ngoái. Ông Trịnh Văn Toàn (tổ 12, phường Hoa Lư, TP. Pleiku) cho biết: Mấy năm gần đây, gia đình ông luôn duy trì đàn heo khoảng 100 con. Vừa qua, ông xuất bán 2 lứa heo hơi với giá 65-75 ngàn đồng/kg. Nhờ giá heo hơi tăng, sau khi trừ các khoản chi phí, gia đình ông đạt lợi nhuận khoảng 100 triệu đồng.
“Để tiếp tục tái đàn, vừa rồi, tôi mua 50 con heo giống trọng lượng 6-7 kg/con với giá gần 2 triệu đồng/con, tăng khoảng 500-700 ngàn đồng/con so với năm ngoái. Toàn bộ heo giống đã được Trung tâm Giống vật nuôi tỉnh tiêm phòng vắc xin nên tôi rất yên tâm. Hy vọng giá heo hơi vẫn duy trì ổn định như hiện nay để người chăn nuôi có thu nhập ổn định”-ông Toàn nói.
Công nhân Công ty cổ phần Chăn nuôi C.P Việt Nam-Chi nhánh Gia Lai chăm sóc heo giống. Ảnh: N.D
Còn ông Hoàng Văn Sỹ (thôn 5, xã Ia Băng, huyện Đak Đoa) thì cho hay: Cách đây khoảng 10 ngày, ông mua 15 con heo giống trọng lượng 10 kg/con với giá 2,3 triệu đồng/con, cao hơn năm trước 500-700 ngàn đồng/con. Việc giá heo giống và thức ăn chăn nuôi tăng khiến chi phí đội lên cao. Tôi hy vọng đến lúc xuất chuồng, giá heo hơi vẫn duy trì ở mức như hiện nay thì người chăn nuôi mới có lợi nhuận.
Theo thống kê của Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh, tổng đàn heo trên địa bàn tỉnh là 994 ngàn con. Thời gian qua, giá heo giống tăng cao, nguồn cung lại khan hiếm khiến người dân gặp khó khi tái đàn.
Ông Trần Văn Thương-Phó Giám đốc Trung tâm Giống vật nuôi tỉnh-thông tin: Hiện nay, giá heo giống loại 10 kg tại Trung tâm bán ra dao động ở mức 2,2-2,3 triệu đồng/con, tăng 600-700 ngàn đồng/con so với thời điểm cuối năm 2024. Dù vậy, nguồn heo giống trên thị trường cũng đang khan hiếm. Nguyên nhân khiến giá heo giống tăng cao là do người dân các địa phương đang có xu hướng tái đàn trở lại. Bình quân mỗi tháng, Trung tâm bán ra 300-400 con heo giống chất lượng cao, chủ yếu cho những khách hàng truyền thống trong tỉnh đã hợp tác lâu dài với đơn vị.
Còn ông Thái Văn Dũng-Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh-cho biết: Giá heo hơi trên thị trường tăng cao là tín hiệu lạc quan giúp người chăn nuôi có nguồn thu nhập ổn định. Tuy nhiên, để phát triển đàn heo ổn định khi giá heo giống đang tăng cao, người dân cần thực hiện các biện pháp chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học.
Bên cạnh đó, người dân cần lựa chọn mua heo giống ở những cơ sở chăn nuôi có nguồn gốc rõ ràng, đảm bảo chất lượng và chủ động tiêm phòng các loại vắc xin cho heo.
Chi phí sản xuất đội lên cao
Thời điểm này, giá nhiều loại vật tư nông nghiệp như: phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng… đều tăng đáng kể so với năm ngoái. Bà Lê Thị Bảo Trâm-Chủ cửa hàng vật tư nông nghiệp Bình Dương (xã Trang, huyện Đak Đoa) cho biết: “Thời gian gần đây, giá phân bón có sự điều chỉnh tăng, nhất là những loại phân bón nhập khẩu”.
Nông dân chuẩn bị phân bón phục vụ sản xuất vụ mùa. Ảnh: N.D
Còn ông Nguyễn Hữu Nghị (thôn Tân Lập, xã Ia Sao, huyện Ia Grai) chia sẻ: “Hai năm nay, giá cà phê tăng mạnh đã mang lại niềm vui cho bà con nông dân. Tuy nhiên, chi phí sản xuất cũng bị đội lên cao do giá phân bón, thuốc bảo vệ thực vật đều tăng khoảng 10-15%.
Bên cạnh giá phân bón thì chi phí thuê nhân công cũng tăng khoảng 30%. Ước tính chi phí cho 2 ha cà phê trong niên vụ này khoảng 150 triệu đồng, chưa tính công lao động của gia đình”.
Trao đổi với P.V, ông Đoàn Ngọc Có-Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường-cho hay: Giá vật tư tăng đã làm tăng chi phí đầu vào trong sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng đến lợi nhuận của người dân.
Trong bối cảnh giá cả leo thang như hiện nay, ngành Nông nghiệp đang nỗ lực tuyên truyền và hướng dẫn người dân từng bước thay đổi tập quán canh tác, chuyển sang sản xuất theo hướng hữu cơ, sản xuất theo các tiêu chuẩn chứng nhận và truy xuất nguồn gốc để nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm nông nghiệp trên thị trường.
Bên cạnh đó, nâng cao năng lực quản lý sản xuất, áp dụng các công nghệ mới, tăng cường áp dụng chương trình IPM, sức khỏe dinh dưỡng cây trồng nhằm tối ưu hóa chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận.
THẢO NGUYÊN
Chuyển đổi số trong nông nghiệp: Luôn đồng hành cùng nông dân
Được ví như 'chìa khóa vàng' để phát triển bền vững, thời gian qua, chuyển đổi số đã tác động mạnh mẽ, tích cực vào sản xuất nông nghiệp. Theo ông Kiều Quang Khánh, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường, khoảng 5 năm trở lại đây, nhiều giải pháp ứng dụng công nghệ số và quy trình sản xuất, cung ứng dịch vụ nông nghiệp và phát triển thương mại điện tử trong sản xuất nông nghiệp đã thúc đẩy chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp. Đây là hướng đi đúng đắn, phù hợp xu thế thời đại.
Tất cả các sản phẩm OCOP của Thái Nguyên đều được gắn mã truy xuất nguồn gốc và hỗ trợ lên sàn thương mại điện tử.
P.V: Ông đánh giá như thế nào về “tốc độ” chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp ở Thái Nguyên?
Ông Kiều Quang Khánh: Chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp trên địa bàn tỉnh đã có những chuyển biến mạnh mẽ trong 4 năm trở lại đây. Theo đó, công tác số hóa dữ liệu đối với lĩnh vực nông nghiệp đã được triển khai khá hiệu quả. Việc số hóa các quy trình sản xuất, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật được triển khai bằng nhiều hình thức. Lĩnh vực trồng trọt và bảo vệ thực vật thực hiện số hóa các quy trình trồng trọt đối với cây ăn quả, chè, lúa, rau theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ và theo chu trình thực hiện sản phẩm OCCOP; thực hiện quản lý mã số vùng trồng. Trong chăn nuôi ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ về giống năng suất cao, chuồng lạnh, tự động hóa vận hành thức ăn, nước uống, sát trùng, xử lý môi trường và xây dựng chuỗi liên kết giá trị trong chăn nuôi… Trong lĩnh vực lâm nghiệp, số hóa quy trình trồng cây lâm nghiệp, dược liệu và quy trình hướng dẫn các điều kiện, thành phần, hồ sơ cấp chứng chỉ rừng FSC. Ở lĩnh vực thủy lợi, số hóa thông tin cảnh báo thiên tai, video cảnh báo các điểm ngập tại các tràn, cống, đường dân sinh.
Trong cải cách thủ tục hành chính trên môi trường điện tử, Sở đã tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện nghiêm túc việc công khai, minh bạch trong tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính… Ngoài ra, Sở đã xây dựng các hệ thống dữ liệu lớn, đến nay, nhiều phần mềm ứng dụng đã được đưa vào sử dụng như: Quản lý chất lượng nông sản Thái Nguyên; Hệ thống thông tin mã số vùng trồng; hệ thống thông tin dịch bệnh trực tuyến (VAHIS)…
PV: Theo ông, chuyển đổi số đã giúp cho nông nghiệp của Thái Nguyên có những thay đổi ra sao?
Ông Kiều Quang Khánh: Việc ứng dụng công nghệ số trong nông nghiệp không chỉ góp phần giảm công lao động, chi phí đầu vào mà còn nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị các sản phẩm nông nghiệp, giúp nhiều nông sản của Thái Nguyên khẳng định thương hiệu ở trong, ngoài nước. Đơn cử, từ việc quản lý mã số vùng trồng, các tổ chức, cá nhân được cấp đã lưu tâm hơn đến việc chuẩn hóa quy trình chăm sóc, quản lý cây trồng; quản lý diện tích trồng, cảnh báo tình hình dịch bệnh, lên kế hoạch chăm sóc và báo cáo danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng… Từ đó đã tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng, được thị trường đón nhận và tiêu thụ mạnh hơn, giá bán cao hơn, giá trị thu về ngày càng nâng lên.
Hay như việc đẩy mạnh chuyển đổi số trong tiêu thụ sản phẩm cũng đã mang lại kết quả tích cực. Hiện, toàn tỉnh đã có hơn 160 nghìn hộ sản xuất nông nghiệp được tạo tài khoản và đã đưa lên các sàn thương mại điện tử với trên 2.000 sản phẩm nông nghiệp. Qua đó, doanh số bán hàng của các đơn vị đã tăng từ 20 đến 50%, doanh thu bán hàng qua mạng và sàn giao dịch điện tử chiếm 30%.
PV: Để chuyển đổi số trong nông nghiệp đạt kết quả cao hơn đang là mục tiêu mà tỉnh Thái Nguyên hướng đến. Theo ông, chúng ta cần phải làm gì để đạt được mục tiêu đề ra với kết quả tốt nhất?
Ông Kiều Quang Khánh: Trong thời đại 4.0, chuyển đổi số đóng một vai trò quan trọng, nhất là trong sản xuất nông nghiệp. Để đạt được kết quả cao hơn nữa, ngoài tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị thì vẫn cần sự nỗ lực từ phía người nông dân, doanh nghiệp, hợp tác xã... Đặc biệt, các tổ chức, cá nhân này cần chủ động đổi mới trong sản xuất kinh doanh, xây dựng sản phẩm chiến lược, nâng cao kỹ năng livestream bán hàng nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ, gia tăng giá trị sản phẩm…
Về phía các cấp, ngành chức năng của tỉnh cũng luôn đồng hành với nông dân. Lãnh đạo tỉnh luôn đồng tình với việc sẵn sàng huy động các nguồn lực xã hội hóa thúc đẩy các hợp tác xã, doanh nghiệp, người dân đưa khoa học công nghệ vào sản xuất. Đặc biệt, tỉnh ưu tiên chú trọng phát triển kinh tế số và thương mại điện tử, góp phần nâng cao giá trị kinh tế của các sản phẩm OCOP…
PV: Xin cảm ơn ông!
Tùng Lâm (Thực hiện)
Huyện Gò Công Tây: Hiệu quả từ chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất nông nghiệp
Thời gian qua, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang quan tâm triển khai các chính sách hỗ trợ nông dân phát triển kinh tế nông thôn, nhất là Nghị quyết 07/2019 của HĐND tỉnh Tiền Giang về quy định chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh (gọi tắt là Nghị quyết 07) và đã mang lại hiệu quả tích cực, góp phần nâng cao giá trị nông sản, hướng đến nền nông nghiệp bền vững.
HIỆU QUẢ BƯỚC ĐẦU
Trên cơ sở hướng dẫn của UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Sở Nông nghiệp và Môi trường), hằng năm, UBND huyện ban hành nhiều kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết 07... Đồng thời, tổ chức tuyên truyền, phổ biến nội dung các chính sách về liên kết và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp lồng ghép vào các cuộc tập huấn, hội thảo chuyên đề tại 12 xã và thị trấn.
UBND huyện cũng đã thành lập Hội đồng thẩm định, quyết định phê duyệt dự án, kế hoạch liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; thành lập Đoàn kiểm tra, giám sát chính sách hỗ trợ trên địa bàn huyện.
Đặc biệt, cùng với sự hỗ trợ tích cực của các cơ quan cấp tỉnh và sự chỉ đạo sâu sát của cấp ủy, chính quyền các cấp, huyện đã hình thành chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn và bước đầu đạt được kết quả nhất định.
Tham quan mô hình canh tác lúa thông minh phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh thử nghiệm tại xã Yên Luông.
Cụ thể, UBND huyện Gò Công Tây đăng ký 24 dự án/kế hoạch được UBND tỉnh phê duyệt danh mục gồm 13 dự án, 11 kế hoạch (10 lúa, 8 rau, 5 cây ăn trái, 1 chăn nuôi). Đến nay, huyện thực hiện 20 dự án/kế hoạch được phê duyệt danh mục gồm 5 dự án, 15 kế hoạch (10 lúa, 6 rau, 4 cây ăn trái) với quy mô thực hiện trên 491 ha/838 hộ dân tham gia; trong đó, có 305,9 ha lúa, 329,406 ha rau, 144,86 ha cây ăn trái; với tổng kinh phí thực hiện trên 45,9 tỷ đồng (trong đó tổng vốn ngân sách nhà nước trên 9,5 tỷ đồng, còn lại là đối ứng của hợp tác xã (HTX)/doanh nghiệp, nông dân).
Đến nay, có 7 kế hoạch liên kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp đã kết thúc, 13 dự án/kế hoạch đang thực hiện trong năm 2025.
Trong đó có thể kể đến một số mô hình liên kết điển hình hiệu quả như: Liên kết tiêu thụ rau của HTX Nông nghiệp tổng hợp Hòa Thạnh (xã Bình Tân), với quy mô 14,65 ha/60 hộ; thực hiện hỗ trợ 50% phân hữu cơ, chế phẩm sinh học cho nông dân trong 3 năm 2022 - 2024. Qua 3 năm thực hiện liên kết, HTX thực hiện được dịch vụ cung ứng vật tư đầu vào cho các thành viên thêm liên kết giống rau, phân bón, chế phẩm sinh học, đặc biệt là giá giống rau thấp hơn thị trường 30.000 - 50.000 đồng/kg tùy loại giống rau; thực hiện bao tiêu sản phẩm rau 100% theo giá bao tiêu của HTX (có điều chỉnh giá lên khi giá thị trường tăng); tạo việc làm cho hơn 50 lao động tại địa phương.
Nhờ tham gia các mô hình liên kết mà thành viên HTX sản xuất, tiêu thụ được ổn định, giảm chi phí sản xuất và nâng cao được thu nhập.
Hay kế hoạch liên kết sản xuất và tiêu thụ rau tại HTX Nông nghiệp Thương mại dịch vụ Phú Quới (xã Yên Luông) với quy mô liên kết 7,11 ha/27 hộ; thực hiện hỗ trợ tập huấn kỹ thuật, giống rau cho nông dân tham gia liên kết trong năm 2020 và thực hiện hỗ trợ bao bì cho HTX trong 3 chu kỳ sản xuất trong 3 năm.
HTX hỗ trợ theo kế hoạch đã phê duyệt và linh hoạt trong thực hiện kết nối với công ty phân bón hỗ trợ nông dân phân bón hữu cơ, hướng dẫn cho hộ dân sản xuất rau theo hướng hữu cơ. Sau khi kết thúc liên kết, HTX mở rộng diện tích liên kết lên 12,36 ha/44 hộ, trong đó duy trì 80% hộ dân cũ tham gia liên kết và 20% hộ mới tham gia.
Tương tự, kế hoạch liên kết tiêu thụ lúa của HTX Nông nghiệp Hưng Hòa (xã Long Vĩnh) với quy mô 34,97 ha có 56 hộ tham gia theo chuỗi giá trị từ cung ứng giống, vật tư đầu vào, tổ chức sản xuất và liên kết tiêu thụ lúa cho thành viên.
Theo đó, HTX triển khai liên kết Trung tâm Khuyến nông và Dịch vụ nông nghiệp tỉnh để cung ứng giống, liên kết với hộ kinh doanh để thực hiện cung ứng vật tư trong sản xuất; ở đầu ra, HTX liên kết với Công ty TNHH Vinh Hiển để tiêu thụ lúa ổn định cho thành viên.
Theo đánh giá của UBND huyện Gò Công Tây, việc liên kết giúp thành viên HTX sản xuất, tiêu thụ được ổn định, giảm chi phí sản xuất và nâng cao được thu nhập. Việc tham gia mô hình liên kết hạn chế được tình trạng ép giá trong tiêu thụ, sản phẩm nông nghiệp làm ra được các doanh nghiệp bao tiêu thu mua, nâng cao thu nhập cho nông dân tham gia liên kết (cây lúa từ 2,4 - 3,4 triệu đồng/ha, rau màu từ 30 - 45 triệu/ha và bưởi 25 - 40 triệu đồng/ha/năm từ việc mua chung bán chung làm giảm chi phí đầu vào như giống 500 - 1.000 đồng/kg, phân bón từ 1.000 - 1.500 đồng/kg, giá bán sản phẩm cao hơn ngoài thị trường từ 200 - 300 đồng/kg lúa, rau màu 500 - 2.000 đồng/kg, bưởi 3.000 đồng/kg tùy thời điểm). Từ đó, các HTX tạo ra các sản phẩm sạch, an toàn, có nguồn gốc rõ ràng cho người tiêu dùng, tạo việc làm cho người lao động, góp phần phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
TĂNG CƯỜNG KẾT NỐI GIỮA NÔNG DÂN VỚI DOANH NGHIỆP
Theo UBND huyện, bên cạnh những kết quả đạt được, việc liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản vẫn còn một số khó khăn như: Sự bất cập, không thống nhất trong các quy định từ Trung ương gây khó khăn trong triển khai thực hiện chính sách.
Chính sách hỗ trợ hạ tầng phục vụ liên kết có tỷ lệ đối ứng cao (70%) nên nhiều doanh nghiệp/HTX chưa mặn mà, còn e ngại hoặc không có khả năng đối ứng. Việc đầu tư hạ tầng chủ yếu sử dụng vốn đầu tư phát triển chưa được quy định cụ thể ở Trung ương về trình tự thực hiện hỗ trợ như thế nào...
Chi cục trưởng Chi cục Chất lượng và Phát triển nông thôn tỉnh Nguyễn Minh Hiếu cho rằng, trong thời gian tới, UBND huyện tiếp tục bám sát kế hoạch, chỉ đạo của UBND tỉnh về liên kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2021 - 2025.
Đồng thời, tăng cường công tác tuyên truyền chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp để cho cán bộ cơ sở và người dân hiểu rõ ý nghĩa, lợi ích lâu dài của việc liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ, nâng cao nhận thức về tinh thần hợp tác.
Đối với tổ chức sản xuất, cần tiếp tục triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ HTX nông nghiệp để nâng cao năng lực trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, kết nối giữa nông dân với doanh nghiệp trong liên kết tiêu thụ sản phẩm nông sản.
Mới đây, phát biểu kết luận tại Hội nghị tổng kết thực hiện Nghị quyết 07, Phó Chủ tịch UBND huyện Lê Văn Nê đề nghị, ngành Nông nghiệp huyện tiếp tục tham mưu để cấp trên có sự quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng, chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật, ứng dụng công nghệ cao cho cánh đồng liên kết sản xuất, đặc biệt là thiết kế lại đồng ruộng để thuận lợi cho cơ giới hóa, hoàn thiện thủy lợi nội đồng, trạm bơm điện, nâng cấp giao thông, hỗ trợ nông dân mua máy móc thiết bị phục vụ sản xuất, thu hoạch.
Bên cạnh đó, huyện tiếp tục triển khai các chính sách hỗ trợ theo Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) cho các sản phẩm có tham gia liên kết như: Trưng bày, quảng bá sản phẩm, hỗ trợ tham gia hoạt động số hóa, chống giả và quảng bá sản phẩm OCOP…
Bên cạnh đó là thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả việc triển khai các dự án/kế hoạch liên kết đang thực hiện để đạt mục tiêu kế hoạch đã đề ra; tiếp tục tuyên truyền, hướng dẫn quy trình sản xuất, quản lý sâu bệnh theo hướng an toàn, sinh học, ghi chép nhật ký sản xuất và tiến hành bao trái đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo yêu cầu của nước nhập khẩu.
Đồng thời, khuyến khích mở rộng, liên kết sản xuất theo hướng tập trung chuyên canh tạo vùng sản xuất cung cấp hàng hóa lớn đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp nhập khẩu và chế biến.
QUẾ ANH - KIM LAN
Gỡ 'nút thắt' về đất đai để hợp tác xã phát triển bền vững
Hiện nay, do thiếu quỹ đất sản xuất nên nhiều hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đang rơi vào tình trạng sản xuất không liên tục, việc áp dụng các mô hình sản xuất tiên tiến gặp khó khăn. Bởi thế, nhiều hợp tác xã mong sớm được tháo gỡ khó khăn về đất để phát triển bền vững.
Thiếu quỹ đất đang là “rào cản” lớn đối với Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Lương Phú trong việc triển khai sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ.
Trong những năm qua, phong trào phát triển hợp tác xã (HTX) nông nghiệp trên địa bàn tỉnh có những bước tiến đáng ghi nhận. Số lượng HTX không ngừng tăng lên, chất lượng hoạt động của nhiều HTX ngày càng được cải thiện.
Các HTX đã khẳng định vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao thu nhập cho thành viên, người lao động, đồng thời tạo ra nhiều sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, đạt OCOP.
Nhưng bên cạnh những tín hiệu tích cực nêu trên, thực tế cho thấy vẫn còn không ít HTX hoạt động chưa hiệu quả. Trong đó, nguyên nhân cốt lõi là do HTX thiếu quỹ đất để sản xuất ổn định, lâu dài.
HTX dịch vụ nông nghiệp Lương Phú (xã Lương Phú, Phú Bình) thành lập năm 2017, với 7 thành viên. Hằng năm, HTX liên kết với các hộ dân ở các xóm Phú Lương, Phú Mỹ và xóm Lân để trồng khoảng 3ha dưa chuột. Từ khi đi vào hoạt động đến nay, HTX đã góp phần bao tiêu phẩm dưa chuột của bà con, với giá ổn định.
Mặc dù vậy, hoạt động của HTX vẫn mang tính chất mùa vụ, chỉ sản xuất trong vụ đông. Điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến tính ổn định trong sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là việc nâng cao chất lượng sản phẩm của HTX.
Bà Âu Thị Phương Hà, Phó Giám đốc HTX, cho biết: Dù định hướng của HTX là tạo ra những sản phẩm rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ nhưng đến nay chưa thực hiện được. Việc sản xuất trên đất riêng lẻ, không liên tục trong năm, dẫn đến khó khăn trong việc kiểm soát chặt chẽ về điều kiện canh tác, nguồn nước, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật...
Không chỉ gặp khó trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, việc thiếu quỹ đất sản xuất tập trung còn khiến HTX khó trong triển khai các phương án cơ giới hóa, đầu tư hạ tầng để phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
Đơn cử như HTX dịch vụ nông nghiệp Nam Hòa (xã Nam Hòa, Đồng Hỷ), dù đã có nhiều năm hoạt động hiệu quả trong việc liên kết trong trồng một số loại rau ăn lá và ăn quả, nhưng HTX vẫn gặp khó khăn khi muốn ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất.
Ông Miêu Văn Long, Giám đốc HTX, chia sẻ: Sản xuất nông nghiệp công nghệ cao sẽ giúp HTX sản xuất liên tục trong năm, giảm phụ thuộc vào thời tiết, nâng cao năng suất và chất lượng nông sản. Tuy nhiên, sau 5 năm thành lập đến nay HTX vẫn chưa triển khai được. Việc đầu tư hệ thống nhà kính, nhà màng, hệ thống tưới tự động không thể triển khai được do đất canh tác nằm rải rác, thuộc quyền sử dụng của nhiều hộ.
Hiện nay, ngoài HTX dịch vụ nông nghiệp Lương Phú và HTX dịch vụ nông nghiệp Nam Hòa, trên địa bàn cũng có nhiều HTX đang trong tình trạng tương tự. Trước thực trạng này, các HTX mong muốn các ngành chức năng, chính quyền địa phương có cơ chế, chính sách hỗ trợ cụ thể, thiết thực. Trong đó có việc hỗ trợ để các HTX được tiếp cận nhiều hơn với các nguồn vốn vay ưu đãi, nhằm giúp HTX có điều kiện để thuê lại đất sản xuất lâu dài của người dân để phục vụ sản xuất của HTX.
Bà Vũ Thị Thu Hương, Phó Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh, cho biết: Chúng tôi ghi nhận nhiều HTX rất tâm huyết, có định hướng phát triển mô hình sản xuất sạch, bền vững. Chính vì thế, việc sớm tháo gỡ "bài toán" về đất đai sẽ giúp các HTX nâng tầm hoạt động, đưa sản phẩm nông nghiệp địa phương vào chuỗi giá trị cao hơn.
Tính đến hết năm 2024, trên địa bàn tỉnh có 541 HTX nông nghiệp (tăng 175 HTX so với năm 2020), với 32 nghìn thành viên, người lao động. Trong đó có khoảng 55% HTX hoạt động hiệu quả. Thu nhập bình quân của người lao động đạt từ 4 - 4,5 triệu đồng/người/tháng.
Vũ Công
Hiếu Giang tổng hợp