Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 14 tháng 6 năm 2024

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 14 tháng 6 năm 2024

 

Bắc Giang: Vải thiều Lục Ngạn giá bán tăng cao

 

Nguồn tin: Báo Bắc Giang

Hiện nay, vải thiều chính vụ đã được thu hoạch, giá bán tăng cao, vải u hồng từ 25.000 - 45.000 đồng/kg, vải lai Thanh Hà và vải thiều chính vụ từ 55.000 - 85.000 đồng/kg.

 

 

Nông dân xã Hồng Giang (Lục Ngạn) thu hoạch vải thiều.

Năm nay, tổng diện tích sản xuất vải thiều của huyện Lục Ngạn (Bắc Giang) là 17.360 ha, trong đó có 4 nghìn ha vải chín sớm và gần 13,4 nghìn ha áp dụng theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP; ước sản lượng quả tươi đạt 50 nghìn tấn. Tính đến ngày 11/6/2024, toàn huyện đã thu hoạch, tiêu thụ được hơn 25 nghìn tấn, đạt 50,06% kế hoạch. Trong đó, vải chín sớm gần 18,8 nghìn tấn; vải chính vụ đang cho thu hoạch được hơn 6,2 nghìn tấn.

Trên địa bàn có 32 điểm thu mua và có 28 thương nhân Trung Quốc đang hoạt động xúc tiến tiêu thụ vải thiều tại địa phương. Toàn huyện có 5 cơ sở sản xuất thùng xốp, hơn 30 cơ sở sản xuất nước đá phục vụ cho việc đóng gói xuất khẩu. Giá bán thùng xốp, nước đá công nghiệp, bao bì đóng gói ổn định, không có biến động.

Hiện đã xuất khẩu được gần 12 nghìn tấn vải thiều ra thị trường nước ngoài và tiêu thụ trong nước hơn 13,2 nghìn tấn. Giá vải u hồng từ 25 nghìn đồng - 45 nghìn đồng/kg; vải lai Thanh Hà và vải thiều chính vụ từ 55 nghìn đồng - 85 nghìn đồng/kg (được cập nhật ngày 11/6/2024).

Năm nay, địa phương tiếp tục tập trung chỉ đạo, hỗ trợ sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm vải thiều có chất lượng tốt nhất, đáp ứng tiêu chuẩn thị trường trong nước cũng như xuất khẩu. Công tác thu hoạch, tiêu thụ vải thiều trên địa bàn huyện đang diễn ra rất thuận lợi, giá bán cao, biến động theo ngày. Giao thông, vận chuyển vải thiều rất thuận lợi. An ninh trật tự liên quan đến tiêu thụ vải thiều trên địa bàn huyện được đảm bảo.

Để làm tốt công tác xúc tiến, tiêu thụ vải thiều, lãnh đạo UBND huyện Lục Ngạn cam kết đồng hành, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân, doanh nghiệp, thương nhân trong và ngoài nước tham gia thu hoạch, chế biến, tiêu thụ vải thiều./.

Nguyễn Miền

 

Tập trung phục hồi vườn sầu riêng sau hạn mặn

 

Nguồn tin: Báo Đồng Khởi

Cây sầu riêng tại tỉnh Bến Tre có giá trị kinh tế rất cao nhưng lại rất mẫn cảm với nước mặn nên người dân chăm sóc rất kỹ lưỡng nhằm tránh bị thiệt hại. Sau đợt hạn mặn vừa qua, người dân đang tất bật sử dụng các giải pháp kỹ thuật để phục hồi vườn cây sầu riêng có giá trị tiền tỷ của gia đình mình.

 

 

Nhà vườn tất bật phục hồi vườn sầu riêng để chuẩn bị xử lý ra hoa khi bắt đầu mùa mưa.

Thực hiện nhiều giải pháp

Khi những cơn mưa đầu mùa xuất hiện, gia đình ông Lê Văn Mảnh, ngụ ấp Trung Hiệp (xã Hưng Khánh Trung B, huyện Chợ Lách) lại tất bật chăm sóc 160 gốc sầu riêng được trồng trên diện tích 8.000m2 của gia đình. Hơn 30 năm trồng sầu riêng, gia đình ông nhiều lần bị thiệt hại nặng nề do hạn mặn. Ông Mảnh cho biết: “Tôi trồng sầu riêng từ năm 1998 đã phải chứng kiến nhiều phen sầu riêng chết do nước mặn. Trong đó, năm 2016 bị thiệt hại nặng nề nhất khi gần như toàn bộ vườn cây hàng chục năm tuổi bị nước mặn tấn công cháy lá rồi chết, phải tốn nhiều năm để trồng lại. Những năm sau đó, gia đình chuẩn bị rất kỹ lưỡng để trữ nước ngọt trong mùa hạn mặn rồi dự các lớp tập huấn cách chăm sóc giúp cây phục hồi sau hạn mặn”.

Sau khi mùa hạn mặn đi qua, gia đình ông Mảnh phải thuê nhân công tiến hành đào lớp đất xung quanh gốc rồi rải vôi đá nâng độ PH trong đất để phục hồi lại bộ rễ. Đồng thời, tưới dưỡng rễ, bón phân lân, phân hữu cơ… để giúp cây phục hồi. Theo ông Mảnh, trung bình 1 gốc sầu riêng phải tốn 500 ngàn đồng tiền thuê nhân công, phân bón để giúp cây phục hồi sau hạn mặn. Sau khi phục hồi khoảng vài tháng mới xử lý cho ra hoa cho vụ tiếp theo.

Những ngày này, ông Bùi Văn Chiến, ngụ xã Hưng Khánh Trung B (huyện Chợ Lách) cũng tất bật cùng 2 nhân công đào lớp đất quanh gần 100 gốc sầu riêng và bón phân giúp cây phục hồi. Ông Chiến cho biết: “Vùng này, gia đình nào trồng sầu riêng cũng lo đào đất, bón vôi, phân hữu cơ… để giúp cây phục hồi sau đợt hạn mặn vừa qua. Trước đó, người dân đã trữ nước đầy đủ nhưng thời tiết nắng nóng kéo dài rất khắc nghiệt nên một số cây sầu riêng cháy lá, kiệt sức. Vì vậy, nhà vườn phải có giải pháp nhanh chóng phục hồi khi mưa xuống, nếu không cây sẽ suy kiệt rồi chết dần. Mặc dù tốn rất nhiều chi phí nhưng vườn sầu riêng giá trị kinh tế rất cao nên người dân đầu tư, chăm sóc rất kỹ để mong cây sớm phục hồi, tiếp tục cho quả ở vụ kế tiếp”.

Chủ tịch Hội Nông dân xã Hưng Khánh Trung B Đặng Văn Dũng cho biết: “Trên địa bàn xã có 105ha sầu riêng, trong đó khoảng 90ha đang cho quả. Trong đợt hạn mặn vừa qua, nhờ chuẩn bị tốt từ việc trữ nước ở các công trình cống đập, các mương vườn, các dụng cụ chứa nước… nên thiệt hại đối với cây sầu riêng không đáng kể. Tuy nhiên, thời tiết khắc nghiệt do nắng nóng kéo dài nên một số vườn cây xuất hiện tình trạng cháy lá, mất sức, một số cây chết. Hiện tại, người dân đang sử dụng nhiều giải pháp phục hồi vườn cây để chuẩn bị cho quả”.

Xử lý cho ra quả và thu hoạch “né” mặn

Tại vùng sản xuất sầu riêng xã Tân Phú (huyện Châu Thành), người dân đang tập trung chăm sóc sầu riêng để chuẩn bị cho cây ra quả khi vào mùa mưa. Bà Cao Thị Chiên, trồng 0,8ha sầu riêng tại xã Tân Phú cho biết: “Dự báo hạn mặn năm nay khốc liệt nên người dân đã xử lý cho ra quả, thu hoạch trước khi mặn xâm nhập để cây không bị mất sức. Sau đó, nhà vườn trữ nước ngọt trong mương vườn tưới sầu riêng trong suốt mùa hạn mặn để bảo vệ vườn cây có giá trị rất cao của mình. Khi mưa xuống, nhà vườn bắt đầu tập trung xử lý làm đất, bón phân mới giúp cây nhanh chóng phục hồi. Đây là loại cây có giá trị kinh tế rất cao, một số nhà vườn có thể thu về tiền tỷ sau 1 vụ thu hoạch nhưng phải chăm sóc, xử lý kỹ thuật công phu mới cho ra quả như mong muốn”.

Phó trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Chợ Lách Trần Hữu Nghị cho biết: Trên địa bàn huyện có khoảng 1.300ha sầu riêng, tập trung chủ yếu ở các xã Hòa Nghĩa, Phú Phụng, Long Thới, Sơn Định, Hưng Khánh Trung B, Tân Thiềng… Ngành nông nghiệp thường xuyên tập huấn nên nông dân nắm rất vững kỹ thuật trồng, xử lý sau hạn mặn, cho ra quả vụ nghịch… Hiện tại, nông dân đang tập trung chăm sóc để phục hồi cây sầu riêng sau đợt hạn mặn vừa qua.

Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện tại toàn tỉnh có 2.760ha diện tích trồng sầu riêng, diện tích cho quả 1.935ha, được trồng chủ yếu tại huyện Chợ Lách và Châu Thành. Nông dân trong tỉnh chủ yếu trồng 2 giống sầu riêng Ri6 và Dona đạt hiệu quả khá cao với sản lượng bình quân khoảng 24.198 tấn. Đến nay, toàn tỉnh đã xây dựng được 15 mã số vùng trồng với diện tích 443ha sầu riêng phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu.

Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Huỳnh Quang Đức cho biết: Sau đợt hạn mặn vừa qua, ngành nông nghiệp đang tập trung hướng dẫn nông dân thực hiện các giải pháp phục hồi vườn cây ăn quả như: sầu riêng, bưởi da xanh, ca cao, chanh… Trong đó, cây sầu riêng có giá trị kinh tế cao nên được nông dân chăm sóc rất kỹ. Trong thời gian qua, một số vùng trồng sầu riêng tại huyện Chợ Lách, Châu Thành, nông dân sử dụng kỹ thuật xử lý cho quả sớm trước khi nước mặn xâm nhập để “né” mặn. Khi đó, nước mặn xâm nhập sâu vào các vườn thì sử dụng các giải pháp công trình bằng các hệ thống cống ngăn mặn kết hợp trữ nước trong mương vườn, các dụng cụ chứa nước để phục vụ tưới cho vườn cây. Khi mưa xuống, nông dân tập trung các giải pháp để phục hồi giúp cây phát triển.

“Hiện tại, ngành nông nghiệp tỉnh đang tập trung phát triển cây sầu riêng theo hướng nâng cao chất lượng bằng việc thống nhất quy trình canh tác theo tiêu chuẩn an toàn thực phẩm GAP hoặc tương đương và sản xuất theo chuỗi giá trị, liên kết để có vùng nguyên liệu lớn. Đồng thời, thay đổi tập quán sản xuất bằng sử dụng các giải pháp kỹ thuật nhằm thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn ngày càng gay gắt như hiện nay”. (Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Huỳnh Quang Đức)

Bài, ảnh: Thành Châu

 

Vụ sầu riêng 2024: Coi chừng nguy cơ ‘phá vỡ’ quy hoạch vùng trồng

 

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Tính đến tháng 5/2024, Đắk Lắk có hơn 32.000 ha sầu riêng, vượt xa con số thống kê giữa năm 2023 là 22.458 ha, giữ vị trí là tỉnh trồng sầu riêng lớn nhất cả nước. Vậy sản lượng sầu riêng thời gian tới có vượt quá năng lực tổ chức tiêu thụ của ngành nông nghiệp địa phương, và qua đó, giá sầu riêng có thật sự được giữ vững như mong đợi của nông dân?

Thực trạng cần kiểm soát

Ông Vũ Đức Côn, Chủ tịch Hiệp hội Sầu riêng Đắk Lắk tỏ ra e ngại trước con số diện tích và sản lượng vùng trồng gia tăng nhanh chóng. Nếu không có sự đánh giá, kiểm soát, bảo đảm cân đối sản xuất và thu hoạch, nhất là vấn đề canh tác của nông dân, sẽ dẫn đến nhiều nguy cơ.

Trước ông Vũ Đức Côn, một số chuyên gia Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khi làm việc với Đắk Lắk và các tỉnh Tây Nguyên cũng từng đưa ra cảnh báo nguy hiểm khi các vùng trồng chuyên canh tự phát bùng nổ, không chỉ với sầu riêng. Song với loại trái cây này, ba năm qua, Đắk Lắk lẫn vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã ghi nhận những đột biến đầu tư cần lưu ý. Theo đó, các chuyên gia nhắc nhở ba vấn đề gắn với thực trạng vùng trồng nên có kiểm soát.

Thứ nhất, diện tích sầu riêng tăng nhanh, đồng nghĩa với diện tích một số loại cây trồng khác giảm. Điều này làm phá vỡ quy hoạch chung về nông nghiệp vùng, các sở, ngành quản lý cùng bộ chuyên môn cần rà soát lại. Ở đây, phải cân đối thực tiễn dư địa phù hợp cây sầu riêng, cùng các quy trình khoa học hướng dẫn chăm trồng có ổn không. Có một số khu vực, tính chất khí hậu, thổ nhưỡng không hợp với cây sầu riêng, nếu nông dân cứ chăm trồng theo xu hướng, sẽ chỉ có bất lợi. Các khảo sát khoa học nên được tổ chức để ngay từ lúc này có thể cản ngăn xu thế thay đổi cây trồng một cách cảm tính ở nông dân.

 

 

Nông dân huyện Krông Pắc chăm sóc sầu riêng chuẩn bị thu hoạch. Ảnh: Nguyễn Gia

Thứ hai, sản lượng sầu riêng tăng luôn gắn với nguy cơ “được mùa mất giá” đã xảy ra bao năm rồi. Một khi con số thu hoạch ở mỗi vùng trồng vượt quá năng lực tổ chức kinh doanh, xuất khẩu… từ các tổ chức, doanh nghiệp, thị trường sẽ rất dễ rơi vào vòng thao túng của các đầu nậu, thương lái, từ đó gây bất ổn về hoạch định kinh tế bền vững cho ngành sản xuất. Phải có được kế hoạch căn cơ về định mức sản lượng hằng năm, thông qua các hiệp định thư và hợp đồng ổn định ở nhóm doanh nghiệp đầu tư, và dự đoán nhu cầu tiêu thụ trong nước hợp lý, thì mới có được chương trình vận động người nông dân chăm trồng tốt.

Thứ ba, cần lưu ý, từ mã vùng sản xuất, mã kho đóng gói, tiêu chuẩn xuất khẩu cho đến quy trình canh tác, thu hoạch, bảo quản… hiện nay, sự ảnh hưởng của các quốc gia nhập khẩu nông sản, các quy chuẩn chung quốc tế là rất lớn. Các quốc gia như Thái Lan đã buộc phải kiểm soát rất chặt việc canh tác của người nông dân bản địa, cấm thu hoạch sớm, cấm sử dụng các chất thúc dưỡng… đều biểu hiện tính nghiêm túc tuân thủ chung này. Cho nên, cần kiểm soát chặt chẽ chính năng lực và ý thức canh tác của người nông dân chúng ta hiện nay.

Cần “định tâm” cho người nông dân

Cùng chung ý kiến với những cảnh báo trên, ông Vũ Đức Côn cho rằng, thế mạnh sầu riêng của Đắk Lắk phải chú ý nguy cơ mất kiểm soát nếu cứ làm ồ ạt như hiện nay. Ông nhấn mạnh, cần phải điều tiết được sản xuất của người nông dân, tăng cường được hiệu quả hợp tác giữa nông dân sản xuất với doanh nghiệp kinh doanh, từ đó có cơ sở quy hoạch và quản lý quy hoạch vùng trồng, cây trồng hợp lý.

Thời gian qua, thông tin tích cực về cơ hội xuất khẩu, mức giá bán sầu riêng tăng đã ảnh hưởng tích cực đến nông dân. Song nếu người nông dân không được hướng dẫn, kiềm chế tình trạng đốn bỏ các cây trồng khác để ưu tiên trồng sầu riêng, rồi bỏ qua các cảnh báo khi canh tác, thì sự phát triển vùng sẽ phát sinh vấn đề. Một khi sầu riêng thu hoạch có chất lượng kém, dẫn đến những quan hệ kinh doanh bất ổn, vi phạm các hợp đồng bền vững…, bị thị trường chấm điểm xấu, cơ hội tiêu thụ sẽ bị mất.

Cho nên, ngành nông nghiệp Đắk Lắk đang cần có sự chung tay tổng lực của các ngành, các cấp quản lý, nhất là các hiệp hội, tổ chức nghề, trong định dạng lại năng lực canh tác, quản lý quy hoạch, hướng dẫn thu hoạch cho người nông dân. Đơn cử tỷ lệ 80% thu hoạch chính vụ, 20% thu hoạch trái vụ, ở trong hoạch định phát triển vùng sầu riêng của tỉnh đã được ngành đề ra từ lâu, nhưng đến nay việc thực thi vẫn chưa được tuân thủ.

Hiện đã bắt đầu vào vụ sầu riêng 2024. Phần đông nông dân đang hào hứng trước những dữ liệu sôi động từ thị trường. Nên chính lúc này, sự can thiệp, vận động của các cơ quan chức năng, để kiểm soát tình hình, định liệu các nguy cơ về giá cả có thể sụt giảm, yêu cầu chất lượng xuất khẩu nên tăng lên… để giúp người nông dân “định tâm” là cần thiết.

Những chấn chỉnh này còn phải tính đến tầm nhìn xa, trong vòng 3 – 4 năm tới, khi diện tích vùng trồng vẫn tăng và sản lượng dư sau thu hoạch vẫn lớn, người nông dân cần hợp tác kiềm chế tốc độ phát triển ra sao. Cộng đồng các doanh nghiệp đầu tư, nhất là các đơn vị chế biến chuyên sâu, sản xuất hàng thực phẩm tinh chế từ nông sản cũng phải được cân đối, tạo điều kiện hỗ trợ như thế nào.

Nên chăng, Đắk Lắk cần củng cố lại chính nội tại hoạt động canh tác sầu riêng ở các vùng trồng cụ thể, tổ chức lại mạng lưới thu hoạch bảo quản nông sản, và thu hút thêm lượng doanh nghiệp chế biến chuyên sâu, mới có thể bảo đảm sự đầu tư hiệu quả cho địa phương, và cho người nông dân!

Nguyên Đức

 

Xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường tiêu thụ trái bơ Lâm Đồng

 

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Theo thống kê thu thập được trong 5 năm trở lại đây, giá bơ các loại có xu hướng giảm qua từng năm. Từ trung bình 53.000 đồng/kg năm 2019 xuống còn trung bình 15.000 đồng/kg vào năm 2023. Đặc biệt, có thời điểm chính vụ, giá bơ chỉ còn khoảng 5.000-7.000 đồng/kg, điều này đã và đang đặt ra nhiều khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản, kinh doanh sản phẩm bơ trên địa bàn tỉnh.

 

 

Trong 5 năm trở lại đây, giá bơ các loại có xu hướng giảm qua từng năm khiến người nông dân vô cùng lo lắng

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), Lâm Đồng là vùng đất thích hợp cho cây bơ sinh trưởng phát triển. Hiện nay, tổng diện tích bơ trên địa bàn tỉnh đạt 8.067 ha; trong đó, có sự phân bố rõ ràng của các loại giống bơ và hướng trồng khác nhau.

Cụ thể, bơ 034 chiếm tỷ lệ lớn nhất với 6,557 ha (81,3%), tập trung chủ yếu ở các huyện như Di Linh (2.782 ha), Bảo Lâm (2.371 ha), Lâm Hà (440 ha), Bảo Lộc (418 ha) và Đức Trọng (390 ha); bơ booth có diện tích trồng khoảng 900 ha (11,2%), chủ yếu tập trung ở các huyện như Lâm Hà (530 ha), Đức Trọng (110 ha) và Đà Lạt (95,2 ha); các loại bơ khác chiếm 610 ha (7.5%).

Đa số diện tích trồng bơ trên địa bàn tỉnh được trồng theo hướng xen canh chiếm 87%, trong khi diện tích trồng thuần chỉ chiếm 13%. Điều này cũng là nguyên nhân dẫn đến một số hạn chế về năng suất và chất lượng sản phẩm do tâm lý ngại chuyển đổi của bà con Nhân dân.

Bà Nguyễn Thùy Quý Tú - Chi cục trưởng Chi cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản tỉnh đánh giá, Lâm Đồng là địa phương có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển cây bơ. Nông dân có nhiều kinh nghiệm trong kỹ thuật canh tác, mạnh dạn đầu tư, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất; sản lượng bơ chủ yếu là bơ 034, là loại bơ có chất lượng, thương hiệu, đặc trưng của tỉnh Lâm Đồng nên được người tiêu dùng ưa chuộng. Bên cạnh đó, thời điểm chính vụ của bơ trên địa bàn Lâm Đồng kéo dài từ tháng 4 đến tháng 11, với sự đa dạng các chủng loại bơ. Đây là điều kiện thuận lợi, điểm mạnh cho việc cung ứng bơ ra thị trường so với các địa phương khác trong cả nước (thời điểm chín vụ ngắn hơn, thường tháng 6 đến tháng 8).

Tuy nhiên, theo thống kê thu thập được trong 5 năm trở lại đây, giá bơ các loại có xu hướng giảm qua từng năm. Từ trung bình 53.000 đồng/kg năm 2019 xuống còn trung bình 15.000 đồng/kg vào năm 2023. Mức độ chênh lệch giá đầu mùa, giữa mùa và cuối mùa ngày càng mạnh. Mặt khác, dù sản lượng bơ trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đạt mức khoảng 79,961 tấn/năm, nhưng hiện nay trên địa bàn tỉnh chỉ có 4 công ty chuyên sơ chế và chế biến bơ là Công ty TNHH Blaofood (Bảo Lộc), Công ty CP Hikari Đà Lạt (Đức Trọng), Công ty TNHH SX TM XNK Thuận Thành (Đức Trọng) và Công ty TNHH Nông sản Văn Phương (Đức Trọng).

Trong đó, Công ty TNHH Nông sản Văn Phương có quy mô thu mua, sơ chế và chế biến đạt 600 tấn/năm, tập trung vào tiêu thụ trong các tỉnh, thành trong cả nước. Các Công ty TNHH Blaofood, Công ty CP Hikari Đà Lạt mới bước vào cấp đông bơ trong năm 2023 với sản lượng sơ chế và chế biến đạt 40 tấn/năm/đơn vị, chủ yếu xuất khẩu vào các thị trường như Hoa Kỳ, châu Âu, Hàn Quốc và Trung Quốc. Năm nay, dự kiến sản lượng bơ cấp đông của Công ty TNHH Blaofood đạt khoảng 1.000 - 2.000 tấn/năm và Công ty TNHH SX TM XNK Thuận Thành đạt khoảng 300 - 400 tấn/năm.

Ngoài ra, theo thống kê của các địa phương, hiện nay có 80 cơ sở thu mua nhỏ lẻ trên địa bàn các huyện, khả năng thu mua gần 13.000 tấn/năm, tập trung chủ yếu thị trường nội địa, một số cơ sở thu mua xuất khẩu theo đường tiểu ngạch sang Thái Lan và Campuchia. Số lượng bơ còn lại hầu như được tiêu thụ thông qua các thương lái tự do từ các tỉnh, thành lân cận và các hộ nông dân tự bán thông qua các kênh bán truyền thống và bán online trên các nền tảng xã hội. Bơ của tỉnh Lâm Đồng chủ yếu bán trái tươi, một phần nhỏ được cấp đông, các sản phẩm khác từ trái bơ hầu như chưa được khai thác (dầu, sấy, bột bơ…).

Theo bà Nguyễn Thùy Quý Tú, để giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản, kinh doanh sản phẩm bơ nhằm phát triển bền vững cây bơ gắn với tiêu thụ ổn định các sản phẩm bơ trên địa bàn tỉnh, Sở NN&PTNT tỉnh Lâm Đồng đang tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động quảng bá sản phẩm, xúc tiến thương mại để tiếp cận, giới thiệu sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ cả trong và ngoài nước, đặc biệt là những thị trường đã biết đến trái bơ của tỉnh như Thái Lan, Campuchia, Nhật,…

Mặt khác, Sở NN&PTNT tỉnh cũng đang tập trung tuyên truyền, khuyến cáo người dân sản xuất theo định hướng, kế hoạch, không sản xuất tự phát nhằm ổn định diện tích sản xuất bơ để sản lượng bơ cung cấp cho thị trường ổn định hơn, tránh tình trạng sản phẩm cung vượt quá cầu ảnh hưởng đến đầu ra cũng như giá cả sản phẩm. Đồng thời, đảm bảo ổn định được nguồn nguyên liệu cho chế biến, xuất khẩu; hình thành các vùng bơ chuyên canh, sản xuất theo đúng quy trình, kỹ thuật, theo các quy trình quản lý chất lượng đồng bộ nhằm kiểm soát tốt sâu bệnh hại, tạo ra sản phẩm có chất lượng, đồng đều, đặc biệt thu hái đúng độ tuổi, tuyệt đối không thu hái bơ non, kém chất lượng. Nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng các biện pháp kỹ thuật kéo giãn vụ bơ, bơ trái vụ… để nâng cao giá trị trái bơ, giảm áp lực mùa vụ.

HOÀNG SA

 

Bình Định: Giá tiêu tăng cao, người trồng tiêu ở An Lão phấn khởi

 

Nguồn tin: Báo Bình Định

Sau nhiều năm giá hồ tiêu giảm mạnh, từ đầu năm 2024 đến nay, thị trường hồ tiêu bắt đầu phục hồi. Nông dân huyện An Lão (Bình Định) đang tất bật bước vào cao điểm vụ thu hoạch hồ tiêu với tâm trạng vui mừng, phấn khởi.

Bước vào vụ tiêu năm nay, gia đình anh Bùi Văn Định, ở thôn Thanh Sơn, xã An Tân thuê 4 nhân công thu hoạch tiêu. Anh Định cho biết: Nếu như vào thời điểm này của năm ngoái, giá hồ tiêu trên thị trường chỉ dao động từ 65.000 -70.000 đồng/kg, thì năm nay đã vượt qua ngưỡng 100 nghìn đồng/kg; hiện đang dao động ở mức từ 140 - 150 nghìn đồng/kg. Gia đình tôi có 500 trụ tiêu đã trồng được hơn 10 năm, hiện đã thu hoạch được khoảng 900 kg tiêu khô, dự kiến thu lợi nhuận hơn 150 triệu đồng.

 

 

Người trồng hồ tiêu trên địa bàn huyện An Lão đang tập trung nhân lực cho việc thu hoạch. Ảnh: D.T.D

Tương tự, với gần 400 trụ tiêu đang cho thu hoạch, bà Nguyễn Thị Lan, ở thôn Vạn Xuân, xã An Hòa, chia sẻ: Mấy năm qua tiêu rớt giá nhưng gia đình vẫn chăm sóc vườn tiêu bình thường. Năm nay giá tiêu tăng cao nên gia đình rất phấn khởi. Dự kiến kết thúc đợt thu hoạch, gia đình tôi thu được hơn 120 triệu đồng từ bán tiêu.

Được biết, huyện An Lão có gần 20 ha hồ tiêu. Hiện nay bà con nông dân trên địa bàn huyện đang tập trung nhân lực, thuê mướn nhân công để thu hoạch hồ tiêu với năng suất bình quân ước đạt 3,5 tấn/ha.

Ông Lê Hoàng Hiền, Phó Chủ tịch Hội Nông dân huyện An Lão, cho biết: Dù hồ tiêu tăng giá nhưng các cấp Hội đẩy mạnh tuyên truyền, khuyến cáo bà con nông dân không ồ ạt mở rộng diện tích, nhằm tránh phá vỡ quy hoạch diện tích cây trồng trên địa bàn.

DIỆP THỊ DIỆU

 

Gia tiêu tăng vọt lên 180.000 đồng/kg

 

Nguồn tin: Báo Kiên Giang

Khoảng 3 ngày trở lại đây, giá tiêu đen loại xô tại các huyện trong tỉnh Kiên Giang được thương lái thu mua tại vườn với giá 180.000 đồng/kg, trong khi đầu năm 2024, giá mặt hàng này chỉ ở mức 95.000-100.000 đồng/kg.

Ông Nguyễn Văn Màu - Giám đốc Hợp tác xã nông dân trồng tiêu Hòa Phú, xã Ngọc Hòa, huyện Giồng Riềng cho biết, giá tiêu tăng từng ngày. Hiện giá tiêu đen xô thành viên hợp tác xã bán ra với giá 180.000 đồng/kg, trong khi trước đó 3 ngày còn ở mức 150.000-160.000 đồng/kg.

"Tiêu chín phơi khô hiện có giá 300.000 đồng/kg. Đa số bà con bán khi giá tiêu tăng từ 75.000 đồng/kg lên 100.000 đồng/kg. Hiện trong hợp tác xã chỉ còn vài hộ còn tiêu trữ lại, hầu hết diện tích hồ tiêu đang ở giai đoạn xử lý ra hoa niên vụ mới, phải 7-8 tháng nữa mới có thu hoạch”, ông Màu nói.

Hợp tác xã nông dân trồng tiêu Hòa Phú có 29ha hồ tiêu của 32 hộ thành viên, giảm 23ha so khi mới thành lập năm 2015. Nguyên nhân giảm diện tích do giá tiêu liên tục giảm mạnh, nhà vườn bỏ tiêu sang trồng sầu riêng, cây ăn trái khác.

Mặt khác, nhiều diện tích tiêu nhiễm bệnh chết dây không có thuốc đặc trị. Với đà tăng giá liên tục như hiện nay, nhiều nhà vườn kỳ vọng giá tiêu sẽ trở lại đạt mức đỉnh điểm như năm 2015 với giá 230.000 đồng/kg.

 

 

Thời điểm này đa số diện tích hồ tiêu trong tỉnh Kiên Giang đang được xử lý ra hoa cho niên vụ mới.

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Kiên Giang, hiện toàn tỉnh có khoảng 970ha tiêu, tập trung tại Phú Quốc, Giồng Riềng, Gò Quao, Kiên Hải, TP. Hà Tiên, năng suất bình quân đạt 2,37 tấn, sản lượng hơn 1.900 tấn/năm.

Chủ tịch Hiệp hội hồ tiêu Việt Nam Hoàng Thị Liên cho biết, Việt Nam, Indonesia và Brazil dự báo đều giảm sản lượng mùa vụ vì ảnh hưởng bởi El Nino. Trong khi đó, ngoài Mỹ, các thị trường Pakistan, Đức, Hàn Quốc, Ấn Độ nhu cầu dự trữ cao.

Ngành tiêu Việt Nam chiếm 40% sản lượng và chiếm 60% thị phần thế giới. Tính hết năm 2023, Mỹ là khách hàng lớn nhất của Việt Nam khi chiếm tới 23,5% trong tổng giá trị xuất khẩu mặt hàng này. Đứng thứ 2 là Trung Quốc, chiếm 14,1%; tiếp sau là Ấn Độ và Đức lần lượt chiếm 5,4% và 4,3% trong tổng giá trị xuất khẩu tiêu.

Tin và ảnh: BÍCH LINH

 

Gia tăng giá trị cho cây cà-phê

 

Nguồn tin: Nhân Dân

Là một trong những cây công nghiệp chủ lực của Việt Nam, những năm qua, cây cà-phê đã tạo việc làm và bảo đảm thu nhập ổn định cho nông dân nhiều địa phương. Hiện nay, các địa phương và người dân đang đẩy mạnh ứng dụng khoa học-kỹ thuật vào sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm chất lượng phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu để nâng cao giá trị loại cây trồng này.

 

 

(Ảnh minh họa: Nguyễn Công Lý)

Phó Cục trưởng Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) Nguyễn Quốc Mạnh cho biết: Hết năm 2023, diện tích cây cà-phê trên địa bàn cả nước đạt 715.300ha, tăng 6.300ha, sản lượng cà-phê nhân 1,89 triệu tấn.

Cây cà-phê đã và đang là cây trồng chủ lực của nhiều địa phương, tạo việc làm ổn định cho hơn một triệu lao động thường xuyên.

Bên cạnh đó, sản phẩm cà-phê của Việt Nam cũng đang từng bước khẳng định được thương hiệu, giá trị thông qua việc xuất khẩu đến nhiều thị trường. Năm 2023, xuất khẩu cà-phê Việt Nam ra thị trường thế giới đạt 1,623 triệu tấn, kim ngạch đạt 4,24 tỷ USD, mức cao nhất trong hơn một thập kỷ trở lại đây.

Nhằm phát triển bền vững và nâng cao giá trị cây cà-phê, nhiều địa phương đã xây dựng những vùng sản xuất ứng dụng công nghệ cao, trong đó áp dụng các công nghệ sử dụng giống mới, tưới nước tiết kiệm kết hợp bón phân, đo lượng đường trong cà-phê chín, ứng dụng hệ thống giám sát thời tiết tự động qua internet để truy cập dữ liệu phục vụ cho sản xuất.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp kinh doanh, chế biến và người dân cũng chú trọng liên kết sản xuất nhằm bảo đảm thu nhập và đầu ra sản phẩm ổn định. Mặt khác, thông qua liên kết, nông dân được chuyển giao và áp dụng khoa học-công nghệ, nâng cao trình độ sản xuất cà-phê.

Tỉnh Ðắk Lắk có diện tích trồng cà-phê là 212.000ha cho nên những năm qua tỉnh xác định đây là cây trồng chủ lực.

Hiện nay, cây cà-phê đang được giá, giúp thu nhập của người dân tăng lên. Ông Phạm Ðình Tương, ở thành phố Buôn Ma Thuột (Ðắk Lắk) phấn khởi cho biết: "Gia đình tôi hiện đang trồng khoảng 800 cây cà-phê, đến nay cây đã được 5 năm và đang cho thu hoạch. Thời gian trước, giá bán khoảng 65.000 đồng/kg, nhưng hiện nay tăng lên 106.000 đồng/kg. Với năng suất đạt khoảng bốn tấn cà-phê nhân trong vụ thu hoạch này, gia đình tôi có thu nhập hàng trăm triệu đồng".

Xác định cà-phê là một trong những cây trồng chủ lực, thời gian qua người dân trên địa bàn huyện Ea H’leo (Ðắk Lắk) đã chủ động ứng dụng công nghệ vào sản xuất; đẩy mạnh sản xuất theo hướng VietGAP, hữu cơ… nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị cây trồng này. Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Ea H’leo Phạm Văn Khôi cho biết: Ðến nay, toàn huyện có hơn 30.000 ha trồng cà-phê với năng suất bình quân đạt khoảng 3,5 tấn cà-phê/ha, giá trị thu được trung bình là 270 triệu đồng/ha. Ðể phát triển bền vững cây cà-phê, huyện khuyến cáo người dân giữ ổn định diện tích trồng như hiện nay; tập trung tái canh những diện tích cà-phê già cỗi từ 30-35%".

Nhằm thúc đẩy sản xuất cà-phê bền vững, sản xuất có trách nhiệm, cải thiện và nâng cao thu nhập cho người trồng, năm 2020, huyện Ea H’leo triển khai dự án thí điểm mô hình cung ứng dịch vụ nông nghiệp cho phát triển cà-phê bền vững tại xã Ea Hiao quy mô 4.360 ha với 3.633 hộ tham gia.

Sau một thời gian triển khai, đến cuối năm 2023 dự án đã tập huấn cho 14.563 lượt nông dân với các chủ đề: Sản xuất bền vững, có trách nhiệm, kỹ thuật tái canh, trồng xen canh, chế biến cà-phê đặc sản, chất lượng cao… Ðồng thời, dự án cũng hỗ trợ một phần cây giống và người dân tự tái canh khoảng 550 ha, 71.000 cây trồng xen các loại; lắp đặt năm mô hình tưới nước tiết kiệm và 150 đồng hồ đo nhằm kiểm soát lượng nước tưới.

Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị Hợp tác xã Sản xuất, thương mại và dịch vụ nông nghiệp Macca Ea H’leo (xã Ea Hiao) Nguyễn Văn Bình cho biết: "Hiện nay, các thành viên trong Hợp tác xã trồng 50 ha cây cà-phê. Do cây cà-phê phù hợp với điều kiện đất đai, khí hậu và kỹ thuật canh tác tốt của nông dân cho nên năng suất đạt khá cao. Qua thống kê, bình quân mỗi ha cà-phê trong niên vụ này đạt khoảng 3,2 tấn cà-phê nhân, cá biệt có những hộ đầu tư, chăm sóc tốt đạt 4 tấn/ha. Với giá bán như hiện nay, trung bình đạt 440 triệu đồng/ha/vụ và nếu trồng cà-phê chất lượng cao giá trị tăng thêm 70 triệu đồng/ha".

Theo Trung tâm Khuyến nông và Giống nông, lâm nghiệp tỉnh Ðắk Nông, hiện nay trên địa bàn có bốn cây trồng chủ lực gồm: Cà-phê, hồ tiêu, điều và cao-su. Riêng cây cà-phê với diện tích 140.000 ha, sản lượng đạt 240.000 tấn/năm; hàng năm kim ngạch xuất khẩu cà-phê đạt hơn 400 triệu USD, tạo việc làm cho 105.000 lao động.

Nhằm góp phần thay đổi tập quán canh tác cà-phê theo tập quán cũ sang sản xuất bền vững, có trách nhiệm và được liên kết tiêu thụ sản phẩm, từ năm 2021-2023 Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên phối hợp Trung tâm Khuyến nông và Giống nông, lâm nghiệp tỉnh Ðắk Nông triển khai xây dựng mô hình sản xuất cà-phê theo hướng hữu cơ có truy xuất nguồn gốc và liên kết theo chuỗi giá trị tại các xã Nâm Nung, Tân Thành, huyện Krông Nô quy mô 10 ha với 10 hộ tham gia.

Ðến nay, sau ba năm đã có kết quả tích cực, mở ra nhiều triển vọng cho ngành hàng cà-phê của tỉnh. Cây cà-phê sản xuất theo hướng hữu cơ sinh trưởng và phát triển tốt, đồng thời cải thiện được hệ sinh thái đất, bảo vệ môi trường và sức khỏe người dân.

Bên cạnh đó, sản phẩm cà-phê giá bán cao hơn thị trường cho nên hiệu quả kinh tế cao hơn từ 15-20% so với canh tác truyền thống.

Ðề án phát triển cây công nghiệp chủ lực đến năm 2030, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đưa ra mục tiêu đến năm 2030 sản lượng cà-phê nhân đạt từ 1,8-2 triệu tấn và định hướng diện tích cà-phê cả nước khoảng 640-660.000 ha. Trong đó, vùng Tây Nguyên khoảng 600.000 ha, còn lại 40-60.000 ha được trồng tại các tỉnh: Bình Phước, Ðồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Sơn La, Quảng Trị, Bình Thuận...

Theo đó, cà-phê vối chiếm khoảng 90-92%, cà-phê chè khoảng 8-10%. Nhằm thực hiện mục tiêu trên, các địa phương cần rà soát diện tích cà-phê trồng ở những nơi không thích hợp, năng suất thấp chuyển đổi sang cây trồng khác hiệu quả cao hơn; tiếp tục trồng tái canh, ghép cải tạo diện tích cà-phê già cỗi, năng suất thấp bằng các giống mới năng suất, chất lượng cao, kháng sâu bệnh...; phấn đấu đến năm 2030 có từ 80-90% diện tích cà-phê trồng mới được sử dụng giống đúng tiêu chuẩn; hơn 70% diện tích cà-phê được cấp mã số vùng trồng truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

Bên cạnh đó, các địa phương cũng cần phát triển vùng trồng cà-phê theo hướng cảnh quan; ở những nơi có điều kiện thuận lợi, kết hợp vùng trồng cà-phê với phát triển văn hóa, du lịch, dịch vụ...; khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nhà máy sử dụng công nghệ mới, hiện đại để chế biến cà-phê rang xay, hòa tan đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và thị trường quốc tế; nghiên cứu và phát triển công nghệ chế biến để tận dụng tối đa các phụ phẩm cà-phê…

NGUYÊN PHÚC

 

Hải Dương: Lễ hội lúa rươi hữu cơ Từ Kỳ năm 2024

 

Nguồn tin:  Cổng TTĐT tỉnh Hải Dương

Sáng 12/6, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hải Dương phối hợp huyện Tứ Kỳ tổ chức ngày hội lúa rươi hữu cơ năm 2024. Đây là năm thứ 3 sự kiện này được tổ chức.

Dự lễ hội có các đồng chí: Lê Minh Hoan, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Trần Đức Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương; Triệu Thế Hùng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh.

Vùng sản xuất nông nghiệp kết hợp khai thác rươi, cáy xã An Thanh rộng 137ha được chứng nhận đạt tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ Việt Nam năm 2022 và là vùng sản xuất hữu cơ được công nhận đầu tiên của tỉnh Hải Dương. Hiện nay, tổng diện tích sản xuất hữu cơ kết hợp khai thác rươi, cáy ở huyện Tứ Kỳ là 550ha. Sản lượng rươi hiện đạt 450 tấn/năm, cáy 200 tấn/năm; giá trị sản phẩm đạt từ 400-450 triệu đồng/ha/năm, cao gấp 8-10 lần so với thâm canh vô cơ; có 12 sản phẩm của vùng sản xuất hữu cơ kết hợp khai thác rươi, cáy được chứng nhận sản phẩm OCOP 3 sao.

Phát biểu tại ngày hội, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan đánh giá cao sáng kiến của Hải Dương trong việc tổ chức lễ hội. Đây là dịp để giới thiệu các sản phẩm nông nghiệp sạch, chất lượng cao, đồng thời truyền cảm hứng cho nông dân các vùng, miền trong cả nước về làm nông nghiệp hữu cơ, với tư duy và cách làm mới, nông thôn mới của địa phương sẽ ngày càng nâng cao và có nhiều sản phẩm nông nghiệp, đặc sản nông nghiệp được đón nhận.

Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương Trần Đức Thắng nhấn mạnh lễ hội lúa rươi hữu cơ vụ xuân năm 2024 của huyện Tứ Kỳ không chỉ mang đến cho người dân, du khách những trải nghiệm thú vị mà còn cổ vũ, động viên và ghi nhận sự đóng góp của ngành nông nghiệp với kinh tế địa phương và khu vực. Đây cũng là cơ hội tỉnh Hải Dương giới thiệu quảng bá sản phẩm lúa, rươi, đặc sản của tỉnh Hải Dương đã có từ bao đời nay.

Trong chương trình ngày hội lúa rươi hữu cơ Từ Kỳ, lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng lãnh đạo tỉnh Hải Dương đã cắt băng xuất bán chuyến hàng lúa hữu cơ đầu vụ; đại diện các Công ty cổ phần Kinh doanh chế biến nông sản Bảo Minh, Nông nghiệp Thế hệ mới và Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp An Thanh ký kết hợp đồng liên kết sản xuất gắn bao tiêu sản phẩm hữu cơ, hợp tác về du lịch sinh thái, trải nghiệm.

 

 

Các đồng chí lãnh đạo trao giải cho các đội thi gặt lúa hữu cơ và thi nấu mâm cơm đặc sản hữu cơ.

Nguồn: Ban Biên tập

 

Mỹ Tú phát triển nuôi đàn hươu sao lấy nhung

 

Nguồn tin: Báo Sóc Trăng

Ở Việt Nam, hươu sao được nuôi chủ yếu để lấy nhung (lộc nhung, sừng non), bởi nhung hươu có nhiều vitamin và khoáng chất tốt cho sức khỏe con người. Nhung hươu có giá trên thị trường khá cao. Qua tìm hiểu, thấy mô hình này phù hợp điều kiện địa phương, ông Lâm Khel, xã Thuận Hưng, huyện Mỹ Tú (Sóc Trăng) đã mạnh dạn mua 16 hươu sao giống về nuôi. Hiện tại, đàn hươu sao phát triển rất tốt và đã thu hoạch được nhung bán cho đơn vị bao tiêu đầu ra.

 

 

Lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Sóc Trăng đến tham quan mô hình nuôi hươu sao tại hộ ông Lâm Khel, xã Thuận Hưng, huyện Mỹ Tú (Sóc Trăng). Ảnh: THÚY LIỄU

Ông Lâm Khel chia sẻ: “Tôi nuôi hươu sao được hơn 2 năm. Ban đầu, tôi mua 16 con hươu giống về nuôi, trong đó chỉ có 2 con đực. Đến nay, đàn hươu có tổng số 21 con. So với các loài vật nuôi khác, nuôi hươu nhẹ công chăm sóc, chuồng nuôi không cần phải dọn vệ sinh hằng ngày và cũng không cần làm mùng tránh ruồi, muỗi. Trên nền chuồng nuôi, tôi đổ lớp trấu tầm 2 tấc nhằm tránh cho chân hươu bị trầy xước khi di chuyển và trấu cũng có tác dụng thấm hút chất thải hươu thải ra mỗi ngày”.

Cũng theo ông Khel, con hươu ăn không nhiều (mỗi ngày, 10 con hươu trưởng thành chỉ ăn tương đương với lượng thức ăn của 1 con bò trưởng thành) nhưng phải cung cấp đầy đủ thức ăn tươi xanh cho hươu mỗi ngày. Do đó, để chủ động nguồn thức ăn cho đàn hươu, ông Khel chuyển đổi 2 công đất làm lúa sang trồng cỏ Nhật. Ngoài cỏ, hươu còn ăn được các loại thức ăn khác như: lá mít, lá chuối, rau trai, dây khoai lang, bắp cải... Hươu nuôi không cần phải tắm cho chúng, cũng không cần dọn chuồng, 1 năm chỉ cần dọn hốt bỏ trấu 2 lần, nhưng chuồng trại không có mùi hôi.

Hươu sao cái từ lúc sinh cho đến sinh sản là 18 tháng, khi trưởng thành có trọng lượng từ 40 - 60kg. Còn hươu đực có trọng lượng từ 60 - 80kg, từ lúc sinh đến khi thu hoạch được nhung là 24 tháng trở lên. Hươu có tuổi thọ từ 15 - 18 năm, lấy nhung tốt nhất là vào năm thứ 5, khi đó nhung hươu đạt trọng lượng tối đa 800 gram và thời điểm khai thác nhung khi nhung mọc từ 50 - 55 ngày. Qua 2 năm nuôi, có 2 con hươu sao đực đã được ông Khel thu hoạch nhung, với trọng lượng 1kg, được đơn vị cung cấp giống bao tiêu đầu ra với giá 20 triệu đồng/kg.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hồ Thanh Thâm - Khoa Chăn nuôi, Trường Nông nghiệp (Trường Đại học Cần Thơ) chia sẻ, để chăm sóc đàn hươu sao phát triển tốt, hộ nuôi cần chú ý là không cho hươu ăn quá nhiều thức ăn tinh vào lúc đói; không thay đổi khẩu phần ăn đột ngột; đảm bảo nguồn thức ăn phải sạch, không nấm mốc, ôi thiu và không nên cho hươu ăn cỏ, lá cây bị ướt. Khi hươu đực bắt đầu mọc nhung cần có chế độ dinh dưỡng cao hơn (bổ sung thức ăn như: chuối, bắp hạt, cà rốt) để nhung hươu đạt trọng lượng và có giá trị kinh tế cao. Bên cạnh đó, trong quá trình nuôi cần chú ý phòng các bệnh phổ biến trên hươu là bệnh sán lá gan, bệnh viêm phổi (ở hươu con), bệnh liên quan đến đường tiêu hóa, bệnh tụ huyết trùng, bệnh ký sinh trùng đường máu…

Đồng chí Huỳnh Ngọc Nhã - Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Sóc Trăng cho rằng, mô hình nuôi hươu sao lấy nhung tại hộ ông Lâm Khel là mô hình khá mới tại tỉnh. Xét về hiệu quả lâu dài thì việc nuôi hươu lấy nhung đem lại nguồn thu nhập khá tốt tại hộ. Bởi qua đánh giá bước đầu, nuôi hươu khá phù hợp với điều kiện tự nhiên tại địa phương nên đàn hươu phát triển rất tốt. Ngành Nông nghiệp tỉnh sẽ chỉ đạo các đơn vị chuyên môn trực thuộc sở hỗ trợ về kỹ thuật, thường xuyên theo dõi quá trình sinh trưởng, phát triển của đàn hươu nuôi tại hộ để kịp thời có những hỗ trợ cần thiết.

THÚY LIỄU

 

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop