Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 14 tháng 7 năm 2025

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 14 tháng 7 năm 2025

 

 

Bộ Tài chính đề xuất giảm mạnh tiền chuyển đất nông nghiệp sang đất ở

Bộ Tài chính đề xuất giảm tiền đất cho hộ gia đình, người dân khi chuyển mục đích đến 70% cho đất trong hạn mức và 50% cho đất ngoài hạn mức.

 Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Bộ Tài chính vừa có tờ trình dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2024 quy định về tiền sử dụng đất, tiền thuê đất.

Liên quan đến việc tính tiền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân khi chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất ở, thực tế cho thấy, giá đất trên bảng giá đất tại một số địa phương xác định theo Luật Đất đai năm 2024 cao đột biến so với bảng giá đất cũ theo Luật Đất đai năm 2013.

Thế nên, khi được Nhà nước cho phép chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất ở, hộ gia đình, cá nhân phải đóng tiền sử dụng đất cao gấp nhiều lần so với trước đây.

Có ý kiến đề xuất, nên giảm mức thu tiền thuê đất trong trường hợp này để giảm nghĩa vụ tài chính cho người dân.

Để xử lý vấn đề thực tiễn trong khi chưa sửa Luật Đất đai năm 2024, Bộ Tài chính trình Chính phủ 2 phương án.

Phương án 1: Kế thừa quy định của pháp luật về thu tiền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 2013; sửa đổi, bổ sung Điều 8 Nghị định số 103 theo hướng bổ sung quy định về mức thu tiền sử dụng đất đối với trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp là đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở thuộc khu dân cư không được công nhận là đất ở sang làm đất ở.

Chuyển từ đất có nguồn gốc là đất vườn, ao gắn liền nhà ở nhưng người sử dụng đất tách ra để chuyển quyền sử dụng đất hoặc do đơn vị đo đạc khi đo vẽ bản đồ địa chính từ trước 1/7/2004 đã tự đo đạc tách thành các thửa riêng sang đất ở.

Chuyển từ đất được công nhận là đất nông nghiệp trong cùng thửa đất có nhà ở theo quy định tại Luật Đất đai năm 2024 sang đất ở thì tiền sử dụng đất được tính bằng 30% mức chênh lệch giữa tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở và tiền sử dụng đất, tiền thuê đất tính theo giá đất nông nghiệp đối với diện tích đất trong hạn mức giao đất ở.

Đối với diện tích đất vượt hạn mức giao đất ở, được tính bằng 50% mức chênh lệch giữa tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở và tiền sử dụng đất, tiền thuê đất tính theo giá đất nông nghiệp.

Theo Bộ Tài chính, phương án này sẽ giảm được nghĩa vụ về tiền sử dụng đất của người dân khi giá đất để tính nghĩa vụ tài chính tăng cao so với luật cũ đối với đất vườn ao liền kề thửa đất có nhà ở, đất nông nghiệp trong cùng thửa đất có nhà ở.

Về bản chất, đây là loại đất nông nghiệp dự trữ cho đất ở khi tách hộ, khác với loại đất nông nghiệp thuần túy khác; hỗ trợ người dân có nhu cầu sử dụng đất để xây dựng nhà ở trong hạn mức giao đất thì được áp dụng mức thu thấp hơn.

Tuy nhiên, nhược điểm là chưa xử lý được vướng mắc đối với các trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất từ các loại đất thuần túy là đất nông nghiệp sang đất ở khi giá đất tính thu tiền tăng cao.

Phương án 2: Giữ như quy định hiện hành tại Nghị định số 103, không bổ sung quy định nêu trên.

Để có cơ sở đánh giá tác động chính sách, Bộ Tài chính đã có công văn đề nghị các địa phương báo cáo nhanh về tình hình thực hiện việc tính tiền sử dụng đất khi chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân.

Qua tổng hợp, một số địa phương như Nghệ An, Ninh Bình, Bến Tre, Nam Định... có ý kiến đề xuất nên quy định mức thu theo tỷ lệ phần trăm, bởi phương án này vừa giảm nghĩa vụ tài chính cho người dân, vừa không ảnh hưởng đến việc quản lý đất đai.

Chính phủ đang xem xét các phương án để quyết định ban hành trong thời gian tới. Đồng thời, Bộ Tài chính cũng kiến nghị cơ quan soạn thảo Luật Đất đai, sửa đổi bổ sung nội dung này vào luật, nhằm đảm bảo thống nhất giữa quy định ở cấp luật và nghị định, đồng thời tạo hành lang pháp lý phù hợp với thực tiễn sử dụng đất của người dân.

Đức Huy

 

Lai Châu: Phát triển nông nghiệp hàng hóa hoàn thành mục tiêu chương trình xây dựng nông thôn mới

Những năm qua, tỉnh Lai Châu tích cực đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng nông nghiệp sang hướng hàng hóa tập trung, tạo thành chuỗi giá trị, từ đó tạo việc làm ổn định và nâng cao thu nhập cho người dân, góp phần hoàn thành các mục tiêu trong chương trình xây dựng nông thôn mới.

  Mô hình trồng sâm chất lượng cao ở Lai Châu

Mô hình trồng sâm chất lượng cao ở Lai Châu

Để thực thực hiện tốt các mục tiêu trên, ngay từ đầu nhiệm kỳ, tỉnh Lai Châu đã ban hành nhiều chính sách quan trọng nhằm triển khai thực hiện hai chương trình trọng điểm và một nhiệm vụ đột phá trong nông nghiệp theo Nghị Quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Lai Châu lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2020-2025 đã đề ra, nổi bật là Nghị quyết số 07/2021/NQ-HĐND và Nghị quyết số 08/2021/NQ-HĐND về phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung và phát triển rừng bền vững.

Trên cơ sở đó, Lai Châu tập trung đầu tư hạ tầng vùng sản xuất, hình thành các mô hình liên kết “4 nhà”, thúc đẩy phát triển các hợp tác xã, tổ hợp tác nhằm nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh của nông sản địa phương.

 Mô hình trang trại chăn nuôi gia súc quy mô lớn

Mô hình trang trại chăn nuôi gia súc quy mô lớn

Nhờ đó, ngành nông, lâm, thủy sản của tỉnh đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 5%/năm. Dự kiến đến năm 2025, giá trị sản xuất toàn ngành đạt 4.148 tỷ đồng, trong đó trồng trọt chiếm 65,07%; chăn nuôi và thủy sản chiếm 24,3%; lâm nghiệp 10,63%. Đối với lĩnh vực trồng trọt, tỉnh Lai Châu hướng đến chuyển đổi mạnh cơ cấu cây trồng, với các loại cây có giá trị kinh tế cao, thuận lợi trong khâu tiêu thụ đầu ra, như chè, quế, cây ăn quả, mắc ca, lúa chất lượng cao... ngày càng mở rộng diện tích.

Ước tính đến năm 2025, sản lượng lương thực có hạt đạt 226.000 tấn; diện tích lúa hàng hóa chất lượng cao đạt 3.954 ha; chè 10.811 ha; cây ăn quả 8.100 ha; mắc ca 7.420 ha; quế 13.000 ha. Đặc biệt, tỉnh chú trọng phát triển vùng nguyên liệu cao su và dược liệu với quy mô lớn. Hiện có gần 13.000 ha cao su, trong đó gần 12.000 ha đã cho khai thác, đạt sản lượng trên 12.260 tấn mủ/năm. Diện tích cây dược liệu đạt hơn 11.000 ha, trong đó có khoảng 100 ha trồng Sâm Lai Châu - một sản phẩm tiềm năng có giá trị cao.

Chị Hoàng Thị Hỏi, ở thôn Hô Ta, xã Mường Khoa, Lai Châu, cho biết: Từ vài năm trở lại đây, thực hiện theo hướng dẫn của các cơ quan chức năng địa phương, người dân chúng tôi cũng tích cực chuyển đổi từ trồng cây lương thực truyền thống sang trồng cây hoa màu, như bí xanh, dưa chuột, ớt và cây chè chất lượng cao.

Nhờ đó, mà có việc làm đều đặc hơn, không còn phụ thuộc vào mùa vụ như xưa, nguồn thu nhập cũng tăng cao hơn cho người dân. Chính quyền địa phương cũng hỗ trợ kết nối nguồn tiêu thụ sản phẩm, nên người dân không cần phải lo lắng về đầu ra cho sản phẩm mình sản xuất ra. Chính nhờ các yếu tố đó mà đời sống của người dân nông thôn trên địa bàn cũng có những thay đổi rất tích cực”.

 Chuyển đổi từ canh tác cây lương thực sang trồng dứa cao sản có năng suất cao hơn

Chuyển đổi từ canh tác cây lương thực sang trồng dứa cao sản có năng suất cao hơn

Với lĩnh vực chăn nuôi, tỉnh Lai Châu cũng chú trọng phát triển theo hướng trang trại tập trung với quy mô lên tới hàng nghìn con gia súc, gia cầm/trang trại. Từ đó tổ chức ứng dụng ứng dụng công nghệ cao, kiểm soát dịch bệnh, an toàn sinh học. Cho đến nay, tốc độ tăng đàn gia súc bình quân trên 5%/năm, sản lượng thịt hơi các loại đạt 95.300 tấn, tăng 36% so với năm 2020. Toàn tỉnh hiện có 250 cơ sở chăn nuôi quy mô trang trại.

Ngoài ra, ở lĩnh vực thủy sản, tỉnh Lai Châu cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Diện tích nuôi trồng thủy sản đạt hơn 1.000 ha, sản lượng ước đạt 18.176 tấn, tăng 43% so với giai đoạn trước. Mô hình nuôi cá nước lạnh và cá lồng trên hồ thủy điện ngày càng mở rộng, đóng góp tích cực vào thu nhập và sinh kế của người dân.

Ông Nguyễn Trọng Hanh, một thương lái chuyên nhập hàng hóa nông sản từ Lai Châu về Hà Nội, cho biết: “Chúng tôi kinh doanh cấp hàng hóa nông sản cho chợ đầu mối ở Hà Nội, chuyên thu mua hàng hóa từ Lai Châu, tôi cho rằng hướng chuyển đổi cơ cấu sản xuất cây trồng và chăn nuôi ở tỉnh Lai Châu vừa qua là rất hợp lý, bởi chỉ có chuyển đổi sản xuất tập trung, thì những thương lái như chúng tôi mới có thể duy trì kết nối tiêu thụ sản phẩm đôi bên cùng có lợi. Đối với người dân thì họ có việc làm, có nguồn thu nhập ổn định. Từ đó xây dựng đời sống tốt hơn, chất lượng được nâng cao hơn”.

Hoàng Sa

 

Đề xuất chuyển đất vườn sang đất ở: Người dân hết gánh nặng tiền tỷ?

Bộ Tài chính đề xuất giảm tiền sử dụng đất đến 70%, khi chuyển từ đất nông nghiệp sang đất ở cho hộ gia đình, cá nhân. Một số địa phương bày tỏ đồng tình với phương án này.

Bộ Tài chính vừa có tờ trình dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2024 quy định về tiền sử dụng đất, tiền thuê đất.

Thời gian qua, tại một số địa phương ghi nhận tình trạng bảng giá đất mới theo Luật Đất đai 2024 tăng cao so với bảng giá cũ, khiến người dân phải nộp tiền sử dụng đất cao gấp nhiều lần khi được chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất ở. Mức chênh lệch này trở thành gánh nặng lớn với các hộ dân có nhu cầu thực sự về nhà ở.

  Một hộ dân ở TP. Vinh, Nghệ An bị yêu cầu nộp thuế gần 4,5 tỷ đồng khi chuyển đổi 300m² đất vườn sang đất ở.

Một hộ dân ở TP. Vinh, Nghệ An bị yêu cầu nộp thuế gần 4,5 tỷ đồng khi chuyển đổi 300m² đất vườn sang đất ở.

Đơn cử là vụ việc một hộ dân tại TP. Vinh, Nghệ An bị yêu cầu nộp gần 4,5 tỷ đồng khi xin chuyển mục đích sử dụng 300m² đất vườn sang đất ở khiến dư luận đặc biệt quan tâm. Nguyên nhân được cho là bắt nguồn từ bảng giá đất mới ban hành, với giá đất tăng mạnh so với trước, dẫn đến việc người dân phải gánh mức thuế, phí và tiền sử dụng đất rất cao, khó có khả năng chi trả.

Theo phản ánh, có những trường hợp khi chuyển mục đích sử dụng, tiền sử dụng đất phải nộp thậm chí cao hơn cả trị giá thực tế của miếng đất. Điều này làm phát sinh nhiều vướng mắc, nhất là với các hộ dân có đất vườn, ao liền kề nhà ở, muốn hợp thức hóa quyền sử dụng đất.

Để tháo gỡ khó khăn cho người dân, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ hai phương án cụ thể:

Phương án 1 (kế thừa tinh thần của Nghị định 45/2014/NĐ-CP trước đây): Bổ sung quy định về mức thu tiền sử dụng đất đối với trường hợp chuyển mục đích sử dụng từ đất vườn, ao liền kề nhà ở hoặc đất có nguồn gốc từ đất vườn, ao - vốn không được công nhận là đất ở, sang đất ở. Cụ thể: tính 30% mức chênh lệch giữa giá đất ở và đất nông nghiệp đối với phần diện tích trong hạn mức giao đất ở; tính 50% mức chênh lệch đối với phần diện tích vượt hạn mức.

Phương án này cũng áp dụng cho đất nông nghiệp trong cùng thửa đất có nhà ở đã được công nhận theo Luật Đất đai 2024.

Theo Bộ Tài chính, phương án 1 giảm được nghĩa vụ về tiền sử dụng đất của người dân khi giá đất tính tiền tăng cao so với luật cũ đối với đất vườn ao liền kề thửa đất có nhà ở, đất nông nghiệp trong cùng thửa đất có nhà ở.

Tuy nhiên, phương án này chưa xử lý được vướng mắc đối với các trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất từ các loại đất thuần túy là đất nông nghiệp, sang đất ở khi giá đất tính thu tiền tăng cao.

Phương án 2 (được Bộ Tài chính đưa ra là giữ nguyên quy định như hiện hành tại Nghị định 103/2024/NĐ-CP): Không điều chỉnh theo tỷ lệ phần trăm và vẫn áp dụng cách tính chênh lệch tuyệt đối theo Luật Đất đai 2024.

Ưu điểm của phương án này là đảm bảo tuân thủ nghiêm túc quy định tại khoản 1 Điều 156 Luật Đất đai. Tuy nhiên, nhược điểm lại chính là không giải quyết được tình trạng chi phí tăng vọt, gây khó khăn cho người dân và chưa có cơ chế ưu đãi phù hợp với đặc điểm đất vườn ao gắn liền nhà ở - vốn đã tồn tại phổ biến trong khu dân cư.

Bộ Tài chính đã có công văn đề nghị các địa phương báo cáo nhanh về việc thực hiện tính tiền sử dụng đất đối với các trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất ở. Qua tổng hợp, một số địa phương đã đề xuất áp dụng mức thu theo tỷ lệ phần trăm, tương tự như phương án 1, nhằm hỗ trợ người dân trong bối cảnh giá đất có nhiều biến động.

Việt Linh

 

Góp ý các nội dung về nông nghiệp và kinh tế cửa khẩu

Qua nghiên cứu dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2025 - 2030, bà Lê Thị Thanh Nhàn, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy (khóa XV, nhiệm kỳ 2010 - 2015), nguyên Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Sở Nông nghiệp và Môi trường), Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về Kinh tế, Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh đã góp ý một số nội dung liên quan đến phát triển nông nghiệp và kinh tế cửa khẩu.

 Bà Lê Thị Thanh Nhàn

Bà Lê Thị Thanh Nhàn

Theo bà Lê Thị Thanh Nhàn, dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2025 – 2030 đã được chuẩn bị công phu, nội dung đầy đặn, số liệu phong phú, bố cục logic, ngôn ngữ trang trọng, phản ánh trung thực kết quả lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ tỉnh trong nhiệm kỳ 2020 - 2025. Đồng thời, phương châm và chủ đề của báo cáo dựa trên đặc điểm, tình hình phát triển của Lạng Sơn trong giai đoạn vừa qua và các mục tiêu, định hướng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong quy hoạch tỉnh Lạng Sơn thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Để báo cáo rõ nét, có tính thuyết phục cao hơn và định hướng hành động rõ ràng hơn, theo bà báo cáo cần bổ sung và làm sâu sắc thêm những nội dung đã đạt được và những nội dung chưa đạt được.

Về phát triển nông nghiệp, nông thôn, với Lạng Sơn đây là lĩnh vực quan trọng, nhưng dự thảo báo cáo chưa đề cập nhiều. Báo cáo cần bổ sung định hướng phát triển nông nghiệp bền vững, nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp công nghệ cao; cần có giải pháp liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, nâng cao giá trị gia tăng của nông sản, chính sách hỗ trợ phát triển các sản phẩm OCOP (mỗi xã một sản phẩm); các nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục duy trì và phát huy kết quả của chương trình xây dựng nông thôn mới, xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu của tỉnh.

Bên cạnh đó, cần định lượng rõ ràng các nội dung trên thành chỉ tiêu, nhiệm vụ để có nguồn lực đầu tư trong nhiệm kỳ 2025 - 2030. Báo cáo nên bổ sung thêm các số liệu cụ thể, để minh họa cho các thành tựu và mục tiêu trong báo cáo, bổ sung các chỉ tiêu cụ thể về kinh tế số, xã hội số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh; các chỉ tiêu trong lĩnh vực nông nghiệp, phát triển nông thôn và các chương trình mục tiêu quốc gia.

Về ngôn từ, ngoài sự trang trọng, theo bà báo cáo nên có những đoạn văn mạnh mẽ, truyền cảm hứng để cán bộ, đảng viên và Nhân dân thêm tin tưởng, đồng lòng thực hiện nghị quyết. Trong đó, tại dòng thứ 4 phần (3), trang 23 đề nghị đưa thêm nội dung phát triển bền vững và sửa thành: “Thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững…” để thể hiện rõ quan điểm trong phát triển nông nghiệp.

Đối với phát triển kinh tế cửa khẩu, mặc dù báo cáo đã đề cập định hướng phát triển cửa khẩu, nhưng chưa phân tích về hiệu quả khai thác kinh tế cửa khẩu trong giai đoạn vừa qua. Về phương hướng, mục tiêu, giải pháp trong nhiệm kỳ mới, theo bà Lê Thị Thanh Nhàn, báo cáo cần nêu rõ hơn về lộ trình và nguồn lực để mục tiêu xây dựng “cửa khẩu kiểu mẫu ứng dụng công nghệ cao, cửa khẩu thông minh” thành hiện thực, quan tâm đầu tư công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tăng cường hợp tác quốc tế. Đồng thời, cần có định hướng về đa dạng hóa các loại hình dịch vụ logistics tại Ga đường sắt Đồng Đăng. Đối với cặp cửa khẩu Chi Ma - Ái Điểm, ngoài phát triển kho bãi và logistics cho thương mại điện tử, cần nhấn mạnh đến việc xây dựng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp như ưu đãi thuế, thủ tục hải quan đơn giản, kết nối sàn thương mại điện tử xuyên biên giới.

Cùng đó, cần có giải pháp cụ thể để quản lý hiệu quả các hoạt động thương mại qua cửa khẩu, phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại; định hướng rõ hơn về mô hình “kinh tế cửa khẩu số – logistics thông minh – thương mại biên giới xanh”. Ngoài ra, báo cáo cũng cần bổ sung các chỉ tiêu phát triển kinh tế số, thương mại điện tử, công nghiệp xanh; xem xét xây dựng trung tâm logistics và chợ đầu mối vùng Đông Bắc tại khu vực Đồng Đăng – Hữu Nghị.

Để báo cáo thực sự là kim chỉ nam cho sự phát triển của Lạng Sơn trong nhiệm kỳ 2025 - 2030, ngoài các nội dung trên, theo bà Lê Thị Thanh Nhàn, Đảng bộ tỉnh xem xét bổ sung và làm sâu sắc hơn các nội dung về kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt là các giải pháp cụ thể, mang tính đột phá cho từng lĩnh vực. Việc cung cấp đầy đủ số liệu đánh giá, phân tích sâu về nguyên nhân và bài học kinh nghiệm sẽ giúp báo cáo có tính thuyết phục cao hơn và là cơ sở vững chắc để xây dựng các chương trình hành động trong nhiệm kỳ tới.

HOÀNG HUẤN

 

Nông nghiệp và Môi trường: Vận hành thông suốt

Sau hơn một tuần triển khai mô hình chính quyền hai cấp, ngành nông nghiệp và môi trường tỉnh đã chủ động nhiều giải pháp linh hoạt nhằm đảm bảo vận hành liên tục, không để phát sinh 'khoảng trống quản lý'. Bên cạnh việc hoàn thành chỉ tiêu chuyên môn, ngành tập trung hỗ trợ cấp xã nâng cao năng lực thực thi công vụ, phục vụ người dân hiệu quả ngay tại cơ sở.

 Cán bộ Trung tâm Phục vụ hành chính công phường Tam Thanh hướng dẫn người dân thực hiện các thủ tục đăng ký đất đai

Cán bộ Trung tâm Phục vụ hành chính công phường Tam Thanh hướng dẫn người dân thực hiện các thủ tục đăng ký đất đai

Sau khi mô hình chính quyền địa phương hai cấp chính thức được triển khai, người dân tại phường Tam Thanh vẫn thực hiện các thủ tục hành chính như bình thường, đặc biệt là các lĩnh vực “nóng” như đất đai.

Gia đình ông Dương Văn Khủ, ở khối Hoàng Thượng là một trong những hộ dân đầu tiên đến đăng ký làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu tại phường sau khi chuyển sang mô hình chính quyền hai cấp. Dù Trung tâm Phục vụ hành chính công của phường vẫn đang trong quá trình hoàn thiện cơ sở vật chất, nhưng việc tiếp nhận và xử lý hồ sơ vẫn diễn ra thông suốt. Ông Khủ chia sẻ: Tôi tưởng mới sáp nhập đơn vị hành chính thì phải chờ đợi lâu, nhưng thực tế mọi việc vẫn diễn ra bình thường, cán bộ phường hướng dẫn rất tận tình, thiếu giấy tờ gì là tôi được thông báo bổ sung ngay. Bây giờ, phường trực tiếp cấp “sổ đỏ” nên sau khi hoàn thiện hồ sơ, chúng tôi chờ 20 ngày là nhận sổ tại phường luôn.

Không riêng tại phường Tam Thanh, tại nhiều xã, phường khác, bộ máy hành chính dù đang ổn định tổ chức sau sáp nhập nhưng vẫn duy trì tiếp nhận và xử lý thủ tục hành chính thông suốt, nhất là trong lĩnh vực đất đai. Đây là kết quả của sự chỉ đạo linh hoạt, sát cơ sở từ ngành nông nghiệp và môi trường.

“Trước đây, chúng tôi chỉ làm việc với 11 đầu mối cấp huyện, nay là 65 đầu mối xã, phường. Để đảm bảo hoạt động thông suốt, sở thành lập tổ công tác chuyên trách, phân công cán bộ phụ trách từng cụm xã, đồng thời ban hành hướng dẫn theo nhóm lĩnh vực, ưu tiên đất đai, môi trường và phòng chống thiên tai. Với xã còn lúng túng, tổ công tác trực tiếp hỗ trợ tháo gỡ”.

Ông Nguyễn Hữu Chiến, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường

Ngay từ khi triển khai mô hình chính quyền hai cấp, Sở Nông nghiệp và Môi trường đã khẩn trương rà soát toàn bộ khối lượng công việc chuyên môn chuyển giao cho cấp xã. Theo thống kê, xã tiếp nhận tổng cộng 189 nhiệm vụ từ ngành, trong đó có 178 nhiệm vụ trước đây do cấp huyện thực hiện. Những nhiệm vụ này đều liên quan trực tiếp đến đời sống người dân như: cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hướng dẫn sản xuất nông lâm nghiệp, giám sát chất lượng nước, quản lý rác thải, ứng phó thiên tai… Đây là những lĩnh vực tác động trực tiếp đến người dân, yêu cầu phải có sự phối hợp chặt chẽ và xử lý kịp thời tại cấp xã.

Ông Nguyễn Hữu Chiến, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường cho biết: Trước đây, chúng tôi chỉ làm việc với 11 đầu mối cấp huyện, nay là 65 đầu mối xã, phường. Để đảm bảo hoạt động thông suốt, sở thành lập tổ công tác chuyên trách, phân công cán bộ phụ trách từng cụm xã, đồng thời ban hành hướng dẫn theo nhóm lĩnh vực, ưu tiên đất đai, môi trường và phòng chống thiên tai. Với xã còn lúng túng, tổ công tác trực tiếp hỗ trợ tháo gỡ.

Song song với đó, từ tháng 6 đến tháng 8/2025, sở dự kiến tổ chức 5 lớp tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ cấp xã theo nhu cầu thực tế tại địa phương. Ngay cuối tháng 6, sở đã tổ chức một lớp tập huấn chuyên đề về khai thác, sử dụng và in giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhằm giúp cán bộ cơ sở nắm chắc quy trình, nâng cao kỹ năng ứng dụng công nghệ trong xử lý thủ tục hành chính.

Nhờ đội ngũ cán bộ xã, phường được tập huấn kịp thời, sau khi tiếp nhận nhiệm vụ, các xã, phường nhanh chóng ổn định tổ chức, chủ động sắp xếp nhân lực, thiết bị và quy trình xử lý công việc, đảm bảo duy trì các dịch vụ công thiết yếu.

Tại xã Thiện Long, để đảm bảo hoạt động hành chính công, xã đã nâng cấp đường truyền, thay thế thiết bị, bảo đảm duy trì thông suốt các dịch vụ công thiết yếu. Đồng thời, xã cũng sắp xếp lại đầu việc theo nhóm chuyên đề, phân công cán bộ bám sát thôn bản. Bà Hoàng Thị Anh, Chủ tịch UBND xã cho biết: Xã có 14 thôn với hơn 1.230 hộ dân, địa bàn rộng trong khi nhân lực còn mỏng. Một phòng chuyên môn hiện đảm nhiệm cùng lúc nhiệm vụ của 6 –7 sở, ngành nên công việc rất nhiều. Chúng tôi cử cán bộ đi cơ sở thường xuyên để nắm tình hình sản xuất, đồng thời rà soát lại các chương trình mục tiêu quốc gia như giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới... để xây dựng phương án phát triển kinh tế, xã hội phù hợp, gắn với bảo vệ tài nguyên và môi trường.

Tương tự, xã Châu Sơn cũng nhanh chóng vào guồng sau sáp nhập. Ông Nguyễn Công Hưng, Chủ tịch UBND xã cho biết: Xã có hơn 1.300 hộ dân với 24 thôn, bản. Chúng tôi xác định rõ các nhiệm vụ trọng tâm, rà soát hiện trạng sản xuất, hạ tầng để xây dựng kế hoạch sát thực tế. Các ban chỉ đạo như giải phóng mặt bằng, phòng chống thiên tai, trật tự xã hội… được kiện toàn. Cán bộ chuyên trách được phân công theo từng lĩnh vực để giảm tải cho cấp thôn. Xã cũng đẩy mạnh tuyên truyền các nội dung mới trong Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Bảo vệ môi trường… đến trưởng thôn; thiết lập các kênh tiếp nhận phản ánh như hòm thư góp ý, nhóm Zalo cộng đồng để xử lý kiến nghị kịp thời.

Cùng đó, ngành nông nghiệp và môi trường tăng cường ứng dụng công nghệ trong quản lý. Nhiều phần mềm như: hệ thống quản lý đất đai, cấp giấy chứng nhận, giám sát biến động, cảnh báo thiên tai qua tin nhắn... đã được triển khai. Việc kết nối dữ liệu giữa tỉnh và xã giúp rút ngắn thời gian xử lý, nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ cơ sở, đảm bảo minh bạch và liền mạch trong chuyển đổi mô hình.

Hiện nay, sở đang hoàn thiện tài liệu tập huấn chung toàn tỉnh và tiếp tục rà soát khó khăn tại các xã để tổ chức thêm 4 lớp đào tạo trong tháng 7–8, đáp ứng nhu cầu thực tế từ cơ sở.

Trong bối cảnh tổ chức lại bộ máy hành chính theo hướng tinh gọn, ngành nông nghiệp và môi trường đã thể hiện tinh thần chủ động, quyết liệt và linh hoạt. Sự chuẩn bị bài bản, đồng hành sát sao cùng cơ sở, ngành đang góp phần đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước, phục vụ người dân tốt hơn ngay tại nơi gần dân nhất.

MINH KHƯƠNG

 

Nông thôn mới chuyển mình từ những HTX nông nghiệp sạch

Xã Cự Đồng (tỉnh Phú Thọ mới) sau sáp nhập đang chứng kiến một cuộc chuyển mình mạnh mẽ trong tiến trình xây dựng nông thôn mới. Giữa những triền đồi trung du, nhiều HTX đang góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển sinh kế và nâng cao thu nhập cho người dân.

Trong hành trình mở đường xây dựng nông thôn mới hiện đại, hiệu quả ở Cự Đồng, vai trò đồng hành của Liên minh HTX Việt Nam cùng Liên minh HTX tỉnh Phú Thọ được xem như "bà đỡ" giúp các HTX tại địa phương vững bước trên con đường phát triển nông nghiệp bền vững .

Chuyển mình từ sự hợp nhất

Sau quá trình sáp nhập địa giới hành chính, xã Cự Đồng mới được thành lập trên cơ sở hợp nhất từ ba xã Tất Thắng, Thắng Sơn và Cự Đồng cũ. Trong tình hình mới, chính quyền địa phương và người dân nơi đây đã chủ động tìm hướng phát triển kinh tế nông nghiệp phù hợp với điều kiện địa phương.

Đặc biệt, trong quá trình tái thiết và phát triển, các HTX được xác định là lực lượng chủ lực trong xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, bền vững và mang bản sắc địa phương trên địa bàn xã.

 Sản xuất nông nghiệp ở Cự Đồng đang có những bước phát triển mạnh mẽ.

Sản xuất nông nghiệp ở Cự Đồng đang có những bước phát triển mạnh mẽ.

Lãnh đạo UBND xã Cự Đồng cũng cho hay sau khi sáp nhập, xã xác định việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn gắn với các mô hình HTX là hướng đi căn cơ.

Theo đó, xã đã tập trung khuyến khích các HTX trẻ, năng động triển khai các mô hình sản xuất sạch, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, liên kết sản xuất theo chuỗi và khai thác tiềm năng vùng trung du để nâng cao thu nhập cho người dân.

Điển hình như tại HTX Nông lâm Tất Thắng, thành lập từ năm 2021. Giữa đồi chè, rừng keo và những ruộng ngô xen lúa, HTX đã mạnh dạn đưa vào canh tác nhiều giống cây trồng mới, nổi bật là nho sữa Hàn Quốc – loài cây vốn được xem là "đặc sản xứ nóng".

Khác với tưởng tượng về những ruộng nho bạt ngàn ở miền Trung hay miền Nam, vườn nho ở Cự Đồng chỉ rộng hơn 4.000m², nhưng là cả một quá trình thử nghiệm, chắt lọc và thành công. Hơn 300 gốc nho sữa đang trĩu quả dưới giàn được trồng bằng quy trình hữu cơ, áp dụng hệ thống tưới nhỏ giọt Israel, kỹ thuật bao trái thủ công để giữ độ sạch tối đa và tuyệt đối không sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật.

Hiệu quả sản xuất khép kín

Chị Đinh Thị Thạo, Giám đốc HTX, chia sẻ: “Ban đầu, HTX từng gặp không ít khó khăn khi đưa giống nho này về vùng đồi. Nhưng sau 2 năm kiên trì, vườn nho phát triển tốt, thích nghi với khí hậu và thổ nhưỡng địa phương. Đặc biệt, nho sữa cho quả giòn, ngọt thanh, màu xanh hồng rất đẹp mắt và được thị trường ưa chuộng”.

Với chất lượng vượt trội, sản phẩm nho sữa hữu cơ của HTX Nông lâm Tất Thắng đã được chứng nhận OCOP 3 sao vào năm 2024 – một bước tiến khẳng định chất lượng và thương hiệu địa phương.

Dự kiến trong năm 2025, sản lượng nho của HTX đạt trên 6 tấn, không chỉ phục vụ tiêu thụ mà còn mở ra tiềm năng phát triển du lịch trải nghiệm – nơi du khách có thể trực tiếp tham quan, hái nho và thưởng thức tại vườn.

Không chỉ trồng nho, HTX Nông lâm Tất Thắng còn vận hành một chuỗi sản xuất khép kín với nhiều ngành nghề gắn bó chặt chẽ. Khu vực nuôi dê của HTX rộng hơn 2.000m² với quy mô hơn 80 tấn thịt mỗi năm. Đàn dê được chăn nuôi bán chăn thả, không sử dụng kháng sinh, thức ăn chủ yếu là cỏ tự nhiên và chế phẩm sinh học, đảm bảo an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP.

 Nông thôn mới ở Phú Thọ không chỉ thay da đổi thịt bằng những con đường bê tông phẳng lì, trường lớp khang trang, mà còn nhờ những “trái ngọt” từ mô hình HTX mang lại.

Nông thôn mới ở Phú Thọ không chỉ thay da đổi thịt bằng những con đường bê tông phẳng lì, trường lớp khang trang, mà còn nhờ những “trái ngọt” từ mô hình HTX mang lại.

Chăn nuôi sạch kết hợp với chế biến tạo ra sản phẩm thịt dê tươi, dê ủ thảo dược… phục vụ thị trường nội địa. Những sản phẩm này không chỉ nâng cao giá trị chăn nuôi mà còn góp phần hình thành thương hiệu thực phẩm sạch vùng trung du miền núi.

Song song với chăn nuôi, HTX còn phát triển hơn 2ha rau hữu cơ theo mô hình luân canh, liên kết chặt chẽ với 20 hộ dân trong xã. Rau được trồng bằng phân hữu cơ hoai mục, không sử dụng thuốc trừ sâu hóa học và tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất an toàn sinh học. Nhờ đó, sản phẩm rau củ của HTX luôn được các kênh tiêu thụ sạch trong và ngoài tỉnh ưu tiên đặt hàng.

Hướng tới NTM kiểu mẫu

“Chúng tôi hướng đến một nền nông nghiệp xanh – sạch – bền vững, từ đất, nước đến con giống đều phải an toàn và thân thiện với môi trường. Cũng chính vì vậy, sản phẩm làm ra không chỉ sạch mà còn mang bản sắc và câu chuyện riêng của vùng trung du”, Giám đốc HTX Nông lâm Tất Thắng Đinh Thị Thạo chia sẻ.

Để có được những thành quả hôm nay, sự hỗ trợ từ Liên minh HTX Việt Nam đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Ngay từ khi HTX Nông lâm Tất Thắng mới thành lập, Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Phú Thọ đã tư vấn mô hình tổ chức, hỗ trợ kết nối thị trường và định hướng sản phẩm theo chuẩn OCOP.

Các lớp tập huấn kỹ thuật trồng nho hữu cơ, chăn nuôi sạch, sơ chế bảo quản sản phẩm và chuyển đổi số trong tiêu thụ cũng được Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Phú Thọ tổ chức đều đặn tạo nền tảng phát triển cho các HTX trong bối cảnh cạnh tranh thị trường ngày càng khốc liệt.

Đặc biệt, các HTX đã được vay vốn ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển HTX để đầu tư hệ thống tưới nhỏ giọt, mở rộng chuồng trại và xây dựng nhà sơ chế nông sản. Các chương trình xúc tiến thương mại, hội chợ OCOP do Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Phú Thọ tổ chức cũng là kênh kết nối hiệu quả giúp HTX tìm kiếm đối tác, nhà phân phối và ký kết hợp đồng tiêu thụ ổn định.

Có thể thấy, Cự Đồng hôm nay không chỉ thay da đổi thịt bằng những con đường bê tông phẳng lì, trường lớp khang trang, mà còn nhờ những “trái ngọt” từ mô hình HTX mang lại. Từ nho sữa, dê thịt đến rau hữu cơ, người dân không chỉ có thêm thu nhập mà còn thay đổi nhận thức sản xuất, chuyển từ nhỏ lẻ sang liên kết, từ manh mún sang quy mô, bài bản.

Năm 2024 thu nhập bình quân đầu người ở xã Cự Đồng đạt gần 50 triệu đồng/năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 4%. Toàn xã có 4 sản phẩm OCOP, trong đó 2 sản phẩm đạt 3 sao và 1 sản phẩm đang xây dựng hồ sơ 4 sao. Đây là những tín hiệu đáng mừng cho một xã miền núi vừa trải qua sáp nhập hành chính.

Hướng tới tương lai, xã Cự Đồng đặt mục tiêu xây dựng nông thôn mới nâng cao gắn với phát triển nông nghiệp sinh thái, du lịch trải nghiệm và chuyển đổi số trong nông nghiệp. Các HTX như Nông lâm Tất Thắng được kỳ vọng sẽ tiếp tục là hạt nhân trong hành trình ấy, lan tỏa tinh thần hợp tác và làm giàu từ chính quê hương.

Với thành công trong chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, nông thôn mới ở Cự Đồng đang hiện hữu rõ nét hơn bao giờ hết. Trong hành trình ấy, các HTX không chỉ là người tổ chức sản xuất mà còn là người truyền cảm hứng, là cầu nối giữa người nông dân với thị trường, đảm bảo sự phát triển không ngừng.

An Chi

 

Thuận An triển khai hiệu quả nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp

Xã Thuận An được thành lập trên cơ sở hợp nhất toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số các xã Lệ Chi, Dương Quang và một phần diện tích tự nhiên, dân số các xã Phú Sơn, Đặng Xá trước đây, tổng diện tích tự nhiên 2.967ha, trong đó có 94ha đất phát triển đô thị còn lại là đất khu vực nông thôn.

Phát huy tiềm năng thế mạnh, nông dân xã Thuận An tập trung sản xuất nông nghiệp, thực hiện nhiều mô hình cho hiệu quả kinh tế cao.

 Mô hình trồng hoa lay ơn tại xã Thuận An.

Mô hình trồng hoa lay ơn tại xã Thuận An.

Xã Thuận An hiện có Chi hội Nông dân nghề nghiệp sản xuất hoa cắt cành với 21 hội viên tham gia, canh tác trên tổng diện tích 35.500m2. Chi hội được thành lập với mục đích tập hợp các hội viên nông dân thuộc nhóm trồng hoa trên địa bàn xã. Chi hội cũng chủ động liên hệ với Trung tâm hoa cây cảnh thuộc Viện Nghiên cứu rau hoa quả trung ương, mời các chuyên gia về địa phương để tổ chức lớp tập huấn kỹ thuật trồng hoa cắt cành cho 150 hội viên, nông dân.

Hội viên nông dân xã Thuận An Phạm Văn Nghệ cho hay, không dừng lại ở diện tích đất nông nghiệp hiện có, thành viên trong Chi hội nông dân nghề nghiệp sản xuất hoa cắt cành chủ động phối hợp với Hội Nông dân xã và trưởng thôn, liên hệ mượn lại đất nông nghiệp của các hộ không có nhu cầu sản xuất cây vụ 3 trên đất 2 lúa, để trồng hoa lay ơn và các loại hoa khác. Nhờ đó, mô hình được mở rộng diện tích lên hơn 50.000m2.

Ngoài ra, xã Thuận An còn có mô hình trồng hoa lily tại xứ đồng Đám Mạ, thôn Chi Nam, trên diện tích 7.000m2, thời vụ trồng từ tháng 6 đến trung tuần tháng 11 hằng năm. Các mô hình trồng hoa cho thu nhập trung bình 500-700 triệu đồng/ha. Đáng chú ý, mô hình trồng hoa lily còn giúp cải thiện chất lượng đất nông nghiệp, giảm mầm bệnh, tăng độ phì nhiêu, hỗ trợ lúa vụ xuân phát triển tốt.

Tương tự, mô hình trồng nho trong nhà kính của hội viên cựu chiến binh Dương Thành Công ở thôn Bình Trù (xã Thuận An) đang cho hiệu quả khả quan. Mô hình được thực hiện trên tổng diện tích 1.400m2 với 280 gốc nho mẫu đơn (nho sữa Hàn Quốc) và 220 gốc nho hạ đen (giống của Trung Quốc).

Ông Dương Thành Công cho biết gia đình đã đầu tư hơn 700 triệu đồng để thực hiện mô hình từ năm 2024, với các công đoạn làm nhà kính, làm giàn cho cây leo, thuê nhân công chăm sóc… Mô hình được chính quyền địa phương hỗ trợ 50% giống cây và phân bón. Quá trình thực hiện, ông Công còn phối hợp với Trường Đại học Nông - Lâm Bắc Giang để được hỗ trợ, chuyển giao kỹ thuật chăm sóc nho, cách lựa chọn giống, phân bón phù hợp.

Hiện nay, nho mẫu đơn đang cho thu hoạch quả, mỗi gốc khoảng 20 chùm, bình quân 4-5 lạng/chùm, giá bán tại vườn từ 100.000 đồng đến 150.000 đồng/kg. Còn nho hạ đen đang ra hoa, sau khi thu hoạch xong lứa quả nho mẫu đơn, ông Công sẽ tiếp tục được thu hoạch quả nho hạ đen.

“Nếu thời tiết thuận lợi, mô hình sẽ cho thu hoạch khoảng 2 tấn quả nho/vụ, doanh thu ước đạt 250-300 triệu đồng. Thời gian tới, gia đình sẽ tiếp tục mở rộng thêm diện tích canh tác để tạo thêm nguồn lợi từ mô hình trồng nho trong nhà kính”, ông Dương Thành Công chia sẻ thêm.

Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã - Chủ tịch Hội Nông dân xã Thuận An Nguyễn Trần Luân thông tin thêm, qua việc thực hiện mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến trong chăm sóc cây trồng, đã giúp nông dân Thuận An nâng cao nhận thức, hiểu rõ vai trò trách nhiệm của bản thân trong việc bảo vệ môi trường, hướng tới sản xuất an toàn. Nhiều nông dân trong xã đã thay đổi tư duy, nâng cao trách nhiệm trong việc tạo ra sản phẩm sạch, góp phần bảo vệ sức khỏe của chính mình và cộng đồng. Các hội viên nông dân xã cũng tích cực thực hiện vệ sinh đồng ruộng, vừa giúp tạo ra sản phẩm an toàn cung cấp cho thị trường, vừa góp phần nâng cao tiêu chí môi trường trong xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.

Thông tin về định hướng phát triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn, Chủ tịch UBND xã Thuận An Nguyễn Tuấn Khanh cho biết, hiện nay, xã Thuận An đã xây dựng, triển khai được một số mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi cho hiệu quả kinh tế cao, bình quân từ 200-500 triệu đồng/ha/năm, gồm các mô hình trồng: Bưởi, nhãn, nho, măng tây, cúc dược liệu, hoa sen, khoai tây vụ đông, hoa lay ơn, hoa lily... Xã tiếp tục tuyên truyền, xây dựng, triển khai các mô hình nông nghiệp ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, mô hình nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn, phấn đấu trong năm 2025 có 9 mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng an toàn, VietGAP, hữu cơ.

Ánh Dương

 

Doanh nghiệp nông sản kỳ vọng thêm nguồn lực

Doanh nghiệp nông sản tại Lâm Đồng đang đối mặt nhiều khó khăn về vùng trồng, vốn đầu tư và kỳ vọng vào chính sách mới để phát triển bền vững.

 Vùng trồng lớn chất lượng ổn định là cơ hội để doanh nghiệp nông nghiệp phát triển

Vùng trồng lớn chất lượng ổn định là cơ hội để doanh nghiệp nông nghiệp phát triển

Công ty TNHH Thương mại xuất nhập khẩu Nghiệp Xuân là một trong những doanh nghiệp lớn chuyên xuất khẩu nông sản tại Lâm Đồng. Hàng năm, công ty xuất khẩu khoảng 2.000 tấn nông sản tươi, chế biến qua các thị trường, chủ yếu là Trung Quốc. Theo ông Bùi Phú Tôn - Giám đốc Công ty, ông đang mở rộng sản xuất, kinh doanh theo hướng đẩy mạnh liên kết các vùng trồng đạt chuẩn phục vụ thị trường xuất khẩu ở nhiều địa phương như Vĩnh Long, Đồng Nai, Đắk Lắk.

Tuy nhiên, hiện nay, các vùng trồng của các tỉnh nhìn chung quy mô còn chưa lớn. Không ít vùng trồng không tập trung, lẻ tẻ nên rất khó khăn cho công ty trong việc bảo đảm các hợp đồng lớn. Đó là chưa kể, sự đồng đều trong chất lượng sản phẩm cũng là một thách thức lớn đối với công ty. Thực tế, những năm qua, công ty đã đẩy mạnh liên kết tạo vùng nguyên liệu ổn định hàng năm. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn gặp khó khăn như việc người dân còn tâm lý chạy theo phong trào, một số thời điểm chưa gắn bó lâu dài với cây chủ lực thế mạnh.

 Ngành nông nghiệp vẫn còn nhiều dư địa, chưa khai thác hết các mặt nổi trội của các vùng miền, địa phương

Ngành nông nghiệp vẫn còn nhiều dư địa, chưa khai thác hết các mặt nổi trội của các vùng miền, địa phương

Do đó, ngành chức năng cần hỗ trợ doanh nghiệp bằng việc làm tốt hơn việc quy hoạch, phát triển các vùng trồng lớn, nhà khoa học vào cuộc mạnh mẽ để nông dân ứng dụng đồng bộ kỹ thuật nhằm tạo quy trình chăm sóc đồng bộ, tạo ra sản phẩm với chất lượng đồng bộ.

Ông Tôn cũng kỳ vọng, hiện nay, Trung ương, tỉnh đang đẩy mạnh triển khai các nghị quyết về khoa học, công nghệ, phát triển kinh tế tư nhân sẽ là động lực mới mạnh mẽ hơn cho doanh nghiệp phát triển bền vững. Ông hi vọng có thể tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi để mở rộng sản xuất, kinh doanh.

Theo ông Lê Trọng Yên - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng, những năm qua, doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp ngày một tăng, nhất là đầu tư trong phát triển nông nghiệp xanh, nông nghiệp số, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Tuy nhiên, việc đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp còn nhiều khó khăn chưa tương xứng với tiềm năng. Chính vì thế, trước những cơ hội mới về sáp nhập địa giới hành chính, tỉnh sẽ áp dụng, triển khai đồng bộ hơn các giải pháp từ cơ chế, chính sách, nguồn vốn đến khoa học, công nghệ… để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Tỉnh tập trung tận dụng nguồn lực từ các nghị quyết trong “bộ tứ trụ cột” hiện nay, trong đó có Nghị quyết 57- NQ/TW về thúc đẩy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, Nghị quyết 68- NQ/TW về phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân.

Lâm Đồng tiếp tục làm tốt các bước về quy hoạch phát triển, thu hút doanh nghiệp ngoài tỉnh, khuyến khích doanh nghiệp tại chỗ mở rộng liên kết, sản xuất, kinh doanh là động lực chắc chắn để bảo đảm phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững.

Ngày 22/6, phát biểu tại Hội nghị toàn quốc tổng kết chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới và chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã khẳng định, ngành nông nghiệp cả nước đã có bước phát triển lớn, vượt bậc. Việt Nam luôn coi nông nghiệp là động lực, nền tảng, nông nghiệp, nông dân là cơ sở vững chắc để kìm hãm lạm phát khi lương thực, thực phẩm dồi dào, góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững.

Tuy nhiên, sự phát triển của ngành nông nghiệp vẫn còn nhiều dư địa, chưa khai thác hết các mặt nổi trội của các vùng miền, địa phương, việc xây dựng, thực hiện quy hoạch, chiến lược, cơ chế chính sách của ngành, tháo gỡ thẻ vàng IUU chưa tốt, chưa hiệu quả, chưa đồng bộ, đột phá.

Một trong những chìa khóa để khắc phục những vấn đề trên một cách bền vững là thu hút, tăng thêm nguồn lực cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tiềm lực, doanh nghiệp lớn đầu tư vào nông nghiệp.

Hồng Thoan

 

Hợp tác công tư - chìa khóa phát triển nông nghiệp Lâm Đồng

Hợp tác công tư rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay để tận dụng tối đa nguồn lực xã hội, kết nối nghiên cứu, chuyển giao, liên kết nông nghiệp bền vững.

 Công ty Sữa đậu nành Việt Nam Vinasoy đã triển khai nghiên cứu, chọn tạo được nhiều giống đậu nành và liên kết trồng hàng trăm ha mỗi năm với người dân các xã Đắk Wil, Nam Dong, Cư Jút

Công ty Sữa đậu nành Việt Nam Vinasoy đã triển khai nghiên cứu, chọn tạo được nhiều giống đậu nành và liên kết trồng hàng trăm ha mỗi năm với người dân các xã Đắk Wil, Nam Dong, Cư Jút

Công ty TNHH Bayer Việt Nam đang triển khai chương trình hợp tác công tư tại một số địa phương của tỉnh Lâm Đồng. Các nội dung hợp tác đã và đang được các bên xúc tiến nhằm hướng đến mục tiêu phát triển nền nông nghiệp địa phương bền vững, nâng cao thu nhập cho nông hộ.

Gia đình ông Phan Viết Cường, Thôn 14, xã Nhân Cơ hiện có trên trên 3 ha sầu riêng trồng theo hình thức chuyên canh. Vườn của ông đã được ngành nông nghiệp và Công ty TNHH Bayer Việt Nam chọn làm mô hình thí điểm về canh tác sầu riêng bền vững.

Theo ông Cường, gia đình đã có nhiều năm trồng sầu riêng. Nhưng khi tham gia vào thực hiện mô hình, áp dụng quy trình do đội ngũ kỹ thuật của Công ty Bayer và cán bộ khuyến nông đưa ra, vườn đã có những sự thay đổi theo hướng tích cực. Điển hình như việc, cây phát triển bền hơn, sâu bệnh hại ít hơn, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất. Gia đình được hỗ trợ, hướng dẫn sử dụng một số sản phẩm thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) nhằm phòng, trừ sâu bệnh hại trên cây sầu riêng. Ông nhận thấy các sản phẩm sử dụng rất hiệu quả.

Theo ông Đặng Văn Phước, đại diện Công ty TNHH Bayer Việt Nam, hai năm qua, Công ty đã triển khai chương trình hợp tác công tư tại một số xã của Lâm Đồng. Nội dung hợp tác về sử dụng thuốc BVTV an toàn và hiệu quả tại địa phương. Chương trình hợp tác đã góp phần nâng cao nhận thức của người sản xuất nông nghiệp về sử dụng thuốc BVTV đúng cách, an toàn và hiệu quả. Nhất là đối với việc hình thành, duy trì các vùng trồng như sầu riêng đạt chất lượng cao phục vụ nhu cầu xuất khẩu như tại các xã Nhân Cơ, Kiến Đức, Quảng Tín.

Tương tự, trên 5 năm qua, Công ty Sữa đậu nành Việt Nam Vinasoy đã triển khai nghiên cứu, chọn tạo được nhiều giống đậu này và liên kết trồng hàng trăm ha mỗi năm với người dân các xã Đắk Wil, Nam Dong, Cư Jút.

Theo lãnh đạo UBND xã Nam Dong, từ sự tạo điều kiện, hỗ trợ của địa phương, nông dân các thôn trong hợp tác nghiên cứu, đánh giá, đội ngũ công ty đã chọn tạo được một số giống đậu nành phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng cho năng suất cao, mang lại thu nhập ổn định hơn cho bà con như Vinasoy 01-CT, Vinasoy 02- NS.

Trong bối cảnh nguồn lực của Nhà nước chưa nhiều thì có thể nói, việc huy động được nguồn lực từ doanh nghiệp trong nghiên cứu, chuyển giao kỹ thuật, giống, liên kết bao tiêu là vô cùng ý nghĩa đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nâng cao đời sống nông dân.

Trần Thị Thoan

 

Điểm sáng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao

Vốn là HTX nông nghiệp truyền thống, thành lập từ năm 1996, nhưng HTX Dịch vụ nông nghiệp (DVNN) Thiệu Hưng, xã Thiệu Hóa đã năng động trở thành một trong những HTX tiêu biểu trong áp dụng tiến bộ khoa học để sản xuất sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao (CNC). Những thành công của HTX không chỉ giúp người dân nâng cao ý thức trong quá trình sản xuất, tạo ra những sản phẩm an toàn, mà còn góp phần hình thành tư duy sản xuất nông nghiệp hiện đại cho thành viên và người dân địa phương.

 Diện tích sản xuất dưa kim hoàng hậu của HTX dịch vụ nông nghiệp Thiệu Hưng, xã Thiệu Hóa.

Diện tích sản xuất dưa kim hoàng hậu của HTX dịch vụ nông nghiệp Thiệu Hưng, xã Thiệu Hóa.

Giám đốc HTX Nguyễn Văn Dương cho biết: "Trước khi chuyển đổi theo Luật HTX năm 2012, HTX hoạt động kém hiệu quả. Sau khi chuyển đổi theo Luật HTX, từ năm 2015 HTX đã nỗ lực đổi mới mọi mặt, hoạt động có nhiều chuyển biến tích cực và ngày càng phát triển. Đặc biệt, từ năm 2018 khi UBND huyện Thiệu Hóa (cũ) vận dụng chính sách tái cơ cấu nông nghiệp của tỉnh để hỗ trợ, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển nông nghiệp quy mô lớn, theo chiều sâu; đồng thời, được sự đồng lòng của thành viên, HTX Dịch vụ nông nghiệp Thiệu Hưng đã thực sự “lột xác” không chỉ phát triển bền vững những dịch vụ truyền thống mà còn mở rộng quy mô, phát triển mạnh các dịch vụ cạnh tranh, trở thành “đầu tàu” để đẩy mạnh ứng dụng CNC vào sản xuất nông nghiệp trên địa bàn”.

Bên cạnh phát triển 4 dịch vụ công, HTX DVNN Thiệu Hưng còn phát triển mạnh các dịch vụ cạnh tranh như điện, tín dụng nội bộ, cung ứng giống và phát triển sản xuất nông nghiệp ứng dụng CNC. Ngay từ năm 2015, HTX đã vận động, tổ chức cho các thành viên thực hiện dồn điền đổi thửa, chỉnh trang đồng ruộng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, cơ giới hóa đồng bộ vào sản xuất. Nhờ sự hỗ trợ từ địa phương, năm 2019 HTX đã phát triển được 0,5ha nhà màng, trở thành một trong những đơn vị đi đầu của tỉnh trong phong trào phát triển nhà màng, nhà lưới để sản xuất nông nghiệp theo hướng ứng dụng CNC. HTX đã ký hợp đồng với Công ty CP Mía đường Lam Sơn chuyển giao khoa học - kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm dưa vàng kim hoàng hậu, đồng thời vận động các thành viên mở rộng quy mô sản xuất nhà màng, nhà lưới.

Bà Lê Thị Thắm ở tiểu khu phố 4, xã Thiệu Hóa cho biết: “Khi HTX phát triển sản xuất nông nghiệp ứng dụng CNC, thành viên HTX không chỉ có việc làm ổn định, có thêm thu nhập mà còn được tập huấn, nâng cao kiến thức sản xuất để phát triển kinh tế gia đình. Sau thời gian làm công cho khu sản xuất của HTX, hiện nay gia đình đã có 500m2 nhà màng, nhà lưới để sản xuất rau an toàn”.

Đến nay, HTX DVNN Thiệu Hưng đã đầu tư hơn 6,3 tỷ đồng để xây dựng 8 nhà màng với tổng diện tích 12.761m2 để sản xuất các sản phẩm rau, quả an toàn. Nhờ có kinh nghiệm, kỹ thuật, hàng năm HTX sản xuất 3 vụ dưa vàng và 1 vụ dưa baby, tổng sản lượng khoảng 170 - 180 tấn/năm, lợi nhuận từ 800 triệu đến 1 tỷ đồng. Đồng thời, còn làm nhiệm vụ tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật cho hàng chục thành viên tham gia mở rộng diện tích sản xuất nông nghiệp theo hướng CNC, góp phần nâng cao trình độ sản xuất nông nghiệp và tạo việc làm thường xuyên cho nhiều lao động địa phương.

Từ năm 2024, sau khi tham quan, học hỏi các mô hình, HTX đã vận động một số hộ thành viên đưa cây nho sữa Hàn Quốc vào trồng thử nghiệm. Hiện một số diện tích đang cho quả lứa đầu tiên và hứa hẹn cho năng suất khá. Sản phẩm được HTX kết nối tiêu thụ tại các siêu thị, cửa hàng thực phẩm sạch trong và ngoài tỉnh.

Ngoài chủ động sản xuất, kinh doanh, HTX DVNN Thiệu Hưng còn giám sát, hỗ trợ người dân sản xuất 3 vùng sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP với tổng diện tích 25,5ha. Đồng thời, tham mưu cho địa phương mở gian hàng giới thiệu sản phẩm nông nghiệp an toàn; đưa sản phẩm nông nghiệp thế mạnh của địa phương tham gia các hội chợ, quảng bá sản phẩm trên hệ thống phần mềm kết nối cung cầu sản phẩm nông sản, thực phẩm an toàn tỉnh Thanh Hóa.

Được biết, đến nay HTX DVNN Thiệu Hưng đã có 2 sản phẩm OCOP 4 sao là “dưa vàng Vạn Hà” và “dưa chuột baby Vạn Hà” đang được tiêu thụ mạnh theo các chuỗi liên kết sản xuất trong và ngoài tỉnh. Doanh thu hằng năm của HTX đạt hơn 25,5 tỷ đồng, HTX đạt mức tăng trưởng 15%/năm trở lên.

Từ sự năng động trong xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh hiệu quả, góp phần nâng cao doanh thu, lợi nhuận và thu nhập cho thành viên, người lao động, HTX DVNN Thiệu Hưng đã được tặng nhiều danh hiệu cao quý. Đặc biệt, HTX đã vinh dự đạt danh hiệu Ngôi sao HTX năm 2024 do Liên minh HTX Việt Nam bầu chọn, và được Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen vì đã có thành tích xuất sắc trong hoạt động kinh tế tập thể giai đoạn 2020-2025.

Bài và ảnh: Lê Hòa

 

Đất nông nghiệp hết hạn có bị Nhà nước thu hồi không?

Đất nông nghiệp là loại đất có thời hạn sử dụng, vậy khi đất nông nghiệp hết hạn sử dụng có bị Nhà nước thu hồi không?

Luật sư Nguyễn Văn Nam - Đoàn luật sư TP Hà Nội cho biết, theo Điều 172 Luật Đất đai 2024 quy định, thời hạn sử dụng đất nông nghiệp đối với trường hợp giao đất, cho thuê đất là khác nhau, trong đó:

 Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Thời hạn giao đất, công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp là 50 năm đối với trường hợp: Cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp được giao đất, công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp gồm đất trồng cây hàng năm; đất nuôi trồng thủy sản; đất làm muối; đất trồng cây lâu năm; đất rừng sản xuất là rừng trồng.

Thời hạn cho thuê đất không quá 50 năm: Đối với trường hợp cá nhân thuê đất nông nghiệp.

Căn cứ theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 82 Luật Đất đai 2024, đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn, nhưng không được gia hạn thuộc trường hợp thu hồi đất do chấm dứt sử dụng đất theo pháp luật.

Điều 172 Luật Đất đai 2024 quy định khi hết thời hạn sử dụng đất, được tiếp tục sử dụng đất theo thời hạn quy định tại điểm này mà không phải làm thủ tục gia hạn.

Căn cứ theo các quy định nêu trên, khi đất nông nghiệp hết thời hạn sử dụng, người sử dụng đất sẽ không bị thu hồi đất. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân, tổ chức được giao, cho thuê nông nghiệp có nhu cầu thì được tiếp tục sử dụng đất theo thời hạn pháp luật quy định.

Có cần làm thủ tục gia hạn sử dụng đất nông nghiệp khi hết hạn không?

Theo quy định tại Điều 172 Luật Đất đai 2024, trường hợp hết thời hạn sử dụng đất được tiếp tục sử dụng đất trong thời hạn 50 năm mà không cần làm thủ tục điều chỉnh thời hạn sử dụng đất.

Trong trường hợp này, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi hết thời hạn sử dụng đất được tiếp tục sử dụng mà không cần làm thủ tục gia hạn sử dụng đất.

Đối với trường hợp cá nhân có nhu cầu gia hạn thời gian sử dụng đất thì trình tự, thủ tục gia hạn được thực hiện theo quy định tại Điều 64 Nghị định 102/2024.

Phúc Đức

 

Cao su Bà Rịa: Phát triển xanh hướng đến nông nghiệp thông minh

Trải qua hơn ba thập niên hình thành và phát triển, Công ty CP Cao su Bà Rịa đã ghi dấu ấn là một trong những đơn vị tiêu biểu của ngành Cao su Việt Nam, không chỉ nhờ hiệu quả kinh doanh ổn định, mà còn bởi tầm nhìn phát triển bền vững, hướng đến mô hình nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp xanh, quản trị số hiện đại.

Giữ vững đà tăng trưởng

Thành lập năm 1994, Cao su Bà Rịa là đơn vị thành viên của Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, hiện đang quản lý hơn 8.000 ha cao su với 7 đội sản xuất, 1 nhà máy chế biến và hơn 1.000 lao động. Trong giai đoạn 2020 – 2025, Công ty đạt tổng doanh thu trên 2.605 tỷ đồng, nộp ngân sách gần 374 tỷ đồng và chia cổ tức đều đặn 7%, khẳng định nội lực tài chính vững chắc và chiến lược phát triển ổn định.

Riêng năm 2024, Cao su Bà Rịa đạt doanh thu 496,9 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế 152,96 tỷ đồng, vượt 150% kế hoạch năm. Sản lượng khai thác đạt 7.200 tấn và kế hoạch tái canh được thực hiện đúng tiến độ, bảo đảm chu kỳ vườn cây và chất lượng mủ bền vững.

 Công nhân khai thác mủ cao su.

Công nhân khai thác mủ cao su.

Bước vào năm đầu nhiệm kỳ mới 2025 – 2030, Cao su Bà Rịa tiếp tục duy trì phong độ ổn định và hiệu quả cao. Năm 2025, kế hoạch sản xuất kinh doanh được xây dựng chi tiết với sản lượng khai thác mủ là 8.800 tấn, sản lượng chế biến 11.800 tấn và tiêu thụ 9.800 tấn. Tổng doanh thu dự kiến là 593,6 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt gần 181 tỷ đồng, chia cổ tức gần 90 tỷ đồng.

Trong 6 tháng đầu năm nay, tổng sản lượng mủ cao su do công ty khai thác đạt 2.223 tấn với giá bán bình quân 53,3 triệu đồng/tấn, Trong 6 tháng cuối năm, Công ty đặt mục tiêu vượt 10% sản lượng kế hoạch năm, quyết tâm đạt sản lượng 9.680 tấn trở lên. Các nhiệm vụ cụ thể bao gồm: Lấy người lao động khối trực tiếp làm trung tâm: chú trọng đến việc tạo việc làm, ổn định thu nhập cho người lao động, giúp người lao động an tâm sản xuất; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại, cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, kết hợp phát triển năng lượng sạch nhằm nâng cao giá trị sản phẩm và hiệu quả sản xuất;Nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp và đẩy mạnh chuyển đổi số; Tinh gọn bộ máy quản lý, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động.

Nhìn xa hơn, Cao su Bà Rịa đặt mục tiêu đến năm 2030 đạt tổng doanh thu khoảng 3.700 tỷ đồng. Trong đó, doanh thu từ ngành cao su vẫn là trụ cột với hơn 2.000 tỷ đồng, nhưng sẽ tăng tỷ trọng đóng góp từ các lĩnh vực khác như nông nghiệp công nghệ cao (trên 173 tỷ đồng), khu công nghiệp (hơn 663 tỷ đồng) và các hoạt động thương mại, dịch vụ (gần 777 tỷ đồng). Tổng lợi nhuận trước thuế cả giai đoạn dự kiến đạt 1.002 tỷ đồng, nộp ngân sách khoảng 586 tỷ đồng và thu nhập người lao động phấn đấu vượt mức 13,5 triệu đồng/người/tháng trở lên.

 Chế biến mủ cao su tại nhà máy.

Chế biến mủ cao su tại nhà máy.

Đặt biệt, Cao su Bà Rịa chủ động ứng dụng cơ giới hóa, quy hoạch nông nghiệp công nghệ cao, phát triển đồng bộ từ khâu trồng, khai thác đến chế biến, thương mại. Bên cạnh đó, Công ty đang đẩy mạnh kế hoạch sử dụng năng lượng sạch, tiết kiệm tài nguyên nước, kết hợp với xử lý môi trường đạt chuẩn ISO 14001 tại các nhà máy.

Chiến lược trung, dài hạn của Cao su Bà Rịa đẩy mạnh phát triển nông nghiệp bền vững, hướng tới mô hình kinh tế tuần hoàn, tăng giá trị gia tăng từ đất và cây cao su thông qua đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng đầu tư vào chế biến sâu và khu công nghiệp xanh.

Quản trị hiện đại lấy con người làm trung tâm

Với phương châm “Người lao động là tài sản quý nhất”, Công ty luôn chăm lo đầy đủ các chế độ, chính sách, phúc lợi. thu nhập bình quân tháng 6 là 13.109.000đồng/người/tháng, cao hơn 6 triệu so với cùng kỳ năm 2024. Công ty chủ động tuyển dụng hơn 250 lao động đồng bào miền núi phía Bắc, bố trí nhà ở, hỗ trợ vật dụng thiết yếu và chế độ ổn định, qua đó góp phần thực hiện mục tiêu an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững.

Song song đó, Cao su Bà Rịa từng bước tinh gọn bộ máy, hiện nay đã tổ chức lại theo mô hình 2 cấp: Công ty - Đội, giảm cấp trung gian, nâng cao hiệu quả điều hành. Các chỉ tiêu sản xuất, tài chính, quản lý lao động đều được số hóa và cập nhật theo thời gian thực, giúp minh bạch trong trả lương, giao khoán và điều hành.

Ông Trần Khắc Chung - Tổng Giám đốc Công ty CP Cao su Bà Rịa nhấn mạnh: “Tại Cao su Bà Rịa, chúng tôi không xem người lao động là chi phí, mà là vốn quý. Giữ được công nhân là giữ được rừng, giữ được nghề. Vì vậy, chúng tôi luôn đặt họ làm trung tâm của mọi chiến lược phát triển”.

“Chúng tôi không chỉ phát triển cao su, mà còn hướng tới một hệ sinh thái sản xuất – chế biến – công nghiệp xanh, nơi giá trị bền vững là nền tảng. Cao su Bà Rịa muốn trở thành một mô hình nông nghiệp công nghiệp hiện đại, hiệu quả và có trách nhiệm với con người” - ông Trần Khắc Chung cho biết.

  Đóng gói mủ cao su xuất khẩu.

Đóng gói mủ cao su xuất khẩu.

Trong nhiệm kỳ 2025–2030, Cao su Bà Rịa đặt mục tiêu doanh thu trên 3.699 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế 1.002 tỷ, thu nhập bình quân từ 13,5 triệu đồng/người/tháng trở lên. Trong đó, bên cạnh lĩnh vực cao su, công ty sẽ tăng tỷ trọng từ khu công nghiệp và nông nghiệp công nghệ cao, đẩy mạnh các dự án chuyển đổi xanh, phát triển sản phẩm chế biến sâu và ứng dụng công nghệ vào chuỗi giá trị.

Cao su Bà Rịa hôm nay không chỉ là đơn vị sản xuất kinh doanh hiệu quả mà còn đang từng bước chuyển đổi mô hình phát triển của ngành cao su, từ “cây cao su truyền thống” đến doanh nghiệp nông – công nghiệp xanh, hiện đại, nhân văn. Trên hành trình đó, Cao su Bà Rịa tiếp tục giữ vững bản sắc ngành, phát huy truyền thống Cao su Việt Nam, đóng góp thiết thực vào phát triển kinh tế địa phương và đất nước.

PV

 

Bộ trưởng Đỗ Đức Duy: Ngành nông nghiệp và môi trường vững bước trong giai đoạn khó khăn

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy yêu cầu toàn ngành phát huy trách nhiệm cao nhất, khắc phục khó khăn và triển khai các nhiệm vụ trọng tâm trong 6 tháng cuối năm.

Phát huy tinh thần trách nhiệm

Sáng ngày 12/7/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm, triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Đây là dịp để Bộ nhìn nhận lại những kết quả đạt được trong 6 tháng qua, đồng thời đề ra những kế hoạch hành động cụ thể để tiếp tục thúc đẩy sự phát triển trong nửa cuối năm.

Lãnh đạo Bộ cho biết, trong bối cảnh thế giới đang phải đối mặt với những thách thức toàn cầu như xung đột vũ trang, cạnh tranh chiến lược và chiến tranh thương mại, nền kinh tế Việt Nam cũng không nằm ngoài tác động từ các chính sách thuế quan, đặc biệt là từ Hoa Kỳ.

Song song đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Đảng bộ Bộ chính thức hoạt động theo mô hình tổ chức mới được 4 tháng với tổ chức bộ máy tinh gọn nhưng phải bảo đảm một khối lượng nhiệm vụ, công việc rất lớn, với yêu cầu cao về chất lượng, cũng như trách nhiệm trước Đảng, nhà nước và nhân dân.

  Bộ trưởng Bộ Nông nghiêph và Môi trường Đỗ Đức Duy. Ảnh: Khương Trung

Bộ trưởng Bộ Nông nghiêph và Môi trường Đỗ Đức Duy. Ảnh: Khương Trung

Tuy nhiên, nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã vượt qua khó khăn. Trong số đó, theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiêph và Môi trường Đỗ Đức Duy, nổi bật là khu vực kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản tăng trưởng tích cực, góp phần quan trọng vào kết quả phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước.

Cụ thể, tốc độ tăng trưởng toàn ngành nông nghiệp và môi trường đạt 3,84% tiệm cận với mục tiêu theo kịch bản tăng trưởng là 3,9% (trong đó nông nghiệp tăng 3,31%; lâm nghiệp tăng 7,42%; thủy sản tăng 4,21%; kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 33,84 tỷ USD tăng 15% so với cùng kỳ).

Về lĩnh vực pháp chế, trong 6 tháng qua, Bộ đã chủ trì soạn thảo một khối lượng lớn văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là các văn bản hướng dẫn thi hành các luật và nghị quyết mới của Quốc hội nhằm cập nhật và điều chỉnh các quy định pháp lý phù hợp với tình hình thực tế, đồng thời thúc đẩy các mô hình quản lý hiệu quả, bền vững cho ngành nông nghiệp và môi trường.

Tính đến hết ngày 9/7/2025, Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thành công 100% đại hội các tổ chức Đảng trực thuộc theo đúng tiến độ đề ra; tạo tiền đề quan trọng, tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường lần thứ nhất vào tháng 8/2025.

Công tác phân cấp, phân quyền cho các cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp địa phương cũng được triển khai mạnh mẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi các chính sách liên quan đến quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, giúp các địa phương có thể chủ động hơn trong việc triển khai các chính sách, giảm thiểu sự can thiệp hành chính và đẩy nhanh tiến độ thực hiện nhiệm vụ.

Ngoài ra, công tác bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu của Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Các sáng kiến nhằm phát huy hiệu quả sử dụng nguồn lực cho phát triển bền vững được triển khai mạnh mẽ, góp phần tích cực vào cả phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.

Đồng thời, Bộ cũng tích cực áp dụng các mô hình quản lý bền vững, triển khai chương trình ứng phó với thiên tai và biến đổi khí hậu, giúp giảm thiểu tác động tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên quý giá cho các thế hệ tương lai.

Tồn tại, hạn chế và các giải pháp khắc phục

Mặc dù đạt được nhiều thành tựu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường vẫn phải đối mặt với một số tồn tại. Bộ trưởng Đỗ Đức Duy đã thẳng thắn chỉ ra các yếu kém trong công tác quản lý nhà nước, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp sản xuất. Việc xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ lực như sầu riêng, thanh long, cà phê và thủy sản vẫn gặp nhiều khó khăn. Đây là điều cần phải xem xét và khắc phục trong thời gian tới.

Bộ trưởng cũng chỉ ra rằng, năng lực phản ứng chính sách của một số cơ quan chức năng còn hạn chế, khiến cho công tác triển khai các nhiệm vụ chuyên môn bị chậm trễ. Việc xây dựng, vận hành các hệ thống thông tin của Bộ cũng chưa được đồng bộ và kịp thời, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công việc.

 Toàn cảnh hội nghị. Ảnh: Khương Trung

Toàn cảnh hội nghị. Ảnh: Khương Trung

Để khắc phục những tồn tại trên, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy đề nghị các cấp ủy, chính quyền và các đơn vị trong Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần có những phân tích sâu sắc về nguyên nhân của các vấn đề tồn đọng, đồng thời đề xuất các biện pháp khắc phục khả thi. Bộ trưởng cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát để bảo đảm tiến độ thực hiện các nhiệm vụ và dự án quan trọng.

Bên cạnh đó, Bộ trưởng yêu cầu toàn ngành phát huy tinh thần trách nhiệm cao nhất trong công tác quản lý nhà nước, tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm như cải cách hành chính, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển nông nghiệp bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Với những giải pháp khắc phục cụ thể, tinh thần đoàn kết và trách nhiệm cao, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã và đang đang nỗ lực không ngừng để hoàn thành các nhiệm vụ trọng tâm, góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bảo vệ tài nguyên và môi trường cho tương lai.

Trong khuôn khổ hội nghị, Bộ cũng đã công bố Quyết định số 139-QĐ/ĐU bổ sung 16 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhằm tăng cường sức mạnh lãnh đạo, củng cố đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Bộ.

Đặc biệt, Bộ cũng tổ chức Lễ trao tặng Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng cho ông Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Đây là sự ghi nhận cho những đóng góp to lớn của Thứ trưởng trong sự nghiệp phát triển ngành nông nghiệp và môi trường trong suốt quá trình công tác.

Linh Nguyễn

 

Từ đạt chuẩn đến nâng chuẩn: Nông thôn mới cần đột phá

Chuyển từ đạt chuẩn sang nâng chuẩn nông thôn mới không đơn thuần là giữ thành quả, mà phải là một cuộc đổi mới về tư duy phát triển.

Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 đang bước vào giai đoạn bản lề với không ít địa phương đã đạt chuẩn nhưng lại đối mặt với nhiều vấn đề phát sinh mang tính chất "hậu đạt chuẩn". Trong cuộc trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy thẳng thắn chỉ ra: “Đây không còn là dự báo mà là thực trạng hiện hữu, đòi hỏi một chặng đường rất dài để khắc phục, với sự vào cuộc đồng bộ của Nhà nước, người dân và doanh nghiệp”.

 Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy. Ảnh: Quốc Chuyển

Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy. Ảnh: Quốc Chuyển

Hậu đạt chuẩn và bài toán giữ vững thành quả

Trong quá trình triển khai chương trình nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, bên cạnh những chuyển biến tích cực, chúng ta cũng đang phải đối diện với nhiều vấn đề mang tính chất hậu đạt chuẩn, như sản xuất nhỏ lẻ quay trở lại, hợp tác xã hình thức, đời sống nông dân chưa ổn định bền vững. Ông đánh giá như thế nào về thực trạng này?

Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy: Đây không còn là dự báo, mà là thực trạng hiện hữu và để giải quyết thực trạng này, chúng ta sẽ cần một chặng đường rất dài, đòi hỏi nỗ lực phối hợp của cả Nhà nước, người dân và các tổ chức kinh tế của nông dân.

Một thực tế dễ nhận thấy là hợp tác xã vẫn còn mang tính hình thức, sản xuất nông nghiệp vẫn nhỏ lẻ, manh mún. Đời sống của người dân nhiều nơi chưa thực sự ổn định, chưa bền vững.

Tôi cho rằng, điểm yếu lớn nhất chính là thiếu một chiến lược dài hạn để duy trì và nâng cao các tiêu chí trong Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Chúng ta vẫn còn tư duy sản xuất theo mùa vụ, buôn bán theo thời vụ, thiếu tính ổn định và định hướng thị trường.

Theo tôi, có 3 vấn đề chính mà chúng ta cần tập trung giải quyết: Tình trạng quay trở lại sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, tôi dùng từ "gót chân" để nói về điểm yếu cố hữu trong nông nghiệp Việt Nam hiện nay. Đó là mô hình sản xuất nhỏ, phân tán, liên quan chặt đến đất đai, cơ sở hạ tầng và liên kết chuỗi còn lỏng lẻo.

Lão hóa lực lượng lao động nông thôn. Lao động trẻ gần như không còn mặn mà với nông nghiệp. Nông thôn giờ chủ yếu là “lão nông chi điền”, còn “thanh niên chi điền” thì rất ít. Đây là bài toán về cơ cấu lao động cần được nhìn nhận một cách nghiêm túc.

Thiếu lực đẩy để công nghiệp hóa nông nghiệp. Sự gắn kết giữa sản xuất nông nghiệp với công nghệ, thị trường, logistics còn rời rạc. Điều này khiến nông nghiệp khó tạo ra giá trị gia tăng và càng dễ rơi vào vòng luẩn quẩn: nhỏ lẻ, thu nhập thấp, thiếu đầu tư, tụt hậu.

Do đó, nếu không có một chiến lược thực sự bền vững, gắn kết giữa phát triển kinh tế, xã hội và chuyển đổi mô hình sản xuất, thì nông thôn Việt Nam sẽ còn gặp nhiều thách thức trong hành trình hội nhập vào các chuỗi giá trị lớn hơn, cả trong nước lẫn quốc tế.

Cho nên, khi nói đến một cuộc cách mạng về số hóa và thương mại điện tử trong nông nghiệp hiện nay, có thể thấy rõ sự lúng túng và nhiều khó khăn.

Sản xuất nông nghiệp hiện nay còn gặp thêm thách thức từ chất lượng nguồn lao động địa phương. Lực lượng lao động đã bị già hóa quá nhanh, trong khi đó lại thiếu hụt lực lượng lao động trẻ, được đào tạo bài bản. Điều này khiến chúng ta khó có thể tổ chức được vùng nguyên liệu quy mô lớn phục vụ xuất khẩu, cũng như khó đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất hay tiếp cận thị trường một cách chuyên nghiệp.

Vấn đề thứ hai là hợp tác xã vẫn còn mang tính hình thức ở nhiều địa phương, nhất là ở những vùng không có cây trồng chủ lực. Khi không có sản phẩm chủ lực, thì rất khó để nói đến việc tích tụ đất đai, xây dựng thương hiệu, hay phát triển chuỗi giá trị; trong khi đó, đây lại chính là các yếu tố cốt lõi mà hợp tác xã cần có để vận hành hiệu quả.

Điều mà người nông dân đang thiếu nhất, và thị trường đang để trống, đó là sự liên kết chặt chẽ giữa nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải đầu tư vào khu vực này, không chỉ bằng tài chính, mà còn bằng khoa học kỹ thuật, bằng hệ thống thị trường, và bằng hợp đồng dài hạn, để người nông dân có thể đi từ thắng lợi mùa vụ đến thắng lợi thị trường.

Nhưng rõ ràng, ở nhiều nơi, hợp tác xã vẫn chỉ mang tính hình thức và một trong những nguyên nhân gốc rễ là thiếu cán bộ có chuyên môn, có năng lực điều hành. Đây là khâu cần được ưu tiên đào tạo, nâng cấp và bố trí phù hợp nếu muốn hợp tác xã thực sự trở thành một mắt xích hiệu quả trong chuỗi giá trị nông nghiệp hiện đại.

Ở đây, câu chuyện về chuyên môn cần được hiểu cụ thể, đó là năng lực về nắm bắt thị trường, quản lý tài chính và đặc biệt là trong quá trình xây dựng phương án sản xuất, thì nhiều hợp tác xã không có các nội dung liên quan đến phòng chống rủi ro. Đây là điểm yếu phổ biến trong đội ngũ giám đốc hợp tác xã tại cơ sở. Vì vậy, khi xảy ra biến động, các đơn vị này thường rất bị động, thậm chí rơi vào thế bế tắc.

Thứ ba, xét về phía người nông dân, thu nhập hiện vẫn còn rất bấp bênh, thiếu ổn định. Một phần nguyên nhân là do biến động thị trường và thị hiếu người tiêu dùng ngày càng nhanh và khó lường. Điều này đòi hỏi vai trò của chuyên gia thị trường phải rõ ràng hơn.

Bên cạnh đó, dịch vụ hỗ trợ sản xuất và hệ thống phân phối đầu vào, đặc biệt là về vật tư nông nghiệp vẫn còn nhiều bất cập. Khâu kiểm soát giá cả, chất lượng nguyên liệu đầu vào chưa được thực hiện chặt chẽ, gây áp lực lớn cho người sản xuất.

Tóm lại, có ba yếu tố lớn đang làm cho thu nhập của người nông dân thiếu ổn định: Thiếu năng lực chuyên môn trong quản lý sản xuất tại cơ sở; biến động thị trường và nhu cầu tiêu dùng; hệ thống cung ứng đầu vào còn lỏng lẻo, thiếu kiểm soát.

Để giải quyết căn cơ, tôi cho rằng cần có chính sách phù hợp, đồng thời phải tổ chức lại sản xuất, hướng đến việc xây dựng một lớp nông dân chuyên nghiệp. Khi đó, chúng ta mới có thể đi xa hơn, bài bản hơn trong quá trình hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển nông thôn bền vững.

Tôi hy vọng rằng, khi Việt Nam bước vào một quỹ đạo phát triển dựa trên nền tảng pháp luật và thị trường, thì cũng sẽ hình thành một lớp nông dân chuyên nghiệp - những người có tri thức, có tư duy sản xuất hiện đại và đủ năng lực để đồng hành cùng quá trình chuyển đổi số, kinh tế xanh và hội nhập sâu rộng.

Trong quá trình chuyển từ đạt chuẩn sang nâng chuẩn nông thôn mới, một trong những thách thức lớn nhất là làm sao để đồng hành cùng người nông dân trong việc thay đổi tập quán sản xuất, chuyển từ làm nông thuần túy sang tư duy kinh tế nông nghiệp, kinh doanh nông thôn. Theo ông, đâu là rào cản lớn nhất đang cản trở quá trình này?

Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy: Tôi cho rằng, rào cản lớn nhất hiện nay chính là tư duy sản xuất manh mún, mạnh ai nấy làm, thiếu liên kết và thiếu tư duy thị trường.

Nếu nhìn vào chuỗi cung ứng hay chuỗi giá trị, thì khâu đầu tiên vẫn là sản xuất và khâu cuối cùng vẫn là thị trường. Vậy mà cả hai điểm “đầu” và “cuối” này đều đang gặp vấn đề. Đây chính là nút thắt lớn nhất mà chúng ta phải tháo gỡ.

Vậy cần ưu tiên điều gì? Theo tôi, ưu tiên hàng đầu là đặt người nông dân vào trung tâm của quá trình phát triển và điều đó phải được thể hiện qua bốn trụ cột chính sách: Chính sách hỗ trợ; chính sách đào tạo; chính sách công nghệ; chính sách thị trường.

Chỉ khi người nông dân được tiếp cận đầy đủ với cả bốn chính sách này, thì họ mới có thể tự chủ sản xuất, chủ động tiêu thụ, tự tin hội nhập.

Để làm được điều này, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ phải đầu tư cho nông nghiệp nhiều hơn, cụ thể là 5 năm sau phải đầu tư gấp hai lần 5 năm trước.

Đây không phải là kiến nghị mới, mà đã được nêu rõ trong Nghị quyết 26-NQ/TW năm 2007 và gần đây tiếp tục được tái khẳng định trong Nghị quyết 19-NQ/TW. Tuy nhiên, việc thực thi vẫn chưa đạt yêu cầu, đặc biệt là trong vấn đề tín dụng nông nghiệp, đầu tư công cho hạ tầng sản xuất và tạo điều kiện về thị trường.

Nếu không có bước đột phá thực sự về nguồn lực đầu tư, chính sách tín dụng, và cơ chế thị trường thì mọi chiến lược sẽ chỉ dừng lại ở khẩu hiệu.

Vì vậy, phải đặt người nông dân thực sự vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển và đồng thời, họ cũng cần được nhìn nhận như những nhà sản xuất kinh doanh chủ động, không chỉ là người làm thuê trong chính ruộng vườn của mình.

Thưa ông, trong giai đoạn tới, cần ưu tiên điều gì để nông dân thực sự trở thành chủ thể phát triển, làm chủ cả sản xuất, công nghệ lẫn thị trường?

Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy: Về mặt tư duy kinh tế, tôi cho rằng, chúng ta cần tiếp cận theo hướng bốn phép tính cơ bản:

Phép cộng: Là sự liên kết.

Cộng người nông dân với người nông dân thành hợp tác xã.

Cộng hợp tác xã với hợp tác xã thành liên minh hợp tác xã.

Cộng liên minh hợp tác xã với doanh nghiệp tạo thành ngành hàng.

Và chỉ khi ngành hàng được hình thành thì mới tạo ra được hệ sinh thái đủ sức khai thác các lợi thế từ FTA, mới đáp ứng được các yêu cầu về kỷ cương, tiêu chuẩn, giá trị sinh lời cao, từ đó đưa sản phẩm Việt Nam vươn ra thị trường quốc tế.

Nếu chúng ta không tạo ra được chuỗi liên kết này, hoặc để "tắc mạch" ở một khâu nào đó, thì sản xuất rất dễ quay lại mô hình cũ: Nhỏ lẻ, manh mún, phi chuẩn hóa.

Phép trừ: Là công tác quản lý.

Trừ đi các rào cản, tiêu cực, gian lận trong vật tư đầu vào.

Trừ đi hàng kém chất lượng, phân bón giả, thuốc bảo vệ thực vật không đạt chuẩn.

Trừ đi các chi phí vô hình làm giảm niềm tin và lòng dân. Khi lòng dân đã yên, người nông dân sẽ sẵn sàng sáng tạo và cống hiến.

Phép nhân: Chính là khoa học, kỹ thuật và công nghệ.

Khoa học công nghệ chính là lực đẩy nhân lên giá trị sản phẩm. Nếu thiếu công nghệ, từ sản xuất đến bảo quản, chế biến, truy xuất nguồn gốc thì rất khó để nâng cao giá trị gia tăng.

Chỉ khi sản xuất đi liền với tiêu chuẩn, đi liền với công nghiệp hỗ trợ, thì truy xuất nguồn gốc mới minh bạch và giá trị nông sản mới thực sự bền vững.

Phép chia: Chính là chia sẻ lợi ích và chia sẻ trách nhiệm.

Phải chia đúng, chia đều trong chuỗi giá trị. Người nông dân không thể mãi là người "cầm phần rủi ro", trong khi doanh nghiệp nắm trọn phần lãi.

 Nông thôn mới không chỉ là đích đến, mà là hành trình nâng chuẩn liên tục. Ảnh minh họa

Nông thôn mới không chỉ là đích đến, mà là hành trình nâng chuẩn liên tục. Ảnh minh họa

Nói tóm lại, nếu chúng ta tổ chức lại sản xuất bằng tư duy của bốn phép tính kinh tế: Cộng - trừ - nhân - chia, thì nông nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể bứt phá mạnh mẽ, không chỉ trong nước mà cả trên bản đồ thế giới.

Tôi cho rằng, trong chuỗi phép tính mà chúng ta vừa đề cập, phép tính chia là yếu tố mang tính then chốt và cũng là thước đo cuối cùng cho sự công bằng và bền vững.

Phép chia ở đây chính là sự công khai, minh bạch và hài hòa lợi ích giữa tất cả các chủ thể tham gia chuỗi giá trị, bao gồm: Người nông dân; hợp tác xã, tổ hợp tác; doanh nghiệp; nhà phân phối; nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách.

Khi tất cả cùng “hòa nước sông, chén rượu một ngày”, tức là chia sẻ trách nhiệm và hưởng lợi công bằng, thì liên kết bốn nhà, thậm chí là năm nhà, mới thực sự bền chặt.

Xét đến cùng, lợi ích phải quay về với người lao động, người trực tiếp sản xuất, người dám đổi mới và sáng tạo. Lợi ích cũng cần trả công xứng đáng cho doanh nghiệp, những người khai phá thị trường; cho các nhà khoa học, những người tạo ra tiến bộ kỹ thuật và cho nhà nước, nhà hoạch định chính sách, những người kiến tạo môi trường và thể chế phát triển.

Tôi tin rằng, người nông dân hôm nay đã, đang bước vào một quỹ đạo phát triển mới. Họ cần được trao quyền, được đồng hành, và được khẳng định là chủ thể của sự đổi mới nông thôn, người giữ vai trò quyết định trong thành công của cả chương trình xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn tiếp theo.

Nông thôn mới không chỉ là đích đến, mà là hành trình nâng chuẩn liên tục, đòi hỏi thay đổi từ tư duy đến hành động. Khi người nông dân thực sự trở thành trung tâm được hỗ trợ đúng, được trao quyền thật thì nông nghiệp Việt Nam mới có thể phát triển bền vững, hiện đại và hội nhập sâu rộng.

Nguyễn Thanh

 

Huế triển khai các dự án thúc đẩy phát triển nông nghiệp thông minh, thích ứng biến đổi khí hậu

UBND thành phố Huế họp Ban Chỉ đạo các Dự án Luxembourg đánh giá tiến độ và định hướng triển khai các dự án do Chính phủ Luxembourg tài trợ, tập trung vào phát triển nông nghiệp thông minh, nâng cao khả năng chống chịu khí hậu và cải thiện sinh kế cho nông hộ, đặc biệt là phụ nữ...

 Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Tại buổi họp, Phó Chủ tịch UBND thành phố Huế Hoàng Hải Minh cùng ông Thomas Lammar – Đại diện lâm thời Đại sứ quán Luxembourg tại Lào đã đồng chủ trì thảo luận với các thành viên Ban Chỉ đạo, đối tác và nhà tài trợ về những nội dung cốt lõi: đánh giá kết quả đã đạt được, xác định nhiệm vụ trọng tâm đến cuối năm 2025 và 2026, đồng thời rà soát kỹ nội dung kế hoạch hoạt động và phân bổ ngân sách.

Phó Chủ tịch Hoàng Hải Minh nhấn mạnh, đây là một trong những dự án hợp tác phát triển trọng điểm giữa Việt Nam và Luxembourg. Với sự hỗ trợ tài chính, kỹ thuật từ Chính phủ Luxembourg thông qua Cơ quan Phát triển Luxembourg (LuxDev), các dự án đã và đang góp phần trực tiếp cải thiện sinh kế, nâng cao năng lực chống chịu của các nông hộ và doanh nghiệp nhỏ, đặc biệt là phụ nữ – nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhất trước các tác động kinh tế và khí hậu.

ĐẨY NHANH DỰ ÁN VIE/039 HƯỚNG TỚI MỤC TIÊU PHỤC HỒI KINH TẾ CHO NHÓM YẾU THẾ

Dự án VIE/039 “Tài chính cho khả năng chống chịu- Thúc đẩy nông nghiệp thông minh với khí hậu và tài chính toàn diện tại thành phố Huế để cải thiện khả năng chống chịu của các nông hộ, đặc biệt là phụ nữ” do Chính phủ Luxembourg tài trợ, đã được UBND thành phố Huế phê duyệt triển khai trong thời gian 24 tháng, với tổng mức tài trợ 2 triệu Euro.

Dự án hướng đến các đối tượng thụ hưởng chính là nông hộ (bao gồm phụ nữ), hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ trong các chuỗi giá trị được lựa chọn. Thông qua các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật, nâng cao năng lực tiếp cận tài chính, mô hình nông nghiệp thông minh và kết nối thị trường, dự án kỳ vọng cải thiện đáng kể mức độ tự cường của các nhóm này trước các cú sốc từ khí hậu và thị trường.

 Phó Chủ tịch UBND thành phố Huế Hoàng Hải Minh phát biểu tại cuộc họp

Phó Chủ tịch UBND thành phố Huế Hoàng Hải Minh phát biểu tại cuộc họp

Sau khi được phê duyệt, dự án đã hoàn thiện bộ máy quản lý, kiện toàn nhân sự và khởi động các hoạt động bước đầu. Tuy nhiên, việc triển khai vẫn còn gặp vướng mắc liên quan đến cơ cấu tổ chức chính quyền địa phương hai cấp mới, cơ chế giải ngân cũng như thủ tục đầu tư công.

Để tháo gỡ vấn đề này, UBND thành phố Huế khẳng định sẽ chỉ đạo quyết liệt, đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi nhất về cơ chế, chính sách và nguồn lực. Đặc biệt, lãnh đạo thành phố cũng đánh giá cao vai trò phối hợp tích cực từ các đối tác trong nước, trong đó có Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Huế – đơn vị tham gia hỗ trợ triển khai các gói tài chính tiếp cận cho người dân.

PHỐI HỢP TRIỂN KHAI HIỆU QUẢ DỰ ÁN VIE/301 – THÍCH ỨNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU CHO HUẾ

Song song với dự án VIE/039, thành phố Huế cũng đang thực hiện dự án VIE/301 – “Thích ứng và chống chịu với biến đổi khí hậu tỉnh Thừa Thiên Huế”, do Chính phủ Luxembourg và Quỹ Khí hậu Xanh đồng tài trợ với tổng kinh phí 10 triệu USD, thực hiện trong vòng 5 năm.

Dự án nhằm nâng cao khả năng thích ứng của cộng đồng trước những rủi ro do biến đổi khí hậu, đồng thời giảm thiểu mức độ tổn thương thông qua việc phục hồi 400 ha rừng ven biển, xây dựng hệ thống cảnh báo sớm, hỗ trợ sinh kế và triển khai các chuỗi giá trị bền vững. Trong đó, yếu tố giới được lồng ghép xuyên suốt, ưu tiên phụ nữ trong các hoạt động nâng cao năng lực và tiếp cận hỗ trợ.

 Thành viên Ban chỉ đạo dự án trình bày phương pháp tiếp cận triển khai thực hiện dự án.

Thành viên Ban chỉ đạo dự án trình bày phương pháp tiếp cận triển khai thực hiện dự án.

Một trong những điểm nhấn của dự án VIE/301 là tham vọng đưa Huế trở thành mô hình kiểu mẫu trong cả nước về thích ứng với biến đổi khí hậu. Thông qua các hoạt động như quản lý rủi ro thiên tai, phục hồi hệ sinh thái, cải tiến mô hình nông nghiệp và hỗ trợ tài chính xanh, dự án không chỉ giải quyết bài toán trước mắt mà còn tạo nền tảng lâu dài cho phát triển bền vững.

Tại buổi họp, các ý kiến đã thảo luận, thống nhất cơ chế phối hợp giữa các bên trong quá trình triển khai; trong đó nhấn mạnh vai trò điều phối của UBND thành phố Huế với tư cách là cơ quan chủ quản, cùng sự hỗ trợ của các sở, ngành chuyên môn và các địa phương thụ hưởng.

Trước đó, vào cuối năm 2024, UBND thành phố Huế và Cơ quan Hợp tác Phát triển Luxembourg đã khởi động hai dự án nêu trên. Từ thời điểm đó đến nay, các bên liên quan đã duy trì trao đổi thường xuyên, đồng thời chủ động rà soát tiến độ thực hiện, điều chỉnh kế hoạch phù hợp với thực tiễn.

Theo ông Hoàng Hải Minh, mục tiêu quan trọng nhất là đảm bảo hiệu quả thực chất và bền vững của các dự án, tránh hình thức. Lãnh đạo thành phố cam kết sẽ tiếp tục đồng hành, tạo điều kiện tối đa để các hoạt động được triển khai đúng tiến độ, sát với mục tiêu và cam kết với phía Luxembourg.

Cuộc họp Ban chỉ đạo lần này không chỉ là dịp tổng kết, rà soát, mà còn là bước quan trọng để tăng cường liên kết, chia sẻ trách nhiệm và hướng đến kết quả rõ ràng trong giai đoạn tới. Đây cũng là minh chứng sinh động cho hiệu quả hợp tác phát triển quốc tế, đóng góp vào chiến lược phát triển bao trùm, xanh và bền vững của thành phố Huế.

Nguyễn Thuấn

 

Du lịch nâng tầm, nông nghiệp nâng chất

Tam Đường không chỉ thu hút du khách bởi vẻ đẹp kỳ vĩ của những dãy núi trùng điệp với những rừng hoa đỗ quyên bạt ngàn sắc màu, những bản làng mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, mà còn cuốn hút bởi những nông nghiệp đặc trưng. Lợi thế này đã mở ra hướng đi mới cho Tam Đường khi kết hợp hài hòa giữa du lịch với nông nghiệp trải nghiệm. Nhờ đó, vừa giúp du lịch tạo ra những sản phẩm du lịch mới mẻ, hấp dẫn mà còn nâng tầm giá trị nông sản, tạo sinh kế bền vững cho người dân.

Nhiều khách du lịch đặt câu hỏi rằng tới Tam Đường mùa nào đẹp nhất? Nhưng có lẽ, với mỗi người lại có những câu trả lời khác nhau. Bởi lẽ, mỗi mùa lại mang tới cho bản vùng cao những nét rất riêng. Mùa xuân tới bản Sì Thâu Chải khách du lịch sẽ được chiêm ngưỡng các loại hoa đua nhau khoe sắc thắm, với màu hồng của hoa đào, màu trắng của hoa mận, hoa lê và màu vàng của hoa địa lan. Không chỉ được tận mắt ngắm nhìn những loài hoa khoe sắc, du khách còn mua những cành đào, mận, lê hay những chậu địa lan về để trưng bày trong dịp tết. Ngoài ra, tại bản Sì Thâu Chải, trong các homestay đều trưng bày các sản phẩm nông sản như: mật ong, lợn, trâu gác bếp… để khách du lịch mua về làm quà biếu. Cùng với đó, khi lưu trú tại nhà của người dân bản địa, du khách không chỉ được nghỉ ngơi trong một bản bình yên mà còn có cơ hội hòa mình vào đời sống thường nhật, hiểu sâu hơn về văn hóa, phong tục tập quán và được mặc trang phục truyền thống của dân tộc Dao nơi đây. Ngoài ra, gần đây bản phát triển dịch vụ ngâm chân, tắm lá thuốc của người Dao, một trong nét văn hóa đặc sắc của địa phương.
Anh Phàn A Pao - Chủ Homestay Pao Còi (bản Sì Thâu Chải, xã Hồ Thầu) chia sẻ: “Những năm gần đây, tôi xây dựng homestay bằng gỗ khang trang, đẹp mắt. Để thu hút khách, tôi thường xuyên đăng tải về homestay và những bức ảnh, video về vẻ đẹp bình yên, mộng mơ của bản Sì Thâu Chải trên các mạng xã hội. Hàng ngày, tôi dọn phòng sạch sẽ; trồng hoa, cây cảnh, trang trí những bộ trang phục truyền thống dân tộc Dao xung quanh nhà để du khách tìm hiểu và khám phá nét đẹp văn hóa dân tộc Dao. Vào những thời điểm khác nhau trong năm, tôi dẫn du khách đi check-in vườn hoa đào, hoa mận, hoa địa lan, leo núi ngắm hoa đỗ quyên, đi thác Tác Tình hay đi hái quả đào, mận… Du khách khi được trải nghiệm rất thích thú, cảm giác được hòa mình với thiên nhiên. Cùng với đó, homestay phục vụ nhu cầu ăn, uống với các món ăn đặc trưng của Tây Bắc, bán các sản phẩm nông sản địa phương (mật ong, trâu gác bếp). Từ đó, khách du lịch trong và ngoài nước tới bản đông hơn, lượng khách lưu trú tăng lên nhiều so với những năm trước, tạo nguồn thu cho gia đình”.

 Anh Phàn A Pao - Chủ Homestay Pao Còi (bản Sì Thâu Chải, xã Hồ Thầu, huyện Tam Đường) giới thiệu nông sản địa phương.

Anh Phàn A Pao - Chủ Homestay Pao Còi (bản Sì Thâu Chải, xã Hồ Thầu, huyện Tam Đường) giới thiệu nông sản địa phương.

Đến Tam Đường vào mùa xuân du khách được ngắm nhìn những bông hoa lê trắng muốt thì vào mùa hè du khách lại được trải nghiệm hái lê trực tiếp tại các vườn, nhìn những chùm lê sai trĩu, căng, mọng thật là mãn nhãn. Để phát triển du lịch kết hợp với bán nông sản, nhiều vườn lê tại xã Giang Ma đã mở cửa để đón khách du lịch với giá 30.000 đồng/lượt khách vào vườn check-in.

Chị Nguyễn Hà Phương (đến từ Thành phố Hà Nội) chia sẻ: Tôi đã đến Tam Đường một vài dịp trong các lễ hội, được đi tham quan một số khu du lịch trên địa bàn huyện như: Cầu kính Rồng Mây, Ô Quy Hồ… Tôi thấy rất bất ngờ vì ở một tỉnh Tây Bắc xa xôi như Lai Châu lại có những công trình hiện đại, phong cảnh rất đẹp, khí hậu mát mẻ, trong lành, con người thân thiện, mến khách. Đặc biệt, lần này đến Lai Châu, tôi có thêm một trải nghiệm mới đó là được tự tay hái những trái lê do người dân bản địa trồng. Từ trước đến nay, tôi chỉ mua tại các chợ, siêu thị nhưng lần này được trải nghiệm, được tự hái và thưởng thức tại vườn tôi thấy rất thú vị. Tôi mua lê tại vườn về làm quà cho gia đình và bạn bè. Tôi thấy cách làm du lịch kết hợp với bán các sản phẩm nông nghiệp rất hay, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, vừa có những sản phẩm du lịch hấp dẫn để du khách trải nghiệm”.

Vào mùa thu, khi những thửa ruộng bậc thang ở xã Tả Lèng khoác lên mình sắc vàng tươi của những bông lúa chín cũng là lúc cảnh sắc nơi đây trở nên thật thơ mộng, hữu tình như một bức tranh tuyệt đẹp giữa núi rừng bao la. Hay như vào mùa đông, khách du lịch có thêm ngắm tuyết rơi, băng giá ở đỉnh đèo Ô Quy Hồ và ngắm cảnh, săn mây, tham quan khu du lịch Ô Quy Hồ (xã Sơn Bình) với nhiều góc sống ảo xinh đẹp. Những năm trở lại đây, Tam Đường đã để lại nhiều dấu ấn trong lòng du khách, như một “viên ngọc quý” nơi cuối trời Tây Bắc, nơi hội tụ vẻ đẹp thiên nhiên kỳ vĩ cùng bản sắc văn hóa độc đáo của 12 dân tộc và những sản vật nông nghiệp phong phú.

Trao đổi với chúng tôi, đồng chí Vũ Xuân Thịnh - Phó Chủ tịch UBND huyện Tam Đường cho biết: “Với mục tiêu mang đến những trải nghiệm độc đáo, hấp dẫn cho du khách, vừa tạo sinh kế bền vững cho người dân, huyện đã tập trung phát triển các loại cây trồng có tiềm năng, phù hợp điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của địa phương (đào, lê, mận, lúa, chanh leo…), nuôi ong, phát triển các sản phẩm OCOP gắn với phát triển du lịch cộng đồng. Đồng thời, huyện đẩy mạnh quảng bá hình ảnh về miền đất, con người, những nét đẹp thiên nhiên, văn hóa… qua các kênh truyền thông. Tại các bản du lịch cộng đồng, huyện định hướng cho nhân dân trồng các loại cây hoa, cây ăn quả để du khách vừa trải nghiệm, vừa được thưởng thức và cũng để bán cho khách du lịch. Hàng năm, huyện Tam Đường và các địa phương tổ chức rất nhiều lễ hội, ngày hội, trưng bày nông sản đặc trưng của địa phương như: miến dong Bình Lư, chanh leo, mận, đào, lê… để khách du lịch mua làm quà. Với những giải pháp đồng bộ đó, du lịch Tam Đường nâng tầm, khẳng định được vị thế trong bản đồ du lịch của Việt Nam, góp phần nâng chất cho các nông sản địa phương”.

Phương Thanh

 

Giá vật tư nông nghiệp tiếp tục tăng nhẹ trong 10 ngày đầu tháng 7

Trong 10 ngày đầu tháng 7-2025, thị trường vật tư nông nghiệp ghi nhận xu hướng tăng nhẹ ở một số mặt hàng chủ lực như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và thức ăn chăn nuôi, phản ánh áp lực từ giá nguyên liệu thế giới và chi phí logistics gia tăng.

Theo ghi nhận từ các đại lý tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên, giá phân bón DAP và NPK đồng loạt tăng từ 2–4% so với cuối tháng 6. Cụ thể, DAP Hàn Quốc tăng lên mức 14.500–15.000 đồng/kg, trong khi NPK 16-16-8 dao động quanh mức 12.500–13.000 đồng/kg. Nguyên nhân chính là do giá nguyên liệu đầu vào (amoniac, lưu huỳnh, kali) trên thị trường quốc tế phục hồi trong tháng 6 sau khi Trung Quốc siết xuất khẩu phân bón để đảm bảo nhu cầu nội địa.

 Bón phân cho lúa. Ảnh: Tư liệu

Bón phân cho lúa. Ảnh: Tư liệu

Trong khi đó, giá thuốc bảo vệ thực vật biến động không đồng đều. Một số hoạt chất phổ biến như Glyphosate và Abamectin tăng nhẹ từ 1–3%, do nguồn cung từ Trung Quốc và Ấn Độ vẫn chưa ổn định trở lại sau các đợt kiểm tra môi trường. Tuy nhiên, các sản phẩm nội địa hoặc generic vẫn giữ mức giá ổn định nhờ nguồn cung dồi dào.

Thức ăn chăn nuôi cũng chịu áp lực tăng giá, nhất là với các loại có nguồn gốc từ ngô và đậu nành nhập khẩu. Giá cám tăng trung bình 200–300 đồng/kg trong tuần đầu tháng 7, chủ yếu do giá bắp tại Mỹ và Brazil tăng trở lại sau dự báo sản lượng thấp vì thời tiết khô hạn. Một số doanh nghiệp sản xuất cám trong nước cho biết đang gặp khó khăn trong việc giữ giá bán ổn định vì chi phí vận chuyển và tỷ giá đô la tăng nhẹ trong thời gian qua.

Dù mức tăng hiện tại chưa tạo ra cú sốc lớn, nhưng nhiều nông dân đã bắt đầu lo ngại về đợt điều chỉnh giá vào cuối quí 3 – cao điểm canh tác vụ mùa.

Tổng hợp

Hồng Ngọc

 

Khởi nghiệp thành công từ mô hình nông nghiệp tuần hoàn

Trong bối cảnh nông nghiệp truyền thống đang đối diện với nhiều thách thức, vợ chồng chị Phạm Thị Hương (sinh năm 1986, xã Hồng Minh, tỉnh Hưng Yên), sáng lập Hợp tác xã Nông trại hữu cơ Thái Bình, đã mạnh dạn đưa nông nghiệp công nghệ cao về với đồng đất quê hương. Vượt qua khó khăn ban đầu, mô hình sản xuất nông nghiệp xanh, tuần hoàn của gia đình chị đang cho thấy hiệu quả kinh tế rõ rệt, góp phần tạo đột phá trong sản xuất tại địa phương.

"Chìa khóa" mở lối cho nông nghiệp hiện đại

 Chị Phạm Thị Hương kiểm tra vườn nho sữa Hàn Quốc trước khi thu hoạch.

Chị Phạm Thị Hương kiểm tra vườn nho sữa Hàn Quốc trước khi thu hoạch.

Tốt nghiệp với tấm bằng kỹ sư khoa Nông học thuộc Đại học Nông lâm Thái Nguyên năm 2009, chị Phạm Thị Hương, cô gái quê Ninh Bình, sớm bén duyên, lập nghiệp và xây dựng gia đình trên mảnh đất Thái Bình cũ (nay là tỉnh Hưng Yên).

Sau 10 năm (từ năm 2010 đến năm 2019) gắn bó kinh doanh trong lĩnh vực thức ăn chăn nuôi và thuốc thú y tại địa phương, chị Hương đã tích lũy nhiều kinh nghiệm về quản lý và sản xuất nông nghiệp. Năm 2019, khi đại dịch COVID-19 bùng phát để lại nhiều hệ lụy tới sức khỏe cộng đồng, chị Hương nảy ra ý tưởng về mô hình sản xuất xanh, nông nghiệp sạch, hướng tới sức khỏe người tiêu dùng.

Ban đầu, gia đình chị đầu tư xây dựng trang trại chăn nuôi gà theo mô hình an toàn sinh học, sử dụng đệm lót sinh học xử lý chất thải trong chăn nuôi. Chất thải này được trộn với phôi nấm thải để tạo dinh dưỡng, giá thể cho trồng nho, măng tây, dưa các loại... Trong chuỗi tuần hoàn, chị Hương cũng linh hoạt lựa chọn cây trồng theo mùa vụ để phù hợp với canh tác, bảo đảm "lấy ngắn nuôi dài".

Cuối năm 2021, chị Phạm Thị Hương cùng chồng là anh Hoàng Quốc Toản quyết tâm thành lập Hợp tác xã nông trại hữu cơ Thái Bình nhằm xây dựng thương hiệu riêng và tìm "chỗ đứng" cho nông sản từ mô hình nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ của gia đình. Đây là một trong những mô hình kinh tế tập thể tiêu biểu của địa phương trong ứng dụng công nghệ số, công nghệ cao vào sản xuất.

Hợp tác xã có quy mô khoảng 2 ha, chia thành 3 vùng: Trồng nấm, nuôi gà thịt, làm nhà màng trồng các loại cây như cà chua bi, nho hạ đen, nho sữa, bông cải xanh, cải bó xôi, xà lách thủy tinh, dưa lưới... Các loại cây này được trồng theo công nghệ cao, sử dụng hệ thống tưới tự động bằng kỹ thuật nhỏ giọt hoặc phun sương. Khi ứng dụng công nghệ cao, mỗi vùng sản xuất đều được giám sát chặt chẽ theo nhật ký điện tử nên giảm chi phí lao động và kiểm soát tốt các yếu tố kỹ thuật. Hệ thống này cũng giúp hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, góp phần tạo ra sản phẩm an toàn.

Theo chị Hương, ứng dụng công nghệ cao là “chìa khóa” cho nền nông nghiệp hiện đại, chất lượng, thân thiện môi trường, giúp tối ưu hóa nguồn lực và giảm thiểu chất thải. Bên cạnh đó, việc tiếp cận thị trường qua các nền tảng thương mại điện tử cũng là kênh tiêu thụ hiệu quả, gia tăng giá trị sản phẩm.

“Trái ngọt” từ nỗ lực khởi nghiệp xanh

 Với quy trình sản xuất sạch, công nghệ cao, vụ nho sữa Hàn Quốc đầu tiên của Hợp tác xã nông trại hữu cơ Thái Bình cho chất lượng tốt.

Với quy trình sản xuất sạch, công nghệ cao, vụ nho sữa Hàn Quốc đầu tiên của Hợp tác xã nông trại hữu cơ Thái Bình cho chất lượng tốt.

Trong số các loại cây trồng được đưa vào sản xuất, nho sữa Hàn Quốc là điểm nhấn đặc biệt của Hợp tác xã. Với diện tích nhà màng hơn 4.000 m², chị Hương mạnh dạn nhập khẩu giống nho sữa Hàn Quốc, giống nho được thị trường ưa chuộng bởi hương vị thơm ngon, vị ngọt thanh mát, giàu dinh dưỡng.

Để tạo ra sản phẩm chất lượng, Hợp tác xã áp dụng quy trình kỹ thuật canh tác khoa học, chặt chẽ từ chọn giống, làm đất, chăm sóc dinh dưỡng, cắt tỉa đến phòng trừ sâu bệnh theo hướng hữu cơ, công nghệ cao. Hệ thống nhà màng giúp kiểm soát nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, gió và ngăn chặn sâu bệnh; hệ thống tưới nhỏ giọt, phun sương tự động cung cấp nước đều đặn, tiết kiệm; hệ thống giàn leo tạo điều kiện cây phát triển tốt.

Với diện tích 4.000 m² trồng nho, vụ đầu tiên của Hợp tác xã dự kiến đạt sản lượng hơn 6 tấn, giá bán tại vườn là 250.000 đồng/kg. Sản phẩm được phân phối tới các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh.

Anh Hoàng Quốc Toản, chồng chị Hương chia sẻ, từ khi còn học đại học, hai vợ chồng đã cùng đam mê nông nghiệp. Sau khi ra trường, cả hai lựa chọn khởi nghiệp từ nông nghiệp, hành trình vất vả nhưng đầy tâm huyết. Nhờ quyết tâm và đồng thuận, mô hình nông nghiệp xanh, hiện đại, tuần hoàn của gia đình đã đạt hiệu quả kinh tế. Năm 2024, Hợp tác xã đạt doanh thu khoảng 10 tỷ đồng.

Không chỉ sản xuất nông sản sạch, chị Phạm Thị Hương còn phát triển mô hình gắn với Dự án “Sản xuất nông nghiệp xanh tuần hoàn kết hợp du lịch trải nghiệm”. Năm 2024, dự án là đại diện đầu tiên của tỉnh Thái Bình (cũ) vào chung kết quốc gia cuộc thi “Phụ nữ khởi nghiệp sáng tạo và chuyển đổi xanh” do Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động.

 Năm 2024, dự án “Sản xuất nông nghiệp xanh tuần hoàn kết hợp du lịch trải nghiệm" của chị Phạm Thị Hương được giải Nhì cấp vùng khu vực miền Bắc và giải Khuyến khích chung kết toàn quốc cuộc thi "Phụ nữ khởi nghiệp sáng tạo và chuyển đổi xanh", do Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động.

Năm 2024, dự án “Sản xuất nông nghiệp xanh tuần hoàn kết hợp du lịch trải nghiệm" của chị Phạm Thị Hương được giải Nhì cấp vùng khu vực miền Bắc và giải Khuyến khích chung kết toàn quốc cuộc thi "Phụ nữ khởi nghiệp sáng tạo và chuyển đổi xanh", do Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động.

Dự án đạt giải Nhì cấp vùng miền Bắc và giải Khuyến khích chung kết toàn quốc là sự ghi nhận xứng đáng cho nỗ lực và tâm huyết của chị Hương, đồng thời truyền cảm hứng mạnh mẽ cho phụ nữ trong khởi nghiệp, chuyển đổi sản xuất bền vững.

Ông Vũ Hoàng Anh, Chủ tịch Hội Nông dân xã Hồng Minh nhận định, mô hình phát triển kinh tế của Hợp tác xã nông trại hữu cơ Thái Bình là một điểm sáng của địa phương, mở ra hướng phát triển kinh tế mới. Đây là một ví dụ điển hình cho việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, đồng thời khai thác hiệu quả tiềm năng du lịch nông nghiệp.

Thời gian tới, Hội Nông dân xã sẽ tiếp tục đồng hành cùng chính quyền hỗ trợ mô hình mở rộng sản xuất, thúc đẩy du lịch trải nghiệm gắn với nông nghiệp. Đây không chỉ là sự chuyển đổi tư duy sản xuất, mà còn là khát vọng làm giàu từ chính mảnh đất quê hương bằng con đường nông nghiệp xanh, bền vững.

Bài, ảnh: Thu Hoài (TTXVN)

 

Về xứ Nghệ xem nông dân làm du lịch, xây dựng nông thôn mới

Từ cánh đồng sen ngát hương ở quê Bác đến những vườn hồng cổ trĩu quả, rồi làng hoa cây cảnh bốn mùa rực rỡ…, tất cả không chỉ là biểu tượng của một nền nông nghiệp đặc trưng mà đang dần trở thành điểm đến du lịch sinh thái hấp dẫn ở Nghệ An.

Gắn kết nông nghiệp với du lịch không chỉ tạo sinh kế cho người dân, mà còn là hướng đi chiến lược để các địa phương trong tỉnh xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu – nơi nông thôn “thay da đổi thịt” từ chính những giá trị truyền thống được làm mới bằng tư duy hiện đại.

Từ ruộng sen đến sản phẩm OCOP

Xã Kim Liên (mới) là điểm sáng trong việc chuyển đổi nông nghiệp gắn với du lịch sinh thái ở Nghệ An. Trên diện tích hơn 30 ha trồng sen, người dân trong xã đã khéo léo “làm du lịch từ sen” – một loại cây từng được trồng để tận dụng đất lúa kém hiệu quả.

 Nông nghiệp sinh thái kết hợp du lịch đang mang lại hiệu quả cao cho nông dân, HTX.

Nông nghiệp sinh thái kết hợp du lịch đang mang lại hiệu quả cao cho nông dân, HTX.

Nhờ những chiến lược phát triển sản xuất bài bản của các HTX, hộ nông dân, những đầm sen ở xóm Làng Sen 1, Làng Sen 2, Hoàng Trù, Liên Mậu… không chỉ nở rộ vào mùa hè, thu hút hàng ngàn lượt khách check-in mỗi mùa mà còn tạo ra hàng loạt sản phẩm OCOP giá trị trên địa bàn xã.

Đơn cử, HTX Sen Quê Bác do anh Phạm Kim Tiến làm Giám đốc là một điển hình trong xu hướng sản xuất nông nghiệp kết hợp du lịch. Từ các giống sen quý như sen hồng, sen ngàn cánh, sen Quan Âm…, HTX đã chế biến ra hơn 10 dòng sản phẩm như bột củ sen, trà sen ướp gạo truyền thống, rượu sen… đáp ứng cả thị trường bình dân lẫn cao cấp.

Không dừng lại ở đó, HTX còn tổ chức cho du khách trải nghiệm quy trình trồng, chăm sóc và chế biến sen – góp phần nâng cao nhận thức về nông nghiệp sạch, bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống.

Bên cạnh những đầm sen thơm ngát, xã Nghi Liên (nay là xã Vinh Hưng) và Nghi Ân (nay là xã Vinh Phú) là hai trong số những địa phương tiêu biểu đi đầu trong phát triển làng nghề sinh thái kết hợp sản xuất nông nghiệp đô thị.

"Thắp sáng" kinh tế nông thôn

Nghi Liên trước khi thực hiện sắp xếp địa giới hành chính nổi bật với làng hoa cây cảnh Trung Liên – nơi quanh năm xanh tươi, bốn mùa hoa nở. Nông dân trên địa bàn xã không chỉ trồng hoa Tết mà còn đa canh các loại rau củ hữu cơ như dưa lưới, bí, mướp hương, kết hợp chăm sóc bonsai, cây thế.

Tương tự, Nghi Ân đang hình thành những “phố hoa ven đô” với các dãy vườn cúc, vườn đào trải dài hai bên Quốc lộ 46. Du khách có thể ghé qua, mua sản phẩm đặc sản như ngô nếp, dưa lưới, rau an toàn… và trải nghiệm không gian làng quê yên bình chỉ cách trung tâm thành phố vài cây số.

Việc phát triển các nhà màng, nhà lưới trồng rau thủy canh ở đây không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cao mà còn đóng góp quan trọng trong tiêu chí môi trường – cảnh quan trong xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu.

Không chỉ ở đồng bằng, các mô hình nông nghiệp kết hợp du lịch sinh thái đang lan rộng ở miền núi Nghệ An – nơi từng được xem là “vùng trũng” phát triển kinh tế. Tại nhiều địa phương trong tỉnh, các homestay, farmstay đang trở thành điểm đến lý tưởng cho du khách ưa trải nghiệm.

 Thành công từ nông nghiệp gắn với du lịch là điểm tựa cho nông thôn mới ở Nghệ An.

Thành công từ nông nghiệp gắn với du lịch là điểm tựa cho nông thôn mới ở Nghệ An.

Mô hình farmstay ở xã Nam Giang (nay thuộc xã Kim Liên), Nam Anh (nay thuộc xã Đại Huệ) là ví dụ điển hình, nơi người dân vừa trồng rau, nuôi gà, vừa phục vụ ăn nghỉ, hướng dẫn du khách thu hoạch và chế biến nông sản.

Bên cạnh đó, các tour du thuyền trên sông Phà Lài kết hợp tham quan thác Khe Kèm và vườn cam sinh thái đã hình thành chuỗi du lịch nông nghiệp cộng đồng đặc sắc, qua đó góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, thúc đẩy xây dựng nông thôn mới ở nhiều địa phương vùng cao của tỉnh Nghệ An.

Mở đường cho nông thôn mới

Đáng chú ý, các HTX ở miền núi như HTX Dệt thổ cẩm Quế Phong, HTX cam Con Cuông… được hỗ trợ từ chương trình phát triển du lịch nông thôn đã biết cách liên kết người dân, tổ chức dịch vụ lưu trú, ẩm thực, giới thiệu sản vật địa phương. Đây là hướng đi bền vững, tạo sinh kế tại chỗ, gìn giữ văn hóa bản địa và từng bước thoát nghèo bền vững.

Những năm qua, các HTX đang thể hiện vai trò nòng cốt trong quá trình gắn kết nông nghiệp với du lịch sinh thái ở Nghệ An. Với lợi thế tổ chức sản xuất quy mô, liên kết thị trường và ứng dụng khoa học kỹ thuật, nhiều HTX đã chủ động mở rộng mô hình sản xuất xanh – sạch – đẹp để phục vụ cả sản xuất nông nghiệp và du lịch trải nghiệm.

Chẳng hạn, HTX Sen Quê Bác không chỉ trồng sen mà còn đầu tư xây dựng khu tham quan, showroom sản phẩm OCOP; HTX hoa cây cảnh Trung Liên tổ chức các tour trải nghiệm cắm hoa, chăm sóc bonsai; HTX dệt thổ cẩm bản Cọ Muồng kết hợp với các nhóm phụ nữ dân tộc Thái làm du lịch cộng đồng…

Theo Liên minh HTX tỉnh Nghệ An, từ năm 2023 đến nay, có ít nhất 12 mô hình du lịch nông nghiệp tại các huyện (trước đây) như Nam Đàn, Yên Thành, Anh Sơn, Con Cuông, Quế Phong… được hỗ trợ vốn từ chương trình kích cầu. Các HTX và tổ hợp tác tham gia đã đối ứng vốn, mở rộng quy mô, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho hàng trăm lao động nông thôn.

Đặc biệt, các lớp tập huấn do Liên minh HTX Việt Nam cùng Liên minh HTX tỉnh Nghệ An tổ chức với nội dung về du lịch nông thôn, quản trị điểm đến, phát triển sản phẩm… đã giúp các HTX chuyển từ tư duy sản xuất sang tư duy kinh doanh du lịch nông nghiệp, từng bước chuyên nghiệp hóa các mô hình farmstay, homestay, du lịch cộng đồng.

Việc kết hợp nông nghiệp với du lịch không chỉ làm tăng giá trị nông sản, mà còn mở ra sinh kế mới ở nhiều vùng quê. Từ việc trồng sen ở Nam Đàn, làm hoa ở Nghi Ân, trồng rau ở Con Cuông, làm thổ cẩm ở Quỳ Châu…, người dân đang từng bước chuyển mình, đưa văn hóa và nông sản của quê hương đến gần hơn với du khách.

Nghệ An đang đi đúng hướng khi tích cực triển khai chương trình hỗ trợ mô hình du lịch cộng đồng, kết hợp với chương trình xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, trong đó HTX là lực lượng then chốt. Không chỉ tổ chức sản xuất mà còn là chủ thể văn hóa, HTX đang là nơi giữ gìn bản sắc và dẫn dắt cộng đồng phát triển bền vững.

Khi mỗi cánh đồng hoa, mỗi ruộng sen, mỗi nếp nhà sàn được gìn giữ và phát huy đúng cách, nông thôn Nghệ An không chỉ đẹp hơn trong mắt du khách, mà còn trở nên đáng sống hơn với người dân.

Sự kết nối giữa HTX, người dân, chính quyền và sự đồng hành của Liên minh HTX Việt Nam cùng Liên minh HTX tỉnh Nghệ An đang thắp lên khát vọng về một nông thôn mới không chỉ đủ ăn mà còn đủ đầy – một vùng quê từng ngày đổi mới.

An Chi

 

Tăng trưởng nông nghiệp: Kiên định mục tiêu, linh hoạt giải pháp

Đây là quan điểm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN-MT) Đỗ Đức Duy đưa ra để thực hiện các mục tiêu tăng trưởng của ngành nông nghiệp trong 6 tháng cuối năm. Với đà tăng trưởng hiện nay, Bộ NN-MT khẳng định xuất khẩu cả năm 2025 sẽ đạt từ 65 tỷ USD trở lên.

 Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Nông sản chủ lực giữ đà tăng

Báo cáo của Bộ NN-MT cho biết, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tháng 6/2025 ước đạt 5,93 tỷ USD, tăng 5,3% so với tháng 6 năm 2024. Lũy kế 6 tháng, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 33,84 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm 2024.

Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt 18,46 tỷ USD, tăng 17,8%; giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt 264,4 triệu USD, tăng 10,1%; giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 5,16 tỷ USD, tăng 16,9%; giá trị xuất khẩu lâm sản đạt 8,82 tỷ USD, tăng 9,3%; giá trị xuất khẩu đầu vào sản xuất đạt 1,13 tỷ USD, tăng 23,6%; giá trị xuất khẩu muối đạt 5,7 triệu USD, tăng 2,4 lần.

Một số mặt hàng tiếp tục duy trì đà tăng trưởng như cà phê, cao su, gỗ, thủy sản... Theo đó, xuất khẩu cà phê tiếp tục là điểm sáng nổi bật khi tổng khối lượng xuất khẩu 6 tháng đạt 953.900 tấn, kim ngạch đạt 5,45 tỷ USD, tăng 5,3% về lượng và tăng tới 67,5% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Giá xuất khẩu cà phê bình quân đạt 5.708,3 USD/tấn, tăng mạnh 59,1% so với cùng kỳ năm 2024.

Thứ trưởng Bộ NN-MT Phùng Đức Tiến cho biết, sản lượng lớn nhất thường vào vụ thu hoạch từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, nên khả năng xuất khẩu các tháng cuối năm có thể không cao bằng những tháng đầu năm. Để đạt mục tiêu 7,5 tỷ USD cho cả năm, ngành cà phê cần thu về thêm 2 tỷ USD trong 6 tháng cuối năm.

Ngành thủy sản ghi nhận kim ngạch 5,16 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm 2024. Riêng tháng 6, giá trị xuất khẩu đạt khoảng 950 triệu USD. Các thị trường lớn gồm Trung Quốc (19,6%), Mỹ (18,2%) và Nhật Bản (15%).

Xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc tăng 53,7%, Mỹ tăng 22,8%, Nhật Bản tăng 9,1%. Mức tăng cao nhất ghi nhận tại Brazil (71,3%) và mức giảm thấp nhất tại Australia (1,4%).

Tiếp theo là xuất khẩu cao su khi ước đạt 130.000 tấn, trị giá 219,9 triệu USD. Tổng cộng 6 tháng đầu năm, khối lượng xuất khẩu đạt 680,1 nghìn tấn, kim ngạch đạt 1,27 tỷ USD, giảm 6,5% về lượng nhưng tăng 14,4% về giá trị. Giá xuất khẩu bình quân tăng 22,4%, đạt 1.864,7 USD/tấn.

Gạo cũng là mặt hàng tiếp tục đà tăng khi xuất khẩu đạt 4,9 triệu tấn, tương đương 2,54 tỷ USD, tăng 7,6% về lượng nhưng giảm 12,2% về giá trị.

Trái ngược, xuất khẩu rau quả tiếp tục gặp khó khăn khi chỉ đạt 3,05 tỷ USD, giảm 8,4% so với cùng kỳ năm 2024. Nguyên nhân chủ yếu đến từ sự sụt giảm mạnh của thị trường Trung Quốc-nơi chiếm 48,2% tổng giá trị xuất khẩu rau quả của Việt Nam. Xuất khẩu sang Trung Quốc giảm 35,1%, dù thị trường Mỹ tăng 65,2% và Hàn Quốc giảm nhẹ 5,3%. Hồng Kông ghi nhận mức tăng mạnh nhất với 69,2%.

Trong các mặt hàng rau quả, sầu riêng chiếm giá trị lớn nhất, dù hai tháng 5 và 6, lượng sầu riêng tươi xuất khẩu đã tăng trưởng rõ rệt, từ hơn 32.000 tấn lên tới 74.000 tấn mỗi tháng, đồng thời xuất khẩu 14.282 tấn sầu riêng đông lạnh, tăng gấp hơn 3 lần so với cùng kỳ 2024. Tuy nhiên, theo các chuyên gia giá trị xuất khẩu năm nay mặt hàng này rất khó có thể đạt được như năm ngoái.

Bám sát mục tiêu tăng trưởng

Với đà phục hồi khả quan ở nhiều nhóm hàng, cùng với nhóm giải pháp quyết liệt, Bộ NN-MT tin tưởng sẽ hoàn thành mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt 65 tỷ USD trở lên trong năm 2025.

Điều này càng được thể hiện mạnh mẽ khi mới đây Bộ trưởng Đỗ Đức Duy đã ký ban hành Kế hoạch đẩy mạnh xuất khẩu nông, lâm nghiệp và thủy sản trong quý 3 và quý 4 nhằm đạt được mục tiêu 65 tỷ USD.

Trong đó, Bộ NN-MT đề ra nhiều giải pháp, trọng tâm là mở rộng thị trường, đa dạng hóa sản phẩm, khai thác tối đa ưu đãi từ 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết cả song phương và đa phương.

Đồng thời, đặt ra kế hoạch mục tiêu cụ thể từ nay đến cuối năm 2025. Theo đó, trong quý 3/2025 phấn đấu mục tiêu tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt từ 14-15 tỷ USD. Quý 4/2025 sẽ tăng tốc xuất khẩu nông, lâm, thủy sản, tận dụng cơ hội nhu cầu tiêu thụ nông sản tăng dịp cuối năm dương lịch, lễ, Tết để phấn đấu đạt được mục tiêu tăng trưởng tốt đạt 16 tỷ USD trở lên.

Dù vậy, dự báo tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản trong 6 tháng cuối năm ước chỉ đạt khoảng 31,6 tỷ USD, giảm 4,8% so với cùng kỳ năm 2024, tương đương sụt giảm khoảng 1,6 tỷ USD, nếu mức thuế đối ứng hiện hành của Hoa Kỳ vẫn được duy trì. Trong bối cảnh đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xác định 3 nhóm giải pháp trọng tâm.

Thứ nhất, tiếp tục duy trì ổn định chuỗi cung ứng, phát triển mạnh các ngành hàng có lợi thế và dư địa phát triển.

Thứ hai, tận dụng tối đa các cơ hội từ chính sách giãn thuế, điều chỉnh cân bằng cán cân thương mại với Hoa Kỳ.

Thứ ba, đẩy mạnh xuất khẩu ngay từ đầu quý 3 để tạo đà tăng trưởng cho nửa cuối năm.

Bộ NN-MT cũng đề nghị các cơ quan chuyên ngành chủ động phối hợp cùng địa phương, đặc biệt là các tỉnh biên giới phía Bắc, để dự báo, theo dõi sát tình hình lưu thông hàng hóa, tránh ùn tắc ảnh hưởng đến tiến độ giao thương.

Đồng thời, cần có các hành động quyết liệt nhằm duy trì xuất khẩu tại các thị trường truyền thống; bổ sung dòng sản phẩm mới, thúc đẩy nhóm hàng có tiềm năng tại các thị trường như: Thủy sản sang Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN; gỗ và sản phẩm gỗ sang Trung Quốc, Nhật Bản, EU; rau gia vị và trái cây tươi sang Hàn Quốc, Nhật Bản, ASEAN; cà phê sang Trung Quốc, Nhật Bản, ASEAN.

Các mặt hàng có dư địa tăng trưởng mạnh như cà phê, hạt điều, tôm, cá, trái cây đặc sản... sẽ tiếp tục được hỗ trợ trong hoạt động xúc tiến thương mại, tiêu chuẩn hóa quy trình sản xuất để đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc. Đồng thời, Bộ cũng khuyến nghị tiếp tục khai thác các thị trường tiềm năng như Trung Đông, ASEAN, Nam Mỹ.

Để bảo đảm nguồn cung ổn định, Bộ NN-MT yêu cầu các địa phương chủ động xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn, hoàn thiện hệ thống mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói đạt chuẩn xuất khẩu. Các doanh nghiệp cần linh hoạt trong việc chuyển hướng thị trường, ưu tiên chế biến sâu nhằm tăng giá trị gia tăng, tăng khả năng cạnh tranh trong bối cảnh chi phí logistics và thuế suất ngày càng gia tăng.

BTV (tổng hợp)

 

Sản xuất và chế biến thanh long theo hướng nông nghiệp xanh

Hợp tác xã (HTX) Thanh long sạch Hòa Lệ tọa lạc tại thôn Nà Bồi, xã Hàm Thuận, tỉnh Lâm Đồng ra đời năm 2017. Sau 8 năm đi vào hoạt động, HTX đã không ngừng đổi mới, sáng tạo trong sản xuất và chế biến thanh long theo hướng nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn... Qua đó, từng bước khẳng định vị thế vững chắc trên thị trường, đưa nông sản của tỉnh vươn xa hơn.

 Các sản phẩm chế biến từ thanh long của HTX Thanh long sạch Hòa Lệ

Các sản phẩm chế biến từ thanh long của HTX Thanh long sạch Hòa Lệ

Ông Đỗ Thanh Hiệp - Giám đốc HTX Thanh long sạch Hòa Lệ cho biết: “HTX thành lập ngày 24/7/2017, hiện nay có 52 thành viên (thêm thành viên liên kết) với diện tích canh tác thanh long 45,6 ha. Trong đó, có 10 ha sản xuất theo tiêu chuẩn Global GAP, diện tích còn lại sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Đồng thời, liên kết chuỗi tiêu thụ với các HTX, hộ nông dân sản xuất thanh long VietGAP tại địa phương với diện tích trên dưới 200 ha”. Từ năm 2022 - 2024, HTX phát triển thêm vùng nguyên liệu thanh long xanh, giảm năng lượng tiêu thụ bằng phương pháp tưới nhỏ giọt, chong bóng đèn led 9W, sử dụng thêm điện năng lượng mặt trời, giảm khí phát thải nhà kính... Ngoài ra, HTX cũng đang phát triển thêm dịch vụ du lịch canh nông kết hợp với tham quan vùng trồng thanh long xanh, hầm rượu vang, tại thôn Dân Trí, xã Hàm Thuận Bắc, tỉnh Lâm Đồng. Đây sẽ là điểm đến tham gia ngoại khóa của học sinh, sinh viên và điểm tham quan lý tưởng trong thời gian tới cho du khách trong và ngoài nước.

Trong sự thách thức khó khăn về giá thành thị trường lên xuống không ổn định, cuối năm 2023 và năm 2024, HTX Thanh long sạch Hòa Lệ cùng các HTX, thành viên liên kết chuỗi cùng nhau xây dựng quy trình làm thanh long đạt chuẩn Global GAP theo tiêu chuẩn xuất khẩu sang EU, Mỹ, Úc, Nhật, Hàn… với giá thành bao tiêu ổn định. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp những trái thanh long tươi ngon nhất, Hòa Lệ đã mạnh dạn đầu tư vào dây chuyền chế biến hiện đại. Với khát vọng biến loại trái cây theo mùa thành những sản phẩm có thể thưởng thức quanh năm, HTX đã nghiên cứu và cho ra đời 17 sản phẩm đạt tiêu chuẩn OCOP và sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp tỉnh. Các sản phẩm chế biến từ thanh long được công nhận đạt tiêu chuẩn OCOP 3 sao như thanh long sấy dẻo & sấy thăng hoa, kem tươi & mứt thanh long, nước cốt thanh long, trà hoa thanh long, các loại rượu thanh long… “Trong năm 2024, HTX đã tiêu thụ trên dưới 8.000 tấn thanh long cho thành viên, giải quyết việc làm thường xuyên bình quân 80 - 100 lao động với thu nhập từ 5-10 triệu đồng/tháng, trong đó trên 90% là lao động nữ”, ông Hiệp cho biết thêm.

Theo ông Hiệp, HTX đang tiếp tục hợp tác mở rộng thị trường, nâng sản lượng thu mua xuất khẩu thanh long khoảng 10.000 tấn/năm. Tiếp tục phát triển thêm thành viên, mở rộng diện tích vùng trồng thanh long đạt chuẩn xuất đi các thị trường khó tính. Đồng thời, mở rộng nhà sơ chế, kho lạnh, đầu tư trang thiết bị máy móc công nghệ hiện đại, quy trình sản xuất đồng bộ theo tiêu chuẩn, Global GAP, Viet GAP, hữu cơ… Nghiên cứu phát triển thêm các sản phẩm chế biến mới lạ từ thanh long. Bên cạnh đó, tham gia chuỗi liên kết, nâng diện tích vùng trồng đạt chuẩn lên hơn 200 ha. Đặc biệt, xây dựng tiêu chuẩn vườn thanh long sạch, Global GAP khoảng 30 ha, áp dụng hệ thống tưới nhỏ giọt, chong trái vụ bằng bóng đèn led 9w, canh tác tiên tiến theo hướng nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn, giảm khí phát thải, phục vụ cho thị trường xuất khẩu...

Cùng với đó, HTX phát triển du lịch vườn, du lịch canh nông. Tiếp tục nâng cao thương hiệu, giá trị của sản phẩm để phát triển, hướng tới đạt tiêu chuẩn 4 sao, 5 sao, sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu, đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, tạo công ăn việc làm ổn định cho người lao động tại địa phương. Song song đó, phát triển các kênh bán hàng online, các sàn thương mại điện tử trong và ngoài nước. Đàm phán với các công ty xuất nhập khẩu bao tiêu giá ổn định, đưa HTX ngày càng phát triển, mang lại lợi ích cho thành viên và hiệu ứng tích cực trong xã hội.

HTX Thanh long sạch Hòa Lệ hiện là thành viên của Liên minh HTX tỉnh. Năm 2024, HTX vinh dự nhận B ằng khen của Liên minh HTX Việt Nam đã có thành tích xuất sắc trong xây dựng và phát triển KTTT, HTX năm 2024.

Thanh Thủy

 

Nông nghiệp công nghệ cao phát huy hiệu quả trên vùng nắng hạn

Trên dải đất nắng hạn khốc liệt ở phía nam tỉnh Khánh Hòa, những năm qua, nhờ sự kiên trì, bền bỉ của những người nông dân, nhà khoa học đã áp dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, tiên phong trồng các giống cây mới chịu hạn mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Điều tiết nguồn nước, dinh dưỡng... cho cây trồng bằng công nghệ

Những ngày đầu tháng 7, giữa nắng gió khô khốc nơi vùng đất phía nam Khánh Hòa, chúng tôi có mặt tại vùng trồng nho của Hợp tác xã (HTX) Dịch vụ tổng hợp Nông nghiệp Thái An (thôn Thái An, xã Vĩnh Hải). Dẫn chúng tôi tham quan vườn nho sum suê cây trái xanh mướt rộng hơn 5.000m2, ông Nguyễn Khắc Phòng - Chủ tịch Hội đồng kiêm Giám đốc HTX Dịch vụ tổng hợp Nông nghiệp Thái An chia sẻ: Để có được thành quả ngày hôm nay, đó là một sự nỗ lực dài hơi, bền bỉ, tiên phong áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đưa công nghệ cao vào sản xuất của các thành viên. Cũng như những vùng đất khô hạn khác ở phía nam Khánh Hòa, mỗi năm, vùng trồng nho Thái An có đến 6 tháng khô hạn (từ tháng 3 đến tháng 9), thiếu nước nên phát triển sản xuất nông nghiệp luôn là “bài toán” nan giải.

 Vùng trồng nho của Hợp tác xã Dịch vụ tổng hợp Nông nghiệp Thái An (thôn Thái An, xã Vĩnh Hải).

Vùng trồng nho của Hợp tác xã Dịch vụ tổng hợp Nông nghiệp Thái An (thôn Thái An, xã Vĩnh Hải).

Qua nhiều lần nghiên cứu, thử nghiệm, ông Phòng cùng các thành viên trong HTX đã mạnh dạn đầu tư nhà màng có mái che và áp dụng hệ thống tưới nước tiết kiệm. Nước tưới, chế độ dinh dưỡng cung cấp cho cây nho được điều chỉnh qua smartphone (điện thoại thông minh) để điều tiết lượng nước phù hợp, đặc biệt vào các tháng khô hạn. Đồng thời, các thành viên HTX đã mạnh dạn trồng giống nho mới để phù hợp với khí hậu nắng hạn, ít tốn nước như giống nho hạ đen (NH0126), nho ngón tay đen (NH04102)… “Hiện nay, toàn thôn Thái An đã có hơn 85% hộ dân làm nghề trồng nho, riêng HTX có hơn 20ha trồng nho. Nhờ điều tiết được nguồn nước, chế độ dinh dưỡng hợp lý, nho được trồng trong nhà màng có mái che đã phát triển tốt, năng suất hiện nay khoảng trên 25 tấn/ha. Giá nho hiện tại dao động từ 150.000 - 250.000 đồng/kg tùy loại, mang lại thu nhập cao; nhiều sản phẩm của HTX được làm từ nho và giống nho đã đạt chứng nhận OCOP 3 sao, 4 sao và được bán vào các siêu thị lớn trong và ngoài tỉnh” - ông Phòng chia sẻ. Cùng với làng nho Thái An, các làng nho: Văn Hải (phường Phan Rang), Nho Lâm (xã Thuận Nam) hiện nay đã ứng dụng công nghệ cao trên 85ha và còn thu hút đông du khách đến tham quan, trải nghiệm.

Không chỉ nho, nhiều loại cây trồng mới được nông dân áp dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ cao vào sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế cao. Ông Nguyễn Bình Minh - Giám đốc Công ty TNHH Trang trại Sông Dinh (xã Mỹ Sơn) chia sẻ: Trên vùng đất luôn đối mặt với khô hạn, thiếu nước, công ty đã đầu tư 20 nhà màng để trồng giống dưa lưới do Viện Nghiên cứu Bông và Phát triển Nông nghiệp Nha Hố (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) chuyển giao kỹ thuật. Tay nâng những trái dưa vàng ươm, trĩu nặng, ông Minh vui mừng cho biết: "Dưa nay đã đạt gần 50 "ngày tuổi", còn khoảng hơn 15 "ngày tuổi" nữa là thu hoạch, trọng lượng quả dưa khi thu hoạch đạt khoảng 1,8 - 2kg. Với diện tích nhà màng 2.000m2, năng suất thu hoạch khoảng 8 tấn dưa. Với giá bán tại vườn hiện tại là 45 ngàn đồng/kg sẽ cho thu nhập khoảng 350 triệu đồng.

Tiếp tục nghiên cứu các giống cây trồng chịu hạn

Trong những năm qua, tình trạng biến đổi khí hậu, đặc biệt là phía nam tỉnh đã tác động rất rõ rệt đến sản xuất nông nghiệp; nhiều diện tích không trồng trọt được hoặc trồng trọt với năng suất thấp. Do đó, nông nghiệp công nghệ cao sẽ là giải pháp tối ưu trong canh tác thích ứng với biến đổi khí hậu.

 Trồng giống dưa lưới trong nhà màng của Công ty TNHH Trang trại Sông Dinh (xã Mỹ Sơn).

Trồng giống dưa lưới trong nhà màng của Công ty TNHH Trang trại Sông Dinh (xã Mỹ Sơn).

Trao đổi với phóng viên, Tiến sĩ Mai Văn Hào - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Bông và Phát triển Nông nghiệp Nha Hố (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết: Hơn 5 năm qua, viện đã có những nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, trong đó có ứng dụng công nghệ cao, phù hợp với điều kiện khí hậu khô hạn tại địa phương. Điển hình là thiết kế nhà màng, nhà lưới và hệ thống điều khiển lượng nước, dinh dưỡng phù hợp cho cây trồng với chi phí giá thành thấp. Đồng thời, viện cũng nghiên cứu các giống cây trồng mới như: Nho, táo, xoài, mít, măng tây xanh, hành, tỏi… để nâng cao giá trị trên đơn vị diện tích, tiết kiệm chi phí, công lao động cho người nông dân. Đến nay, nhiều nông dân phía nam tỉnh Khánh Hòa áp dụng mô hình này có thu nhập trên 1 tỷ đồng/ha/năm. Tuy chi phí đầu tư ban đầu khá cao so với sản xuất nông nghiệp truyền thống, nhưng việc ứng dụng công nghệ mới về lâu dài sẽ tiết kiệm chi phí, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm do quy trình sản xuất được kiểm soát chặt chẽ. Đồng thời, với xu thế phát triển nông nghiệp công nghệ cao trong nông nghiệp sử dụng các loại phân bón hữu cơ, thuốc bảo vệ thực vật sinh học, an toàn khi sử dụng… cũng nâng cao dinh dưỡng cho đất, giảm thiểu tác hại ô nhiễm môi trường, bảo vệ sức khỏe con người. Không chỉ vậy, các mô hình nông nghiệp tiên tiến ứng dụng khoa học công nghệ như nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ còn phục vụ phát triển nông nghiệp kết hợp với du lịch, góp phần làm đa dạng sản phẩm du lịch của địa phương. "Thời gian tới, viện sẽ tiếp tục nghiên cứu cơ giới hóa, tự động hóa vào các khâu sản xuất, ứng dụng các kỹ thuật mới để giảm tối đa chi phí. Đồng thời, nghiên cứu những giống cây trồng chịu hạn, chịu nhiệt, chịu mặn tốt, có giá trị kinh tế vượt trội nhằm giúp nông dân sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao hơn” - Tiến sĩ Mai Văn Hào chia sẻ.

MÃ PHƯƠNG - THÁI THỊNH

 

Nông sản bứt phá xuất khẩu: Cà phê, trái cây và bài toán chất lượng bền vững

Từ cột mốc hơn 5,4 tỷ USD cà phê đến 3,1 tỷ USD trái cây, xuất khẩu nông sản Việt sáu tháng đầu năm đang bứt tốc ngoạn mục. Song, trước hàng loạt tiêu chuẩn mới về nguồn gốc, môi trường và chất lượng từ các thị trường khó tính, bài toán phát triển bền vững đòi hỏi cả ngành nông nghiệp phải thay đổi tư duy mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sáu tháng đầu năm 2025, nông sản Việt Nam tiếp tục khẳng định vị thế trên bản đồ thương mại thế giới khi đạt nhiều kỷ lục xuất khẩu mới. Cà phê lập đỉnh kim ngạch với hơn 5,4 tỷ USD, trở thành mặt hàng tăng trưởng mạnh nhất trong nhóm nông sản. Trái cây cũng duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định, mang về hơn 3,1 tỷ USD và giữ vững vai trò nhóm hàng xuất khẩu chủ lực. Những con số này không chỉ phản ánh nỗ lực của người nông dân và doanh nghiệp, mà còn cho thấy dư địa phát triển lớn của nông sản Việt. Tuy nhiên, đằng sau thành tích ấn tượng ấy, bài toán nâng cao tiêu chuẩn và chất lượng – yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh bền vững – vẫn đặt ra thách thức không nhỏ với toàn ngành.

 Nông sản Việt Nam tiếp tục khẳng định vị thế trên bản đồ thương mại thế giới.

Nông sản Việt Nam tiếp tục khẳng định vị thế trên bản đồ thương mại thế giới.

Theo ông Nguyễn Quốc Mạnh, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), với cây ăn quả, ưu tiên hàng đầu luôn là đảm bảo an toàn thực phẩm và duy trì mã số vùng trồng đạt chuẩn.

Ông Nguyễn Quốc Mạnh:"Về phát triển cây ăn quả, hiện nay, chất lượng là mối quan tâm hàng đầu. Trái cây là loại thực phẩm thường được sử dụng trực tiếp dưới dạng tươi, do đó, ưu tiên số một là đảm bảo chất lượng và an toàn thực phẩm. Để phát triển bền vững, cần chú trọng đến mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói. Hiện nay, khoảng 70% sản phẩm trái cây của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc. Tuy nhiên, thị trường này có yêu cầu về chất lượng không hề thua kém các thị trường khó tính như Nhật Bản, Châu Âu hay Mỹ. Vì vậy, việc đảm bảo an toàn thực phẩm là yếu tố then chốt."

Ông Nguyễn Quốc Mạnh cũng lưu ý, bên cạnh cây ăn quả, nhiều mặt hàng nông sản khác của Việt Nam đang đối mặt với những rào cản kỹ thuật mới từ các thị trường nhập khẩu. Những quy định này không chỉ dừng lại ở yêu cầu về chất lượng sản phẩm, mà còn mở rộng sang tiêu chuẩn sản xuất, bảo vệ môi trường và truy xuất nguồn gốc. Điều này đòi hỏi ngành nông nghiệp phải thay đổi tư duy phát triển theo hướng bền vững, có trách nhiệm hơn với hệ sinh thái toàn cầu.

Ông Nguyễn Quốc Mạnh: "Các thị trường nhập khẩu còn đặt ra những yêu cầu bổ sung. Ví dụ, với cà phê, Liên minh Châu Âu (EU) – nơi chiếm 40% sản lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam – đã ban hành quy định EUDR về chống phá rừng và suy thoái rừng. Hiện nay, giá cà phê đang cao, dẫn đến xu hướng mở rộng diện tích trồng tại các tỉnh. Tuy nhiên, cần đặc biệt lưu ý không sử dụng đất rừng để trồng cà phê. Chỉ cần vi phạm một lần, chúng ta có nguy cơ bị cấm xuất khẩu sang EU, gây thiệt hại lớn cho ngành."

Những con số tăng trưởng xuất khẩu nông sản nửa đầu năm nay đã khẳng định tiềm lực mạnh mẽ của Việt Nam. Nhưng nếu không hành động quyết liệt để đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng và bảo vệ môi trường, thành tựu hôm nay có thể trở thành rào cản cho ngày mai. Ngành nông nghiệp cần coi đây là thời điểm then chốt để tái cấu trúc, chuyển đổi tư duy sản xuất sang xanh, sạch, trách nhiệm, nhằm giữ chắc "tấm vé" bước vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Đào Tuấn

 

Sản xuất nông nghiệp tiếp tục là 'trụ đỡ', bảo đảm an ninh lương thực quốc gia

Tốc độ tăng trưởng của ngành là 3,85% nhờ trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản đều tăng năng suất và giá trị kết hợp kiểm soát tốt, khống chế dịch bệnh, phòng chống cháy rừng, thiên tai...

6 tháng đầu năm 2025, sản xuất nông nghiệp còn nhiều thách thức về thời tiết, dịch bệnh, song các địa phương tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất; khuyến khích nông dân sản xuất nông nghiệp an toàn, kiểm soát tốt dịch bệnh, cây trồng, vật nuôi cho năng suất chất lượng cao, góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, mở rộng thị trường xuất khẩu.

 Sản lượng sầu riêng tăng mạnh. Ảnh: Báo Nông nghiệp và Môi trường

Sản lượng sầu riêng tăng mạnh. Ảnh: Báo Nông nghiệp và Môi trường

Sản lượng trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản đều tăng

Theo Vụ Kế hoạch - Tài chính (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), sản xuất nông, lâm, thủy sản của cả nước trong 6 tháng đầu năm 2025 tiếp tục duy trì xu hướng tích cực. Một số nhóm ngành đạt mức tăng trưởng khá nhờ thời tiết thuận lợi, áp dụng khoa học, kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu sản xuất hiệu quả. Tốc độ tăng trưởng của ngành là 3,85% (nông nghiệp tăng 3,5%, lâm nghiệp tăng 7,4%, thủy sản tăng 4,2%).

Có được kết quả chung trên là do sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản có mức tăng cao sản lượng, năng suất, giá trị gia tăng; kiểm soát tốt, khống chế dịch bệnh, phòng chống cháy rừng; phòng chống thiên tai. Theo đó, diện tích gieo cấy lúa vụ đông xuân cả nước năm 2025 đạt 2.970,2 nghìn héc-ta, tăng 16,2 nghìn héc-ta so với năm trước. Năng suất lúa vụ đông xuân của cả nước ước đạt 68,5 tạ/ha, giảm 0,3 tạ/ha so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, nhờ mở rộng diện tích, sản lượng lúa vụ đông xuân cả nước năm 2025 ước đạt 20,4 triệu tấn, tăng 17,3 nghìn tấn so với năm 2024.

 Sản lượng lúa vụ đông xuân 2025 tăng mạnh. Ảnh: Ánh Ngọc

Sản lượng lúa vụ đông xuân 2025 tăng mạnh. Ảnh: Ánh Ngọc

Bên cạnh đó, các địa phương tích cực chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả sang cây hoa màu; diện tích rau, đậu tăng so với cùng kỳ năm trước; diện tích khoai lang, lạc, đậu tương tiếp tục giảm do hiệu quả kinh tế không cao. Đối với cây lâu năm, tính đến cuối tháng 6-2025, cả nước đạt 3.823,2 nghìn héc-ta, tăng 48,3 nghìn héc-ta so với năm 2024. Ngành thủy sản đạt tăng trưởng nhờ công nghệ và điều kiện thời tiết thuận lợi, sản lượng trên 4,55 triệu tấn, tăng 3,1%...

 
 Chăn nuôi gia súc, gia cầm ổn định và tăng mạnh. Ảnh: Hương Giang

Chăn nuôi gia súc, gia cầm ổn định và tăng mạnh. Ảnh: Hương Giang

Trong 6 tháng đầu năm 2025, chăn nuôi lợn và gia cầm tiếp tục phục hồi, dịch bệnh được kiểm soát, giá bán sản phẩm duy trì ở mức có lợi cho người chăn nuôi, thị trường tiêu thụ trong nước ổn định; chính sách hỗ trợ về con giống, thức ăn chăn nuôi và vốn vay ưu đãi đã góp phần khuyến khích người dân tái đàn, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng đàn vật nuôi. Chăn nuôi trâu, bò giảm do hiệu quả kinh tế không cao, diện tích chăn thả bị thu hẹp. Cục trưởng Cục Chăn nuôi và Thú y (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Dương Tất Thắng cho biết, đến cuối tháng 6-2025, đàn lợn của cả nước tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước; đàn gia cầm tăng 4%, trong khi tổng số trâu giảm 3,4%, đàn bò giảm 0,6%. Đặc biệt, xu hướng chuyển sang chăn nuôi an toàn sinh học, công nghệ cao đang lan rộng, nên dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm cơ bản được kiểm soát.

 Tốc độ tăng trưởng (GRDP) ngành Nông nghiệp tăng 3,21%. Ảnh: Hương Giang

Tốc độ tăng trưởng (GRDP) ngành Nông nghiệp tăng 3,21%. Ảnh: Hương Giang

Tại Hà Nội, trong 6 tháng đầu năm 2025, tốc độ tăng trưởng (GRDP) ngành Nông nghiệp tăng 3,21%. Toàn thành phố gieo trồng cây hằng năm vụ xuân được 101.790,7ha, tăng 244,93ha so với cùng kỳ năm trước. Chăn nuôi phát triển ổn định với đàn trâu có 28,8 nghìn con; đàn bò 111,3 nghìn con; đàn lợn 1,3 triệu con; đàn gia cầm 36 triệu con. Phát triển thủy sản theo hướng bền vững, năng suất, chất lượng cao gắn với bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ môi trường sinh thái. Các vùng nuôi trồng thủy sản tiếp tục phát triển theo hướng bền vững, an toàn và ứng dụng kỹ thuật cao vào sản xuất...

Nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm

Để bảo đảm mục tiêu tăng trưởng, theo Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội Nguyễn Xuân Đại, Hà Nội tập trung phát triển tại các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn, sản xuất theo hướng hàng hóa; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất rau, đậu, cây ăn quả, hoa và cây cảnh; nâng diện tích sản xuất theo hướng hữu cơ trên các cây trồng chủ lực, nhất là đối với sản xuất rau, đậu, cây ăn quả; khai thác hiệu quả diện tích đất bãi sông, tập trung phát triển cây rau, đậu thực phẩm, cây ăn quả, sản xuất theo hướng ứng dụng công nghệ cao, sản xuất theo hướng trang trại gắn với kết hợp du lịch sinh thái, du lịch trải nghiệm.

Ngoài ra, phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất con giống, cơ cấu lại đàn vật nuôi, tập trung phát triển con giống chất lượng cao trên cơ sở lưu giữ và bảo tồn các giống bản địa chất lượng cao; rà soát cơ cấu nuôi trồng thủy sản, bảo đảm điều kiện nuôi an toàn dịch bệnh với diện tích nuôi trồng thủy sản 24.700ha, sản lượng đạt 136,5 nghìn tấn.

 Hà Nội tập trung phát triển nông nghiệp xanh, du lịch sinh thái. Ảnh: Ánh Ngọc

Hà Nội tập trung phát triển nông nghiệp xanh, du lịch sinh thái. Ảnh: Ánh Ngọc

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho rằng, từ nay đến cuối năm 2025, các địa phương tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại ngành, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng sản phẩm và hiệu quả sản xuất, kinh doanh nông, lâm, thủy sản; bảo đảm nguồn cung phục vụ xuất khẩu, tiêu dùng trong nước và an ninh lương thực quốc gia. Cùng với đó, Bộ đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính gắn với chuyển đổi số, tháo gỡ rào cản, nút thắt cơ chế, chính sách, thủ tục...

Đặc biệt, để đạt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu năm 2025 đạt 65 tỷ USD, Bộ sẽ phối hợp với các bộ, ngành, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả công tác đàm phán, mở cửa thị trường, xúc tiến thương mại, xử lý các vấn đề trong thương mại, đặc biệt là thị trường Mỹ; kịp thời thông tin, hướng dẫn doanh nghiệp, người dân điều chỉnh phương án sản xuất, kinh doanh phù hợp; phối hợp xử lý ưu tiên thông quan đối với hàng nông sản, nhất là nông sản đang vụ thu hoạch, xuất khẩu dạng tươi sống.

 Ngành Nông nghiệp và Môi trường siết chặt quản lý mã số vùng trồng. Ảnh: Báo Nông nghiệp và Môi trường

Ngành Nông nghiệp và Môi trường siết chặt quản lý mã số vùng trồng. Ảnh: Báo Nông nghiệp và Môi trường

Bên cạnh đó, Bộ siết chặt quản lý mã số vùng trồng, thực hiện nghiêm quy định về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, kiểm soát chất lượng hàng nông sản ngay từ khâu thu hoạch…, đáp ứng yêu cầu kiểm dịch hàng xuất khẩu; đẩy mạnh truyền thông phát triển nông nghiệp và bảo vệ môi trường bền vững; khắc phục hiện tượng thông tin không chính xác ảnh hưởng đến tâm lý người tiêu dùng và các tổ chức sản xuất - kinh doanh, nhất là về an toàn thực phẩm…

Ngọc Quỳnh

 

Đổi mới trong sản xuất nông nghiệp

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, cùng với yêu cầu cao hơn về chất lượng sản phẩm và xu thế chuyển đổi sang nền nông nghiệp xanh, tuần hoàn, đổi mới cơ cấu cây trồng đang trở thành yêu cầu tất yếu để ngành Nông nghiệp Thái Nguyên phát triển nhanh, bền vững.

 Cánh đồng áp dụng mô hình canh tác lúa thông minh - tưới ướt, khô xen kẽ (AWD) tại xã Hợp Thành.

Cánh đồng áp dụng mô hình canh tác lúa thông minh - tưới ướt, khô xen kẽ (AWD) tại xã Hợp Thành.

Một trong những hướng đi tiên phong của Thái Nguyên là chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng hữu cơ, công nghệ cao, tăng giá trị thay vì chạy theo sản lượng.

Tại Hợp tác xã chè Hảo Đạt (xã Tân Cương), dù đã có vùng nguyên liệu trên 10ha với hơn 50 hộ liên kết, nhưng quy mô sản xuất hiện tại vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu canh tác hữu cơ đồng bộ. Việc thâm canh không liền thửa khiến quy trình chăm sóc thiếu thống nhất, khó kiểm soát chất lượng.

Để khắc phục, HTX đã đổi mới giống chè, ứng dụng số hóa vào quản lý chăm sóc, thực hiện canh tác thông minh, hiện đại, tiết kiệm chi phí và tăng chất lượng sản phẩm.

 Chế biến chè sen tại HTX chè Hảo Đạt.

Chế biến chè sen tại HTX chè Hảo Đạt.

Bà Đào Thanh Hảo, Giám đốc HTX chè Hảo Đạt, cho biết: Chúng tôi đổi mới cơ cấu giống, áp dụng số hóa vào vận hành, nhờ đó vừa nâng được sản lượng, tiết kiệm nhân công, tối ưu hóa chi phí, vừa nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng tính cạnh tranh. Minh chứng rõ nhất của chúng tôi là quá trình chuyển đổi số, thực hiện canh tác theo hướng hiện đại để chăm sóc cây chè tốt nhất.

Xác định cây chè là cây trồng chủ lực, có vai trò then chốt trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TU nhằm phát triển ngành chè theo hướng hiện đại, bền vững.

Nghị quyết đặt ra một số mục tiêu cụ thể đến năm 2030, gồm: 70% diện tích chè đạt tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ; mở rộng diện tích chè đạt 24.500ha, sản lượng chè búp tươi đạt 300.000 tấn; 100% cơ sở sản xuất, chế biến chè ứng dụng công nghệ số; xây dựng các sản phẩm chè OCOP 5 sao, gắn phát triển sản xuất với du lịch trải nghiệm vùng chè.

Để thực hiện, các địa phương trong tỉnh đã tích cực chuyển đổi giống chè mới chất lượng cao, ứng dụng quy trình kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất. Tỉnh huy động các nguồn lực để hỗ trợ người dân cải tạo vườn chè, đầu tư máy móc thiết bị chế biến, xây dựng vùng nguyên liệu gắn với các HTX, doanh nghiệp. Hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu chè Thái Nguyên được triển khai đồng bộ.

Đến nay, toàn tỉnh có hơn 24.000ha chè, trong đó gần 83% diện tích đã được trồng bằng giống mới chất lượng cao. Sản lượng chè búp tươi đạt 272.800 tấn. Tổng giá trị ngành chè ước đạt hơn 14.800 tỷ đồng. Hàng trăm sản phẩm từ chè của tỉnh đạt tiêu chuẩn OCOP từ 3 đến 5 sao, mở rộng thị trường ra nhiều quốc gia.

Cùng với chè, tỉnh tập trung phát triển các cây ăn quả chủ lực như na, nhãn, bưởi. Với hơn 14.000ha cây ăn quả, Thái Nguyên đang đẩy mạnh rải vụ, áp dụng công nghệ tưới, bao quả, thụ phấn bổ sung. Năm 2024, toàn tỉnh trồng mới 510ha cây ăn quả (200ha na, 150ha bưởi, 160ha nhãn). Riêng vùng na Võ Nhai có trên 151ha được cấp chứng nhận VietGAP, sản lượng 6.000 tấn/năm, doanh thu gần 80 tỷ đồng.

Các mô hình thâm canh, rải vụ, số hóa quy trình chăm sóc giúp giá bán na vượt 66.000 đồng/kg, nhiều hộ thu nhập cao nhờ cây na. Mô hình "vườn na số" tại xã Võ Nhai đang được triển khai thí điểm theo Kế hoạch 211 của UBND tỉnh Thái Nguyên.

Trung tâm Khuyến nông tỉnh đã phối hợp theo dõi, hướng dẫn kỹ thuật, ghi chép sản xuất, dự kiến thu hoạch vào tháng 8-2025 với năng suất 14-17kg/cây. Đây là nền tảng để mở rộng ứng dụng chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp.

Mô hình "vườn na số" tại xã Võ Nhai đang được triển khai thí điểm theo Kế hoạch 211 của UBND tỉnh Thái Nguyên. Trung tâm Khuyến nông tỉnh đã phối hợp theo dõi, hướng dẫn kỹ thuật, ghi chép sản xuất. Dự kiến thu hoạch vào tháng 8-2025 với năng suất 14-17kg/cây. Đây là nền tảng để mở rộng ứng dụng chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp.

Đố với cây lúa, toàn tỉnh hiện có trên 60% diện tích lúa là giống chất lượng cao, như: J02, TBR225... Ngành Nông nghiệp đang thúc đẩy canh tác xanh, hữu cơ, hướng đến tín chỉ carbon. Năm 2025, tỉnh phấn đấu đạt sản lượng lương thực hơn 625 nghìn tấn, trong đó lúa đạt trên 493 nghìn tấn.

Ông Nguyễn Đình Thông, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh Thái Nguyên, cho biết: Việc ứng dụng khoa học - kỹ thuật như chế phẩm sinh học, tưới nhỏ giọt, số hóa quy trình chăm sóc đang làm thay đổi căn bản cách làm nông. Chúng tôi tập trung vào những mô hình hiệu quả, có thể nhân rộng nhanh, nhất là trong sản xuất cây ăn quả như na, bưởi, nhãn.

Bà Hoàng Thị Kim Oanh, Trạm trưởng Trạm Kiểm dịch thực vật nội địa tỉnh: Ngành đang hướng dẫn nông dân chuyển đổi canh tác theo hướng hữu cơ, giảm phân hóa học, hướng tới nền nông nghiệp xanh, có trách nhiệm với môi trường.

Những bước đi quyết liệt từ chính quyền, cộng hưởng với quyết tâm của người dân và sự đồng hành của nhà khoa học, đang giúp nông nghiệp Thái Nguyên chuyển mình mạnh mẽ. Đổi mới cơ cấu canh tác không chỉ mang lại giá trị kinh tế, mà còn tạo nền tảng để nông nghiệp tỉnh phát triển xanh, thông minh, hiệu quả, bền vững trong thời gian tới.

Bá Hoàng

 

Xuất khẩu hoa tiếp tục tăng trưởng khá

Năm 2025, hoa vẫn là một trong các ngành hàng chủ lực và còn nhiều tiềm năng trong xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của tỉnh.

 Hoạt động xuất khẩu hoa tỉnh Lâm Đồng tiếp tục ghi nhận sự tăng trưởng lớn về giá trị và sản lượng

Hoạt động xuất khẩu hoa tỉnh Lâm Đồng tiếp tục ghi nhận sự tăng trưởng lớn về giá trị và sản lượng

Theo Hiệp hội Hoa Đà Lạt, hiện nay, toàn tỉnh Lâm Đồng có khoảng 10.908 ha chuyên canh sản xuất hoa, với sản lượng ước đạt 4,4 tỷ cành hoa/năm. Riêng trong năm 2024, ngành hoa tỉnh Lâm Đồng xuất khẩu khoảng 494 triệu cành, hoa, lá, ngọn, cây giống, trị giá gần 99 triệu USD. Các loại hoa cắt cành chủ yếu hiện nay do nông dân canh tác chính như: cúc, hồng, lay ơn, cẩm chướng, đồng tiền, hồng môn, lily, hồ điệp, cát tường, địa lan, vũ nữ... Cùng với đó, một số loại hoa chậu chiếm diện tích và sản lượng nhỏ nhưng lại có tiềm năng phát triển lớn như cúc chậu, thu hải đường, tulip với khoảng 1.450 ha.

Hoạt động trồng hoa đã mang lại nguồn thu nhập rất lớn cho các hộ nông dân trung bình khoảng 1 tỷ đồng/ha/năm; riêng thu nhập trồng hoa công nghệ cao trong nhà kính đạt 3 tỷ đồng/ha/năm. Có thể thấy, với mức tăng trưởng bình quân hằng năm 10% về diện tích trồng và 15% về sản lượng hoa, ngành trồng hoa của Lâm Đồng vẫn đang phát triển và có thế mạnh lớn so với các khu vực khác trong cả nước.

Trong 6 tháng đầu năm 2025, tỉnh đã xuất khẩu được hơn 142 triệu cành hoa các loại; trong đó, chiếm tỷ lệ đa số là các loại hoa, lá tươi cắt cành và hoa cúc. Hoạt động xuất khẩu hoa tươi cắt cành đã mang về doanh thu 42,62 triệu USD.

Ông Lại Thế Hưng - Phó Chủ tịch Hiệp hội Hoa Đà Lạt cho biết, sản xuất hoa là một trong các ngành hàng chủ lực trong sản xuất nông nghiệp, có tiềm năng phát triển lớn, có vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của ngành Nông nghiệp Lâm Đồng và tạo sự khác biệt, lợi thế cạnh tranh với các vùng sản xuất khác trong nước.

Tỉnh Lâm Đồng cũng đã hình thành hệ thống logistics phù hợp và hiệu quả đáp ứng thị trường “cung - cầu” trong và ngoài nước, tạo sự tăng trưởng nhanh và bền vững tạo động lực cho người sản xuất, kinh doanh hoa đầu tư công nghệ cao trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, vận hành chuỗi giá trị ngành hoa hội nhập quốc tế ứng phó linh hoạt với các biến động về khí hậu, dịch bệnh.

Cùng với đó, người dân và doanh nghiệp không ngừng tiếp cận nhanh thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới, chú trọng nghiên cứu ứng dụng công nghệ trong nước để nâng cao sức cạnh tranh của ngành hoa.

Đặc biệt, để hoạt động sản xuất hoa bền vững, UBND tỉnh Lâm Đồng cũng đã phê duyệt chiến lược phát triển bền vững ngành hoa tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2024-2030, định hướng đến 2050. Theo đó, mục tiêu cụ thể đến năm 2030, tỉnh Lâm Đồng sẽ mở rộng quy mô vùng sản xuất hoa, nâng cao hiệu quả sử dụng đất để đến năm 2030 sản lượng hoa toàn tỉnh đạt 5,4 tỷ cành và 0,5 tỷ chậu hoa các loại; giá trị sản xuất ngành hoa đạt trên 15.000 tỷ đồng; giá trị thu hoạch bình quân đạt trên 3,7 tỷ đồng/ha; kim ngạch xuất khẩu hoa đạt trên 217 triệu USD.

Đồng thời, có ít nhất 5 vùng sản xuất hoa ứng dụng công nghệ cao được công nhận với quy mô trên 2.500 ha; hình thành cụm công nghiệp sản xuất giống nuôi cấy mô mang tầm khu vực với sản lượng trên 120 triệu cây giống invitro/năm. Đưa vào hoạt động Trung tâm Giao dịch hoa và xây dựng thêm 1 - 2 trung tâm logistics theo hướng đồng bộ, chuyên nghiệp và hiện đại cho ngành hoa gắn kết hợp lý với định hướng vùng sản xuất, quy hoạch giao thông vận tải.

HOÀNG SA

 

Để đạt mục tiêu tăng trưởng ngành nông nghiệp

Bức tranh nền nông nghiệp Lâm Đồng mới không những được mở rộng diện tích, quy mô sản xuất mà còn đa dạng hóa sản phẩm hơn. Với mục tiêu đạt mức tăng trưởng 5,44% đối với khu vực I (nông - lâm - thủy) trong năm 2025, đâu là giải pháp để thực hiện hoàn thành nhiệm vụ này?

 Sản xuất cà chua baby công nghệ cao

Sản xuất cà chua baby công nghệ cao

Trên 793.540 ha sản xuất nông nghiệp

Theo khảo sát, thống kê sơ bộ của Viện Môi trường Nông nghiệp, hiện trạng sản xuất nông nghiệp của Lâm Đồng có quy mô diện tích rất lớn với tổng diện tích trồng trọt trên 793.540 ha (số liệu được làm tròn). Trong đó, 224.000 ha canh tác cây lương thực có hạt, gần 106.500 ha rau, hoa, hơn 393.300 ha cây công nghiệp và 79.800 ha cây ăn quả. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực chăn nuôi, toàn tỉnh có gần 1,5 triệu gia súc và trên 15,8 triệu gia cầm. Riêng rừng Lâm Đồng có tổng diện tích trên 1,1 triệu ha...

Từ số liệu nêu trên cho thấy, bức tranh nông nghiệp Lâm Đồng trải rộng từ cao nguyên xuôi xuống đồng bằng duyên hải nên tích hợp điều kiện thuận lợi về mặt tài nguyên nông nghiệp. Đặc biệt là sự đa dạng địa hình, khí hậu, đất đai tạo ra các vùng sinh thái khác nhau đối với cây trồng, vật nuôi... nên kéo theo các sản phẩm nông nghiệp cũng phong phú, đa dạng hơn những tỉnh khác. Đó là các sản phẩm nông nghiệp miền ôn đới trên cao nguyên Lâm Viên hay vùng đất bình sơn nguyên đất đỏ bazan bán cao nguyên rộng lớn... cho đến vùng nhiệt đới gió mùa ven biển.

Chiếm 27,26% cơ cấu kinh tế

Dễ dàng nhận diện các sản phẩm mang lợi thế riêng có của vùng sinh thái ôn đới chuyên sản xuất rau, hoa, dâu tây, chè, cây dược liệu, nuôi cá nước lạnh và chăn nuôi bò sữa chất lượng cao... Còn vùng sinh thái đất đỏ bazan bán cao nguyên sản xuất lượng lớn cà phê, hồ tiêu, lúa gạo, cây ăn quả. Vùng khô hạn duyên hải có lợi thế sản xuất thanh long, nho, táo, măng tây, dưa lưới và chăn nuôi dê, cừu. Hiện tại, các địa phương trong tỉnh đang thúc đẩy phát triển nông nghiệp, trong đó chú trọng sản xuất theo hướng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn...

Theo báo cáo của Sở Tài chính tỉnh Lâm Đồng, trong 6 tháng đầu năm 2025, tốc độ tăng trưởng khu vực nông - lâm - thủy tăng 5,14% so với cùng kỳ, đóng góp không nhỏ vào tốc độ tăng GRDP chung của tỉnh ước tăng 5,97% so với cùng kỳ và chiếm 27,26% cơ cấu của nền kinh tế Lâm Đồng tính đến thời điểm này.

Kịch bản tăng 5,57%

Lâm Đồng đã đề ra các nhiệm vụ cũng như giải pháp để thực hiện thành công kịch bản tăng trưởng 5,57% đối với khu vực nông - lâm - thủy trong 6 tháng cuối năm 2025 nhằm hoàn thành kế hoạch tăng 5,44% cả năm, từ đó góp phần vào mục tiêu đảm bảo tăng trưởng GRDP năm 2025 của nền kinh tế Lâm Đồng đạt từ 8% trở lên.

Để đạt được mục tiêu nêu trên, UBND tỉnh Lâm Đồng đã chỉ đạo các sở, ngành và địa phương cần tập trung triển khai thực hiện các nhiệm vụ cụ thể, chủ yếu đối với lĩnh vực nông - lâm và thủy sản. Đồng thời nhấn mạnh việc phát triển sản xuất và đẩy mạnh triển khai các chương trình, đề án năm 2025. Trước mắt, đẩy nhanh tiến độ thu hoạch vụ hè thu, làm đất xuống giống vụ mùa; chăm sóc thu hoạch cây công nghiệp, cây ăn quả; mở rộng phát triển vùng sản xuất công nghệ cao, tăng hệ số gieo trồng, nâng cao năng suất, sản lượng... Song song đó là phát triển chăn nuôi và thủy sản theo hướng trang trại quy mô lớn, an toàn sinh học đảm bảo đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra.

Mặt khác, tỉnh cũng tăng cường các giải pháp chủ động ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai và bảo vệ môi trường, nhất là theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết, nguồn nước, khí tượng thủy văn để kịp thời ứng phó, khắc phục hiệu quả nhằm giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai, đảm bảo ổn định sản xuất, sinh hoạt và an toàn cho người dân cũng như đảm bảo an ninh nguồn nước. Thực hiện nghiêm công tác quản lý và bảo vệ rừng đi đôi với việc thực hiện tốt chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, mở rộng nguồn thu từ một số dịch vụ khác...

Xuân Trung

 

Vĩnh Long đẩy mạnh phát triển thế mạnh ngành hàng dừa

Vĩnh Long tập trung chế biến sâu các sản phẩm từ dừa để nâng cao giá trị kinh tế và thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành hàng dừa nói riêng, cũng như kinh tế nông nghiệp của tỉnh nói chung.

Sau khi sáp nhập, diện tích dừa của Vĩnh Long đứng đầu cả nước, với gần 120.000 ha, trong đó khoảng 26.000 ha được trồng theo hướng hữu cơ. Với diện tích này, dừa trở thành cây trồng chủ lực, có tiềm năng kinh tế lớn và tỉnh đang tập trung khai thác và phát triển theo hướng hiệu quả, bền vững từ ngành hàng này.

 Vùng chuyên canh dừa của tỉnh Vĩnh Long

Vùng chuyên canh dừa của tỉnh Vĩnh Long

Theo đó, tỉnh tập trung chế biến sâu các sản phẩm từ dừa, bao gồm nước cốt dừa, cơm dừa sấy, kẹo dừa, mỹ phẩm từ dừa… để nâng cao giá trị kinh tế và thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành hàng dừa nói riêng, cũng như kinh tế nông nghiệp của tỉnh nói chung.

Đồng thời, đẩy mạnh xây dựng vùng sản xuất tập trung, tổ chức liên kết chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ, theo hướng hiện đại và bền vững. Qua đó, giúp tối ưu hóa lợi ích cho nông dân, doanh nghiệp và các bên liên quan, đồng thời mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.

Trong giai đoạn 2026 - 2030, Vĩnh Long sẽ tiếp tục phát triển ổn định diện tích dừa, với mục tiêu đạt hơn 30.000 ha dừa hữu cơ và mở rộng diện tích được cấp mã số vùng trồng. Các sản phẩm từ dừa của tỉnh hiện đã xuất khẩu sang nhiều thị trường, trong đó châu Á chiếm tỷ trọng cao nhất, tiếp đến là châu Âu, châu Mỹ. Đặc biệt, các thị trường như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đang có tốc độ tăng trưởng nhanh.

 Dừa được tập kết lên ghe để vận chuyển về nhà máy chế biến

Dừa được tập kết lên ghe để vận chuyển về nhà máy chế biến

Ông Lê Văn Đông, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Vĩnh Long cho biết, hiện tại ngành nông nghiệp tập trung xây dựng đề án phát triển toàn diện cây dừa đến năm 2030 và định hướng đến năm 2050. Theo đó sẽ phát triển ngành hàng dừa theo hướng bền vững gắn với cấp mã số vùng trồng và định hướng sản phẩm cho thị trường xuất khẩu.

Thạch Trà Vinh/VOV-ĐBSCL

 

Ứng phó với khó khăn trong sản xuất vụ Mùa

Vụ Mùa là một trong vụ sản xuất chính trong năm, góp phần quan trọng vào giữ vững đà tăng trưởng đối với sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, vụ Mùa cũng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức như: Thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai; sâu bệnh hại cây trồng; tình trạng bỏ ruộng, bỏ vụ ở nhiều địa phương; lao động nông thôn ngày càng thiếu hụt...Trước những khó khăn đó, ngành Nông nghiệp và Môi trường đã chủ động phối hợp với các địa phương đề ra nhiều giải pháp để bảo đảm sản xuất vụ Mùa đạt được hiệu quả cao.

 Chuyển đổi sang trồng rau xanh đối với những chân ruộng khó khăn về nước góp phần giảm diện tích bỏ trống, mang lại nguồn thu nhập ổn định cho người dân, hoàn thành kế hoạch sản xuất đề ra.

Chuyển đổi sang trồng rau xanh đối với những chân ruộng khó khăn về nước góp phần giảm diện tích bỏ trống, mang lại nguồn thu nhập ổn định cho người dân, hoàn thành kế hoạch sản xuất đề ra.

Nhận diện khó khăn

Cấy xong hơn 6 sào ruộng, gia đình chị Phan Thị Thư ở xã Đào Xá chủ động nạo vét lạch nhỏ dẫn, tiêu nước từ mương đầu nguồn vào khoảnh ruộng của gia đình để có thể tiêu nước, giữ mực nước trong mặt ruộng đủ để lúa phát triển. Chị Thư tâm sự: 5 - 6 năm trở lại đây tôi mới thấy ngay đầu vụ Mùa thời tiết thất thường đến thế, cứ mưa lớn vài ngày xong trời lại nắng gắt, gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự sinh trưởng và phát triển của cây lúa. Vì thế, gia đình tôi phải thường xuyên theo dõi đồng ruộng để kịp tiêu úng trong những ngày mưa lớn, đảm bảo giữ đủ nước cho lúa thuận lợi phát triển. Đồng thời cũng thực hiện bón thúc, bón lót theo đúng hướng dẫn của tổ khuyến nông xã.

Theo đánh giá của Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn Quốc gia, từ đầu năm đến nay, lượng mưa trung bình cao hơn so với những năm gần đây từ 20-40%. Dự báo từ nay đến cuối tháng 10 sẽ có từ 8-10 cơn bão đổ bộ vào khu vực đất liền, trong đó có khoảng 4-5 cơn sẽ ảnh hưởng đến khu vực trung du miền núi phía Bắc. Đây là nguy cơ rất lớn đối với sản xuất vụ Mùa, đặc biệt là giai đoạn cuối vụ, chuẩn bị thu hoạch, sẽ tác động tiêu cực đến năng suất và sản lượng chung của toàn vụ. Nhiệt độ trung bình từ đầu vụ đến nay cũng cao hơn so với trung bình chung 5 năm trở lại đây từ 0,2-20C. Bên cạnh đó, thời gian chuyển từ vụ Đông Xuân sang vụ Mùa ngắn, nguồn sâu bệnh tồn dư trong đất cũng sẽ cao, nhất là sâu đục thân hai chấm, rầy các loại, chuột, bệnh bạc lá, đốm sọc vi khuẩn, lùn sọc đen... Riêng đối tượng lúa cỏ đang phát sinh và gây hại rất mạnh, nếu không xử lý kịp thời, quyết liệt sẽ tiếp tục lây lan, không chỉ ảnh hưởng đến năng suất mà còn là chất lượng của lúa Mùa.

Dù đã có sự chỉ đạo của UBND tỉnh, ngành Nông nghiệp và Môi trường đối với sản xuất vụ Mùa, phấn đấu hoàn thành kế hoạch đề ra, hạn chế đến mức tối đa tình trạng bỏ ruộng, bỏ vụ, song trên thực tế tại nhiều địa phương, việc bỏ ruộng, bỏ vụ vẫn còn diễn ra. Theo nhiều hộ nông dân lý giải, sản xuất vụ Mùa dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai, sâu bệnh khiến chi phí sản xuất đội lên, người nông dân không có lãi...

Bên cạnh đó, vài năm trở lại đây, giá vật tư nông nghiệp như giống, phân bón, thuốc BVTV... luôn giữ ở mức cao, trong khi giá lúa thương phẩm không tăng khiến bà con nông dân không muốn đầu tư sản xuất. Đồng thời, giá cả thuê máy móc cơ giới phục vụ sản xuất cũng tăng từ 20-30% so với 5 năm trước. Trong khi đó, lực lượng lao động nông thôn ngày càng thiếu hụt cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ sản xuất.

Theo kế hoạch, tổng diện tích sản xuất vụ Mùa của toàn tỉnh sau sáp nhập tăng lên xấp xỉ 72.500ha lúa, gần 19.000ha ngô, hơn 13.500ha rau xanh các loại, trên 1.200ha khoai lang, gần 1.5000ha lạc... Tỉnh cũng đã xây dựng được nhiều vùng sản xuất tập trung cho các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao như lúa, chè xanh chất lượng cao; cây ăn quả có múi, thanh long, chuối... đang từng bước xây dựng các mô hình sản xuất hữu cơ có hiệu quả cao, cấp mã số vùng trồng... từ đó nhân rộng giúp bà con nông dân tăng lợi nhuận, yên tâm đầu tư chuyển đổi cơ cấu cây trồng đối với diện tích khó sản xuất, bảo đảm sản xuất vụ Hè Thu đạt được kết quả cao.

 Nông dân xã Phùng Nguyên tập trung gieo cấy lúa Mùa.

Nông dân xã Phùng Nguyên tập trung gieo cấy lúa Mùa.

Chủ động các biện pháp ứng phó

Xác định trước các khó khăn có thể xảy ra, xây dựng phương án ứng phó linh hoạt, phù hợp với thực tiễn chính là giải pháp hàng đầu để bảo đảm sản xuất vụ Mùa hoàn thành kế hoạch đề ra và đạt được hiệu quả cao.

Ông Đặng Nguyễn Trung Vương- Trưởng phòng Kỹ thuật - Nghiệp vụ, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Sở Nông nghiệp và Môi trường cho biết: Sở đã phối hợp với các địa phương để xây dựng phương án và tổ chức thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chuyển đổi mùa vụ trên đất trồng lúa, nhất là vùng sản xuất kém hiệu quả, vùng có nguy cơ bị hạn hán cao, không có nước sản xuất suốt cả vụ, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch và điều kiện cụ thể của địa phương, hạn chế mức thấp nhất diện tích đất không sản xuất ngay từ đầu vụ. Đồng thời khuyến khích bà con tăng cường mở rộng ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất như: Quản lý tổng hợp sức khỏe cây trồng (IPHM), thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (GAP), hệ thống thâm canh lúa cải tiến (SRI), sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ, ứng dụng công nghệ cao, sản xuất lúa giảm phát thải, sử dụng chế phẩm vi sinh xử lý gốc rạ chống ngộ độc hữu cơ... bảo đảm sản xuất bền vững, hiệu quả, chất lượng và an toàn thực phẩm.

Bên cạnh đó, Chi cục cũng đề nghị các xã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn tăng cường công tác thanh, kiểm tra chất lượng giống, các loại phân bón và thuốc BVTV trên địa bàn, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật các trường hợp cung ứng các loại vật tư không đảm bảo chất lượng để bảo vệ quyền lợi của nông dân và hiệu quả cho sản xuất. Đẩy mạnh công tác hướng dẫn, tuyên truyền, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân trong việc phát triển sản xuất theo hướng hình thành các vùng trồng tập trung đạt tiêu chuẩn và thực hiện cấp mã số vùng trồng theo quy định. Đa dạng hóa các kênh bán hàng, đẩy mạnh công tác quảng bá, khai thác có hiệu quả phương thức bán hàng online, bán trên sàn thương mại điện tử nhằm kết nối, giới thiệu, quảng bá và tiêu thụ sản phẩm. Khuyến khích, mời gọi các doanh nghiệp, hợp tác xã tăng cường kết nối để hình thành và mở rộng các mô hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp, bao tiêu sản phẩm; đồng thời, tuyên truyền nâng cao trách nhiệm trong duy trì và mở rộng quy mô liên kết để nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và phát triển bền vững. Tăng cường kiểm tra, giám sát đồng ruộng, thực hiện tốt nhiệm vụ điều tra phát hiện, dự tính dự báo và chỉ đạo phòng trừ sinh vật gây hại cây trồng, trong đó chú ý các đối tượng như: Sâu cuốn lá nhỏ, chuột,... trên cây lúa, sâu keo mùa thu trên cây ngô... để kịp thời phát hiện và xử lý, tránh lây lan rộng ảnh hưởng đến năng suất chung toàn vụ.

Phan Cường

 

Hiếu Giang tổng hợp

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop