Ngay sau khi hoàn thành dồn điền đổi thửa, những năm vừa qua, công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng trong lĩnh vực trồng trọt được thực hiện theo hướng nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tạo năng suất, sản lượng, giá trị kinh tế cao.
Chăn nuôi phát triển ổn định, dịch bệnh được kiểm soát, số lượng đàn gia súc, gia cầm tăng. Hoạt động trồng và bảo vệ rừng thực hiện tốt. Nuôi trồng thủy sản tiếp tục được duy trì. Tăng trưởng sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản hằng năm đạt từ 2,5-3,3%. Đặc biệt trong mấy năm đại dịch Covid-19, ngành nông nghiệp vẫn tiếp tục khẳng định vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm phục vụ công tác phòng chống dịch.
Cùng với đó, việc phát triển, công nhận sản phẩm OCOP cũng được các địa phương tập trung thực hiện. Cụ thể, từ năm 2021 đến nay, thành phố đã đánh giá được 2.263 sản phẩm OCOP; trong đó có 11 sản phẩm tiềm năng 5 sao, 840 sản phẩm 4 sao và 1.412 sản phẩm 3 sao.
Lũy kế từ năm 2019 đến nay, thành phố đã đánh giá được 3.317 sản phẩm OCOP; trong đó có sáu sản phẩm 5 sao, 22 sản phẩm tiềm năng 5 sao, 1.571 sản phẩm 4 sao và 1.718 sản phẩm 3 sao, góp phần nâng cao giá trị, thu nhập cho nông dân.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố Hà Nội, công tác chuyển đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của Thủ đô. Việc thu hút doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp chưa nhiều, đặc biệt là chế biến sâu.
Sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao còn hạn chế, dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm luôn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát. Số lượng chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế dẫn đến việc tiêu thụ sản phẩm khó khăn. Chưa có nhiều cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm tập trung gây khó khăn cho việc thực hiện kiểm dịch, kiểm soát giết mổ, vệ sinh thú y và an toàn thực phẩm, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn cao.
Đại diện Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố Hà Nội cho biết, trên cơ sở Luật Thủ đô và Quyết định số 1668/QĐ-TTg ngày 27/12/2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065, thành phố đang rà soát, điều chỉnh, bổ sung các vùng, khu vực sản xuất cây trồng, vật nuôi, thủy sản cho phù hợp tình hình thực tế.
Thành phố sẽ có kế hoạch, chiến lược và tầm nhìn cụ thể tạo động lực cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn; trong đó phải làm tốt công tác quy hoạch và hỗ trợ nông dân trong vùng quy hoạch, không để cung vượt cầu.
Ngành nông nghiệp tiếp tục đổi mới cách nghĩ, cách làm, chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp; phát triển nền nông nghiệp đa giá trị, nông nghiệp xanh và kinh tế tuần hoàn gắn với phát triển công nghiệp chế biến và chuỗi giá trị nông sản toàn cầu; phát triển nông nghiệp sinh thái gắn với đô thị, dịch vụ, du lịch nông thôn, giáo dục trải nghiệm.
Phát triển nông thôn toàn diện, hiện đại gắn với quá trình đô thị hóa; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; xây dựng nông thôn trở thành “nơi đáng sống”, sáng-xanh-sạch-đẹp, an ninh trật tự được bảo đảm, có kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội đồng bộ và từng bước hiện đại
Nông nghiệp kết hợp dịch vụ - mô hình kinh tế mới ở vùng cao
Nắm bắt xu thế phát triển, tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất; chịu khó tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi kiến thức cũng như kinh nghiệm sản xuất, đó là cách mà anh Hồ Văn Cương, người dân tộc Vân Kiều ở thôn Cheng, xã Hướng Phùng, huyện Hướng Hóa đã vận dụng để từng bước chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng đi mới - nông nghiệp kết hợp dịch vụ. Bước đầu, mô hình này mang lại kết quả khả quan. Anh được đánh giá là một trong những nông dân tiêu biểu đi đầu phát triển kinh tế ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Ông Cương (bên trái) chia sẻ kinh nghiệm chuyển đổi cơ cấu sản xuất - Ảnh: N.T
Trên tổng diện tích hơn 2 ha, trước đây gia đình anh Cương chủ yếu làm lúa nước và một số loại cây trồng ngắn ngày. Nhận thấy cách làm này tuy cơ bản đáp ứng nhu cầu lương thực quanh năm cho gia đình nhưng để vươn lên làm giàu thì rất khó.
Qua nghiên cứu một số mô hình ở vùng khác có điều kiện tương đồng, anh Cương quyết định chuyển đổi sang mô hình nuôi cá nước ngọt kết hợp nuôi gà và lợn bản địa. Tận dụng lợi thế địa hình nằm cạnh suối, nguồn nước dồi dào quanh năm, anh Cương quy hoạch đào 3 ao cá khá lớn, thả các loại cá truyền thống như: trắm, rô phi, chép, mè, trê...
Khu vực xa suối thì anh xây dựng chuồng trại chăn nuôi gà và lợn bản, đồng thời kết hợp trồng một số loại cây làm thức ăn cho vật nuôi.
Nhờ tích cực nghiên cứu, học hỏi thông qua sách báo, internet, tham gia tập huấn và các mô hình tiêu biểu ở các vùng khác, sau gần 4 năm, đến nay, anh Cương đã dần hình thành một mô hình kinh tế đa con phát triển thuận lợi. Thức ăn cho cá, gà và lợn được anh chủ yếu tận dụng các phụ phẩm nông nghiệp như: bã khoai, sắn, đậu, thân và lá cây chuối, cỏ... nên vừa hạn chế chi phí, vừa đảm bảo vật nuôi phát triển tốt.
Gà và lợn được lựa chọn con giống kỹ càng theo giống bản địa, có sức đề kháng tự nhiên tốt, ít bị dịch bệnh, được chăn nuôi theo hình thức kết hợp nuôi nhốt và thả vườn, đáp ứng cung cấp gà, lợn thịt và giống. Đầu ra sản phẩm của mô hình được đảm bảo, khách hàng chủ yếu liên hệ đặt mua tại nhà. Đàn gà hiện phát triển lên đến trên 500 con, cá và gà được anh xuất bán quanh năm. Tổng đàn lợn nái, lợn thịt và lợn giống trên 30 con.
Ngoài ra, nắm bắt nhu cầu khách hàng hiện nay muốn tìm đến những địa điểm xa khu dân cư, có không khí trong lành để nghỉ ngơi, trải nghiệm, anh Cương đã đầu tư xây dựng 4 nhà sàn nổi trên mặt nước hồ cá để phục vụ nhu cầu trải nghiệm câu cá và ẩm thực. Với không gian thoáng đãng, gần suối, nhiều ao hồ và đặc biệt là tất cả nguyên liệu phục vụ ẩm thực đều có sẵn tại vườn, như: cá, gà, lợn bản, rau sạch... nên dần thu hút được lượng khách đến đây tham quan, trải nghiệm ngày càng đông.
Tuy mới bước đầu triển khai, mô hình chăn nuôi kết hợp dịch vụ của gia đình anh Cương mang lại kết quả khả quan, vừa nâng cao thu nhập cho gia đình, vừa tạo điều kiện cho lao động tại địa phương theo từng mùa vụ. Trừ chi phí mỗi năm gia đình anh thu về trên 150 triệu đồng từ mô hình.
“Tôi nhận thấy cách làm này hiệu quả hơn làm lúa nước rất nhiều. Thời gian tới, gia đình tiếp tục mở rộng, khuyến khích các con cùng làm. Vừa làm, vừa học hỏi thêm, lấy kết quả bước đầu để đầu tư tiếp nhằm hạn chế vay vốn.
Nghiên cứu thêm cây, con mới kết hợp các dịch vụ khác, liên kết với các điểm dịch vụ trên địa bàn để tăng lượng khách, đảm bảo vừa phát triển nông nghiệp, vừa phát triển dịch vụ.
Hiện tại, chúng tôi đang chuẩn bị đào thêm 1 ao cá, đang triển khai xây dựng thêm hệ thống chuồng trại chăn nuôi lợn và gà bản; xây dựng hệ thống nhà bếp phục vụ dịch vụ ẩm thực cho khách đến tham quan và trải nghiệm”, anh Cường chia sẻ.
Khai thác FTA: Định hình nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững
Hiệp định Thương mại tự do (FTA) là công cụ quan trọng giúp Việt Nam phát triển nông nghiệp bền vững, đồng thời giải quyết thách thức về bảo vệ môi trường.
Hiệp định Thương mại tự do (FTA) đã trở thành công cụ quan trọng trong việc phát triển nền nông nghiệp toàn cầu bền vững. Ngoài việc giảm thuế quan, FTA thế hệ mới còn yêu cầu các quốc gia tham gia thực hiện các cam kết chặt chẽ về bảo vệ môi trường, truy xuất nguồn gốc và an toàn thực phẩm. Việt Nam, trong bối cảnh này, cần tận dụng cơ hội từ các FTA để phát triển nông nghiệp bền vững, giải quyết thách thức về chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường.
Thực trạng áp dụng FTA vào chính sách nông nghiệp bền vững tại Việt Nam
Việt Nam hiện đang tham gia các FTA thế hệ mới như FTA Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Những hiệp định này không chỉ giúp giảm thuế quan, tạo cơ hội mở rộng thị trường cho các sản phẩm nông sản Việt Nam, mà còn tạo ra những yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng và phát triển bền vững.
Doanh nghiệp Việt còn gặp khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu về truy xuất nguồn gốc và chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn của EU. Ảnh minh họa
Kể từ khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực vào ngày 1/8/2020, xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU đã tăng trưởng khoảng 20% mỗi năm, một minh chứng rõ ràng về sự hiệu quả của hiệp định này trong việc mở rộng thị trường. Tuy nhiên, thị trường EU dù rộng lớn nhưng là một trong những thị trường khó tính với yêu cầu cao về chất lượng và môi trường. Điều này tạo ra áp lực buộc các doanh nghiệp nông sản Việt Nam phải nâng cao năng lực sản xuất, cải tiến công nghệ và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế.
Một trong những thách thức lớn là việc doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, còn gặp khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu về truy xuất nguồn gốc và chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn của EU. Việc minh bạch hóa quá trình sản xuất và bảo vệ môi trường là một yêu cầu bắt buộc. Đây chính là yếu tố quyết định trong việc tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế.
Lợi thế và thách thức từ EVFTA đối với ngành nông nghiệp Việt Nam
Hiệp định EVFTA đã xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 85,6% số dòng thuế ngay khi có hiệu lực và dự kiến sẽ xóa bỏ 99,2% sau 7 năm, mang lại nhiều cơ hội lớn cho ngành nông sản Việt Nam. Tuy nhiên, để tận dụng tối đa lợi ích này, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đổi mới toàn diện về công nghệ và quy trình sản xuất để đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe từ các thị trường EU.
Điều này không chỉ liên quan đến việc cải tiến công nghệ sản xuất mà còn yêu cầu các doanh nghiệp và nông dân Việt Nam nâng cao năng lực về quản lý chất lượng và bảo vệ môi trường. Việc đáp ứng các tiêu chuẩn về truy xuất nguồn gốc và an toàn thực phẩm không phải là một nhiệm vụ dễ dàng, nhưng là một yếu tố quyết định giúp Việt Nam tận dụng lợi thế của FTA và gia tăng giá trị nông sản xuất khẩu.
Chính phủ Việt Nam đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ thiết thực để giúp các doanh nghiệp nông sản Việt Nam đáp ứng các yêu cầu của EU. Các chương trình này bao gồm đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật, cũng như cung cấp chứng nhận quốc tế nhằm giúp các sản phẩm nông sản đạt được tiêu chuẩn cao về chất lượng và môi trường. Chương trình chứng nhận hữu cơ quốc tế đã giúp nâng cao giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Bên cạnh đó, Cục Xúc tiến Thương mại, Bộ Công Thương đã tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, đào tạo và tập huấn nhằm nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp trong việc xây dựng, phát triển và bảo vệ thương hiệu tại EU.
Liên minh châu Âu và Thỏa thuận xanh: Cam kết bền vững trong chính sách thương mại
Liên minh châu Âu (EU) là một trong những khu vực tiên phong trong việc tích hợp các cam kết về phát triển bền vững vào chính sách thương mại thông qua European Green Deal (Thỏa thuận xanh). Thỏa thuận này, được công bố vào năm 2019, đặt ra mục tiêu giảm 55% khí thải nhà kính vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. EU không chỉ tập trung vào bảo vệ môi trường trong nội bộ mà còn lồng ghép các yêu cầu về tiêu chuẩn sinh thái vào chính sách thương mại của mình, yêu cầu các sản phẩm nhập khẩu, đặc biệt là nông sản, phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt về bảo vệ môi trường và không gây phá rừng.
Một trong những quy định trong thỏa thuận xanh là quy định EUDR áp dụng cho 7 nhóm mặt hàng nông sản, bao gồm dầu cọ, gia súc, cà phê, cao su, gỗ, ca cao và đậu nành khi nhập khẩu vào EU phải chứng minh rằng chúng không được sản xuất từ khu vực có rừng bị tàn phá từ sau năm 2020. Điều này đặt ra các tiêu chuẩn sinh thái nghiêm ngặt cho các quốc gia xuất khẩu và khuyến khích họ áp dụng phương thức canh tác bền vững hơn.
Thông qua các quy định này, EU đã mở rộng thị trường cho các quốc gia xuất khẩu, đồng thời tạo áp lực lớn để các quốc gia này chuyển đổi sang phương thức sản xuất nông sản bền vững hơn. EU cũng đã đồng ý lùi thời gian thực thi Quy định chống phá rừng của EU (EUDR) thêm 12 tháng, giúp các doanh nghiệp có thêm thời gian chuẩn bị để đáp ứng yêu cầu về truy xuất nguồn gốc và chứng minh sản phẩm không liên quan đến phá rừng.
Quy định EUDR không chỉ có tác động sâu rộng tại EU mà còn thúc đẩy sự chuyển đổi sang một nền nông nghiệp xanh toàn cầu, yêu cầu các quốc gia xuất khẩu áp dụng phương pháp canh tác hữu cơ, giảm thiểu thuốc trừ sâu và phân bón hóa học, đồng thời bảo vệ đa dạng sinh học và tài nguyên thiên nhiên.
Peru: Tăng trưởng xuất khẩu nhờ vào nông nghiệp bền vững
Peru đã tích hợp hiệu quả các FTA vào chính sách nông nghiệp bền vững, đặc biệt thông qua việc ký kết các FTA với EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc và các quốc gia trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Các FTA này không chỉ mở rộng thị trường cho sản phẩm nông sản của Peru mà còn thúc đẩy chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững.
Một tác động đáng chú ý của các FTA đối với nông nghiệp Peru là sự chuyển đổi sang sản xuất hữu cơ. FTA, đặc biệt là với EU, yêu cầu các sản phẩm xuất khẩu phải đáp ứng tiêu chuẩn sinh thái nghiêm ngặt, từ đó thúc đẩy nông dân Peru chuyển từ canh tác truyền thống sang hữu cơ, với các sản phẩm chủ lực như quinoa, cà phê và ca cao.
Việc gia nhập các FTA đã tạo ra sự hỗ trợ mạnh mẽ cho nông dân Peru trong việc cải thiện phương thức canh tác và quản lý sản xuất. Các tổ chức như Bộ Nông nghiệp và Tưới tiêu Peru (MINAGRI) đã phối hợp với các đối tác quốc tế để triển khai các chương trình đào tạo nông dân về canh tác bền vững, quản lý đất đai và phát triển sản phẩm hữu cơ.
Các FTA đã giúp Peru tăng trưởng mạnh mẽ về xuất khẩu nông sản, trong đó cà phê, quinoa và ca cao là những sản phẩm chủ lực. Sau khi ký kết các hiệp định thương mại, đặc biệt là với EU, Peru đã chứng kiến sự gia tăng vượt bậc trong xuất khẩu quinoa sang các thị trường cao cấp như Pháp, Đức và Nhật Bản.
Thêm vào đó, các FTA đã giúp Peru bảo vệ đa dạng sinh học và tài nguyên thiên nhiên, nhờ yêu cầu từ các thị trường nhập khẩu như EU. Chính phủ Peru đã tăng cường các biện pháp bảo vệ rừng và quản lý bền vững đất đai, giảm thiểu phá rừng và khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên.
Bài học mở cho Việt Nam
Thứ nhất, tăng cường đầu tư vào công nghệ và đổi mới quy trình sản xuất: Các quốc gia như EU và Peru đã thành công trong việc chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp nhờ vào việc áp dụng công nghệ hiện đại và phát triển các phương pháp canh tác bền vững. Việt Nam cần đầu tư mạnh mẽ hơn vào công nghệ truy xuất nguồn gốc và nâng cao năng lực sản xuất nông sản. Đồng thời, áp dụng các phương thức canh tác hữu cơ để đáp ứng các yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng và bảo vệ môi trường từ các thị trường FTA.
Thứ hai, chuyển đổi sang sản xuất nông sản hữu cơ: Cả EU và Peru đều cho thấy lợi ích rõ rệt của việc chuyển đổi sang sản xuất nông sản hữu cơ, nhờ vào các yêu cầu về chất lượng và sinh thái trong các FTA. Việt Nam cần khuyến khích các nông dân và doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hữu cơ như quinoa, cà phê, và gạo, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế và từ đó nâng cao giá trị gia tăng của nông sản.
Thứ ba, xây dựng thương hiệu quốc gia và sản phẩm nông sản Việt: Việc xây dựng và phát triển thương hiệu quốc gia cho nông sản Việt Nam là yếu tố quan trọng giúp gia tăng giá trị và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Các FTA như EVFTA mang lại cơ hội lớn để Việt Nam xuất khẩu nông sản sang các thị trường cao cấp như EU. Tuy nhiên, để tận dụng được những cơ hội này, Việt Nam cần tập trung vào việc xây dựng thương hiệu mạnh và nâng cao uy tín của nông sản Việt.
Thứ tư, hỗ trợ doanh nghiệp và nông dân thông qua các chương trình đào tạo và chứng nhận quốc tế: Để đạt được các tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là đối với các thị trường như EU, Chính phủ Việt Nam cần tiếp tục triển khai các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và nông dân. Các chương trình đào tạo và chứng nhận quốc tế đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường toàn cầu.
Thứ năm, phát triển chuỗi cung ứng bền vững: Một trong những yếu tố quan trọng của các FTA là yêu cầu các sản phẩm nhập khẩu phải đảm bảo tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Việc phát triển một chuỗi cung ứng bền vững không chỉ giúp Việt Nam đáp ứng các yêu cầu từ các thị trường quốc tế mà còn bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học trong nước, điều này cũng góp phần nâng cao hình ảnh của nông sản Việt.
Các FTA không chỉ mang lại cơ hội lớn cho ngành nông sản Việt Nam mà còn đẩy mạnh chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp bền vững. Tuy nhiên, để tận dụng tối đa cơ hội này, Việt Nam cần đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao năng lực về quản lý chất lượng, bảo vệ môi trường và xây dựng thương hiệu mạnh cho nông sản Việt.
Kỳ vọng nghề nuôi ong lấy mật tại vùng đệm Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh
Năm 2024, khi triển khai Dự án 'Xây dựng mô hình sinh kế nông nghiệp bền vững tại vùng đệm Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh', 20 hộ đồng bào dân tộc Bahnar được chọn tham gia mô hình nuôi ong lấy mật.
Đến nay, các hộ bắt đầu vào giai đoạn thu mật, tách đàn, mở ra cơ hội phát triển nghề nuôi ong lấy mật tại vùng đệm của Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh.
Cán bộ Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh kiểm tra cầu ong nhà anh Măng (làng Đê Kjiêng, xã Ayun, huyện Mang Yang). Ảnh: N.D
Trong khuôn khổ Chương trình tài trợ nhỏ về bảo tồn và quản lý bền vững các vườn di sản ASEAN giai đoạn 2 (Hợp phần quốc gia Việt Nam) do Ngân hàng Tái thiết Đức (KFW) tài trợ, năm 2024, Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh đã chọn 2 làng trong vùng đệm là làng Đê Kjiêng (xã Ayun, huyện Mang Yang) và làng Hà Đừng 1 (xã Đăk Rong, huyện Kbang) triển khai mô hình nuôi ong lấy mật.
Theo đó, mỗi làng có 10 hộ người Bahnar được chọn tham gia mô hình. Mỗi hộ được hỗ trợ 5 đàn ong giống cùng thùng nuôi do Trung tâm Nghiên cứu ong và nuôi ong nhiệt đới (Học viện Nông nghiệp Việt Nam) cung cấp. Đồng thời, các hộ được tham gia tập huấn kỹ thuật tạo ong chúa, tách đàn, phòng trừ dịch bệnh hại đàn ong, khai thác mật, định hướng thị trường, cách quản lý đàn ong…
Anh Măng (làng Đê Kjiêng, xã Ayun, huyện Mang Yang) kiểm tra cầu ong. Ảnh: N.D
Sau gần 1 năm nuôi ong lấy mật, đến nay, một số hộ tại làng Đê Kjiêng đã biết cách lựa chọn ong chúa, quay mật, tách đàn. Anh Măng (làng Đê Kjiêng) phấn khởi cho biết: Từ trước đến nay, bà con trong làng chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, tìm các loài dược liệu dưới tán rừng và khai thác mật ong tự nhiên để có thêm nguồn thu nhập. Năm 2024, gia đình tôi được tham gia mô hình nuôi ong lấy mật tại vùng đệm Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh.
Khi tham gia mô hình, tôi được hỗ trợ 100% con giống, thùng nuôi cùng các vật dụng nuôi ong khác. Trong quá trình nuôi, cán bộ của Vườn thường xuyên theo dõi, hướng dẫn kỹ thuật dịch chuyển đàn ong lấy mật từ các loài hoa tự nhiên cũng như hoa cà phê, nhãn quanh làng.
Vừa rồi, trong lần đầu tiên quay mật, gia đình thu được hơn 1 lít mật/đàn, chất lượng được đánh giá tương đương với mật ong rừng tự nhiên. Không chỉ có mật để bán, tôi đã biết cách tách đàn hỗ trợ lại cho bà con trong làng để cùng phát triển nghề nuôi ong lấy mật.
Khu vực nuôi ong lấy mật nhà ông Ruk. Ảnh: N.D
Tương tự, ông Ruk (cùng làng) chia sẻ: Sau khi được hỗ trợ 5 đàn ong để nuôi lấy mật, gia đình ông rất phấn khởi và đặt thùng ong vào vị trí thuận lợi theo hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh. Vừa qua, đàn ong của gia đình đã cho thu được hơn 5 lít mật.
“Đàn ong của gia đình tôi nuôi chủ yếu lấy mật từ hoa rừng chất lượng tương đương với mật ong tự nhiên. Sau khi gia đình tôi nuôi ong thành công, một số hộ trong làng tìm đến học hỏi kỹ thuật để phát triển nghề nuôi ong lấy mật trong thời gian tới”-ông Ruk cho hay.
Để người dân yên tâm chăm sóc, phát triển đàn ong, sản phẩm mật do các hộ thu hoạch được các đơn vị tham gia thực hiện dự án thu mua tùy theo giá thị trường nhưng thấp nhất là 200 ngàn đồng/lít. Trao đổi với P.V, ông Ngô Văn Thắng-Giám đốc Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh-thông tin: Những năm qua, từ các nguồn dự án hỗ trợ, đơn vị đã xây dựng nhiều mô hình hỗ trợ sinh kế cho người dân ở các làng vùng đệm tại 2 huyện Mang Yang, Kbang để giúp bà con có nguồn thu nhập ổn định, cải thiện cuộc sống.
Trong đó, mô hình nuôi ong lấy mật hiện đang phát triển khá tốt, bà con bắt đầu thu mật, tách đàn nhân rộng để tạo nguồn sinh kế bền vững. Với điều kiện thời tiết thuận lợi cùng với nguồn thức ăn tự nhiên dồi dào, chúng tôi rất hy vọng mô hình này sẽ mở ra hướng phát triển kinh tế để người dân tăng thu nhập, vươn lên ổn định cuộc sống.
Xây dựng công trình trên đất lúa không quá 0,1% diện tích và tối đa 500m2
UBND tỉnh vừa ban hành Quyết định quy định về diện tích, vị trí và mục đích sử dụng của công trình xây dựng phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp trên đất trồng lúa trên địa bàn tỉnh. Đây là một bước cụ thể hóa Nghị định số 112/2024/NĐ-CP ngày 11/9/2024 của Chính phủ về quy định chi tiết về đất trồng lúa.
Theo quyết định mới ban hành, sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 20/4/2025, khu vực đất trồng lúa được phép xây dựng công trình phải tập trung và có diện tích tối thiểu từ 50 ha.
Về diện tích xây dựng, tổng diện tích đất xây dựng công trình được quy định với tỷ lệ tối đa không quá 0,1% tổng diện tích khu vực đất trồng lúa được phép xây dựng, nhưng trong mọi trường hợp không được vượt quá 500m2.
Đáng chú ý, quyết định cho phép các công trình có thể được xây dựng tại một hoặc nhiều vị trí khác nhau trong khu vực đất trồng lúa, nhưng tổng diện tích không được vượt quá quy định. Các công trình này cũng phải tuân thủ Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về Quy hoạch xây dựng QCVN 01:2021/BXD và các quy định pháp luật liên quan khác.
Về mục đích sử dụng, các công trình được xây dựng phải phục vụ từ một trong các mục đích được quy định tại khoản 6 Điều 3 Nghị định số 112/2024/NĐ-CP về đất trồng lúa. Các mục đích này đều phải liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Quyết định cũng đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về việc bảo vệ đất trồng lúa. Cụ thể, thửa đất hoặc khu vực đất trồng lúa được phép xây dựng công trình phải đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn thời hạn hoặc đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận theo quy định của pháp luật.
Một điểm quan trọng khác là khi tháo dỡ hoặc di chuyển công trình không được làm mất đi điều kiện cần thiết để khu đất trở lại mục đích trồng lúa ban đầu. Việc bồi thường, hỗ trợ khi tháo dỡ công trình xây dựng sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật tại thời điểm thực hiện.
Để đảm bảo việc thực hiện hiệu quả, UBND tỉnh Thanh Hóa giao Sở Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, phối hợp với Sở Xây dựng và các đơn vị liên quan tổ chức triển khai, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện Quyết định. UBND các huyện, thị xã, thành phố được yêu cầu tăng cường công tác quản lý, giám sát việc sử dụng diện tích đất để xây dựng công trình và phải chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh nếu để xảy ra tình trạng vi phạm pháp luật thuộc địa bàn quản lý.
UBND các xã, phường, thị trấn có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến Quyết định đến các tổ chức, cá nhân, người sử dụng đất trồng lúa trên địa bàn quản lý, đồng thời quản lý, kiểm tra, giám sát và lập hồ sơ theo dõi việc sử dụng diện tích đất để xây dựng công trình phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp.
Phát triển kinh tế bền vững từ cây bưởi
Là một trong những đặc sản trứ danh của Phú Thọ, từ lâu, cây bưởi là cây có giá trị kinh tế cao, giúp nhiều hộ dân trên địa bàn tỉnh thoát nghèo, vươn lên khá giả. Để phát triển cây bưởi, song song với phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững, Ngành Nông nghiệp đã tập trung vào chế biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm từ bưởi nhằm nâng cao giá trị kinh tế.
Diện tích trồng bưởi toàn tỉnh tăng từ 2.308ha (năm 2015) lên 5.593ha (năm 2023), vượt mục tiêu đề ra của đến năm 2025
Những năm qua, thực hiện Kết luận số 121-KL/TU ngày 21/9/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về kế hoạch phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030, Ngành Nông nghiệp Phú Thọ đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm đưa cây bưởi phát triển theo hướng tập trung, nâng cao năng suất và chất lượng. Đến nay, diện tích trồng bưởi của tỉnh đã có sự tăng trưởng ngoạn mục. Từ 2.308ha vào năm 2015, đến hết năm 2023, diện tích bưởi toàn tỉnh đã đạt 5.593 ha, tăng 140% và vượt mục tiêu đề ra cho năm 2025 (5.500 ha). Sản lượng bưởi ước tính đạt 18.000 tấn/năm.
Cùng với sự gia tăng về diện tích, tỉnh đã hình thành được 161 vùng sản xuất bưởi tập trung với tổng diện tích 2,65 nghìn ha, đạt 135% mục tiêu đề ra. Điều này cho thấy sự chuyển dịch rõ rệt trong phương thức sản xuất, từ nhỏ lẻ, manh mún sang tập trung, quy mô lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng khoa học kỹ thuật và nâng cao hiệu quả sản xuất.
Toàn tỉnh có 162 cơ sở với 1.742ha bưởi được cấp mã số vùng trồng
Để đạt được những thành quả trên, Ngành Nông nghiệp đã chủ động chỉ đạo các đơn vị chuyên môn phối hợp với các địa phương triển khai các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm. Công tác quy hoạch vùng sản xuất tập trung được chú trọng, đến nay toàn tỉnh đã có 162 cơ sở với 1.742ha bưởi được cấp mã số vùng trồng, trong đó có 18 mã (366,1ha) phục vụ xuất khẩu. Điều này không chỉ giúp truy xuất nguồn gốc sản phẩm mà còn mở ra cơ hội đưa bưởi Phú Thọ vươn ra thị trường quốc tế.
Đặc biệt, việc đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất đã mang lại những chuyển biến tích cực về năng suất và chất lượng bưởi. Nhiều giống bưởi mới có năng suất, chất lượng cao, thời gian chín khác nhau đã được đưa vào trồng thử nghiệm và nhân rộng, góp phần kéo dài vụ thu hoạch, giảm áp lực về thời vụ. Các quy trình sản xuất tiên tiến như VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ, quản lý dịch hại tổng hợp IPM, ICP được khuyến khích áp dụng, nâng cao giá trị sản phẩm và bảo vệ môi trường. Đến nay, toàn tỉnh đã có 978,1 ha bưởi đạt chứng nhận VietGAP, 20 ha đạt GlobalGAP và 6 ha đạt chứng nhận hữu cơ.
Toàn tỉnh đã hình thành 161 vùng sản xuất bưởi tập trung
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng thương hiệu, Phú Thọ đã từng bước định hướng, hỗ trợ các vùng bưởi xây dựng nhãn hiệu thông qua chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP). Đến nay, toàn tỉnh đã có 10 Hợp tác xã, cơ sở sản xuất bưởi đạt chứng nhận OCOP với sản lượng đăng ký trên 15.000 tấn/năm. Các sản phẩm bưởi OCOP ngày càng được người tiêu dùng biết đến và tin tưởng. Công tác xúc tiến thương mại, phát triển thị trường cũng được tỉnh đặc biệt quan tâm, nhiều sự kiện lớn như lễ hội bưởi Đoan Hùng, hội chợ OCOP và nông sản Phú Thọ, tuần lễ nông sản... đã được tổ chức thành công, tạo cơ hội quảng bá sản phẩm, kết nối giao thương. Tỉnh cũng chú trọng xây dựng các điểm bán và giới thiệu sản phẩm OCOP tại các khu vực trung tâm, khu du lịch.
Quả bưởi đặc sản và các sản phẩm từ bưởi được quản bá rộng rãi, đa dạng hình thức, phương thức
Đặc biệt, việc ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy thương mại điện tử và thương mại số trong lĩnh vực nông nghiệp đã mang lại những hiệu quả thiết thực. Hàng triệu tem truy xuất nguồn gốc đã được hỗ trợ cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh nông sản. Thông tin, sản phẩm bưởi được đăng tải trên các sàn thương mại điện tử của tỉnh và các nền tảng khác, thu hút hàng triệu lượt truy cập. Phần mềm chuyển đổi số Ngành Nông nghiệp được xây dựng và phát triển, số hóa 100% hồ sơ sản phẩm OCOP, giúp công tác quản lý, tra cứu thông tin trở nên thuận tiện và chuyên nghiệp. Tính năng “Bản đồ nông sản số” trên phần mềm đã tạo cầu nối giữa người sản xuất, kinh doanh với các kênh tiêu thụ trực tuyến. Công tác thông tin, tuyên truyền cũng được đẩy mạnh trên các phương tiện truyền thông, báo chí và các kênh mạng xã hội, giúp người dân nắm bắt thông tin về tình hình sản xuất, quy trình kỹ thuật và các mô hình sản xuất hiệu quả. Các lớp đào tạo, tập huấn về chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, chuyển đổi số, quản lý sản xuất, an toàn thực phẩm được tổ chức thường xuyên, nâng cao năng lực cho người sản xuất và cán bộ nông nghiệp các cấp.
Để cây bưởi phát triển bền vững, Ngành Nông nghiệp sẽ tiếp tục hướng dẫn đẩy mạnh trồng, sản xuất bưởi theo hướng thâm canh, nâng cao chất lượng sản phẩm; rà soát, xây dựng các vùng trọng điểm; tập trung tuyên truyền, phổ biến kiến thức kỹ thuật, định hướng thị trường cho người dân. Đồng thời nhân rộng các mô hình vườn bưởi mẫu áp dụng đồng bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là các biện pháp cắt tỉa cành, thụ phấn bổ sung, tăng cường sử dụng phân bón hữu cơ, vi lượng.
Bên cạnh đó, Ngành Nông nghiệp tăng cường quản lý, phát triển thương hiệu và liên kết tiêu thụ sản phẩm bưởi Phú Thọ; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện logo, tem nhãn, bao bì cho các sản phẩm bưởi OCOP, đẩy mạnh quảng bá thương hiệu trên đa nền tảng. Khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân tham gia xây dựng thương hiệu tập thể, cá thể cho các sản phẩm bưởi tại các vùng trọng điểm. Tăng cường kiểm soát chất lượng sản phẩm mang thương hiệu, phân cấp, phân loại sản phẩm rõ ràng. Chú trọng công tác bảo vệ thương hiệu, tìm kiếm, mời gọi các doanh nghiệp có năng lực thu mua lớn, phát triển hệ thống bán hàng online.
Mặt khác, cần nhân rộng các mô hình chế biến các sản phẩm từ bưởi, khuyến khích chế biến các sản phẩm phụ từ bưởi như: Tinh dầu bưởi, mứt bưởi, chè bưởi, rượu bưởi... Đây là hướng đi mới, có tiềm năng lớn, giúp tăng giá trị cho cây bưởi và tạo thêm nguồn thu nhập cho người dân.
Chuyển đổi cơ cấu sản xuất giúp nông dân nâng cao đời sống
Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về XDNTM, công tác chuyển đổi cơ cấu sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân được Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể của huyện Trà Cú đặc biệt quan tâm; trong đó, tập trung tái cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị, giúp nông dân chuyển đổi cây trồng, vật nuôi hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế gia đình.
Bà Thạch Thị Mon Phiếc (bìa trái) ấp Giồng Lớn A phấn khởi với vụ bắp được mùa, được giá.
Huyện Trà Cú có hơn 62% dân số là dân tộc Khmer, cao nhất của tỉnh. Vùng đất Trà Cú một thời được xem là vùng đất khó, sản xuất kém hiệu quả, năng suất bấp bênh, tỷ lệ hộ nghèo cao. Những năm gần đây, với sự hỗ trợ từ Trung ương, của tỉnh và đẩy mạnh chuyển giao khoa học - kỹ thuật, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, đời sống của người dân chuyển biến rõ rệt. Năm 2024, huyện thực hiện chuyển đổi hơn 200ha đất lúa kém hiệu quả sang các loại cây, con có giá trị kinh tế cao, từng bước cơ cấu lại mùa vụ, bố trí cây trồng, vật nuôi theo quy hoạch phát triển.
Tại xã Đại An, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong XDNTM, NTM nâng cao và thực hiện hiệu quả công tác giảm nghèo. Qua tuyên truyền, vận động, nhiều nông dân của xã đã mạnh dạn chuyển đổi cây trồng trên cùng diện tích đất nông nghiệp kém hiệu quả. Trong đó, ông Thạch Long, ngụ ấp Giồng Lớn A là một điển hình; ông đã chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng bắp trên diện tích 4.000m2.
Ông Thạch Long cho biết: với 4.000m2, trong đó 2.000m2 bắp nếp dẻo, tôi bán cho bạn hàng nấu bán ngoài chợ, còn 2.000m2 thì trồng bắp Mỹ, đầu ra ổn định, có thương lái thu mua tận rẫy, giá bán trung bình 7.000 - 8.000 đồng/kg. Được chính quyền, đoàn thể địa phương tuyên truyền, vận động thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, kéo điện phục vụ tưới tiêu nên người dân phấn khởi, đồng tình chuyển đổi sản xuất mỗi năm 01 vụ lúa, 02 hoặc 03 vụ màu, giúp đời sống nâng lên.
Theo ông Thạch Long, từ khi gieo giống đến thu hoạch bắp là 60 ngày, chất lượng giống tốt nên năng suất cao, bình quân 1.000m2 đạt hơn 1,2 tấn bắp, lợi nhuận hơn 07 triệu đồng. Như vậy, với 4.000m2 trồng bắp, gia đình ông lợi nhuận gần 30 triệu đồng.
Được biết, ấp Giồng Lớn A có trên 80% dân tộc Khmer, quen với trồng màu, nhờ chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp, hiện nay, đời sống của người dân nâng cao so với trước đây, nhà cửa khang trang. Nhiều nông dân trong ấp cho biết, từ khi chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang trồng bắp, kinh tế ổn định hơn. Cây bắp rất dễ trồng, phù hợp với khí hậu và thổ nhưỡng của địa phương. Hiện nay, cây bắp được xem là loại cây phát triển kinh tế, thoát nghèo của nông dân xã Đại An. Việc thu hoạch bắp vào giữa tháng 3 đến tháng 4 hàng năm đã trở thành niềm vui, niềm hy vọng của nông dân. Bởi, đây là thời điểm đón năm mới của đồng bào Khmer, nếu được mùa, nông dân sẽ có thêm vốn đầu tư trồng trọt những vụ màu ngắn ngày tiếp theo trong năm.
Bà Thạch Thị Mon Phiếc, ấp Giồng Lớn A chia sẻ: từ khi trồng bắp kinh tế gia đình khá hơn so với làm lúa, tận dụng thêm cây cho bò ăn, đời sống nâng lên. Tôi luôn mong muốn bán được giá cao hơn để có thêm lợi nhuận, tiếp tục sản xuất vụ mùa sau.
Đồng chí Trầm Thị Xuân Triều, Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ xã Đại An, cho biết: người dân chuyển đổi sản xuất từ 02 vụ lúa/năm sang 01 vụ lúa, 02 vụ màu hiệu quả kinh tế cao hơn, đời sống của người dân, cũng như hội viên phụ nữ ngày càng nâng cao. Hiện nay, Hội Liên hiệp phụ nữ phối hợp Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội, Quỹ Hỗ trợ phụ nữ phát triển hỗ trợ vốn cho hội viên vay xây nhà ở, trồng trọt, chăn nuôi, giúp nâng cao đời sống.
Theo đại diện UBND xã Đại An, thực hiện chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp UBND xã Đại An định hướng cho nông dân đưa cây màu xuống chân ruộng, hiện tại, xã tập trung vào 02 cây trồng chủ lực là bí đỏ (diện tích hơn 30ha) và bắp (hơn 25ha) và một số loại cây trồng khác, hiện nông dân đang tiếp tục xuống giống chuẩn bị cho vụ mùa tới. Trên cơ sở chuyển đổi, UBND xã tập trung tuyên truyền, vận động nông dân xuống giống tập trung, thành lập các tổ hợp tác để đảm bảo diện tích và mời các cơ sở, doanh nghiệp liên kết đầu ra nhằm tạo sự an tâm cho người dân.
Việc vận động người dân tham gia các mô hình kinh tế tập thể gắn với thực hiện Đề án chuyển đổi cơ cấu cây trồng đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước trong định hướng phát triển kinh tế- xã hội. Đồng thời, khơi dậy tiềm năng và làm chuyển biến nhận thức của người dân trong sản xuất, góp phần nâng giá trị sản phẩm, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống.
Chính phủ đề nghị tiếp tục miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết năm 2030
Chính phủ đề nghị kéo dài thời gian thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết ngày 31-12-2030.
Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh điều hành phiên họp. Ảnh: media.quochoi.vn
Sáng 15-4, tiếp tục chương trình phiên họp thứ 44, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự thảo Nghị quyết về kéo dài thời hạn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp được quy định tại Nghị quyết số 55/2010/QH12 của Quốc hội về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 28/2016/QH14 và Nghị quyết số 107/2020/QH14.
Trình bày tờ trình, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, đánh giá chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp qua hơn 30 năm thực hiện cho thấy đến nay có những quy định không còn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay như cách xác định thuế lạc hậu, giá trị thu được thấp (thuế được tính bằng thóc, thu bằng tiền) và phần lớn các nội dung hiện không còn được áp dụng trên thực tế do thi hành chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho toàn bộ diện tích đến hết ngày 31-12-2025.
Chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp mặc dù được ban hành từ năm 1993 nhưng thực tế, từ năm 2001 đến nay, chính sách này chỉ thay đổi về quy định ưu đãi thuế (miễn, giảm) nhằm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Việc miễn thuế thời gian qua chưa gặp vướng mắc phát sinh.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng trình bày tờ trình. Ảnh: media.quochoi.vn
Do đó, Chính phủ trình Quốc hội ban hành Nghị quyết của Quốc hội để kéo dài thời gian thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp theo quy định tại Nghị quyết số 55/2010/QH12, Nghị quyết số 28/2016/QH14 và Nghị quyết số 107/2020/QH15 đến hết ngày 31-12-2030.
Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính, việc tiếp tục miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết năm 2030 sẽ không làm giảm thu do đây là chính sách đang được thực hiện trên thực tế. Với đề xuất kéo dài thời gian miễn thuế như quy định hiện hành đến hết ngày 31-12-2030 thì số thuế được miễn khoảng 7.500 tỷ đồng/năm.
Đây sẽ tiếp tục là hình thức hỗ trợ trực tiếp tới người nông dân, là nguồn đầu tư tài chính trực tiếp cho khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn để đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, qua đó giúp tạo công ăn việc làm cho người nông dân, cải thiện cuộc sống, gắn bó với hoạt động sản xuất nông nghiệp, góp phần khuyến khích đầu tư, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển bền vững.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi báo cáo thẩm tra. Ảnh: media.quochoi.vn
Báo cáo thẩm tra dự thảo Nghị quyết, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi cho biết, Thường trực Ủy ban thống nhất với đề nghị của Chính phủ về việc trình Quốc hội xem xét, quyết định về Nghị quyết của Quốc hội để kéo dài thời gian thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết ngày 31-12-2030.
Tuy nhiên, Thường trực Ủy ban Kinh tế - Tài chính đề nghị Chính phủ cân nhắc việc không miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với các trường hợp đất để hoang hóa, sử dụng không đúng mục đích phục vụ cho nông nghiệp. Đồng thời, thực hiện đánh giá định kỳ về hiệu quả của chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp từ các góc độ về tác động đến kinh tế nông nghiệp, đời sống nông dân và hiệu quả sử dụng đất.
Vùng lúa chuyên canh chất lượng cao tại huyện Ứng Hòa (Hà Nội). Ảnh: HNM
Kết luận phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị các cơ quan liên quan tiếp tục hoàn thiện dự thảo Nghị quyết và các hồ sơ kèm theo để tăng tính thuyết phục, báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp thứ chín.
Chỉ xem xét miễn thuế khi sử dụng đất đúng mục đích sản xuất nông nghiệp
Tiếp tục chương trình phiên họp thứ 44, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự thảo Nghị quyết kéo dài thời hạn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp (SDĐNN) đến hết năm 2030.
Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh tổng kết nội dung thảo luận
Tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng trình bày tờ trình của Chính phủ nêu rõ, trong 5 năm tới, việc tiếp tục thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp như quy định hiện hành là cần thiết. Điều này sẽ tiếp tục khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, góp phần tái cơ cấu ngành nông nghiệp; tiếp tục bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia và ổn định kinh tế - xã hội thông qua đẩy mạnh tích tụ, tập trung đất đai để đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp, phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại hóa, chuyên canh hóa tập trung, quy mô lớn.
Bên cạnh đó, việc miễn thuế tiếp tục góp phần nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trên thị trường; hỗ trợ tạo công ăn việc làm cho khu vực nông thôn, nâng cao thu nhập của người nông dân; đảm bảo phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam và thông lệ quốc tế về hỗ trợ, khuyến khích phát triển ngành nông nghiệp.
“Việc tiếp tục miễn thuế SDĐNN đến hết năm 2030 sẽ không làm giảm thu, do đây là chính sách đang được thực hiện trên thực tế. Với đề xuất kéo dài thời gian miễn thuế SDĐNN như quy định hiện hành đến hết ngày 31-12-2030 thì số thuế SDĐNN được miễn khoảng 7.500 tỷ đồng/năm. Việc tiếp tục miễn thuế SDĐNN đến hết năm 2030 không có hạn chế đáng kể nào, ngoại trừ việc kéo dài thời gian miễn thuế SDĐNN sẽ không làm tăng số thu ngân sách nhà nước”, ông Thắng giải trình.
Quang cảnh phiên họp
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho biết, đa số ý kiến trong Thường trực Ủy ban đồng tình với quan điểm cho rằng thực hiện miễn thuế SDĐNN có ý nghĩa quan trọng, thể hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc hỗ trợ, khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn và trên thực tế không gặp khó khăn, vướng mắc.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, việc miễn thuế SDĐNN một cách đại trà không tạo ra động lực cho việc sử dụng đất hiệu quả, tích tụ đất cho sản xuất nông nghiệp theo quy mô lớn và việc miễn thuế SDĐNN thời gian vừa qua cũng có phần dẫn đến tình trạng SDĐNN còn lãng phí, để hoang hóa.
Do đó, đề nghị rà soát, đánh giá thực trạng sử dụng đất nông nghiệp để có thể thiết kế chính sách miễn giảm thuế SDĐNN như một công cụ thúc đẩy hiệu quả sử dụng đất, tránh lãng phí nguồn lực đất nông nghiệp, góp phần thực hiện Chỉ thị số 27-CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Đại biểu dự họp
Tán thành quan điểm này, Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan đề xuất chỉ miễn thuế đối với diện tích đất được sử dụng đúng mục đích sản xuất nông nghiệp để khuyến khích người dân, doanh nghiệp sử dụng đất đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả; loại trừ các trường hợp miễn thuế đối với đất bỏ hoang, không sản xuất trong thời gian dài, tránh tình trạng đất bị bỏ hoang, gây lãng phí nguồn lực hoặc sử dụng sai mục đích. Quan điểm này cũng được Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh nhấn mạnh trong phần tổng kết thảo luận.
Tây Nguyên đối mặt nguy cơ hạn hán nghiêm trọng trong mùa khô 2025
Tây Nguyên đối mặt nguy cơ hạn hán nghiêm trọng trong mùa khô 2025, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống người dân.
Tây Nguyên đang đối mặt với hạn hán cục bộ. Ảnh minh họa
Nguy cơ hạn hán và thiếu nước cục bộ
Khu vực Tây Nguyên hiện đang bước vào giai đoạn cao điểm của mùa khô năm 2024–2025, với nguy cơ hạn hán và thiếu nước cục bộ có thể ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống người dân.
Theo Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia, tổng lượng mưa trong tháng 4/2025 tại Tây Nguyên dự kiến phổ biến từ 70–120mm, riêng khu vực Nam Tây Nguyên có thể đạt từ 130–200mm, cao hơn so với trung bình nhiều năm. Tuy nhiên, tình trạng thiếu hụt lượng mưa và dòng chảy tại một số khu vực vẫn có thể xảy ra, dẫn đến nguy cơ hạn hán và thiếu nước cục bộ.
Đặc biệt, tại các tỉnh như Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum và Đắk Nông, nhiều diện tích cây trồng đang đối mặt với tình trạng thiếu nước tưới. Tại huyện Chư Sê (Gia Lai), khoảng 2.365 ha cây trồng vụ Đông Xuân 2024–2025 có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi hạn hán do thiếu nước tưới. Nếu không có các biện pháp chủ động, thiệt hại cho nông nghiệp tại đây có thể rất nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và thu nhập của người dân.
Ứng phó và giải pháp
Trước tình hình hạn hán đang diễn ra, các địa phương tại Tây Nguyên đã chủ động triển khai nhiều biện pháp ứng phó để giảm thiểu thiệt hại. Cụ thể, các công trình thủy lợi lớn như Ia Glai, Plei Keo và Ia Ring được tăng cường quản lý, đảm bảo nguồn nước tưới cho cây trồng. Bên cạnh đó, các huyện cũng đẩy mạnh việc khoan giếng, đào ao, mương để tích trữ nước phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Ngoài việc duy trì các công trình thủy lợi, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi đã chỉ đạo các địa phương tăng cường kiểm tra, giám sát tình hình nguồn nước tại các hồ chứa, đập dâng nhỏ và vùng ngoài công trình thủy lợi. Điều này giúp các cơ quan chức năng có thể điều chỉnh và điều tiết nước hợp lý, giảm thiểu tình trạng thiếu hụt nước trong mùa khô.
Các chuyên gia khuyến cáo người dân và nông dân tại Tây Nguyên cần chủ động theo dõi thông tin dự báo thời tiết, hạn chế sử dụng nước cho các hoạt động không thiết yếu, đồng thời áp dụng các biện pháp tưới tiết kiệm nước cho cây trồng. Việc sử dụng giống cây trồng chịu hạn và có khả năng chống chịu cao cũng được khuyến khích để giảm thiểu thiệt hại do hạn hán.
Ngoài ra, các biện pháp nông nghiệp như cải thiện cấu trúc đất, tăng cường việc sử dụng phân bón hữu cơ và áp dụng các phương pháp canh tác bền vững cũng được khuyến khích để gia tăng khả năng chống chịu của cây trồng trước các yếu tố thời tiết khắc nghiệt.
Hạn hán tại Tây Nguyên không chỉ là vấn đề của mùa khô năm nay mà còn là mối lo tiềm tàng trong các năm tiếp theo. Do đó, ngoài các biện pháp khẩn cấp hiện tại, các địa phương cần xây dựng các giải pháp dài hạn như nâng cao năng lực dự báo và cảnh báo hạn hán, đồng thời tăng cường công tác quản lý tài nguyên nước, đặc biệt là trong mùa khô.
Đối với các vùng sản xuất nông nghiệp, việc xây dựng các hệ thống tưới tiêu thông minh và tăng cường lưu trữ nước sẽ là chìa khóa giúp giảm thiểu thiệt hại do hạn hán trong tương lai.
Sốp Cộp hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung
Với đặc điểm địa hình đa dạng, khí hậu thuận lợi, huyện Sốp Cộp khai thác hiệu quả tiềm năng đất đai, trồng trên 1.360 ha diện tích lúa, hơn 2.170 ha trồng cây ăn quả và gần 100 ha cây dược liệu. Vùng sản xuất tập trung ở các xã Mường Và, Nậm Lạnh, Mường Lèo, Mường Lạn, Sam Kha và thị trấn Sốp Cộp.
Nông dân bản Nà Mòn, xã Mường Và, huyện Sốp Cộp thu hoạch cam. Ảnh: trần hiền
Sản phẩm nổi bật, mang đậm bản sắc địa phương là gạo nếp tan Mường Và, giống nếp bản địa như tan hin, tan nhe và tan đỏ có hương vị thơm ngon, dẻo mềm. Nhờ quy trình canh tác đúng kỹ thuật, sản phẩm gạo nếp tan Mường Và được công nhận là sản phẩm OCOP 3 sao cấp tỉnh vào năm 2019. Sản phẩm trở thành hàng hóa, được bày bán tại các chợ, siêu thị và trên các sàn thương mại điện tử, tiếp cận người tiêu dùng ở nhiều tỉnh, thành phố lớn.
Bà Lò Thị Hà, Chủ tịch UBND xã Mường Và, cho biết: Những năm qua, cấp ủy, chính quyền và nhân dân tập trung cao việc phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP). Đến nay, Mường Và có 2 sản phẩm tiêu biểu được công nhận OCOP đạt từ 3 sao trở lên, đó là gạo nếp tan và cam Nà Mòn. Chúng tôi chỉ đạo khai thác hiệu quả tiềm năng đất đai, khí hậu, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị. Duy trì ổn định 590 ha cây ăn quả, trong đó, chủ lực là cam, quýt và các loại cây có múi.
Còn tại các xã Dồm Cang, Mường Và và Mường Lạn, mô hình trồng cây ăn quả đang phát triển với các loại cây chủ lực: Cam, quýt, xoài, chanh leo... Những loại cây trồng này, đang góp phần hình thành các vùng chuyên canh cây ăn quả tập trung, giúp nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng bền vững, mang lại giá trị kinh tế cao. Bên cạnh đó, huyện chỉ đạo phát triển cây cà phê ở các xã Dồm Cang, Nậm Lạnh, Mường Và và Púng Bánh. Đồng thời, hướng dẫn kỹ thuật canh tác, thu hái và bảo quản, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, từng bước xây dựng thương hiệu cà phê Sốp Cộp.
Ông Cầm Văn Vinh, Phó Chủ tịch UBND xã Dồm Cang, cho biết: Diện tích cà phê của xã đạt hơn 652 ha, trong đó, 305 ha cho thu hoạch quả, tập trung chủ yếu ở bản Cang, Pặt Pháy, Tốc Lìu, bản Dồm. Nhiều hộ trong xã có thu nhập từ 150-300 triệu đồng/năm từ trồng cà phê. Tỷ lệ hộ nghèo của xã năm 2024, giảm xuống còn 11,53%. Thời gian tới, những diện tích đảm bảo nước tưới, sẽ quy hoạch trồng cam.
Trao đổi về nội dung này, bà Dương Tú Anh, Bí thư Huyện ủy Sốp Cộp, cho biết: Huyện tập trung định hướng chuyển từ mô hình sản xuất nông nghiệp truyền thống, manh mún sang phát triển theo chiều sâu, đẩy mạnh thâm canh và sản xuất hàng hóa tập trung. Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất được đẩy mạnh, đồng thời gắn kết chặt chẽ giữa các khâu từ sản xuất đến chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm. Các yếu tố về an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ môi trường và xây dựng thương hiệu nông sản cũng được chú trọng, nhằm nâng cao giá trị gia tăng và hiệu quả sản xuất.
Đến nay, diện tích cây ăn quả của huyện đạt 2.152 ha cây ăn quả các loại, sản lượng ước đạt 2.300 tấn quả/năm, trong đó, 55 ha cây ăn quả trồng theo quy trình VietGAP, GlobalGAP, 4C, UTZ và các tiêu chuẩn tương đương. Toàn huyện có 1.057 ha cây cà phê, sản lượng đạt trên 4.300 tấn quả tươi/năm. Ngoài ra, huyện tích cực triển khai các mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, như hệ thống tưới tiết kiệm nước, nhà lưới, nhà kính, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
Việc hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung với sản phẩm chủ lực, được xem là một trong những định hướng quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế nông thôn của huyện Sốp Cộp, góp phần từng bước nâng cao đời sống nhân dân và xây dựng nông thôn mới bền vững.
Kinh tế tập thể, hợp tác xã hướng đến sản xuất xanh
Khi diễn biến bất thường do biến đổi khí hậu ngày càng trầm trọng và sản phẩm nông nghiệp phải cạnh tranh khốc liệt trên thị trường quốc tế, vai trò sản xuất hàng hóa lớn và thúc đẩy nền 'nông nghiệp xanh' của mô hình hợp tác xã (HTX) cũng ngày càng bức thiết.
Liên kết sản xuất
Toàn tỉnh có 615 Hợp tác xã (HTX) với trên 13.000 thành viên, vốn điều lệ 2.406 tỷ đồng, doanh thu bình quân 1,2 tỷ đồng/HTX; thu nhập bình quân thành viên, lao động thường xuyên của HTX 54 triệu đồng/người/năm. Đặc biệt, nhiều HTX đã và đang hướng đến các mô hình sản xuất theo chuỗi, tăng trưởng xanh với thế mạnh chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Nhiều sản phẩm chất lượng, có giá trị gia tăng cao đã có mặt trên thị trường, góp phần nâng cao thu nhập cho các thành viên.
Anh Trần Việt Côi, HTX nông sản hữu cơ Bình Minh, thôn Nhùng Dàm, xã Tứ Quận (Yên Sơn) cho hay: HTX được thành lập vào năm 2022, tuy nhiên từ cuối năm 2020, HTX đã cùng 1 nhóm hộ dân lập kế hoạch, khoanh vùng trồng trọt và lựa chọn cây ăn quả, cây dược liệu làm cốt lõi để phát triển. Năm 2022, HTX mở rộng liên kết thêm nhiều hộ sản xuất khác để trồng cây dược liệu, cây ăn quả và nuôi ong lấy mật. Đến nay vùng nguyên liệu của HTX khoảng 21 ha, trong đó chủ yếu trồng cây dược liệu và cây ăn quả như: đu đủ đực, ba kích, xạ đen, cà gai leo, cây khôi nhung…
Từ năm 2023, được hỗ trợ 100 triệu đồng của Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp Tuyên Quang, HTX đã mạnh dạn đầu tư xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị để hoàn thiện dây chuyền sản xuất trà túi lọc từ hạt đậu đen với công suất từ 15 - 20 tấn nguyên liệu/năm; tạo việc làm cho 15 lao động với thu nhập trung bình từ 5 - 7 triệu đồng/người/tháng và nhiều hộ gia đình trồng đậu đen xanh lòng, cây dược liệu trên địa bàn xã Tứ Quận và các xã lân cận, cho doanh thu khoảng 7 tỷ đồng/năm; lợi nhuận sau thuế đạt trên 900 triệu đồng/năm; đóng góp vào ngân sách nhà nước trên 700 triệu đồng.
Vườn chè áp dụng theo quy chuẩn VietGAP của HTX Dịch vụ sản xuất nông nghiệp Sử Anh, xã Mỹ Bằng (Yên Sơn) đón khách tham quan trải nghiệm.
Liên kết sản xuất đã đem lại hiệu quả thiết thực giúp nâng cao nhận thức của người dân từ sản xuất truyền thống sang sản xuất hàng hóa gắn với thị trường, góp phần nâng cao thu nhập. Anh Trần Văn Phúc, Giám đốc HTX chăn nuôi và sản xuất giống gia cầm Minh Tâm, xã Tú Thịnh (Sơn Dương) hồ hởi nói, HTX được thành lập vào năm 2017 với 16 thành viên, thực hiện 2 chuỗi liên kết chăn nuôi, sản xuất giống gia cầm và chuỗi liên kết sản xuất - tiêu thụ dưa chuột.
Đến nay HTX có gần 40 thành viên tổ chức sản xuất và ký hợp đồng liên kết, tiêu thụ dưa chuột với trên 1.200 hộ trồng với 170 ha dưa chuột trên địa bàn tỉnh. HTX cung ứng giống, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, hướng dẫn kỹ thuật, bao tiêu toàn bộ sản phẩm cho người trồng theo hợp đồng ký liên kết. Hằng năm doanh thu của HTX đạt trên 2,8 tỷ đồng, trừ chi phí còn lãi hơn 1 tỷ đồng.
Hướng tới sản xuất xanh
Hợp tác xã Dịch vụ sản xuất nông nghiệp Sử Anh, xã Mỹ Bằng (Yên Sơn) đã mạnh dạn đầu tư công nghệ, máy móc để nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm chè, tạo ra những sản phẩm khác biệt. Giám đốc HTX Nguyễn Công Sử kể: Năm 2017, anh cùng 6 hộ dân thành lập HTX dịch vụ sản xuất nông nghiệp Sử Anh, chuyên trồng, chế biến chè. Sau 7 năm phát triển, HTX đã nâng diện tích sản xuất lên hơn 30 ha chè, tạo việc làm cho trên 30 lao động.
Hiện diện tích chè gần 100 ha, tổng sản lượng chè trung bình đạt 125 tấn nguyên liệu/năm, toàn bộ diện tích được áp dụng theo quy chuẩn VietGAP và liên kết với trên 100 hộ dân tại các huyện Yên Sơn, Sơn Dương, Hàm Yên và thành phố Tuyên Quang. Tham gia mô hình, các hộ dân đều phải tuân thủ nghiêm nguyên tắc “4 đúng” (đúng thuốc, đúng liều lượng, đúng thời điểm và đúng phương pháp).
Với sự đồng hành của các cấp chính quyền, HTX được tiếp cận với các cơ chế, chính sách ưu đãi, kết nối được với một số doanh nghiệp, siêu thị tiêu thụ sản phẩm. HTX cũng đã mạnh dạn chuyển đổi giống chè mới có năng suất, chất lượng như chè Ngọc Thúy, chè Bát Tiên… chuyển dần áp dụng sản xuất theo hướng hữu cơ để tạo ra sản phẩm bảo vệ tốt hơn sức khỏe của người tiêu dùng.
Sản xuất tuần hoàn đang được HTX sản xuất thực phẩm an toàn Sáng Nhung hướng đến.
Ông Nguyễn Ngọc Sáng, Giám đốc HTX chia sẻ: HTX đang hợp tác với doanh nghiệp Hàn Quốc chuẩn bị cho ra mắt sản phẩm phân bón hữu cơ vi sinh, hướng đến giải quyết “từ gốc đến ngọn” các vấn đề về ô nhiễm mà nhiều đơn vị chăn nuôi đang gặp phải. Phân bón cung ứng trực tiếp cho nông dân tại địa phương để trồng rau, củ, quả. Sau đó, HTX lại tiếp tục liên kết bao tiêu sản phẩm, dùng chính nguồn nguyên liệu đó để sản xuất thức ăn chăn nuôi. Hay nói cách khác, HTX đặt mục tiêu phát triển hơn nữa một quy trình tuần hoàn theo chuỗi giá trị, tạo ra hiệu quả tối đa về kinh tế và chất lượng.
Hiện dây chuyền sản xuất phân bón đang được chạy thử với mức đầu tư dự kiến trên 30 tỷ đồng, công suất 30 tấn/ngày. Khi sản phẩm phân bón ra thị trường thì HTX sản xuất, chế biến thực phẩm an toàn Sáng Nhung hoàn thành quy trình sản xuất tuần hoàn. Việc này sẽ giúp HTX trở thành HTX đầu tiên thực hiện được mô hình kinh tế tuần hoàn, triệt để bảo vệ môi trường trong chăn nuôi.
Ông Sáng khẳng định: HTX tiếp tục đầu tư khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo quy trình sản xuất nhằm nâng cấp sản phẩm thịt lợn thảo dược Sáng Nhung lên OCOP 5 sao.
Tại Diễn đàn Hợp tác xã Quốc gia 2025 vừa diễn ra ngày 11- 4 tại Hà Nội với chủ đề "Chuyển đổi sản xuất xanh cho phát triển bền vững", Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh, các tổ chức kinh tế tập thể cần chủ động vượt qua những rào cản và vướng mắc mang tính cố hữu để vươn lên; chuyển biến mạnh mẽ về cả tư duy, nhận thức và hành động; tăng cường đầu tư vào chuyển đổi xanh, công nghệ xanh và chuyển đổi số.
Để hỗ trợ các hợp tác xã thích ứng tốt nhằm đi vào quỹ đạo phát triển nền kinh tế xanh, thời gian qua, Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách quan trọng như: Nghị quyết 106/NQ-CP về phát triển hợp tác xã nông nghiệp, Nghị định 113/2024/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Hợp tác xã và Nghị quyết 20-NQ/TW của Trung ương về tiếp tục phát triển kinh tế tập thể trong giai đoạn mới... Bên cạnh đó, Nghị quyết 106 đã xác định phát triển hợp tác xã nông nghiệp theo hướng bền vững là nhiệm vụ trọng tâm trong tái cơ cấu nền nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Với những chính sách cụ thể của chính phủ và sự chủ động, linh hoạt chuyển đổi sản xuất của các HTX, kỳ vọng kinh tế tập thể, HTX sẽ có tăng trưởng xanh.
Đồng Nai cần khai thác vùng sản xuất nông nghiệp tập trung
Đồng Nai hiện có hơn 320 vùng sản xuất nông nghiệp tập trung với khoảng 95,7 ngàn hécta. Nông sản từ các vùng sản xuất tập trung có năng suất, chất lượng đảm bảo đủ điều kiện để xuất khẩu. Tuy nhiên, thời gian qua, việc kết nối giữa nông dân và doanh nghiệp (DN) chế biến, xuất khẩu chưa tốt nên đầu ra của nhiều nông sản ở các vùng sản xuất tập trung còn bấp bênh.
Cụ thể, nông sản ở Đồng Nai đã xuất khẩu qua hơn 30 quốc gia, vùng lãnh thổ nhưng thị trường chính vẫn là Trung Quốc. Vì vậy, các nhà vườn ở Đồng Nai rất cần liên kết chặt chẽ với các DN chế biến, xuất khẩu để tăng sản lượng xuất khẩu nông sản. Với lợi thế có sẵn nhiều vùng sản xuất tập trung lớn, nếu tạo chuỗi từ sản xuất đến chế biến, xuất khẩu sẽ tăng giá trị rất lớn cho nông sản. Có đầu ra thuận lợi, giá cao, các nhà vườn sẽ tiếp tục liên kết mở rộng các vùng sản xuất tập trung lớn với các loại cây trồng, vật nuôi có thế mạnh.
Cụ thể, với những cây ăn trái có diện tích lớn trên địa bàn tỉnh như: chuối, xoài, sầu riêng, chôm chôm, bưởi, thanh long, cam có thể tạo thành chuỗi sản xuất. Bởi vì, mỗi năm các loại cây ăn trái trên cung ứng cho thị trường hơn 800 ngàn tấn. Trong đó, chuối, xoài, bưởi, cam, thanh long, nông dân Đồng Nai có thể xử lý cho ra trái quanh năm. Vì vậy, nếu có thể xuất khẩu trái cây tươi qua các nước sẽ giúp nâng được giá trị cho sản phẩm. Bên cạnh đó, nếu thu hút được DN tham gia chế biến thành các sản phẩm nước uống, sấy khô, sấy dẻo, bánh, kẹo… nông sản của tỉnh sẽ có đầu ra ổn định, bền vững.
Theo các DN, để tạo thành các chuỗi trong sản xuất cây trồng, vật nuôi cần có những hỗ trợ hơn nữa về cơ chế, chính sách, tín dụng cho DN. Bởi vì, đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp rủi ro thường cao hơn nên nhiều DN chưa mặn mà.
Một số chuyên gia cho biết, Đồng Nai nên xúc tiến đầu tư mạnh vào lĩnh vực nông nghiệp để thu hút các DN trong nước, nước ngoài có tiềm lực, kinh nghiệm, công nghệ đầu tư vào các vùng sản xuất tập trung. Từ đó, tạo liên kết chặt chẽ từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ. Năm 2024, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Đồng Nai đạt hơn 2 tỷ USD, nhưng chủ yếu tập trung vào xuất khẩu sản phẩm gỗ, hạt tiêu, cà phê, hạt điều, trái sầu riêng, trái chuối tươi; còn nhiều loại trái cây, rau củ quả khác Đồng Nai chưa xuất khẩu chính ngạch được nhiều.
Làm giàu từ mô hình sản xuất nông nghiệp kết hợp điện mặt trời
Mô hình sản xuất nông nghiệp kết hợp điện mặt trời được đánh giá là một giải pháp tiềm năng và đã được triển khai rộng rãi tại nhiều nước trên thế giới. Tại Việt Nam, đây là một trong những chủ trương quan trọng góp phần vào quá trình chuyển đổi xanh của đất nước.
Quá trình phát triển điện mặt trời sẽ cần sử dụng một diện tích đất rất lớn. Trong đó, phần lớn được thu hồi từ đất nông nghiệp làm ảnh hưởng đến sinh kế của người dân địa phương và tăng chi phí, thời gian thực hiện đối với nhà đầu tư. Nhưng tại Đồng bằng sông Cửu Long, những nhà khởi nghiệp đang viết nên những câu chuyện đáng kinh ngạc.
Dưới những "tán" pin mặt trời là những phương thức kết hợp cùng trồng trọt, chăn nuôi hay nuôi trồng thủy sản… đến những mô hình nông nghiệp công nghệ cao được các nhà khởi nghiệp vùng này gọi là “trên xanh, dưới sạch”, trở thành những giải pháp đột phá cho một tương lai, với khát vọng chuyển đổi xanh bền vững.
Khởi nghiệp
Những ngày giữa tháng 4, chúng tôi tìm về trang trại nấm mối đen và nấm dược liệu Nương Farm của bà Châu Thị Nương - Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Tà Đảnh (xã Tà Đảnh, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang), nơi đây đang là điểm sáng về mô hình nông nghiệp kết hợp năng lượng mặt trời. Thay vì phải đối mặt với chi phí điện năng tăng cao trong quá trình nuôi trồng nấm, chị Nương đã mạnh dạn đầu tư hệ thống pin năng lượng mặt trời trên mái nhà trồng nấm.
Kể về hành trình khởi nghiệp của mình vớiDoanh nghiệp Việt Nam, bà Nương cho biết, trong thời gian đại dịch COVID-19, nhận thấy nhu cầu về thực phẩm sạch và các sản phẩm có tính dược liệu cao trong cộng đồng ngày càng nhiều. Trong khi đó, nấm không chỉ là thực phẩm mà còn là dược liệu quý, giúp tăng cường sức khỏe và phòng ngừa bệnh tật.
“Năm 2019, sau khi tìm hiểu thông tin trên mạng việc kết hợp trồng nấm với hệ thống năng lượng mặt trời để tạo ra một mô hình nông nghiệp mới và hiệu quả. Tôi quyết định từ quê nhà ở xã Tà Đảnh, huyện Tri Tôn lên phường Thới Sơn, thị xã Tịnh Biên mua đất, lập trang trại Nương Farm trên diện tích 3 hecta và đầu tư gần 45 tỷ đồng để xây dựng hệ thống điện mặt trời 5MW”, bà Nương chia sẻ.
Theo bà Nương, từ khâu sản xuất meo, chị đầu tư hệ thống máy móc hiện đại: lò hấp chuyên dụng, phòng máy lạnh kiểm soát nhiệt độ, hệ thống phòng lạnh cho việc cấy phôi nấm. Mỗi công đoạn đều được kiểm soát chặt chẽ, từ việc duy trì độ ẩm, nhiệt độ phù hợp cho tơ nấm phát triển, đến quá trình chăm sóc kỹ lưỡng, sử dụng nước sạch, không hóa chất.
Thời điểm này, mô hình của bà Nương coi như thành công khi pin mặt trời không chỉ cung cấp điện mà còn tạo bóng mát, giúp giảm nhiệt trong khu vực trồng nấm rất nhiều, giúp năng suất tăng lên 30-40%, và giảm chi phí điện năng đáng kể. Mỗi tháng, cơ sở của bà xuất bán 2-3 tấn nấm các loại đến thị trường An Giang và TP Hồ Chí Minh. Với giá nấm linh chi dao động từ 1,5-2 triệu đồng/kg, nấm mối từ 200-250 nghìn đồng/kg, bà thu về hơn 800 triệu đồng.
“Ngoài nguồn thu từ nấm, hàng tháng mỗi MW công suất lắp đặt đem về cho trang trại tôi khoảng 300 triệu đồng tiền bán điện cho Công ty Điện lực An Giang (nhờ chính sách mua điện theo quyết định 13/2020 của Chính phủ với giá mua tương đương 1.900 đồng/kWh). Đồng thời, tạo việc làm ổn định cho hơn 30 lao động địa phương với thu nhập từ 250-300 nghìn đồng mỗi ngày”, bà Nương tiết lộ.
Doanh nhân Châu Thị Nương giới thiệu cho phóng viên các sản phẩm nấm được sản xuất theo mô hình "trên xanh, dưới sạch".
Cùng với Nương Farm, câu chuyện khởi nghiệp của bà Võ Thị Hồng Thoại - chủ hãng nước mắm Thiên Phú (xã Long Điền Tây, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu) có cùng một điểm chung là sử dụng năng lượng mặt trời. Với 48 hồ ủ, mỗi hồ chứa 50 tấn cá cơm, tổng vốn đầu tư 7 tỷ đồng, bà bắt đầu hành trình chế biến nước mắm truyền thống.
Rồi từ những khó khăn ban đầu như: nguồn điện từ lưới điện quốc gia không ổn định, khi gặp sự cố sẽ ảnh hưởng quy trình sản xuất, mà chi phí điện lại quá lớn kéo giá thành sản phẩm tăng cao nên khó cạnh tranh, đã thúc đẩy bà Thoại tìm kiếm giải pháp thay thế. Năm 2020, bà quyết định hợp tác cùng một doanh nghiệp đang đầu tư điện mặt trời với công suất 7MW, lắp đặt trên diện tích 3.600m2 tại Bạc Liêu.
Từ khi sử dụng nguồn điện này, chi phí điện của cơ sở giảm 50%, đồng thời nguồn điện luôn ổn định, không còn tình trạng cúp điện đột ngột. Hãng nước mắm Thiên Phú cũng tạo việc làm cho khoảng 45 lao động, với thu nhập từ 5-10 triệu đồng/tháng.
Câu chuyện khởi nghiệp của bà Nương, bà Thoại không chỉ là thành công cá nhân mà còn minh chứng cho hiệu quả khi kết hợp giữa năng lượng sạch và sản xuất nông nghiệp.
Hiệu quả
Nhận định về mô hình sản xuất nông nghiệp kết hợp điện mặt trời, PGS.TS Lê Anh Tuấn, cố vấn Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu, Đại học Cần Thơ cho biết, những năm gần đây, nhiều nông dân ở Đồng bằng sông Cửu Long đã sử dụng điện mặt trời thông qua việc lắp đặt các tấm pin để phục vụ tưới tiêu, nuôi trồng thủy sản, trồng rau màu, phơi sấy và chế biến nông sản.
“Việc đầu tư năng lượng mặt trời trong sản xuất đem lại các lợi ích cho nông dân là giúp giảm chi phí năng lượng, tự động hóa một số khâu, giúp tăng giá trị nông sản, có được chứng chỉ xanh khi xuất khẩu, đồng thời góp phần giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường nhờ giảm phụ thuộc vào các nguồn điện được tạo ra từ nhiên liệu hóa thạch như điện than, điện chạy bằng dầu diesel”, PGS.TS Lê Anh Tuấn nhấn mạnh.
Còn theo báo cáo nghiên cứu "Hiện trạng và tiềm năng phát triển điện mặt trời nông nghiệp tại Việt Nam", do Viện Nghiên cứu Thị trường và Thể chế Nông nghiệp (AMI) phối hợp cùng Viện Môi trường Nông nghiệp (IAE) công bố hồi tháng 2 vừa qua, phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời, là một trong những chủ trương quan trọng của Việt Nam và đang được triển khai rộng rãi trong thời gian gần đây, góp phần vào quá trình chuyển đổi xanh của đất nước.
Pin mặt trời không chỉ cung cấp điện mà còn tạo bóng mát, giúp giảm nhiệt trong khu vực trồng trọt, chăn nuôi phía dưới rất nhiều.
Nhiều dự án sản xuất nông nghiệp kết hợp điện mặt trời đã được phát triển tại Việt Nam (bao gồm cả các dự án điện mặt trời tập trung hoặc điện mặt trời áp mái) với các phương thức kết hợp bao gồm: điện mặt trời kết hợp cùng trồng trọt (trồng nấm, trồng đinh lăng,...); điện mặt trời kết hợp cùng chăn nuôi (nuôi gà, nuôi vịt, nuôi lợn...); điện mặt trời kết hợp cùng nuôi trồng thủy sản.
Ngoài ra, mô hình kết hợp điện mặt trời nông nghiệp lắp đặt tại mái các trang trại chăn nuôi công nghiệp phổ biến khắp cả nước. Các tấm pin mặt trời trên mái giúp giảm nhiệt độ chuồng nuôi vào ban ngày (khoảng 1-3 độ C) và giữ được nhiệt độ ban đêm giúp vật nuôi sinh trưởng tốt hơn, lượng thức ăn tiêu thụ ít hơn 3-4%; lợi nhuận từ chăn nuôi cao hơn khoảng 2-5% so với các trang trại chăn nuôi công nghiệp không có tấm năng lượng mặt trời trên mái…
Từ những kết quả nghiên cứu các mô hình sản xuất nông nghiệp kết hợp điện mặt trời, ông Đỗ Huy Thiệp - Phó Viện trưởng AMI nhận định, mô hình nông nghiệp kết hợp điện mặt trời mở ra nhiều tiềm năng và cơ hội phát triển cho kinh tế nông nghiệp tại Việt Nam, góp phần thực hiện các mục tiêu quốc gia về phát thải ròng bằng 0 (NetZero).
Mở rộng góc nhìn về mô hình, nó như một cuộc cách mạng đang diễn ra trong nông nghiệp, đó chính là sự kết hợp giữa năng lượng sạch và sản xuất. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà khoa học và chuyên gia đang đặt nhiều kỳ vọng vào mô hình điện mặt trời trong nông nghiệp.
Tái cơ cấu nông nghiệp gắn với phát triển kinh tế nông thôn – Bài 2: Xanh hóa nông nghiệp - Tất yếu để phát triển bền vững
Có thể nói, việc chuyển từ lượng sang chất; từ sản xuất sang kinh doanh nông nghiệp là một cuộc 'cách mạng' không chỉ giúp nông dân Yên Bái nâng cao thu nhập mà còn khẳng định vị thế của nông nghiệp địa phương trên bản đồ nông sản Việt Nam và quốc tế. Từ những chuyển động tích cực ấy, nông nghiệp Yên Bái không còn là nông nghiệp cận lạc hậu mà đang dần bước vào giai đoạn phát triển mới - hiện đại, hiệu quả, có giá trị gia tăng cao. Nông nghiệp được tỉnh Yên Bái xác định rõ mục tiêu là phát triển các vùng sản xuất tập trung gắn với lợi thế địa phương và thị trường tiêu thụ.
Mô hình trồng nho đen không hạt trong nhà lưới của anh Lục Vân Anh ở thị trấn Yên Thế, huyện Lục Yên.
Chú trọng sản phẩm chủ lực, có thương hiệu
Khai thác tiềm năng, lợi thế các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, Yên Bái đặc biệt chú trọng phát triển các sản phẩm nông nghiệp chủ lực mang tính đặc trưng vùng miền như chè Shan tuyết Suối Giàng, quế Văn Yên, gạo nếp Tú Lệ, sơn tra Mù Cang Chải, khoai sọ nương Trạm Tấu, măng tre Bát độ Trấn Yên, gỗ rừng trồng có chứng chỉ FSC Yên Bình phục vụ xuất khẩu… góp phần gia tăng giá trị xuất khẩu và xây dựng thương hiệu nông sản địa phương. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, phát triển chuỗi liên kết sản xuất - tiêu thụ cùng với các chính sách hỗ trợ từ chính quyền địa phương đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh của ngành nông nghiệp.
Có thể nói, Chương trình "Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) được triển khai thực hiện nỗ lực và quyết liệt trong những năm qua đã thực sự là đòn bẩy quan trọng, "thổi” vào nền kinh tế nông nghiệp có phần chưa mấy rõ nét của Yên Bái một luồng sinh khí mới, góp phần làm chuyển đổi mạnh mẽ sản xuất theo hướng tăng quy mô gắn với chuỗi giá trị, nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa và đồng bào dân tộc thiểu số.
Trở lại câu chuyện của cây khoai sọ nương của huyện Trạm Tấu. Từ cây trồng chống đói, khoai sọ nương Trạm Tấu đã trở thành một mặt hàng nông sản đặc sản, được nâng tầm sản phẩm OCOP 3 sao; được Cục Sở hữu Trí tuệ cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu. Đây là điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân phát triển sản xuất và kinh doanh sản phẩm khoai sọ nương; liên kết sản xuất, xúc tiến quảng bá, đưa sản phẩm khoai sọ nương Trạm Tấu vào các siêu thị lớn và các sàn thương mại điện tử.
Bà Đào Thị Thùy - Giám đốc Hợp tác xã (HTX) Kinh doanh, sản xuất và dịch vụ tổng hợp Hưng Thùy, thị trấn Trạm Tấu cho hay: "Để nâng cao giá trị sản phẩm, tạo thu nhập ổn định cho người dân, Hợp tác xã liên kết sản xuất, hướng dẫn các thành viên và nông dân sản xuất theo hướng sạch, an toàn nhằm đạt chuẩn OCOP. Song song, HTX đẩy mạnh xúc tiến thương mại, bảo đảm các tiêu chuẩn về bao bì, nhãn mác để sản phẩm có thể tiếp cận thị trường rộng lớn hơn, kỳ vọng sẽ có thêm nhiều sản phẩm mới từ khoai sọ nương Trạm Tấu”.
Hết năm 2024, huyện Trạm Tấu có 10 sản phẩm được công nhận đạt tiêu chuẩn OCOP 3 sao. Năm 2025, huyện tiếp tục phát triển thêm 5 sản phẩm OCOP mới về trà. Mục tiêu của địa phương là 100% sản phẩm OCOP đã được chứng nhận từ 3 sao trở lên và các sản phẩm OCOP phát triển mới trong năm 2025 đủ điều kiện được đưa lên các sàn thương mại điện tử Voso.vn, Postmart.vn và các sàn thương mại điện tử uy tín để quảng bá, giới thiệu và bán sản phẩm… Nông nghiệp Yên Bái đã có nhiều sản phẩm đặc sản, chủ lực, khẳng định lợi thế trên thị trường, được người tiêu dùng tin tưởng sử dụng. Đến nay, toàn tỉnh có gần 300 sản phẩm đạt tiêu chuẩn OCOP 3 sao và 4 sao, trong đó có gần 30 sản phẩm OCOP 4 sao.
Đồng chí Nguyễn Tuấn Anh - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh (người đầu tiên, bên phải) thăm mô hình trồng cà chua tại bản Lả Khắt và Cáng Dông, xã Nậm Khắt, huyện Mù Cang Chải.
Mở rộng nông nghiệp sinh thái
Khái niệm "nông nghiệp xanh” không còn xa lạ với người nông dân Yên Bái. Trên cánh đồng rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP tại thành phố Yên Bái, vùng sản xuất chè Shan tuyết hữu cơ ở Suối Giàng, huyện Văn Chấn và Phình Hồ, huyện Trạm Tấu; vùng hồ nuôi cá lồng trên hồ Thác Bà, huyện Yên Bình; vùng chuyên canh quế, chè, măng Bát độ tại các huyện Văn Yên, Trấn Yên, Văn Chấn…, người dân đang dần từ bỏ lối canh tác truyền thống, mạnh dạn ứng dụng kỹ thuật mới theo hướng tuần hoàn tạo ra những chuỗi sản xuất khép kín, không chỉ giúp tăng thu nhập mà còn thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Nông nghiệp xanh đã và đang là xu thế tất yếu để phát triển bền vững - điều mà chính nông dân - người sản xuất, kinh doanh nhận thức rõ nhất. Nhận thấy mô hình trồng quế truyền thống chủ yếu bán nguyên liệu thô với giá thấp, anh Lý Hai - nông dân thôn Làng Mới, xã Đại Sơn, huyện Văn Yên quyết định phát triển mô hình quế hữu cơ theo tiêu chuẩn VietGAP. HTX Bình An được thành lập do anh làm Giám đốc đã nhanh chóng liên kết những hộ có chung ý chí trồng, sản xuất, chế biến các sản phẩm quế hữu cơ.
Hiện nay, HTX Bình An đã có trên 40 thành viên, liên kết với hơn 300 hộ dân trong xã với diện tích 400 ha. HTX tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu sản xuất bảo đảm chất lượng quế đạt tiêu chuẩn chất lượng an toàn. Vì vậy, sản phẩm quế hữu cơ luôn có giá bán cao hơn từ 20 - 30% so với sản phẩm sản xuất truyền thống và đã có mặt tại nhiều hệ thống siêu thị trong nước và đang được xúc tiến để xuất khẩu sang châu Âu.
Giám đốc HTX Bình An Lý Hai chia sẻ: "Điều quan trọng nhất của mô hình quế hữu cơ là nâng cao giá trị thương hiệu quế trên thị trường quốc tế. Điều này đồng nghĩa với việc nâng cao giá trị kinh tế cho cây quế - người trồng quế - doanh nghiệp.
Thực tế chỉ khi giá trị thương hiệu của cây quế được bảo đảm, có vậy mới phát triển được vùng nguyên liệu bền vững cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm. Hay như mô hình VAC kết hợp với du lịch sinh thái của anh Ngô Quang Hà ở Bản Lùng, xã Phong Dụ Thượng là một ví dụ - đây được xem là mô hình kinh tế xanh tiêu biểu của địa phương này.
Kết hợp nông nghiệp với phát triển du lịch trên cơ sở diện tích đất đai sẵn có là 4 ha, sử dụng Internet làm cầu nối để liên kết các mô hình phát triển chăn nuôi, trồng trọt tại địa phương và quảng bá hình ảnh du lịch trên nền tảng số. Anh Hà cũng nhận thức, phát triển xanh hiện nay là một xu thế. Mô hình nông nghiệp xanh kết hợp với du lịch của gia đình tuy thu nhập chưa cao song đã mở ra hướng đi cho phát triển bền vững.
Với mô hình này, mỗi năm đem lại cho gia đình nguồn thu nhập trên 150 triệu đồng và tạo việc làm cho hơn 10 lao động địa phương. Tại xã vùng cao Nậm Khắt của huyện Mù Cang Chải, đã có những mô hình nông nghiệp xanh hiệu quả như mô hình trồng nấm dược liệu của Công ty TNHH Sản xuất nấm ăn và nấm dược liệu Mù Cang Chải tại bản Hua Khắt.
Doanh nghiệp này bình quân mỗi năm thu hoạch và bán ra thị trường trên 250 tấn nấm hương, thu về trên 20 tỷ đồng, tạo việc làm thường xuyên cho gần 50 lao động địa phương. Mô hình trồng cà chua ở 2 bản Lả Khắt và Cáng Dông có quy mô lớn với diện tích trên 9 ha, tạo việc làm cho trên 60 lao động. Quy trình sản xuất cà chua được thực hiện theo tiêu chuẩn VietGAP, sản phẩm xuất bán chủ yếu ra thị trường ngoại tỉnh, cho giá trị kinh tế cao hơn rất nhiều lần những cây trồng truyền thống ở địa phương.
Đến nay, Yên Bái có gần 50 mô hình sản xuất đạt tiêu chuẩn VietGAP, nông nghiệp hữu cơ, vệ sinh an toàn thực phẩm với diện tích trên 1.000 ha, chủ yếu là các loại cây như chè, quế hữu cơ và các mô hình cánh đồng mẫu lớn, mô hình nông nghiệp kết hợp trồng trọt với chăn nuôi theo hướng VietGAP… Theo đó, các sản phẩm nông sản được chuẩn hóa bảo đảm tiêu chuẩn xuất khẩu cũng ngày một nhiều hơn.
Hiện nay, toàn tỉnh có trên 23.000 ha rừng được cấp chứng chỉ FSC, quế hữu cơ; 77 mã số vùng trồng phục vụ tiêu thụ nội địa và xuất khẩu được cấp mã, trong đó 40 mã số vùng trồng phục vụ xuất khẩu được áp dụng các quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn GAP cơ bản, VietGAP, GlobalGAP, Organic, góp phần nâng cao giá trị chất lượng cho sản phẩm nông sản. Yên Bái cũng đã xác định có 10 sản phẩm nông, lâm nghiệp chủ lực và 10 sản phẩm nông, lâm nghiệp đặc sản. Định hướng của tỉnh là khi quy mô các vùng sản xuất như hiện nay đã đủ lớn, thay vì mở rộng sản xuất, tỉnh ưu tiên mở rộng diện tích sản xuất hữu cơ.
Những bước tiến này nhìn từ ngành nông nghiệp cho thấy, Yên Bái đang từng bước hiện thực hóa triết lý phát triển "Xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc” trên quan điểm phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới bền vững.
Minh Thúy
Tiên phong xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu
Cuối năm 2024, huyện Xuân Lộc đã cơ bản hoàn thành 6 nhóm tiêu chí chung và 29 chỉ tiêu của Đề án Thí điểm xây dựng huyện Xuân Lộc đạt chuẩn nông thôn mới (NTM) kiểu mẫu theo hướng 'Phát triển sản xuất hàng hóa nông nghiệp bền vững' giai đoạn 2018-2025.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và môi trường Trần Thanh Nam (bìa trái) tham quan mô hình nông nghiệp công nghệ cao tại Công ty TNHH Trang Trại Việt ở xã Xuân Trường, huyện Xuân Lộc. Ảnh: B.Nguyên
Huyện Xuân Lộc đề xuất Trung ương ban hành Bộ tiêu chí huyện NTM kiểu mẫu theo hướng “Phát triển sản xuất hàng hóa nông nghiệp bền vững”; kiến nghị UBND tỉnh thẩm tra, đề nghị Bộ Nông nghiệp và môi trường, các bộ, ngành liên quan và Văn phòng Điều phối Trung ương Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng NTM thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ công nhận huyện Xuân Lộc đạt NTM kiểu mẫu năm 2024.
Chủ động, sáng tạo, bám sát thực tiễn
Theo đề án, Xuân Lộc phấn đấu đạt mục tiêu huyện NTM kiểu mẫu vào năm 2025, nhưng đến cuối năm 2024, huyện đã cơ bản hoàn thành mục tiêu đề ra.
Làm rõ thêm các kết quả đã đạt được trong xây dựng Đề án Huyện Xuân Lộc đạt chuẩn NTM kiểu mẫu theo hướng phát triển nông nghiệp hàng hóa bền vững giai đoạn 2018-2025, Chủ tịch UBND huyện Xuân Lộc Nguyễn Thị Cát Tiên nhấn mạnh, ngay sau khi đạt chuẩn huyện NTM, huyện Xuân Lộc đã nhận thức rõ vai trò của việc xây dựng NTM trong giai đoạn tiếp theo. Huyện đã kịp thời tập trung vào công tác chỉ đạo với sự tham gia đồng bộ, trách nhiệm cao của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và sự hỗ trợ của các sở, ban, ngành để đến nay, huyện Xuân Lộc đã hoàn thành mục tiêu đề án đề ra.
Bà Nguyễn Thị Cát Tiên chia sẻ kinh nghiệm, một trong những bài học quý giá là sự chủ động, sáng tạo, bám sát thực tiễn để cụ thể hóa, triển khai các cơ chế, chính sách liên quan phù hợp và tập trung huy động cao nhất mọi nguồn lực trong thực hiện, đã góp phần có ý nghĩa rất quan trọng thực hiện thắng lợi chương trình. Bài học quan trọng khác là huy động sự vào cuộc tích cực, đồng bộ của toàn hệ thống chính trị, trong đó cần xác định rõ vai trò, trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền. Đặc biệt là phát huy ý chí, sức mạnh vai trò chủ thể của người dân, khơi dậy mạnh mẽ tiềm năng, sức mạnh cộng đồng, vượt qua khó khăn, thử thách, thực hiện thành công mục tiêu chương trình.
Xây dựng NTM phải được thực hiện với tinh thần chủ động, sáng tạo, quyết tâm, thiết thực, hiệu quả vì mục đích nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn để người dân chủ động thực hiện, Nhà nước định hướng, hỗ trợ, chứ không làm thay. Đồng thời, việc huy động sức dân phải khoa học, tạo sự đồng thuận cao trong dân theo phương châm “Huy động nguồn lực từ cộng đồng là quyết định, sự tham gia của doanh nghiệp và xã hội là quan trọng, sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước là cần thiết”. Việc sử dụng nguồn lực phải đảm bảo công khai, minh bạch, được người dân bàn bạc, thống nhất, có sự giám sát chặt chẽ của cộng đồng.
So với 10 năm trước, hiện Xuân Lộc đã có bước phát triển vượt bậc. Đến cuối năm 2024, giá trị sản xuất trồng trọt của huyện đạt trên 232,4 triệu đồng/hécta; riêng các cây trồng chủ lực đạt trên 348,5 triệu đồng/hécta, tăng 78 triệu đồng/hécta so với năm triển khai đề án 2018. Thu nhập bình quân đầu người toàn huyện đạt 95,95 triệu đồng, tăng 36,35 triệu đồng so với thời điểm xây dựng đề án.
Xuân Lộc dẫn đầu
Tại Hội nghị Sơ kết Đề án Xây dựng huyện Xuân Lộc đạt chuẩn NTM kiểu mẫu theo hướng “Phát triển sản xuất hàng hóa nông nghiệp bền vững” giai đoạn 2018-2025 diễn ra vào cuối tháng 11-2024, Phó chánh Văn phòng Điều phối trung ương Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng NTM Trần Nhật Lam đánh giá, huyện Xuân Lộc đã đạt tất cả các nhóm mục tiêu, chỉ tiêu của Đề án Xây dựng huyện Xuân Lộc đạt chuẩn NTM kiểu mẫu theo hướng phát triển sản xuất hàng hóa nông nghiệp bền vững giai đoạn 2018-2025. Đến nay, huyện đã có 9/14 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu và một đô thị văn minh. Huyện cơ bản đạt tất cả các nhóm mục tiêu, chỉ tiêu của đề án, sớm hơn một năm so với mục tiêu đặt ra.
Dưới góc nhìn khác, Phó cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn Nguyễn Thị Hoàng Yến cho rằng, Xuân Lộc đạt kết quả rất ấn tượng trong xây dựng NTM kiểu mẫu. Trong thực hiện phát triển sản xuất hàng hóa nông nghiệp bền vững, địa phương gặp rất nhiều khó khăn, nhưng các chỉ tiêu, tiêu chí huyện đạt được đều vượt so với kế hoạch, mục tiêu đề ra. Huyện đã có những suy nghĩ, trăn trở đặt ra rất sớm, từ khi vừa bắt tay vào xây dựng NTM kiểu mẫu. Kết quả cao huyện đạt được sẽ tạo động lực cho các huyện khác trong cả nước có được ý chí và quyết tâm hoàn thành mục tiêu của cả giai đoạn 2021-2025.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và môi trường Trần Thanh Nam nhấn mạnh, trong 4 huyện của cả nước được chọn xây dựng điểm huyện NTM kiểu mẫu, Xuân Lộc là địa phương đầu tiên cơ bản hoàn thành các tiêu chí huyện NTM kiểu mẫu. Điều rất hoan nghênh là Xuân Lộc thực hiện song song 2 mục tiêu, vừa tập trung vào mục tiêu chính là phát triển sản xuất hàng hóa chuyên sâu bền vững, vừa làm kiểu mẫu về các mô hình khác. Đây là bài học giá trị cho Trung ương có thêm kinh nghiệm trong xây dựng huyện NTM kiểu mẫu thời gian tới.
'Sống khỏe' với cánh đồng thông minh, HTX số hóa ở Đồng Tháp
Sự vào cuộc quyết liệt của chính quyền địa phương và sự chủ động từ các HTX, tổ hợp tác nông nghiệp thông minh không chỉ giúp tăng năng suất, giảm chi phí mà còn mở ra nhiều cơ hội việc làm cho người dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.
Trong những năm gần đây, huyện Lấp Vò đã nổi lên như một điểm sáng trong việc ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số vào sản xuất nông nghiệp. Một trong những mô hình điểm là HTX Dịch vụ Nông nghiệp Tân Bình (xã Tân Bình), có trên 1.000 thành viên, hơn 712 ha canh tác lúa cùng các loại cây ăn trái, rau màu….
Đột phá từ mô hình điểm
Những năm qua, HTX Tân Bình đã triển khai hệ thống quản lý canh tác thông minh, áp dụng các thiết bị cảm biến IoT để đo độ ẩm, nhiệt độ, pH đất và theo dõi sâu bệnh. Thông tin được cập nhật liên tục lên nền tảng số giúp bà con nông dân điều chỉnh quy trình chăm sóc cây trồng kịp thời.
Ông Nguyễn Văn Khánh, Giám đốc HTX, chia sẻ: "Trước đây, việc bón phân, tưới nước chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Giờ đây, với dữ liệu số, chúng tôi biết chính xác cây cần gì, khi nào. Nhờ đó, chi phí sản xuất giảm khoảng 20%, sản lượng tăng 15% so với trước".
Ứng dụng khoa học công nghệ là chìa khóa thành công của các HTX, nông dân ở Lấp Vò.
Không chỉ dừng lại ở việc áp dụng công nghệ trong sản xuất, HTX còn kết nối với các sàn thương mại điện tử để tiêu thụ nông sản. Qua đó, sản phẩm được đưa trực tiếp đến tay người tiêu dùng, rút ngắn khâu trung gian, tăng lợi nhuận cho nông dân.
Bên cạnh HTX Tân Bình, huyện Lấp Vò còn có nhiều HTX khác đang ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số như HTX Rau an toàn Mỹ Lợi, HTX Nông sản xanh Hòa An. Các đơn vị này đều đã xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử, giúp minh bạch thông tin sản phẩm và nâng cao giá trị nông sản địa phương.
HTX Rau an toàn Mỹ Lợi là một ví dụ điển hình. Với sự hỗ trợ từ chương trình chuyển đổi số cấp huyện, HTX đã đầu tư hệ thống nhà màng, tưới nhỏ giọt tự động và ứng dụng phần mềm quản lý nông trại FarmERP. Mỗi sản phẩm của HTX đều gắn mã QR, giúp người tiêu dùng truy xuất được toàn bộ quá trình sản xuất.
Theo bà Nguyễn Thị Thủy, thành viên HTX Mỹ Lợi: "Nhờ chuyển đổi số, công việc được chuyên môn hóa, có quy trình rõ ràng. HTX cũng tạo thêm nhiều việc làm cho lao động địa phương, đặc biệt là phụ nữ và người lớn tuổi".
Những điểm tựa vững chắc
Tính đến cuối năm 2024, toàn huyện Lấp Vò đã có hơn 20 HTX nông nghiệp triển khai ứng dụng công nghệ số ở nhiều mức độ khác nhau, tạo việc làm thường xuyên cho hơn 2.000 lao động. Điều này không chỉ góp phần ổn định đời sống người dân mà còn thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển bền vững.
Để đạt được những kết quả trên, không thể không kể đến vai trò định hướng và hỗ trợ tích cực từ chính quyền huyện Lấp Vò. UBND huyện đã phối hợp với các sở, ngành tỉnh Đồng Tháp tổ chức nhiều lớp tập huấn, chuyển giao công nghệ, đồng thời triển khai các chương trình hỗ trợ thiết bị và phần mềm cho các HTX.
Ngoài ra, huyện còn kết nối với các đơn vị nghiên cứu, doanh nghiệp công nghệ và các tổ chức quốc tế nhằm mang đến những giải pháp công nghệ phù hợp với đặc thù nông nghiệp địa phương. Chính nhờ sự đồng hành này, các HTX và nông dân địa phương mới có điều kiện tiếp cận và ứng dụng công nghệ một cách hiệu quả.
Bên cạnh đó, không thể không nhắc đến vai trò đồng hành của Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Đồng Tháp trong việc triển khai nhiều chính sách thiết thực nhằm hỗ trợ các HTX hoạt động hiệu quả trên địa bàn tỉnh. Những chính sách này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các HTX vươn lên mà còn góp phần thúc đẩy tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao thu nhập cho người dân.
Các HTX đang có dấu ấn đậm nét trong quá trình chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp huyện Lấp Vò.
Theo số liệu từ Liên minh HTX tỉnh Đồng Tháp, tính đến đầu năm 2025, toàn tỉnh có hơn 280 HTX đang hoạt động, chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản và dịch vụ. Nhằm nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả sản xuất kinh doanh, các HTX trên địa bàn tỉnh đã và đang nhận được sự hỗ trợ toàn diện từ Trung ương đến địa phương.
Một trong những chính sách nổi bật là chương trình hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX. Thông qua các lớp tập huấn chuyên sâu về quản trị, marketing, ứng dụng công nghệ thông tin và truy xuất nguồn gốc, hàng trăm lượt cán bộ HTX đã được nâng cao năng lực chuyên môn, giúp HTX vận hành hiệu quả và minh bạch hơn.
Song song đó, các chính sách tín dụng ưu đãi và hỗ trợ tiếp cận vốn cũng được triển khai mạnh mẽ. Liên minh HTX Việt Nam phối hợp với các tổ chức tín dụng, quỹ hỗ trợ phát triển HTX cung cấp các khoản vay lãi suất thấp, giúp nhiều HTX mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư thiết bị hiện đại và phát triển sản phẩm OCOP. Tại Đồng Tháp, hơn 60 HTX đã được tiếp cận nguồn vốn ưu đãi này trong năm 2024.
Hướng đi cho tương lai
Không dừng lại ở đó, các chương trình xúc tiến thương mại, kết nối tiêu thụ sản phẩm cũng được Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Đồng Tháp tổ chức thường xuyên.
Các HTX được tham gia hội chợ, hội thảo, kết nối với các hệ thống siêu thị, sàn thương mại điện tử và doanh nghiệp lớn. Nhờ đó, sản phẩm của HTX ngày càng tiếp cận được nhiều thị trường trong và ngoài tỉnh, nâng cao giá trị thương hiệu và năng lực cạnh tranh.
Thành công bước đầu từ các HTX, tổ hợp tác hay các mô hình điểm tại Lấp Vò cho thấy chuyển đổi số trong nông nghiệp không còn là điều xa vời. Tuy nhiên, để tiến xa hơn, cần sự chung tay từ nhiều phía, từ người nông dân, hợp tác xã đến chính quyền và các đơn vị khoa học - công nghệ.
Sự phát triển của công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), blockchain trong truy xuất nguồn gốc, hay robot trong chăm sóc cây trồng... đang mở ra những cơ hội mới cho nông nghiệp Việt Nam nói chung và huyện Lấp Vò nói riêng. Việc đầu tư hạ tầng số, nâng cao kỹ năng số cho nông dân và xây dựng các mô hình liên kết chuỗi giá trị là những nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới.
Từ một huyện thuần nông, Lấp Vò đang vươn lên trở thành điểm sáng của Đồng Tháp trong công cuộc hiện đại hóa nông nghiệp. Những cánh đồng thông minh, những HTX số hóa đang thay đổi bộ mặt nông thôn, mở ra tương lai phát triển bền vững và thịnh vượng cho người dân nơi đây.
'Trợ lý số' giúp những bản làng dân tộc thiểu số ở Cao Bằng 'thay da đổi thịt' từng ngày
Không còn là những hình ảnh manh mún, tự phát, sản xuất nông nghiệp vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi tỉnh Cao Bằng nay đã đổi thay nhờ có 'trợ lý số', nông dân dùng smartphone để bán hàng, làm giàu trên chính mảnh đất quê hương.
Từ một nông dân người Tày chỉ quen “cày sâu cuốc bẫm”, những năm gần đây, anh Nông Văn Thắng, xã Hồng Việt (huyện Hòa An) trở thành một gương mặt nổi bật trong phong trào ứng dụng công nghệ số vào sản xuất nông nghiệp tại địa phương.
Làm nông bằng… smartphone
Gia đình anh Thắng có hơn 1,5 ha trồng rau an toàn, trước kia chỉ bán quanh chợ xã. Nhưng từ khi tham gia vào chương trình hỗ trợ của tỉnh về chuyển đổi số, anh Thắng bắt đầu học cách sử dụng phần mềm nông nghiệp, cập nhật quy trình sản xuất sạch, và mở gian hàng trên sàn thương mại điện tử Postmart, Voso.
“Trước đây rau trồng ra chỉ bán được 10.000 - 12.000 đồng/kg, giờ có mã QR truy xuất nguồn gốc, tôi kết nối với khách hàng, bán được tận ra Hà Nội, Hải Phòng với giá cao gấp rưỡi. Giờ mỗi vụ tôi lời vài chục triệu đồng là chuyện bình thường”, anh Thắng hồ hởi chia sẻ.
Thay đổi cách nghĩ cách làm giúp đồng bào dân tộc thiểu số ở Cao Bằng nâng cao hiệu quả sản xuất (Ảnh: BCB).
Không chỉ dừng lại ở sản xuất, anh còn trở thành người “truyền lửa” cho bà con trong xã. Anh Thắng đã phối hợp với Trung tâm Khuyến nông tỉnh tổ chức các lớp tập huấn kỹ năng số cho nông dân, hướng dẫn cách dùng điện thoại để tra cứu thông tin thời tiết, giá cả thị trường, và đặc biệt là cách bán hàng online.
Không chỉ cá nhân, nhiều HTX ở Cao Bằng cũng đang tiên phong trong hành trình chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp. Một trong những đơn vị tiêu biểu là HTX Nông nghiệp sạch Bảo Lạc (thị trấn Bảo Lạc, huyện Bảo Lạc), do chị Hoàng Thị Hường, người Dao, sáng lập từ năm 2021.
Bắt đầu với sản phẩm chính là miến dong và tinh bột nghệ, khi mới đi vào hoạt động, HTX gặp khó khăn khi đầu ra bấp bênh, giá cả bấp bênh. Nhưng bước ngoặt đến khi chị Hường mạnh dạn đầu tư hệ thống mã vạch, phần mềm quản lý sản phẩm và đưa toàn bộ sản phẩm lên các sàn thương mại điện tử.
Sức bật từ chuyển đổi số
“Chuyển đổi số không chỉ là dùng máy tính hay điện thoại. Đó là cách thay đổi tư duy, biết cách quản trị, liên kết, và phát triển bền vững hơn. Nhờ đó, HTX đã tăng sản lượng lên gấp đôi, doanh thu năm 2024 đạt hơn 2 tỷ đồng, tạo việc làm ổn định cho 30 lao động, phần lớn là phụ nữ dân tộc thiểu số”, người sáng lập HTX Nông nghiệp sạch Bảo Lạc Hoàng Thị Hường cho biết.
Chính nhờ tư duy sản xuất mới, chất lượng sản phẩm vượt trội đang giúp các mặt hàng chủ lực của HTX có mặt trong chuỗi siêu thị tại Hà Nội, TP. HCM và thậm chí xuất khẩu thử nghiệm sang thị trường Hàn Quốc.
Những thành công trên đều đến từ sự chuyên nghiệp hóa trong quy trình sản xuất và kinh doanh, được hỗ trợ bởi các công cụ công nghệ hiện đại như phần mềm kế toán số, hệ thống ERP mini, và các khóa học thương mại điện tử.
Dễ nhận thấy, trong bối cảnh chuyển đổi số trở thành xu hướng tất yếu, các HTX tại tỉnh Cao Bằng đang đóng vai trò then chốt trong việc đưa công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đặc biệt tại các huyện vùng cao có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
Sự mạnh dạn ứng dụng khoa học công nghệ của các HTX, tổ hợp tác không chỉ nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm mà còn góp phần thay đổi diện mạo kinh tế nông thôn.
Sự hiện diện của các HTX, tổ hợp tác đang góp phần thay đổi diện mạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Cao Bằng (Ảnh: BCB).
Như tại huyện Hà Quảng, HTX Nông nghiệp & Chăn nuôi Bảo Hưng, xã Trường Hà, là một điển hình trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Những năm qua, HTX đã đầu tư xây dựng nhà lưới, mua sắm trang thiết bị phục vụ sản xuất, chuyển đổi sang trồng các loại dưa chất lượng cao như dưa lưới, dưa hấu, dưa chuột, dưa lê.
Ngoài ra, HTX còn triển khai các mô hình thử nghiệm về cây trồng, vật nuôi thực hiện theo quy trình kỹ thuật thông minh như mô hình nuôi cá nheo Mỹ, nuôi cá tầm tại xã Trường Hà, mô hình trồng dưa trong nhà lưới tại xã Đa Thông, mô hình áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt cho cây thuốc lá tại xã Lương Can...
Chính sách đồng hành cùng người dân
Thành công của những cá nhân, HTX trong thời gian qua không thể tách rời khỏi sự hỗ trợ tích cực từ chính quyền địa phương. Trong những năm gần đây, tỉnh Cao Bằng đã triển khai nhiều chương trình đẩy mạnh chuyển đổi số trong nông nghiệp, đặc biệt hướng đến vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Đáng chú ý, không thể không nhắc đến vai trò đồng hành của Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Cao Bằng, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế hợp tác, nâng cao đời sống người dân và thúc đẩy xây dựng nông thôn mới.
Tính đến cuối năm 2024, toàn tỉnh Cao Bằng có 444 HTX, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước, cùng với 26 tổ hợp tác và 678 nhóm sở thích với khoảng 9.000 thành viên. Các đơn vị hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ sản xuất, vốn, nhân lực và chuyển giao khoa học kỹ thuật cho người dân địa phương.
Liên minh HTX Việt Nam đã hỗ trợ các HTX tại Cao Bằng xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm, từ sản xuất đến tiêu thụ. Điển hình là việc hỗ trợ HTX dong riềng Trung Hiếu tại huyện Nguyên Bình vay 300 triệu đồng để phát triển sản xuất miến dong, tạo dựng thương hiệu và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Ngoài ra, Liên minh HTX Việt Nam còn triển khai các chương trình đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ HTX, hỗ trợ các HTX tham gia xúc tiến thương mại và kết nối thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đến nay, Quỹ hỗ trợ phát triển HTX tại tỉnh đã đạt hàng chục tỷ đồng, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế hợp tác, HXT tại địa phương.
Trong bối cảnh thiên tai, Liên minh HTX Việt Nam cũng đã có những hỗ trợ kịp thời. Sau cơn bão số 3 năm 2024, tổ chức này đã trao tặng 35 tấn gạo cho các HTX và tổ hợp tác bị ảnh hưởng nặng nề tại Cao Bằng, giúp người dân sớm ổn định cuộc sống và khôi phục sản xuất.
Có thể nói, câu chuyện chuyển đổi số trong nông nghiệp ở Cao Bằng cho thấy một điều rõ ràng dù ở vùng sâu, vùng xa, nếu có chính sách đúng, sự vào cuộc của cả hệ thống và đặc biệt là tinh thần dám thay đổi từ người dân, thì “nút thắt” nghèo đói sẽ được tháo gỡ.
“Giờ điện thoại không chỉ để gọi hay nghe nhạc, mà là công cụ làm ăn. Mỗi ngày tôi lên mạng xem giá, học cách trồng, chăm cây. Có hôm còn xem livestream nông dân ở các tỉnh khác chia sẻ kinh nghiệm. Học được nhiều lắm”, bà Lý Thị Hảo, người H’Mông ở huyện Trùng Khánh, vừa cười vừa giơ chiếc smartphone cũ kỹ nhưng đầy “quyền năng”.
Từ những cá nhân nhỏ lẻ đến các HTX bài bản, chuyển đổi số đang dần trở thành xu hướng không thể đảo ngược trong sản xuất nông nghiệp ở vùng cao. Và với sự chung tay từ chính quyền, doanh nghiệp, người dân, tương lai một nền nông nghiệp số - thông minh, bền vững ở Cao Bằng không còn là câu chuyện xa vời.
Chợ sản phẩm trực tuyến VCAMart – sân chơi mới của hợp tác xã trong thời đại số
Cả nước hiện có hơn 33.500 hợp tác xã hoạt động ở nhiều lĩnh vực, trong đó hơn 64% là hợp tác xã nông nghiệp với sự tham gia của trên 3,8 triệu nông dân. Ngày 11/4/2025, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam chính thức khởi động Chợ sản phẩm trực tuyến VCAMart – tạo một 'sân chơi' mới cho các hợp tác xã trên nền tảng số.
Liên minh HTX Việt Nam tổ chức Lễ Khởi động chợ sản phẩm trực tuyến vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi
Thêm sân chơi mới trên nền tảng số
Theo thống kê, cả nước hiện có hơn 33.500 hợp tác xã hoạt động ở nhiều lĩnh vực, trong đó hơn 64% là hợp tác xã nông nghiệp với sự tham gia của trên 3,8 triệu nông dân. Trong bối cảnh thương mại điện tử bùng nổ, bắt nhịp cùng xu hướng mua sắm của người tiêu dùng trên nền tảng trực tuyến, nhiều hợp tác xã đã tham gia sân chơi thương mại điện tử, tìm cơ hội mở rộng đầu ra tiêu thụ sản phẩm.
Tuy nhiên, thời gian gần đây nhiều sàn lớn như Lazada, Shopee, Tiki… đồng loạt tăng các loại phí, từ phí sàn cố định, phí hoa hồng cho đến phí vận chuyển, phí thanh toán… Điều này đã tạo áp lực không nhỏ cho người bán, đặc biệt là các hợp tác xã ở vùng sâu, vùng xa có quy mô vốn nhỏ và còn hạn chế trong việc tiếp cận thị trường số do kỹ năng ứng dụng công nghệ, bán hàng, tiếp thị chưa tốt. Chỉ tính riêng quý I/2025, đã có tới 165.000 cửa hàng rời khỏi các nền tảng thương mại điện tử lớn, phản ánh sự khốc liệt của sân chơi rộng lớn có sự góp mặt của nhiều đối thủ cạnh tranh.
Để mở thêm cánh cửa giúp các hợp tác xã quảng bá, tiếp thị và mở rộng đầu ra cho hàng hóa, ngày 11/4/2025, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam chính thức khởi động nền tảng Chợ sản phẩm trực tuyến VCAMart - một “sân chơi” mới cho các hợp tác xã trong thời đại số, đặc biệt là hợp tác xã tại vùng sâu, vùng xa, khó khăn trên cả nước. Sự ra đời của VCAMart được kỳ vọng sẽ là giải pháp thiết thực hỗ trợ hợp tác xã tiếp cận thị trường hiện đại, đồng thời phát huy tinh thần tự lực, sáng tạo và vươn xa của hàng Việt.
VCAMart có hai phiên bản linh hoạt – trên máy tính và ứng dụng di động – nhằm tạo điều kiện tối đa để các hợp tác xã mở rộng kênh tiêu thụ và tạo một sân chơi “sòng phẳng” với nguyên tắc hoạt động “ba không”: Không thu phí giao dịch, không thu phí hoa hồng và không áp đặt rào cản công nghệ. Ngoài ra, VCAMart còn tích hợp nhiều tính năng như thanh toán không dùng tiền mặt, kết nối với các đơn vị vận chuyển và công cụ quản trị gian hàng, giúp hợp tác xã thích ứng nhanh trong thời đại số.
Đặc biệt, sàn thương mại điện tử VCAMart được xây dựng mang điểm nổi bật là khả năng kiểm soát chất lượng hàng hóa khi đưa lên giao dịch, giúp hoạt động giao thương tấp nập, hiệu quả thực chất và bền vững. Điều này giúp chợ tránh rơi vào tình trạng hoạt động èo uột của không ít chợ truyền thống và một số sàn thương mại hiện do thiếu sự kết nối giữa đầu tư với vận hành thực tế và sự xuất hiện tràn lan của hàng hóa không rõ nguồn gốc. Đây cũng là bài toán quan trọng nhất các hợp tác xã cần giải quyết để có khai thác hiệu quả VCAMart.
Chất lượng sản phẩm – yếu tố then chốt quyết định thành công
Để giải bài toán trên, các hợp tác xã – với vai trò là người bán - cần kiểm soát chất lượng sản phẩm và xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc rõ ràng kết hợp với chú trọng phát triển các dịch vụ chăm sóc khách hàng. Khi đó, các hợp tác xã “làm thật, ăn thật” sẽ tạo dựng thương hiệu sản phẩm chất lượng, gây dựng được niềm tin với người tiêu dùng trong lựa chọn sản phẩm hợp tác xã trên sàn và tạo vòng quay mua sắm bền vững trong bối cảnh cạnh tranh online ngày càng khốc liệt hiện nay.
Bên cạnh đó, các hợp tác xã cần đầu tư mạnh hơn cho công tác truyền thông, nhằm tăng nhận diện và thu hút người dùng. Đồng thời, đẩy mạnh nâng cao kỹ năng về thương mại điện tử, chuyển đổi số, marketing cũng như năng lực vận hành sàn điện tử cho người nông dân, thành viên hợp tác xã - những người trực tiếp thực hiện các giao dịch trên sàn điện tử.
Hiện nay, nhiều địa phương đã xây dựng các chợ trực tuyến riêng. Việc kết nối VCAMart với các sàn địa phương cũng sẽ là bước đi chiến lược, giúp gia tăng cơ hội kinh doanh cho hợp tác xã và thúc đẩy phát triển hệ sinh thái thương mại điện tử cùng cộng hưởng.
Phát triển thị trường khoa học và công nghệ ở tỉnh Lâm Đồng
Những năm qua, Lâm Đồng đã quản lý công nghệ khá hiệu quả, đảm bảo các dự án đầu tư không sử dụng công nghệ lạc hậu và gây ô nhiễm môi trường. Hiện tỉnh đã hình thành được mạng lưới trung gian bao gồm 13 doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, 7 doanh nghiệp và 32 tổ chức khoa học, công nghệ.
Trình độ khoa học, công nghệ của tỉnh được chú trọng đầu tư, đặc biệt là ứng dụng công nghệ sinh học và công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, thuộc nhóm dẫn đầu cả nước. Các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ công lập hoạt động hiệu quả, các viện, trường đáp ứng nhu cầu nghiên cứu và giảng dạy, và các doanh nghiệp chú trọng đổi mới, nâng cấp thiết bị sản xuất.