Trồng nho gắn với du lịch
Nguồn tin: Báo Đồng Khởi
Nông dân Võ Văn Lẩm ở ấp Mỹ Sơn Đông, xã Phú Mỹ, huyện Mỏ Cày Bắc (tỉnh Bến Tre) đã góp phần phong phú thêm cây trồng ở địa phương với diện tích vườn nho lên gần 3.000m2.
Ông Hai Lẩm thu hoạch nho.
Hưởng ứng du lịch
Qua giới thiệu của Chủ tịch Hội Nông dân xã Phú Mỹ Cao Huỳnh Vũ, chúng tôi đến nhà ông Võ Văn Lẩm ở ấp Mỹ Sơn Đông. Người dân ở đây quen gọi là ông Hai Lẩm, nổi tiếng với vườn nho mang tên Hoàng Duy. Vừa dẫn tham quan vườn nho, ông Hai Lẩm vừa giới thiệu: “Theo lời kêu gọi của ông Cao Huỳnh Vũ - Chủ tịch Hội Nông dân xã, trồng cây gì, nuôi con gì… cũng nên gắn với phát triển du lịch của xã nhà. Tôi thấy trồng sầu riêng, măng cụt, bưởi da xanh… thì đã có nhiều người trồng nên tôi quyết định trồng nho. Kết thúc mùa mưa năm 2021, tôi trồng thử 6 dây nho có nguồn gốc từ Ninh Thuận. Do chưa có kinh nghiệm nên thất bại. Tôi tiếp tục trồng thử nghiệm 3 lần nữa, cuối cùng cũng thành công. Tháng 1-2023, tôi trồng 120 dây nho, đến nay nhân rộng số lượng lên khoảng 350 dây nho trên diện tích gần 3.000m2. Tôi đang trồng các giống nho: Cardinal (nho đỏ), NH01-48 (nho xanh), NH01-93, NH 01-152 (nho ngón tay đỏ), nho hạ đen, nho keo (nho 126) và nho ngón tay đen”.
Theo ông Hai Lẩm, trước khi trồng nho phải làm nhà che mưa bằng tấm nhựa lấy sáng (có xuất xứ Thái Lan là tốt nhất), mái che cách mặt đất khoảng 2,5m. Đa phần nho chịu khí hậu khô hạn, kỵ trời mưa, nên trồng nho từ tháng 12 đến tháng 1 năm sau. Trồng dây cách dây 1m, hàng cách hàng khoảng 2,5m. Đào hố rộng và bổ sung thêm sạn, đá perlite để tăng sự thoát nước, phân chuồng ủ hoai hoặc phân rơm, rạ hoai mục. Nho chịu nước mặn và khí hậu nóng; không chịu mưa hay ngập úng, nên lên liếp cao khoảng 3 tấc để trồng, nho rất ưa đất giồng cát. Sau khi trồng nên tưới thường xuyên cho nho trong năm đầu tiên. Chỉ cần kéo đường ống, mở van tưới nhỏ giọt. Đối với nho trồng trên đất giồng cát thì 5 - 7 ngày tưới 1 lần; đối với nho trồng đất thịt thì tưới ít hơn, thường từ 10 - 15 ngày tưới 1 lần. Thời điểm bón phân hợp lý nhất là vào mùa xuân. Lượng phân bón thích hợp cây nho có tỷ lệ 10-10-10 (N-P-K), bón cách gốc nho khoảng 2,5 tấc. Kiểm tra đất định kỳ (3 - 5 năm/lần) và giữ độ pH của đất ở mức 5,0 - 7,0. Nếu bón quá nhiều nitơ có thể làm cho cây phát triển mạnh về thân, cành, lá mà không ra bông. Cắt tỉa cành nho mới chịu ra bông. Do nắm được thời gian cắt tỉa cành đến khi ra bông, đậu trái rồi quả chín là bao nhiêu ngày nên ông Hai Lẩm cho thu hoạch 1 năm tới 3 vụ.
Quyết tâm trồng nho
Ông Hai Lẩm cho biết thêm: Trước khi trồng nho nên bón phân hữu cơ Organic 1 hoặc Nutrifert 4-3-4 cho xuống hố trước khi trồng. Trong thời gian cây cho ra trái, việc bón phân NPK cần tiếp tục thực hiện với liều lượng là 100kg/ha, đồng thời phun thêm phân bón lá. Sau khi hoàn thành thu hoạch thì xới đất, bón thêm phân hữu cơ HG01 và phân NPK để đảm bảo đủ dinh dưỡng trong đất cho vụ sau. Nho thường bị sâu đục thân, rệp sáp, bệnh phấn trắng, nhện đỏ, bệnh mốc sương, nên sử dụng các loại thuốc để trị và phòng ngừa.
“Qua 1 năm, tôi thu hoạch khoảng 250kg nho, thu về khoảng 15 triệu đồng. Các loại nho tôi trồng có tuổi thọ khoảng 12 năm. Gần 3.000m2 nho tôi đã đầu tư trên 200 triệu đồng. Du lịch MeKong đang liên kết với tôi để làm phong phú thêm các tour du lịch. Tôi sẽ tiếp tục nhân rộng trồng nho thêm 3 công đất còn lại của gia đình. Trong tương lai, tôi sẽ làm rượu nho và si rô nho để phục vụ du khách. Hiện nay, đã có du khách ở trong và ngoài tỉnh: Cà Mau, Hậu Giang, Đồng Nai và TP. Hồ Chí Minh đến tham quan vườn nho của tôi, họ rất an tâm thưởng thức từng trái nho”, ông Hai Lẩm chia sẻ.
“Huyện Mỏ Cày Bắc đang thực hiện Đề án số 03-ĐA/HU ngày 28-8-2020 của Huyện ủy về phát triển du lịch huyện giai đoạn 2020 - 2025 và định hướng đến năm 2030. Nông dân Võ Văn Lẩm đang trồng nho rất đúng với đề án này. Ông Hai Lẩm có tầm nhìn xa “Đi tắt đón đầu” trong con đường du lịch; năng động, sáng tạo trong tái cơ cấu nông nghiệp”. (Phó chủ tịch UBND huyện Mỏ Cày Bắc Nguyễn Trung Nghiệp)
Bài, ảnh: Hoàng Vũ
Chuyện dưới tán sầu riêng
Nguồn tin: Báo Tây Ninh
Đất Bàu Đồn (huyện Gò Dầu, Tây Ninh) từ lâu nổi danh sầu riêng ngon. Loại trái cây này giúp nông dân Bàu Đồn có kinh tế ổn định.
Anh Thơ với niềm vui vụ sầu riêng mới.
Mùa thu hoạch, những câu chuyện dưới tán sầu riêng cũng đầy thú vị. Đó là chuyện về các loại mùi hương đặc sắc trong vườn. Không bàn đến mùi đặc trưng vốn có của sầu riêng chín thì vào mùa ra hoa, dưới góc cảm nhận khôi hài của người nông dân khi dạo bước dưới những tán cây chi chít hoa và nụ lại nghe giống mùi… nước hoa Chanel. Có điều, không phải ai cũng có thể chịu được những mùi hương “vương giả” này.
Hay khi đi cùng những người nông dân, bạn sẽ được nghe hướng dẫn cách “dò” sầu riêng đúng độ bằng chiếc cán dao nhỏ. Hoặc bạn sẽ được “truyền” kỹ thuật đếm quả, đếm cành sao cho hợp lý; cách phân biệt sầu riêng Ri6 và Thái qua việc nhìn lá cây…
Theo chân anh Nguyễn Văn Thơ, 41 tuổi, dạo bước trong vườn sầu riêng chuẩn bị thu hoạch tại ấp 4, xã Bàu Đồn. Dưới những tán cây sai trái của khu vườn hơn chục năm tuổi như giảm được chút oi bức, ngột ngạt.
Ngước nhìn những cành trĩu quả trên cao, anh Thơ cho biết, năm nay do nắng nóng nên sầu riêng đậu trái không bằng năm ngoái. Nhẩm đếm một lúc anh lại nói mỗi gốc sầu riêng từ vài chục đến hơn 100 trái thôi. Trong vườn của anh Thơ, trước đây có gốc sầu riêng cho 300 trái.
Dù còn hơn 10 ngày nữa mới đến kỳ thu hoạch, nhưng trong vườn của anh Thơ đã bắt đầu thoang thoảng mùi sầu riêng chín. Anh nhặt những quả chín sớm rơi dưới gốc, tách từng lớp vỏ bằng con dao nhỏ, đưa mời khách múi sầu riêng vàng ươm nếm thử ngay tại vườn. Vị thơm lừng, ngọt và béo ngậy là điểm đặc trưng chất lượng của sầu riêng Bàu Đồn.
Hái thêm một quả sầu riêng vừa già tới bị sóc cắn mất một góc nhỏ, anh Thơ lắc đầu rồi nói: “Như vầy là không thể bán được nữa rồi”. Xong anh dùng con dao nhỏ bén ngót gọt từng mảng vỏ cứng tươi xanh đầy gai nhọn và mời khách dùng miếng cơm sầu riêng vừa già tới. Sầu riêng độ này chỉ thoang thoảng mùi thơm nhưng giòn, ngọt, béo ngậy, khác hẳn cái mềm mịn ngọt thơm của sầu riêng chín. Anh nói: “Sầu riêng ăn độ này cũng rất ngon và lạ nhưng không phải ai cũng từng thử qua”.
Dưới những tán cây, anh Thơ say sưa chia sẻ về khoảng thời gian gắn bó với cây sầu riêng, hơn 7 năm trước anh vẫn chưa có ham thích gì với việc trồng loại cây này. Nhưng khi 6 công đất vườn sầu riêng của gia đình bắt đầu cho trái, anh phải về chăm sóc. “Lúc đầu ai cũng có những bỡ ngỡ, khó khăn. Một, hai năm đầu, làm không hiệu quả, đến năm thứ ba tích luỹ được chút kinh nghiệm mới làm tốt hơn” - anh Thơ nói.
Những ngày đầu, anh Thơ chăm chỉ học hỏi qua những chuyến xuống miền Tây, tham quan vườn của nông dân quanh vùng, tham gia tập huấn kỹ thuật, vào hợp tác xã. Lâu dần anh cũng nắm được kỹ thuật chăm sóc, bón phân, làm trái sao cho sầu riêng tròn đẹp. Dẫu chỉ 6 năm trong nghề nhưng anh Thơ đã tự tin chia sẻ kỹ thuật với những người cần, anh cũng nhận chăm sóc vườn thuê. “Đất Bàu Đồn được thiên nhiên ưu ái cho ra vị sầu riêng ngon đặc biệt hơn những vùng khác. Sản phẩm cũng được tỉnh chứng nhận OCOP 4 sao” - anh Thơ cho biết.
Càng gắn bó với cây sầu riêng, càng có nhiều đam mê nên anh Thơ luôn tích cực học hỏi. Với anh, niềm vui chính là đến vườn, tận tay chăm sóc sầu riêng, nhìn cây đơm hoa, kết trái, đến kỳ thu hoạch trúng mùa trúng giá là vui lắm. Nhưng theo anh, chăm vườn sầu riêng cũng nhiều vất vả, phải lo toan mọi thứ về chăm cây, phòng ngừa sâu bệnh để có được trái sầu riêng tròn đẹp.
Vườn nhỏ, chỉ hơn 70 gốc cây nên anh Thơ là người chăm sóc chính, chỉ đến vụ thu hoạch mới thuê người. Mỗi ngày từ hơn 5 giờ sáng anh Thơ đã đến vườn để tưới nước, bón phân, xịt thuốc, chăm sóc trái. Có lúc anh ở vườn đến tận 8-9 giờ tối mới trở về nhà. Anh Thơ nói: “Mình cũng đặc biệt thích không khí rộn ràng trong mùa thu hoạch sầu riêng, người hái trái, người vận chuyển náo nhiệt cả khu vườn”. Ngoài làm vườn nhà, anh Thơ còn mua bán sầu riêng, giúp anh có thêm thu nhập. Có thể nói gắn bó 6 năm qua, sầu riêng đã cho anh Thơ những mùa trái ngọt, anh mua thêm đất để lập vườn mới và ngày càng có thêm niềm đam mê.
Hiện tại, anh Thơ đang dựng một căn chòi trong khu vườn để làm nơi nghỉ ngơi, thư giãn cho bản thân và bạn bè; với anh, vườn sầu riêng ngoài là nơi làm việc còn là nơi tụ họp, gặp gỡ bạn bè thân quen.
Với kinh nghiệm trồng sầu riêng nhiều năm, anh Thơ cho biết đã nghĩ ra nhiều cách chế biến món ăn từ loại trái cây này. Anh tâm đắc nhất là món canh hầm sầu riêng. Để nấu, phải chọn những quả vừa già tới. Thịt sườn hoặc đuôi heo được ướp cùng sầu riêng chín xay nhuyễn để ngấm mùi, đem nấu đến mềm rục rồi cho cơm sầu riêng vào.
Anh cũng sáng tạo cà phê sầu riêng. Sầu riêng và nước cốt cà phê được xay nhuyễn đến hoà quyện uống cùng đá viên rất hấp dẫn.
Vi Xuân
Trồng sầu riêng cho hiệu quả kinh tế cao
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Trong những năm gần đây, nhu cầu tiêu thụ sầu riêng ngày càng tăng, mở ra nhiều cơ hội cho người nông dân trên địa bàn tỉnh Hậu Giang. Mô hình trồng sầu riêng hiệu quả không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cao, mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của nền nông nghiệp nông thôn.
Người dân huyện Châu Thành A trồng sầu riêng mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Tiềm năng kinh tế
Sầu riêng là một trong những loại trái cây có giá trị kinh tế cao, được ưa chuộng trên thị trường nội địa và quốc tế. Với giá trị dinh dưỡng cao và hương vị đặc trưng, sầu riêng không chỉ là một món ăn ngon mà còn được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như công nghiệp thực phẩm và mỹ phẩm.
Đoán trước xu hướng của thị trường, ông Trương Văn Hạp, ở ấp Nhơn Phú 1, xã Nhơn Nghĩa A, huyện Châu Thành A, đã mạnh dạn chuyển đổi diện tích đất vườn kém hiệu quả sang trồng sầu riêng. Cây sầu riêng được gia đình ông lựa chọn là giống Ri6, có ưu điểm cơm vàng, hạt lép, phẩm chất ngon, được thị trường ưa chuộng. Ông Hạp cho biết: “Lúc đầu là tôi tự mày mò và học hỏi kinh nghiệm sản xuất qua sách báo, mạng internet và của những người đi trước. Đồng thời mạnh dạn ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, sau đó được địa phương quan tâm hỗ trợ mà vườn sầu riêng của tôi đã tạo ra được những trái sầu riêng đạt chất lượng, mang lại hiệu quả kinh tế cao”.
Hiện tại, diện tích trồng sầu riêng của gia đình ông Hạp là khoảng 1ha, các gốc sầu riêng đã được 7 năm tuổi, năng suất ước đạt khoảng 16 tấn. Thời điểm giá bán sầu riêng tăng cao, dao động từ 80.000-90.000 đồng/kg thì lợi nhuận thu về khoảng 960 triệu đồng/ha/năm. Ông Hạp chia sẻ: “Bình quân mỗi cây từ lúc trồng đến thu hoạch mất gần 5 năm. Chi phí đầu tư mỗi gốc khoảng 5 triệu đồng. Tuy nhiên, lợi nhuận từ cây trồng này khá cao, nếu canh tác đúng quy trình, kỹ thuật, mỗi cây có thể thu lợi nhuận trên 10 triệu đồng/năm”.
Tương tự, ông Thái Ngọc Hầu, người dân trồng sầu riêng ở ấp Nhơn Hòa, xã Nhơn Nghĩa A, huyện Châu Thành A, bộc bạch: “Trồng sầu riêng hiện giờ rất khó khăn do ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như môi trường, cây giống,… cũng như giá trị của trái sầu riêng phụ thuộc rất nhiều vào thị trường. Vì vậy, khi để sầu riêng thuận mùa khó có thể cạnh tranh được với các địa phương khác như Tiền Giang và các tỉnh miền Đông. Do đó, việc xử lý cho trái nghịch vụ (thu hoạch sau tháng Giêng) được xem là phương pháp hữu hiệu để ứng phó với tình trạng “được mùa, rớt giá”.
“Với diện tích 1ha, do là những vụ đầu tiên, cây còn tơ nên năng suất thu về còn thấp, khoảng 12 tấn, sau khi trừ đi tất cả chi phí đầu tư như phân thuốc, nhân công, cây giống,… gia đình tôi đạt lợi nhuận khoảng 720 triệu đồng”, ông Hầu cho biết.
Chìa khóa thành công
Mô hình trồng sầu riêng hiệu quả không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho người trồng, giải quyết trước mắt được đất trồng cây kém hiệu quả trước đây do giá cả như cây cam, xoài,… mà còn góp phần vào phát triển kinh tế địa phương. Bằng cách tạo ra sản phẩm chất lượng và ổn định, mô hình này thu hút và tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho nông dân.
Theo thống kê, hiện diện tích trồng sầu riêng trên địa bàn huyện Châu Thành A là 784ha. Tập trung nhiều ở thị trấn Rạch Gòi (100ha); Nhơn Nghĩa A (142ha); Trường Long A (207ha); Tân Hòa (83ha) và thị trấn Một Ngàn (70ha). Sản lượng năm nay ước đạt 3.965 tấn. Hiện tại diện tích đang cho trái là 251ha, ước năng suất đạt 15,8 tấn/ha.
Ông Trần Văn Xinh, Trưởng trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật huyện Châu Thành A, đánh giá: Đây là mô hình đem lại hiệu quả kinh tế cho người dân trực tiếp trồng; đồng thời địa phương cũng tăng trưởng kinh tế do giá trị trái sầu riêng mang lại. Tuy nhiên, về lâu dài, không khuyến cáo trồng sầu riêng theo hướng tự phát, do bà con trồng sầu riêng là làm kinh tế nông nghiệp, sản xuất hàng hóa đến lúc lượng cung lớn hơn cầu thì thị trường mất giá. Tương tự như năm nay, trong tháng 1 và tháng 2, sầu riêng nghịch mùa có giá từ 160.000-180.000 đồng/kg, tùy loại; đến tháng 3 và tháng 4 thì giá còn 100.000-110.000 đồng/kg. Và hiện tại vào chính vụ thì giá còn trên dưới 50.000 đồng/kg.
Mô hình trồng sầu riêng hiệu quả không chỉ là chìa khóa để tạo ra nguồn thu nhập ổn định, mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của nông nghiệp. Tuy nhiên, ngành nông nghiệp địa phương khuyến cáo bà con có dự định trồng sầu riêng thì đến gặp chính quyền địa phương để tư vấn, xem nơi mình sắp trồng có nằm trong quy hoạch vùng trồng cây ăn trái không và nhờ cán bộ kỹ thuật tư vấn về kỹ thuật trồng, chăm sóc, thu hoạch. Bên cạnh đó, khi bà con trồng sầu riêng, để tránh rủi ro, được mùa mất giá, hoặc bán không được thì nên xây dựng mã số vùng trồng để thuận lợi khi xuất khẩu. Như vậy, bà con sản xuất sầu riêng theo hướng an toàn thực phẩm, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo hướng dẫn của ngành nông nghiệp địa phương, khuyến cáo sử dụng thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc thực vật và sinh học, hạn chế hóa chất.
Đồng thời, ngành nông nghiệp cho rằng trồng sầu riêng phải được tổ chức liên kết chặt chẽ giữa nông dân, doanh nghiệp và cơ quan chuyên môn để mang lại hiệu quả và bền vững. Nếu muốn trồng sầu riêng để xuất khẩu thì ngành nông nghiệp khuyến cáo bà con phải tuân thủ tuyệt đối điều kiện của nước nhập khẩu đưa ra, nhất là trái sầu riêng khi phân tích thì không có tồn dư kim loại nặng, không có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật còn lưu tồn trong trái...
Bài, ảnh: MAI THANH
Giải pháp ổn định thị trường bơ Lâm Đồng
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Mùa bơ Lâm Đồng thu hoạch từ tháng 4 đến tháng 11 hàng năm với đa dạng chủng loại, nhưng phần lớn sản lượng trái tươi do thương nhân thu mua quy mô nhỏ tại vườn để phân phối đến địa phương khác. Trong khi vẫn thiếu cơ sở thu mua, sơ chế và chế biến bơ công suất lớn gắn với thị trường tiêu thụ ổn định, nên cần có những giải pháp căn cơ hơn.
Nhiều nông hộ ở Lâm Đồng đã nghiên cứu, tác động các giải pháp kỹ thuật chuyển đổi thời gian thu hoạch sản phẩm bơ từ chính vụ sang trái vụ, đạt giá trị kinh tế cao hơn
• SẢN LƯỢNG BƠ TOÀN TỈNH KHOẢNG 80.000 TẤN/NĂM
Thống kê tổng diện tích bơ toàn tỉnh đến nay đạt 8.067 ha, trong đó diện tích bơ 034 chiếm tỷ lệ lớn nhất với 81,3% (6.557 ha), tập trung chủ yếu ở các huyện Bảo Lâm (2.371 ha), Di Linh (2.782 ha), Lâm Hà (440 ha), Đức Trọng (390 ha) và TP Bảo Lộc (418 ha). Tiếp theo với tỷ lệ 11,2% (900 ha) bơ Booth phân bổ huyện Lâm Hà (530 ha), huyện Đức Trọng (110 ha) và TP Đà Lạt (95,2 ha). Còn lại tỷ lệ 7,5% các giống bơ khác (610 ha) canh tác trên nhiều vùng nông nghiệp khác nhau. Đa số diện tích trồng bơ trên địa bàn toàn tỉnh được trồng theo hướng xen canh chiếm 87%, trồng thuần chiếm 13%.
Trong tổng sản lượng bơ toàn tỉnh khoảng 80.000 tấn/năm thì sản lượng bơ 034 chiếm tỷ lệ lớn nhất với 81%; kế tiếp bơ Booth chiếm 11,5% và các loại bơ khác chiếm 7,5%. Mỗi giống bơ trên địa bàn Lâm Đồng có đặc điểm sinh học và thời gian thu hoạch khác nhau từ tháng 4 đến tháng 11. Đây là lợi thế cung ứng ra thị trường đa dạng các loại bơ Lâm Đồng so với các địa phương khác với thời điểm thu hoạch ngắn hơn, thường chỉ kéo dài từ tháng 6 đến tháng 8.
“Lâm Đồng thích hợp cho cây bơ phát triển phổ biến ở TP Bảo Lộc, các huyện Bảo Lâm, Di Linh, Đức Trọng, Lâm Hà và một số địa bàn TP Đà Lạt. Vào những năm 2000 trở về trước, cây bơ trồng chủ yếu làm cây bóng mát, cây phân định ranh giới đất, cây trồng trên đất trống trong vườn. Theo thời gian, cây bơ đã trở thành cây trồng mang đến thu nhập của rất nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác và hộ nông dân trên địa bàn…”, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lâm Đồng đánh giá.
Tuy nhiên, cũng theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lâm Đồng, với tổng sản lượng bơ khoảng 80.000 tấn/năm nói trên, nhưng hiện toàn tỉnh mới có Công ty TNHH Nông sản Văn Phương thu mua, sơ chế và chế biến bơ 600 tấn/năm tiêu thụ trong nước. Và sản lượng bơ cấp đông của Công ty TNHH Blaofood 1.000 - 2.000 tấn/năm, Công ty Cổ phần Hikari Đà Lạt 40 tấn/năm, Công ty TNHH SX TM XNK Thuận Thành 300 - 400 tấn/năm, xuất khẩu sang Hoa Kỳ, châu Âu, Hàn Quốc và Trung Quốc. Bên cạnh đó, toàn tỉnh có 80 cơ sở thu mua bơ khoảng 13.000 tấn/năm, cung cấp phần lớn thị trường nội địa, phần nhỏ xuất khẩu theo đường tiểu ngạch sang Thái Lan và Campuchia. Sản lượng bơ còn lại tiêu thụ thông qua thương nhân từ tỉnh, thành lân cận và nông hộ tự bán cho khách hàng truyền thống và trên các nền tảng xã hội, thu nhập không ổn định. Như năm 2019, giá bơ các loại trong tỉnh từ trung bình 53.000 đồng/kg, đến năm 2023 xuống còn 15.000 đồng/kg. Riêng năm 2023, giá bơ từ 25.000 đồng/kg đầu vụ và cuối vụ giảm xuống 5.000 - 7.000 đồng/kg chính vụ.
• ĐỂ TRÁNH ÁP LỰC MÙA VỤ
Nguyên nhân đầu ra sản phẩm bơ Lâm Đồng vẫn chưa ổn định do những năm gần đây, diện tích và sản lượng bơ 034 tăng nhanh, giá giảm sâu vào chính vụ từ tháng 5 đến tháng 6. Hơn nữa, bơ 034 có vỏ mỏng, thời gian bảo quản ngắn, nên chưa đủ điều kiện xuất khẩu số lượng lớn. Trong khi đó sản phẩm bơ cấp đông đang trong giai đoạn thử nghiệm, sản lượng không đáng kể. Một số thời điểm, nông dân hái bơ non cung cấp thị trường, ảnh hưởng đến thương hiệu bơ 034 của tỉnh. Chưa kể chuỗi liên kết giữa nông dân và các doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở thu mua, sơ chế, chế biến gắn với tiêu thụ sản phẩm bơ chưa chặt chẽ.
Giải pháp trong thời gian tới, toàn tỉnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng các biện pháp kỹ thuật kéo giãn thời gian thu hoạch để nâng cao giá trị sản phẩm, giảm áp lực mùa vụ. Trong đó khuyến khích phát triển diện tích sản xuất bơ theo các tiêu chuẩn chứng nhận VietGAP, GlobalGAP, Organic, nhằm nâng cao chất lượng và thương hiệu bơ Lâm Đồng.
Toàn tỉnh cũng cần nâng cấp, mở rộng quy mô các chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ bơ đảm bảo an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc; đồng thời, triển khai hiệu quả cơ chế, chính sách thu hút doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư đổi mới hệ thống máy móc thiết bị, công nghệ, nâng cao công suất sơ chế, chế biến đa dạng sản phẩm, tạo giá trị gia tăng cho trái bơ. Ngoài ra, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng HACCP, ISO trong các cơ sở chế biến bơ theo chuẩn quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu.
“Cơ quan quản lý nhà nước làm cầu nối, tổ chức cho doanh nghiệp, hợp tác xã, người nông dân gặp gỡ, trao đổi, thống nhất cơ chế, tiêu chuẩn, giá cả thu mua sản phẩm bơ. Qua đó định hướng các giải pháp xác định giá sàn của sản phẩm, hỗ trợ khi giá bơ xuống thấp hoặc phương án chia sẻ lợi nhuận khi giá thị trường tăng cao…”, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lâm Đồng nhấn mạnh giải pháp hợp tác ổn định thị trường tiêu thụ bơ Lâm Đồng.
VĂN VIỆT
Liên kết phát triển cây ca cao bền vững
Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Phấn đấu phát triển diện tích cây ca cao lên 600ha vào năm 2025, Châu Đức (Bà Rịa - Vũng Tàu) kỳ vọng sẽ trở thành một trong những vùng nguyên liệu ca cao lớn của tỉnh và khu vực trong tương lai.
Ông Lê Văn Quang (bên trái), Giám đốc HTX Thương mại - Dịch vụ - Nông nghiệp Bà Rịa-Vũng Tàu giám sát chặt chẽ khâu chăm sóc ca cao theo quy chuẩn organic.
Trồng ca cao theo hướng hữu cơ
Châu Đức từ lâu đã phát triển cây ca cao, tập trung chủ yếu tại các xã Xà Bang, Kim Long, Quảng Thành, Láng Lớn, Bình Giã… Tuy nhiên, do khó khăn đầu ra nên cây ca cao dần được thay thế bởi các loại cây trồng khác.
Với lợi thế về điều kiện thổ nhưỡng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Châu Đức lần thứ VI đã xác định cây ca cao là một trong những cây chiến lược cần tập trung ưu tiên phát triển. Trong đó, phát triển vùng ca cao theo hướng hữu cơ, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu.
Hợp tác xã Thương mại - Dịch vụ - Nông nghiệp Bà Rịa-Vũng Tàu có 5 thành viên, hoạt động ở 27 lĩnh vực, ngành nghề. HTX tập trung vào các dịch vụ hỗ trợ phát triển sản xuất sơ chế biến các sản phẩm từ hạt ca cao, cung cấp giống cây trồng, vật tư nông nghiệp… Đồng thời, HTX cũng đã liên kết với 76 hộ nông dân tham gia chuỗi sản xuất 116ha ca cao, trong đó có 5ha ca cao canh tác theo quy trình organic.
Với 2ha ca cao sản xuất theo quy trình organic, nông dân Trần Như Phong, ở ấp Tân Thành (xã Quảng Thành) chia sẻ, vào HTX, nông dân thay đổi thói quen canh tác, từ khâu làm đất, tưới nước, chăm sóc đúng quy trình đến bón phân, trừ sâu bệnh bằng các loại chế phẩm sinh học, ghi chép nhật ký canh tác… “Mỗi năm, vườn ca cao của tôi cho thu hoạch khoảng 17 tấn trái tươi/ha; ca cao được HTX liên kết thu mua toàn bộ nên nông dân chúng tôi yên tâm sản xuất”, ông Phong cho biết thêm.
Ông Lê Văn Quang, Giám đốc HTX cho biết, khi trồng ca cao hữu cơ, nông dân không sử dụng bất cứ loại phân bón hay thuốc trừ sâu hóa học nào mà sử dụng phân bón có nguồn gốc hữu cơ như phân chuồng đã hoai mục, cỏ rác ủ mục. Để ca cao đạt năng suất cao, nông dân được HTX hướng dẫn kỹ thuật tỉa cành, tạo tán, tưới nước, quản lý sâu bệnh…
“Năm 2024, HTX sẽ mở rộng diện diện tích cây ca cao lên 200ha theo kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu ca cao của huyện Châu Đức; trong đó vận động, khuyến khích nông dân phát triển diện tích ca cao theo VietGAP và quy chuẩn organic để xuất khẩu. Hiện sản phẩm ca cao của các thành viên HTX và nông dân được DN bao tiêu 100%. Đặc biệt, vỏ ca cao cũng được HTX tận dụng để ủ phân, giúp cải thiện đất trồng, giảm chi phí phân bón, góp phần giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường”, ông Quang cho biết.
Đưa ca cao Châu Đức vươn xa
Với việc canh tác theo phương pháp organic, sản phẩm hạt ca cao lên men của HTX đảm bảo được yêu cầu thu mua của Công ty TNHH OCA Việt Nhật để xuất sang thị trường Nhật Bản, Hà Lan, Singapore.
Theo bà Nguyễn Thị Thu, Giám đốc Công ty TNHH OCA Việt Nhật, ngoài xuất hạt ca cao thô, công ty còn đầu tư dây chuyền để chế biến chocolate, bột ca cao nguyên chất, ngũ cốc, sinh tố ca cao, trà, rượu ca cao… nhằm đa dạng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của thị trường xuất khẩu. Tháng 2/2024, công ty đã xuất 4 tấn hạt ca cao sang thị trường Hà Lan và 1.000 lít rượu ca cao lên men đi Singapore. Công ty đang có kế hoạch xuất ca cao sang thị trường Nhật Bản và Mỹ.
Ca cao ở Châu Đức được xếp vào nhóm có hương vị ngon nhất thế giới. Tuy nhiên, khi nói về các sản phẩm từ ca cao Việt Nam thì nhiều người chưa biết đến. Với mong muốn đưa sản phẩm từ những hạt ca cao hương vị Châu Đức đến gần hơn với người tiêu dùng trong nước và quốc tế, công ty đã liên kết với HTX thực hiện quy trình chăm sóc vườn cây, thu hoạch trái tươi, lên men hạt ca cao rất nghiêm ngặt, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
“Theo kế hoạch của UBND huyện Châu Đức, đến năm 2025, toàn huyện có 600ha cây ca cao; trong đó tập trung hỗ trợ, khuyến khích DN, HTX, nông dân phát triển, mở rộng diện tích canh tác cây ca cao theo quy chuẩn organic để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. HTX Thương mại - Dịch vụ - Nông nghiệp Bà Rịa-Vũng Tàu, HTX Ca cao Châu Đức và các DN đã góp phần cùng địa phương hoàn thành mục tiêu mở rộng vùng nguyên liệu, nâng cao chất lượng cây ca cao, đồng thời đưa thương hiệu ca cao Châu Đức vươn tầm thế giới”, ông Đỗ Chí Khởi, Trưởng Phòng NN-PTNT huyện Châu Đức cho hay.
Bài, ảnh: ĐINH HÙNG
Trồng rau trong nhà lưới, thu nhập cao
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Sau nhiều năm trồng lúa không mang lại hiệu quả kinh tế cao, ông Phạm Văn Lắm ở khu vực 3, phường Hưng Thạnh, quận Cái Răng (TP Cần Thơ) đã mạnh dạn phát triển mô hình trồng rau trong nhà lưới. Nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, ông Lắm tiết kiệm phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, sản phẩm làm ra đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Năm 2023, ông Lắm là 1 trong 100 gương điển hình tiêu biểu được nhận Bằng khen của Chủ tịch UBND thành phố vì đã có nhiều đóng góp trong quá trình xây dựng và phát triển TP Cần Thơ giai đoạn 2004-2024.
Với mô hình trồng rau trong nhà lưới, ông Lắm có thu nhập ổn định từ 30-50 triệu đồng/ tháng.
Tiết kiệm chi phí đầu vào
Khu trồng rau màu trong nhà lưới với diện tích 2.500m2 của ông Lắm gần như được phủ kín bởi một màu xanh của các loại rau cải. Trước đây, khi trồng rau cải bán ra thị trường, ông Lắm luôn thắc thỏm về tình hình thời tiết, sâu bệnh... Từ năm 2017 đến nay, nhờ ứng dụng mô hình trồng rau trong nhà lưới, năng suất cao gấp nhiều lần so với cách trồng truyền thống, lại chủ động được mùa vụ, hạn chế sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật.
Ông Lắm cho biết: “Năm 2017, được địa phương hỗ trợ 30% chi phí đầu tư mô hình trồng rau sạch, tôi đầu tư thêm 30 triệu đồng mua cột bê tông, lưới cước trắng và hệ thống tưới phun tự động để làm nhà lưới trồng rau trên diện tích 2.500m2. Trồng rau theo phương pháp này, chi phí ban đầu khá lớn, nhưng sau một thời gian canh tác là nông dân sẽ thấy được những ưu điểm vượt trội so với phương pháp sản xuất truyền thống”. Theo ông Lắm, ưu điểm của việc trồng rau trong nhà lưới là người trồng điều tiết được nhiệt độ, khắc phục được dịch bệnh, không có sâu hại, không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật nên các loại rau đạt năng suất cao, chất lượng đảm bảo.
Ngoài ra, ông Lắm trồng sử dụng tro trấu, phân rơm, phân bò ủ với chế phẩm vi sinh để bón cho rau nên phát triển xanh tốt, nhẹ công chăm sóc, hiệu quả kinh tế khá cao. Ông Lắm tuân thủ nghiêm ngặt các khâu trong quy trình canh tác rau, từ chọn giống, gieo trồng, ươm hạt giống đến chăm sóc hằng ngày... Theo ông Lắm, thời gian đầu, các nhà khoa học, cán bộ khuyến nông đến hướng dẫn, kiểm tra quy trình trồng rau, từ đó, đưa ra những khuyến cáo để ông tự làm chủ phương pháp trồng rau có kỹ thuật cao này. Nhờ được trồng và chăm sóc theo quy trình, các loại rau phát triển xanh tốt và năng suất từ 3- 4,5 tấn rau cải/1.000m2.
Xây dựng nhãn hiệu hàng hóa
“Rau ăn lá Lắm” là nhãn hiệu được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) bảo hộ nhãn hiệu năm 2019. Ông Lắm cho biết: “Năm 2019, tôi được Hội Nông dân phường Hưng Thạnh và các ngành chức năng quận hỗ trợ nộp đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hóa nông sản. Sau khi Cục Sở hữu trí tuệ xem xét và chấp nhận đơn, thông báo đơn hợp lệ và cấp chứng nhận. Khi có giấy chứng nhận, sản phẩm làm ra có nguồn gốc xuất xứ nên người tiêu dùng rất an tâm”.
Hiện nay, với diện tích 2.500m2, ông Lắm trồng chủ yếu là cải ngọt, cải thìa, cải xanh. Ðây là những loại rau có thời gian sinh trưởng thấp, bình quân khoảng 25 ngày có thể thu hoạch, mỗi đợt thu hoạch kéo dài 12-20 ngày. Ðặc biệt, trong quá trình canh tác, ông Lắm không xuống giống đồng loạt mà tiến hành rải vụ, nhờ vậy, mỗi ngày ông Lắm đều có rau cải để bán. Cứ thu hoạch xong đợt nào là ông Lắm tranh thủ vệ sinh bờ, liếp để trồng lại rau mới. Bình quân 1 ngày thu hoạch từ 100kg-200kg cải, bán ra thị trường với giá 7.000-15.000 đồng/kg. Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng những tiến bộ khoa khọc kỹ thuật vào sản xuất đã giúp ông Lắm có thu nhập ổn định 30-50 triệu đồng/tháng.
Mô hình trồng rau trong nhà lưới của ông Lắm không những mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần thay đổi tập quán sản xuất của nông dân mà còn mở ra hướng đi mới cho nông nghiệp tại địa phương. Từ hiệu quả kinh tế mang lại, nhiều nông dân trên địa bàn phường Hưng Thạnh đã mạnh dạn đầu tư phát triển mô hình trồng rau trong nhà lưới, cung cấp rau sạch ra thị trường và giúp nông dân có thu nhập ổn định.
Bài, ảnh: T.T
Nông dân trồng sen – tô điểm cho Lễ hội Sen thêm rạng rỡ
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Tháp
Nhiều tháng qua, những người nông dân trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp đã tích cực chăm sóc, tuyển chọn hàng chục ngàn chậu sen đẹp mắt phục vụ cho Lễ hội Sen Đồng Tháp lần thứ II năm 2024, đặc biệt là không gian trưng bày các giống Sen tại công viên Văn Miếu (thành phố Cao Lãnh).
Đưa Sen từ ruộng lên chậu
Bên cạnh những cánh đồng sen bạt ngàn khắp vùng Tháp Mười thì người dân Đồng Tháp đã và đang nhân giống nhiều loại sen với các phương pháp trồng khác nhau. Trong đó, việc đưa sen từ đồng ruộng lên chậu của nhiều nông dân đã “mở” thêm thị trường mới cho loài hoa này, thu hút đa dạng khách hàng hơn.
Bên cạnh cung cấp đầy đủ dinh dưỡng và nước trong chậu, nông dân còn phải tưới nước mỗi ngày để làm mát lá, hoa
Đi dọc tuyến đường nông thôn ấp Khánh Hòa (xã Tân Khánh Đông, thành phố Sa Đéc) chúng tôi bắt gặp rất nhiều chậu hoa sen mini đang nở rộ, thơm ngát. Bên cạnh giống sen cánh màu hồng (hoặc trắng) phổ biến vùng Tháp Mười thì người dân còn trồng thêm nhiều loại sen khác với mẫu mã đa dạng, màu sắc bắt mắt để cung ứng thị trường.
Thu hút bởi những chậu sen cánh trắng, viền hồng, nhiều cánh nên chúng tôi dừng xe hỏi thăm. “Đây là giống sen Juwaba, lúc mới nở cánh hoa màu hồng. Sau đó hoa chuyển dần sang màu trắng, khi chúng chuyển hoàn toàn thành màu trắng cũng là lúc hoa sắp tàn. Đây là loại hoa được nhiều người mua nhất bởi hình dáng đẹp mắt, dễ chăm sóc, giá lại rẻ, chỉ 30 ngàn đồng/chậu. Gần như ngày nào cũng có khách hỏi mua giống này”, anh Nguyễn Ngọc Trung (ngụ ấp Khánh Hòa, xã Tân Khánh Đông), chủ vườn sen cho biết.
Ngoài giống hoa Juwaba, vườn sen của anh Trung còn có rất nhiều loại khác như: Nhật cam, Rồng lửa, Hồng kép, Hồng cánh đơn, Xanh cốm, v.v. cùng nhiều cây thủy canh khác (hoa súng, cây ấu v.v.). Tất cả các loài hoa đều được trồng trong chậu, rất thuận tiện cho việc mua bán, di chuyển.
Thời gian đầu chưa có kinh nghiệm nên việc trồng và chăm sóc sen gặp nhiều khó khăn. Làm một thời gian, hiểu được đặc tính của cây sen thì việc trồng và nhân giống cũng trở nên dễ dàng hơn. “Lúc đầu tôi mua giống trên mạng, thấy cái nào đẹp, lạ thì đặt mua về trồng thử. Nhờ khí hậu và thổ nhưỡng khu vực này rất thích hợp cho sự sinh trưởng của cây sen nên việc chăm sóc và nhân giống cũng thuận lợi hơn. Tính từ lúc gieo giống cho đến thu hoạch mất khoảng từ 02 đến 03 tháng, phần lớn các giống sen hiện nay đều ra hoa quanh năm. Nhờ vậy mà cuộc sống dần ổn định, kinh tế gia đình phát triển tốt hơn, con cái được học hành đến nơi đến chốn”, anh Trung cho biết. Hiện tại, giá bán sen chậu dao động từ 30 ngàn đồng đến 150 ngàn đồng/chậu/tùy loại.
Tự hào góp phần thành công cho Lễ hội Sen
Theo Phòng Kinh tế thành phố Sa Đéc, thời điểm hiện tại có 29 hộ dân trồng sen đang cho thu hoạch, phục vụ nhu cầu thị trường nhân dịp Lễ hội Sen. Trong đó, có 23 hộ dân trồng sen chậu hay còn gọi là sen kiểng, 04 hộ trồng sen lấy bông và 02 hộ trồng sen lấy gương. Các hộ trồng sen chậu chủ yếu tập trung ở các xã: Tân Khánh Đông, Tân Phú Đông, Tân Quy Đông và Tân Quy Tây.
Nhằm đa dạng chủng loại sen đáp ứng nhu cầu của thị trường, gần đây, nông dân Làng hoa Sa Đéc thường xuyên sưu tầm nhiều loại sen mới lạ trồng làm sen kiểng bán.
Các hộ trồng sen cho biết, cây sen trồng khoảng hơn 02 tháng là có thể bán, hiện có hơn 20 chủng loại sen đang được trồng gồm: Sen Đồng Tháp, sen Thái, sen Nhật, phượng hoàng, sen ngàn cánh với nhiều màu khác nhau như: Hồng, trắng, đỏ, vàng, phớt hồng v.v..
Theo nông dân Làng hoa Sa Đéc, hiện có nhiều địa phương, đơn vị, doanh nghiệp đặt hàng sen kiểng để trang trí hưởng ứng Lễ hội Sen, vì vậy, những ngày này, các hộ trồng sen kiểng tất bật chăm sóc để cung ứng kịp thời cho lễ hội.
Là một trong nhiều hộ dân trồng sen chậu cung cấp nhu cầu Lễ hội Sen Đồng Tháp lần thứ II năm 2024, anh Trung tự hào nói: “Từ khi được đặt hàng cung ứng sen chậu cho Lễ hội Sen thì tôi đã rất hào hứng, cố gắng chăm chút từng chậu sen để du khách đến Đồng Tháp có thể nhìn thấy vẻ đẹp của loài hoa này. Bên cạnh việc cung cấp cho Lễ hội Sen thì nhiều công trình, dự án cũng đặt hàng các loại sen chậu của vườn tôi để trưng bày, triển lãm. Chính nhờ những dịp này không chỉ quảng bá thêm hình ảnh Sen hồng Đồng Tháp mà còn giúp người nông dân trồng sen như chúng tôi mở rộng thị trường, phát triển kinh tế tốt hơn nên tôi rất mừng”.
Lễ hội Sen Đồng Tháp lần thứ II năm 2024, với chủ đề “Rạng ngời sắc sen” diễn ra từ ngày 16 đến ngày 19/5 tại công viên Văn Miếu. Lễ hội sẽ bố trí khoảng 66.000 chậu sen, với 52 giống sen để tạo nên không gian trải nghiệm thú vị cho du khách tham quan, thưởng lãm và chụp ảnh.
Bên cạnh đó, du khách tham gia Lễ hội Sen còn được trải nghiệm nhiều hoạt động thú vị khác như: Phố ẩm thực Sen; triển lãm ảnh nghệ thuật chủ đề “Sen hồng tỏa ngát”; trưng bày Bản đồ Việt Nam từ Sen; dòng sông Sen; thi đọc sách cùng Sen, viết cảm nhận về hoa Sen; không gian giới thiệu, trưng bày chuỗi giá trị ngành hàng Sen, sản phẩm OCOP và Không gian Sen Quốc tế v.v..
Trung Oanh – Thanh Nghĩa
Mua giống trôi nổi, nông dân thiệt đủ bề
Nguồn tin: Báo Cà Mau
Cây giống là nguyên liệu đầu vào, có vai trò quyết định đến năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên, tại huyện U Minh (tỉnh Cà Mau), thời gian qua cây giống kém chất lượng, nhất là keo lai giống, vẫn len lỏi ở nhiều nơi. Tin theo lời quảng cáo của người bán và chiêu đánh vào tâm lý muốn mua cây giống giá rẻ để tiết kiệm chi phí sản xuất, đã có nhiều trường hợp mua cây giống trôi nổi, hậu quả là mất tiền, thời gian, công sức và thiệt hại nặng nề về kinh tế.
Tiếc công, thiệt kinh tế
Theo thông tin từ Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp U Minh Hạ, chỉ ở tuyến Sông Trẹm, thuộc xã Khánh Thuận đã có khoảng 6 trường hợp mua phải cây giống kém chất lượng, gây thiệt hại kinh tế, tinh thần bà con.
Trường hợp ông Phan Thanh Trung, Ấp 12, xã Khánh Thuận, là một điển hình. Ông Trung có tổng diện tích 5 ha đất rừng, trong đó cải tạo trồng keo lai kê liếp 3 ha. Cách đây 3 năm, ông Trung mua khoảng 9 ngàn cây keo lai giống, với giá 800 đồng/cây (rẻ hơn giá keo giống sản xuất tại địa phương thời điểm đó khoảng 500 đồng/cây). Ông Trung cho biết, sau hơn 2 năm trồng, cây cao trên 4 m thì có dấu hiệu sâu bệnh, gãy ngọn đồng loạt, buộc phải bán tháo. "Với diện tích keo lai như thế, chỉ sau 4 năm trồng có thể thu về 500-600 triệu đồng. Thế nhưng lần này, mất hơn 1/2 thời gian trồng, cây hư nên phải bán để trồng lại, thu chỉ được hơn 60 triệu đồng. Phải nói thiệt đủ bề, mất thời gian, công sức và thêm nỗi uất ức", ông Trung kể.
Ông Phan Thanh Trung từng thiệt hại trên 300 triệu đồng vì mua và trồng phải giống keo lai trôi nổi.
"Rút bài học xương máu, tôi đã liên hệ với ngành chức năng ở địa phương, tìm giống cây ươm tại chỗ, tuy cao giá hơn nhưng chúng dễ thích nghi với điều kiện thổ nhưỡng. Ðến nay, sau 1 năm tuổi, cây keo đang phát triển rất tốt. Qua đây, tôi kiến nghị ngành chức năng quan tâm, tăng cường kiểm tra các cơ sở cung cấp cây giống đang hoạt động trên địa bàn, đồng thời có phương án ươm, sản xuất giống hoặc kết nối nguồn giống uy tín, chất lượng cung cấp đủ nhu cầu tại địa phương, giúp người trồng rừng an tâm sản xuất, tránh những thiệt hại đáng tiếc như thời gian qua", ông Trung kiến nghị.
Tương tự, chị Nguyễn Thị Trang, Ấp 20, xã Khánh Thuận, trồng hơn 3 ha từ nguồn giống keo lai kém chất lượng, không rõ nguồn gốc. Chị Trang chia sẻ: "Những năm qua, người dân trồng rừng, đặc biệt là trồng tràm, đã đối mặt với nhiều khó khăn, tràm rớt giá thê thảm, bà con bán không được, hoặc bán tháo, chịu lỗ để trồng mới cho kịp thời vụ. Nghĩ đến hiệu quả lâu dài, chúng tôi bấm bụng đầu tư cải tạo, chuyển sang trồng keo lai kê liếp. Kết quả sau hơn 2 năm trồng, cây bệnh, gãy đổ hàng loạt, gia đình tôi mới biết là do mua phải giống kém chất lượng, tính toán ước thiệt trên 300 triệu đồng. Buồn lắm, nhưng đây là bài học kinh nghiệm đắt giá để chúng tôi thận trọng hơn khi chọn giống cho những vụ mùa mới”.
Thiếu nguồn giống tại chỗ
Huyện U Minh có tổng diện tích đất quy hoạch lâm nghiệp trên 43.500 ha, trong đó đất rừng đặc dụng trên 4.400 ha, đất rừng phòng hộ trên 502 ha, đất rừng sản xuất trên 38.643 ha (diện tích đất có rừng gần 32.000 ha, trong đó rừng tự nhiên trên 855 ha, rừng trồng trên 31.100 ha).
Với diện tích rừng như trên, hằng năm người dân trên địa bàn huyện U Minh cần khoảng 5-6 triệu cây giống, chủ yếu là tràm và keo lai. Ðặc biệt, những năm gần đây, tràm truyền thống rớt giá mạnh, số hộ trồng tràm đã chuyển sang trồng keo lai kê liếp khá nhiều, nên nhu cầu cây giống càng tăng cao. Tuy nhiên, do lượng cây giống tại địa phương chưa đáp ứng đủ nhu cầu, cùng với việc một số hộ dân có tâm lý chọn mua cây giống giá rẻ để giảm chi phí, từ đó vô tình mua phải cây giống kém chất lượng, kết quả chịu thiệt hại nặng nề về kinh tế và phí thời gian, công sức sau nhiều năm trồng.
Ông Trần Ngọc Thảo, Chủ tịch HÐQT, kiêm Giám đốc Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp U Minh Hạ, cho biết: "Thời gian qua, đơn vị đã nhận được phản ánh từ hộ dân rằng, cây keo lai 1-2 năm tuổi thì bị sâu bệnh, chết cây. Qua tìm hiểu thì bà con mua cây giống không rõ nguồn gốc, từ đó chúng tôi đã khuyến cáo bà con".
Ông Thảo cho biết thêm, công ty hằng năm ươm, giâm hom khoảng 2 triệu cây keo lai, phục vụ nhu cầu trồng rừng trên lâm phần công ty và một bộ phận hộ dân trên địa bàn huyện. Keo lai giâm hom là cây giống sinh dưỡng được tuyển chọn từ những dòng có năng suất cao (cây bố mẹ thuộc thế hệ F1) và chỉ khai thác hom trong vòng 3 năm. Cây keo trồng bằng hom có ưu thế rõ, luôn giữ được đặc tính di truyền của cây mẹ và có sức đề kháng sâu bệnh cao. Tuy giá cây con giâm hom cao, khoảng 1.200 đồng/cây, nhưng khả năng sinh trưởng và phát triển rất nhanh, trong vòng 4-5 năm là khai thác và giá hiện nay 180-200 triệu đồng/ha.
Theo ông Nguyễn Thanh Phong, Phó hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện U Minh, toàn huyện trồng cây keo lai quảng canh hơn 12.000 ha, trồng tràm quảng canh hơn 20.000 ha. Qua điều tra thực tế, hiện nay nhu cầu cây giống lâm nghiệp trên địa bàn huyện cần trên 6 triệu cây giống/năm, trong khi lượng cung tại địa phương chưa đáp ứng nhu cầu, nhất là giống keo lai giâm hom. Ðây cũng là nguyên nhân khiến một bộ phận người dân phải mua cây giống trôi nổi, dẫn đến những sự việc đáng tiếc như trên.
"Thời gian qua, đơn vị phối hợp ngành chức năng tăng cường kiểm tra các cơ sở kinh doanh cây giống, nhắc nhở và buộc các cơ sở cam kết cung cấp cây giống chất lượng rõ ràng. Ðồng thời, kiến nghị cơ quan chức năng tính đến phương án sản xuất giống hoặc kết nối địa chỉ cung cấp giống, tạo điều kiện thuận lợi để bà con tiếp cận nguồn giống chất lượng, góp phần nâng cao năng suất, thu nhập cho người trồng rừng", ông Phong chia sẻ.
Việc tăng cường quản lý chất lượng cây giống sẽ góp phần đảm bảo cho ngành nông nghiệp phát triển bền vững, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng cho người dân. Vì thế, ngành chức năng cần tăng cường quản lý chặt nguồn giống đầu vào, đồng thời có giải pháp đảm bảo cung cấp đủ cây giống, đáp ứng nhu cầu sản xuất cho người dân trong tỉnh, hạn chế thấp nhất rủi ro, thiệt hại./.
Loan Phương - Minh Thừa
Mô hình nuôi dê lấy sữa kết hợp làm du lịch, hiệu quả kinh tế cao
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Chuyển từ mô hình nuôi dê lấy thịt sang nuôi dê lấy sữa, xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm chế biến từ sữa dê và kết hợp làm du lịch, vợ chồng chị Lê Khắc Đông Nghi (ngụ xã Tam Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang) đã thu lại hiệu quả vượt ngoài mong đợi…
Tham quan trại nuôi dê rộng hơn 2,5ha mới thấy được hiệu quả kinh tế rõ rệt từ mô hình mới mẻ này. Với diện tích 2,5ha, nông trại Đông Nghi chia thành 3 khu vực: Khu vực trồng cỏ rộng 2ha, khu trang trại nuôi 500 con dê sữa và khu nhà chờ cho khách tham quan. Mỗi tuần, nông trại tiếp đón khoảng 1.000 khách đến tham quan và thưởng thức các sản phẩm từ sữa dê. Điểm độc đáo của du lịch nông trại so với các loại hình khác đó là du khách sẽ được về với đồng ruộng, vườn cây và tìm hiểu về quy trình sản xuất nông nghiệp sạch. Không chỉ là điểm đến thú vị cho người lớn, trẻ em cũng thích thú xem tận mắt quá trình lấy sữa, vuốt ve, cưng nựng những chú dê con và thưởng thức những sản phẩm tươi ngon từ sữa dê. Chị Nghi cho biết: Trong suốt quá trình gắn bó với con dê, vợ chồng chị không ngừng tìm hiểu để phát triển mô hình phù hợp với thị trường để đem lại hiệu quả kinh tế cao. Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu giá trị dinh dưỡng của sữa dê và thị trường, hai vợ chồng đã mạnh dạn chuyển đổi mô hình nuôi dê lấy thịt sang nuôi dê lấy sữa từ năm 2014.
Thời điểm đó, vợ chồng chị đánh liều khi bán hết đàn dê thịt, chi số tiền lớn để đầu tư đàn dê Saanen (giống dê từ Thụy Sĩ) với số lượng khoảng 10 con về làm giống. Tuy có nhiều kinh nghiệm nuôi dê thịt, nhưng với mô hình nuôi dê lấy sữa lại khá mới mẻ cũng là điều khiến hai vợ chồng chị gặp không ít khó khăn, từ việc sữa vắt ra có vị hơi mặn, có mùi đặc trưng không hấp dẫn người tiêu dùng… Ngoài ra, sữa dê tươi sau khi thanh trùng chỉ bảo quản lạnh được tối đa 7 ngày, cũng khiến hai vợ chồng đau đầu tìm giải pháp để cải thiện. Sau thời gian nghiên cứu, vợ chồng chị Nghi tìm ra cách biến sữa dê thành các dạng sản phẩm chế biến phù hợp với khẩu vị của người tiêu dùng và có thời gian bảo quản, sử dụng lâu hơn nhằm giải quyết vấn đề đầu ra. Từ đó, 2 dòng sản phẩm được làm từ sữa dê ra đời gồm sữa chua và bánh flan tươi làm từ sữa dê. Khẩu vị phù hợp với nhiều đối tượng người tiêu dùng, hạn sử dụng cũng dài hơn sữa tươi (sữa chua 30 ngày, bánh flan 12 ngày). Điểm đặc biệt nhất của 2 dòng sản phẩm này là đều không sử dụng chất bảo quản nên được khách hàng ưa chuộng. Tiếp đà thành công, vợ chồng chị nghiên cứu thành công và tung ra thị trường sản phẩm sữa chua và bánh flan sấy làm từ sữa dê, có thời hạn sử dụng 12 tháng. Dòng sản phẩm mới này sử dụng công nghệ sấy thăng hoa nên giữ trọn vẹn hương vị, thành phần dinh dưỡng. Hiện các sản phẩm đều đạt chuẩn OCOP 3 sao của tỉnh Tiền Giang.
Khách "nhí" đến trải nghiệm, vuốt ve, chụp ảnh cùng các chú dê con.
Từ 10 con dê giống lúc đầu, qua quá trình lai tạo, vợ chồng chị giờ đã sở hữu đàn dê hơn 500 con. Khi trang trại mở cửa du lịch đã thu hút đông đảo du khách đến tham quan, trải nghiệm từ tìm hiểu quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng, cho dê ăn, cho dê uống sữa, chụp ảnh cùng dê, ăn các sản phẩm làm từ sữa dê… "Trang trại có nhà chờ tham quan với sức chứa tối đa khoảng 500 người. Khách đến đây có thể trải nghiệm vắt sữa, uống thử sữa tại chỗ, xem hương vị sữa ngon thế nào. Ngoài ra, các khách "nhí" có thể vuốt ve, cho dê con ăn, dê mới đẻ uống sữa, chụp hình cùng dê", chị Nghi cho biết.
Tháng 10-2020, Hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp Đông Nghi được thành lập. Đến nay, HTX có 10 thành viên tham gia, được hỗ trợ cung cấp con giống, hướng dẫn kỹ thuật nuôi, hỗ trợ nguồn thức ăn, ưu tiên thu mua sữa tươi với giá ổn định… Mỗi ngày, HTX cung ứng được nguồn nguyên liệu sữa dê với sản lượng 150 lít. Bên cạnh đó, HTX xuất bán con giống từ 20kg trở lên với giá 300.000-400.000 đồng/kg. Dê sữa tại nông trại được nuôi dưỡng theo đúng chế độ bằng nguồn thức ăn phong phú tự nhiên bao gồm: cỏ xanh, cỏ ủ lên men, lá cây, rơm khô, trái cây như chuối, mít thái, bưởi… đều chứa hàm lượng dinh dưỡng cao, đảm bảo yêu cầu vệ sinh, an toàn vệ sinh thực phẩm. Hiện, HTX Nông nghiệp Đông Nghi đang mở rộng sản xuất nhằm đưa được sản phẩm đến thị trường Dubai và một số nước khác.
Bài, ảnh: NGUYỄN TRINH
Hiếu Giang tổng hợp