Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 15 tháng 5 năm 2025

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 15 tháng 5 năm 2025

 

Bài toán chuyển đổi số nông nghiệp

Sở Nông nghiệp và Môi trường vừa đề xuất đặt hàng với Sở Khoa học và Công nghệ để giải bài toán chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp giai đoạn năm 2026 - 2030.

Cụ thể gồm 5 nhiệm vụ chuyển đổi số: Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho nông nghiệp số; xây dựng mô hình nông nghiệp thông minh; xây dựng liên kết chuỗi giá trị; quản lý dữ liệu; tổ chức hội nghị, hội thảo và trao đổi kinh nghiệm.

Tương ứng với lời giải thứ nhất, đào tạo 4 lớp/năm cho cán bộ nông nghiệp, khuyến nông cơ sở về sử dụng các công nghệ IoT (Internet kết nối vạn vật), AI (trí tuệ nhân tạo) và phân tích dữ liệu; 20 lớp/năm tập huấn nông dân, hợp tác xã, tổ hợp tác sử dụng phần mềm kiểm soát chất lượng nông sản và truy xuất nguồn gốc.

Thứ hai, xây dựng 10 mô hình/năm về ứng dụng công nghệ IoT giám sát và thu thập dữ liệu môi trường, đất đai, nước tưới và dinh dưỡng; máy bay không người lái phun thuốc, bón phân, giám sát đồng ruộng...

Thứ ba, ứng dụng Blockchain quản lý chuỗi cung ứng, minh bạch quá trình sản xuất và tiêu thụ.

Thứ tư, phát triển phần mềm cung cấp thông tin thổ nhưỡng, giống cây trồng, lịch sử canh tác và tối ưu hóa quy trình sản xuất; ứng dụng Big Data và AI phân tích và dự báo năng suất, mùa vụ, tình hình sâu bệnh.

Thứ năm, tổ chức học tập, trao đổi kinh nghiệm, thu hút doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh, tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận giải pháp công nghệ tiên tiến.

Với 5 lời giải nêu trên, bài toán chuyển đổi trong sản xuất nông nghiệp đến năm 2030 cần đáp số ít nhất 30% hộ sản xuất và 50% doanh nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp toàn tỉnh ứng dụng các giải pháp IoT, AI và tự động hóa.

Đồng thời, ít nhất 30% sản phẩm nông sản trong tỉnh tiêu thụ qua kênh thương mại điện tử và các nền tảng số; đào tạo và phát triển 2.000 lao động trở lên có kỹ năng số trong nông nghiệp; giảm thiểu 30% lượng tài nguyên sử dụng (nước, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật) và giảm 20% lượng khí thải CO2 từ sản xuất nông nghiệp.

Qua đó, toàn tỉnh xây dựng hoàn thành hệ thống dữ liệu, quản lý thông tin đất đai, cây trồng, vật nuôi và quy trình canh tác phục vụ hoạch định, tối ưu hóa sản xuất nông nghiệp trên địa bàn.

VĂN VIỆT

 

Đam Rông: 10,5 ha trồng xen ca cao trong vườn điều

Trung tâm Nông nghiệp huyện Đam Rông làm chủ đầu tư hỗ trợ giống cây ca cao cho nông dân trồng xen trên 10,5 ha diện tích vườn điều, góp phần nâng cao thu nhập sản xuất nông nghiệp trên địa bàn 3 xã Đạ Tông, Đạ Long và Đạ M'rông trong năm 2025.

Theo đó, trên địa bàn 3 xã này lựa chọn 17 nông hộ, mỗi nông hộ trồng xen ca cao trong vườn điều với diện tích từ 0,2 ha đến 1 ha, được ngân sách nhà nước hỗ trợ mua 600 cây ca cao ghép TD5, TD11 trên mỗi ha. Ngoài ra, ngân sách nhà nước còn hỗ trợ các loại vật tư phân bón trong quá trình canh tác cây ca cao xen canh trong vườn điều nói trên.

VŨ VĂN

 

Gia Lai: Phấn đấu tổng kim ngạch xuất khẩu nông-lâm-thủy sản đạt 770 triệu USD

Năm 2025, Gia Lai phấn đấu giá trị gia tăng khu vực nông-lâm-thủy sản tăng 4,9% trở lên và phấn đấu tổng kim ngạch xuất khẩu nông-lâm-thủy sản đạt 770 triệu USD.

Đó là mục tiêu trong Kế hoạch số 1279/KH-UBND của UBND tỉnh triển khai thực hiện Quyết định số 681/QĐ-BNNMT ngày 8-4-2025 của Bộ Nông nghiệp và Môi trường về việc ban hành Kế hoạch hành động thực hiện mục tiêu tăng trưởng ngành Nông nghiệp và Môi trường và tổng kim ngạch xuất khẩu nông-lâm-thủy sản năm 2025 trên địa bàn tỉnh Gia Lai.

Sơ chế chuối xuất khẩu tại Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Hưng Sơn (huyện Đak Đoa). Ảnh: V.T

Theo kế hoạch này, tỉnh sẽ tập trung vào 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp để triển khai. Cụ thể: nâng cao nhận thức, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo, tạo xung lực mới trong toàn Ngành Nông nghiệp và Môi trường để đạt mục tiêu tăng trưởng. Hoàn thiện chính sách phục vụ tăng trưởng ngành Nông nghiệp và Môi trường và xuất khẩu nông-lâm-thủy sản; triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nghị quyết, chiến lược, chương trình, đề án, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành Nông nghiệp và Môi trường của tỉnh. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại ngành, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng sản phẩm và hiệu quả sản xuất, kinh doanh nông lâm nghiệp và thủy sản. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính phục vụ người dân, doanh nghiệp. Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, tháo gỡ các rào cản, nút thắt cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, gắn với chuyển đổi số trong nông nghiệp, nông thôn, tài nguyên và môi trường để tạo động lực mạnh mẽ cho tăng trưởng ngành Nông nghiệp và Môi trường. Tăng cường chuyển đổi số; thực hiện đột phá trong ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo. Thúc đẩy phát triển thị trường trong tỉnh, trong nước và xuất khẩu...

Để tổ chức thực hiện, UBND tỉnh giao Sở Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành liên quan giải quyết nhanh các thủ tục hành chính liên quan đến các dự án đầu tư nhằm tăng cường khả năng thu hút đầu tư cho lĩnh vực Nông nghiệp và Môi trường trên địa bàn tỉnh. Xây dựng chương trình khoa học và công nghệ phục vụ xây dựng nông thôn mới trong các hoạt động khoa học và công nghệ, đi vào chiều sâu, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho sản xuất…

Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành có liên quan và UBND các huyện, thị xã, thành phố triển khai hiệu quả Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 của Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Rà soát, tham mưu ban hành danh mục các dự án khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn và tổ chức các hoạt động xúc tiến, thu hút kêu gọi đầu tư các doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư cho nông nghiệp và phát triển các sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh. Triển khai hiệu quả nghị quyết về đẩy mạnh thu hút các nguồn lực đầu tư cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp chế biến, công nghiệp năng lượng tái tạo và du lịch đến năm 2030…

Sở Công thương hỗ trợ cho các doanh nghiệp xúc tiến thương mại, phát triển thị trường, giao lưu với các vùng kinh tế lân cận; tiếp tục nâng cao giá trị và đưa những sản phẩm chủ lực của tỉnh vào các thị trường lớn để xuất khẩu như cao su, tinh bột sắn, chế biến hạt điều, chè, cà phê, tiêu, trái cây... Chủ trì, phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường, các đơn vị, địa phương hỗ trợ, đưa sản phẩm nông nghiệp, OCOP địa phương lên sàn thương mại điện tử. Đôn đốc các địa phương đẩy nhanh tiến độ bồi thường, giải phóng mặt bằng, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, khuyến khích và kêu gọi đầu tư vào các cụm công nghiệp nhằm tạo quỹ đất sạch cho các nhà đầu tư tạo tiền đề cho thu hút đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp.

Chế biến cà phê chất lượng cao sẽ nâng cao giá trị cho mặt hàng này. Ảnh: V.T

Sở Khoa học và Công nghệ tăng cường nguồn lực đầu tư cho khoa học và công nghệ; thu hút sự quan tâm của các ngành, địa phương, doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu khoa học, phát triển và đổi mới công nghệ; lấy doanh nghiệp làm trọng tâm để hỗ trợ và phát triển. Đẩy mạnh công tác chuyển giao công nghệ, ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ phục vụ cho sản xuất. Phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường hướng dẫn áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, hệ thống quản lý, quy trình quản lý hiện đại; hỗ trợ đăng ký bảo hộ, quản lý, bảo vệ và khai thác, phát triển tài sản trí tuệ, sản phẩm được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ…

Sở Dân tộc và Tôn giáo chủ trì triển khai thực hiện Chương trình MTQG phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025 theo kế hoạch UBND tỉnh phê duyệt; phối hợp với các sở, ban, ngành có liên quan và UBND các huyện, thị xã, thành phố tổ chức triển khai thực hiện nội dung hỗ trợ phát triển sản xuất tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó tập trung ưu tiên hỗ trợ phát triển sản xuất tại các xã, thôn, làng đặc biệt khó khăn.

UBND các huyện, thị xã, thành phố, nghiên cứu xây dựng, điều chỉnh phương án, kịch bản tăng trưởng của địa phương, lựa chọn những nội dung, chủ đề, mô hình, triển khai thực hiện các giải pháp cụ thể hiệu quả. Trong đó, điều chỉnh nâng mức tăng trưởng của ngành Nông nghiệp và Môi trường, bảo đảm đóng góp tương xứng cho mục tiêu tăng trưởng chung 4,9% trở lên của ngành Nông nghiệp và Môi trường của tỉnh năm 2025. Xây dựng các chương trình, đề án, dự án trọng điểm; ưu tiên phát triển các sản phẩm chủ lực và các sản phẩm đặc sản của địa phương gắn với công nghiệp chế biến nông sản và thị trường tiêu thụ. Triển khai các giải pháp tăng cường liên kết vùng, hướng tới phát triển các cụm liên kết sản xuất-bảo quản, chế biến-tiêu thụ nông sản gắn với các vùng nguyên liệu tập trung được cơ giới hóa đồng bộ, kết nối với cơ sở chế biến nông sản và hệ thống logistic, kênh phân phối, tiêu thụ nông sản...

VŨ THẢO

 

Liên kết trong nông nghiệp: khó, nhưng phải đi

Liên kết- yêu cầu bắt buộc để sản phẩm ngành nông nghiệp đảm bảo về mặt chất lượng, đáp ứng yêu cầu của thị trường. Thế nhưng, mối liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân vẫn chưa thể bền vững và ổn định lâu dài.

Liên kết sản xuất trong ngành nông nghiệp vẫn gặp không ít khó khăn. Ảnh: Trung Chánh

Hai lần liên kết thất bại!

Trong liên kết sản xuất, tìm kiếm lợi nhuận là mục tiêu chính đáng của các chủ thể tham gia. Thế nhưng, mối quan hệ này có được duy trì bền vững và ổn định hay không kinh nghiệm thực tế cho thấy, việc chia sẻ “lợi ích lẫn rủi ro” là yếu tố quyết định quan trọng, nhất là hợp tác liên kết sản xuất của ngành nông nghiệp.

Được thành lập năm 2020, nhưng Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Trung Hiếu Phát (tỉnh Hậu Giang) đã hai lần “thất bại” trong hợp tác liên kết sản xuất với doanh nghiệp vào năm 2021 và cuối 2023 đầu 2024.

Trao đổi với KTSG Online, ông Trần Trung Hiếu, Giám đốc Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Trung Hiếu Phát, cho biết lý do thất bại là doanh nghiệp liên kết với hợp tác xã nhằm mục đích bán vật tư đầu vào, không chú trọng thu mua sản phẩm đầu ra của nông dân.

Minh chứng cho vấn đề nêu trên, theo ông Hiếu, cả hai lần “thất bại” xuất phát từ việc doanh nghiệp đưa ra mức giá thu mua sản phẩm thấp hơn giá thị trường 200-300 đồng/kg. “Bên ngoài lái mua 6.500 đồng/kg, trong khi doanh nghiệp mua 6.200-6.300 đồng/kg, thì làm sao nông dân bán", ông nói và cho biết, điều khoản nông dân có quyền bán ra bên ngoài nếu doanh nghiệp mua thấp hơn thị trường chính là “đường thoát” được doanh nghiệp tính toán trước.

Kết quả từ những lần thất bại là uy tín của người đứng đầu hợp tác xã suy giảm, thành viên rút lui, diện tích sản xuất giảm từ hơn 200 héc ta, xuống còn 170 héc ta. “Doanh nghiệp làm ăn mà không vì chữ tâm, chỉ biết lợi ích riêng sẽ không thành công được”, ông Hiếu đúc kết.

Trong khi đó, ông Nguyễn Hữu Lộc, Giám đốc Công ty cổ phần Organic Agri, cho biết đơn vị này thành công trong liên kết nhờ chọn hướng đi riêng, tức khai thác thị trường ở phân khúc cao cấp. Đồng thời doanh nghiệp sẵn sàng chia sẻ lợi ích với người nông dân cùng tham gia.

Theo đó, hợp đồng được Organic Agri ký có giá chuẩn (12.000 đồng/kg) cho một vụ hoặc cả năm, giúp nông dân biết khi tham gia liên kết đạt lợi nhuận ra sao, chứ không phải đến khi thu hoạch mới ấn định.

Dĩ nhiễn, việc liên kết thu mua giá cao cho nông dân dựa trên cơ sở có đầu ra ổn định từ đối tác khách hàng. “Chúng tôi định hướng là chất lượng, chuẩn mực sản phẩm và bây giờ đã làm được. Doanh nghiệp cũng áp dụng chính sách đảm bảo nông dân không lỗ, tức trường hợp năng suất thấp do mất mùa, Organic Agri vẫn thanh toán cho nông dân tối thiếu 1,7-2 triệu đồng/công (1.000m2).

Qua câu chuyện nêu trên, cho thấy thành công của mối quan hệ liên kết giữa doanh nghiệp với hợp tác xã (nông dân), đòi hỏi các chủ thể tham gia phải biết chia sẻ lợi ích và rủi ro với nhau một cách hài hòa.

Nhân rộng khó, nhưng phải làm vì là xu hướng tất yếu. Ảnh: Trung Chánh

Khó mở rộng, nhưng phải làm

Lợi ích của liên kết là doanh nghiệp có được sản phẩm an toàn, chất lượng để kinh doanh, đáp ứng yêu cầu của khách hàng, trong khi người nông dân, tức người trực tiếp sản xuất, sản phẩm có địa chỉ tiêu thụ rõ ràng.

Ông Trần Minh Hải, Phó hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết khi áp dụng quy trình kỹ thuật canh tác tiên tiến trong liên kết sản xuất giúp giảm sử dụng phân thuốc hóa học, tức bảo vệ được sức khỏe người nông dân.

Trong ngành nông nghiệp, hiện nay có hai hình thức liên kết được Bộ Nông nghiệp và Môi trường hướng dẫn thực thi, bao gồm thứ nhất, liên kết sản xuất do doanh nghiệp dẫn dắt; thứ hai, liên kết do hợp tác xã làm trung tâm sản xuất.

Theo đó, với mô hình thứ nhất, doanh nghiệp sẽ dẫn dắt quá trình sản xuất, có nhiệm vụ đầu tư, cung ứng vật tư, công nghệ, kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm đầu ra, trong khi đó, hợp tác xã ký hợp đồng với doanh nghiệp và tổ chức sản xuất, hướng dẫn nông dân sản xuất theo tiêu chuẩn, quy trình doanh nghiệp đưa ra và giám sát tuân thủ của nông dân.

Với mô hình thứ hai, hợp tác xã đóng vai trò "trung tâm" trong tổ chức sản xuất kinh doanh, tức vừa tổ chức sản xuất theo tín hiệu thị trường vừa tìm kiếm đầu ra để tiêu thụ cho bà con nông dân, trong đó, đối tác thương mại có thể là thương lái.

Tuy nhiên, có một thực tế, việc mở rộng các mối quan hệ liên kết sản xuất trong ngành nông nghiệp vẫn không hề dễ dàng, dù không ít lần đề cập.

Là đơn vị tám năm tham gia liên kết sản xuất với nông dân, nhưng diện tích bao tiêu mỗi năm của Công ty Đại Dương Xanh cũng chỉ dừng lại ở mức 4.000-5.000 héc ta/năm, chiếm 10% doanh số của công ty, không thể mở rộng thêm được.

Ông Mai Văn Tùng, đại diện Công ty Đại Dương Xanh, thừa nhận doanh nghiệp liên kết bao tiêu đa phần là doanh nghiệp nhỏ, xuất khẩu thị trường ngách với yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm, nhưng doanh số không lớn. “Doanh nghiệp ở phân khúc này đứng ra bao tiêu thành công, nhưng không thể mở rộng được là vậy”, ông giải thích.

Vị đại diện của Đại Dương Xanh đặt câu hỏi, với ngành hàng lúa gạo vì sao Tổng công ty lương thực miền Bắc (Vinafood 1) và Tổng công ty lương thực miền Nam (Vinafood 2)- những đơn vị xuất khẩu cả triệu tấn gạo mỗi năm nhưng đứng bên ngoài cuộc chơi liên kết?

Rõ ràng, những đơn vị mạnh về số lượng đang bán cho thị trường không yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm. Trong khi để thực hiện liên kết phải đầu tư đầu vào, bao tiêu đầu ra, kể cả đầu tư về nhân lực, trang thiết bị máy móc…, nên họ chọn mua gạo qua nhà kho để tiết kiệm chi phí, dễ dàng và nhanh hơn thay vì gia nhập cuộc chơi liên kết đầy tốn kém.

Kết quả của câu chuyện nêu trên là chuỗi liên kết ngành nông nghiệp Việt Nam nói chung và lúa gạo nói riêng dừng lại ở mức độ gần như là… “con số không”. Điều này, đã dẫn những hậu quả to lớn, mà dễ thấy nhất là với ngành cây ăn trái, sản phẩm liên tục bị thị trường nhập khẩu cảnh báo về chất lượng.

Ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần nông nghiệp công nghệ cao Trung An, nêu con số cho thấy liên kết mang lại lợi ích rất lớn, đó là cùng loại gạo Đài Thơm 8, nhưng Trung An liên kết đem sản phẩm bán đi châu Âu với giá 700 đô la Mỹ/tấn, trong khi những đơn vị không liên kết, bán đi Philippines cao lắm chỉ 540 đô la Mỹ/tấn.

Theo thừa nhận của ông Bình, nhìn tổng thể của ngành nông nghiệp cũng như lúa gạo, liên kết vẫn ở con số chẳng có gì. “Cuối cùng liên kết ở ĐBSCL đa số chỉ là đặt cọc, hợp đồng thương mại thôi. Trong khoảng 130 doanh nghiệp thuộc Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) được cấp đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu, chỉ được một, hai đơn vị tham gia liên kết” ông Bình cho hay.

Quá thực tế nêu trên, rõ ràng liên kết phụ thuộc rất lớn vào thị trường, tức từ yêu cầu thị trường, doanh nghiệp quay lại đặt hàng nông dân sản xuất. Tuy nhiên, với phân khúc này, dung lượng thị trường vẫn khiêm tốn so với phân khúc không đòi hỏi khắc khe về mặt chất lượng. Do đó, liên kết đối với ngành nông nghiệp của Việt Nam vẫn là câu chuyện khó, nhưng đây là con đường bắt buộc phải đi khi xu hướng tiêu dùng an toàn là tất yếu.

Như vậy, muốn đẩy nhanh hơn, thì cần thêm chính sách hỗ trợ, nhất là về mặt thị trường và nguồn lực để doanh nghiệp đầu tư...

Trung Chánh

 

Liên kết sản xuất lúa giúp nông dân Long An tự tin làm chủ trên đồng ruộng, vươn ra thị trường lớn

Long An, một trong những vựa lúa trọng điểm của Đồng bằng sông Cửu Long, đang chứng kiến sự chuyển mình mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là cây lúa. Đóng góp không nhỏ vào sự thay đổi tích cực này chính là mô hình HTX nông nghiệp kiểu mới đang ngày càng khẳng định vai trò là cầu nối vững chắc giữa nông dân và thị trường, giúp bà con nông dân nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống và từng bước vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương.

Mới đây, Liên minh Hợp tác xã (LMHTX) tỉnh Long An tổ chức Hội nghị ký kết hợp đồng hợp tác với Công ty Chơn Chính về việc bao tiêu sản phẩm lúa thương phẩm cho các hợp tác xã (HTX) trên địa bàn tỉnh.

Liên kết 3 nhà sản xuất lúa, gạo

Lễ ký kết hợp đồng ghi nhớ giữa LMHTX tỉnh Long An và Công ty TNHH Chơn Chính đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc tăng cường hợp tác giữa HTX và doanh nghiệp, nhằm nâng cao vị thế, vai trò của kinh tế tập thể và HTX trong nền kinh tế, bảo đảm đầu ra ổn định cho sản phẩm lúa thương phẩm của các HTX; đồng thời, tạo mối quan hệ hợp tác bền vững giữa các bên.

Lễ ký kết hợp đồng ghi nhớ giữa LMHTX tỉnh Long An và Công ty TNHH Chơn Chính đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc tăng cường hợp tác giữa HTX và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Long An.

Sở dĩ nói đây là bước ngoặt là bởi trước đây, điệp khúc "được mùa, mất giá" hay nỗi lo đầu ra bấp bênh luôn là bài toán nan giải đối với người trồng lúa Long An. Việc sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, thiếu liên kết khiến nông dân thường xuyên bị ép giá, lợi nhuận thu về không tương xứng với công sức bỏ ra. Tuy nhiên, vài năm trở lại đây, với sự định hướng và hỗ trợ tích cực từ các cấp chính quyền, đặc biệt là vai trò của Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Long An, nhiều nông dân đã tự nguyện tham gia vào các HTX. Chính sự liên kết này đã tạo nên sức mạnh tập thể, giúp thay đổi tư duy sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và quan trọng nhất là đảm bảo đầu ra ổn định cho hạt gạo Long An.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc liên kết trong sản xuất và tiêu thụ, các HTX trồng lúa trên địa bàn tỉnh Long An đã không ngừng tìm kiếm, kết nối với các doanh nghiệp uy tín để xây dựng chuỗi giá trị lúa gạo bền vững. Thay vì để nông dân tự "bơi" như trước, các HTX đứng ra làm đầu mối, ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm với doanh nghiệp ngay từ đầu vụ. Điều này không chỉ giúp nông dân yên tâm sản xuất mà còn đảm bảo giá bán ổn định, tránh tình trạng bị thương lái ép giá khi vào vụ thu hoạch rộ.

Một ví dụ điển hình cho sự thành công của mô hình liên kết này là HTX Dịch vụ, Sản xuất và Thương mại Nông nghiệp Hương Trang (huyện Mộc Hóa). HTX đang sản xuất lúa theo mô hình sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn gắn với cơ giới hóa đồng bộ theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến xây dựng thương hiệu sản phẩm.

Ông Trần Văn Sửa, giám đốc HTX cho biết, HTX đang sản xuất lúa theo mô hình sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn gắn với cơ giới hóa đồng bộ theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến xây dựng thương hiệu sản phẩm.

Với 600ha lúa, HTX Dịch vụ, Sản xuất và Thương mại Nông nghiệp Hương Trang hiện ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất lúa, đồng bộ cơ giới hóa 100% từ khâu làm đất, gieo sạ, chăm sóc, thu hoạch và bảo quản lúa. Đồng thời, HTX thực hiện chặt chẽ chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ với doanh nghiệp, bảo đảm đầu ra ổn định cho các thành viên.

Các tiến bộ kỹ thuật, ứng dụng cơ giới hóa, giảm lượng giống gieo sạ, sử dụng phân bón hữu cơ sinh học,... góp phần thay đổi tập quán canh tác và được nông dân mạnh dạn áp dụng, mang lại hiệu quả sản xuất cao.

Một thành viên của HTX cho biết, trước đây, gia đình sản xuất theo kiểu truyền thống, năng suất bấp bênh, thường xuyên bị thương lái ép giá. Từ khi tham gia HTX và triển khai sản xuất ứng dụng công nghệ cao trên cây lúa, năng suất ổn định hơn trước, giảm chi phí sản xuất, lại được bao tiêu sản phẩm với giá cao hơn thị trường. Do đó, gia đình mạnh dạn đầu tư, nhân rộng trồng lúa ứng dụng công nghệ cao trên toàn bộ 6ha của gia đình.

Tương tự, HTX Dịch vụ Thương mại Nông nghiệp Cây Trôm thành lập năm 2017 tại ấp Gò Xoài, xã Hưng Điền A, huyện Vĩnh Hưng, đã và đang đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong việc xây dựng chuỗi giá trị sản xuất lúa gạo, góp phần giảm nghèo, làm giàu cho các thành viên.

Để nâng cao hiệu quả hoạt động, ngay từ khi thành lập, HTX Cây Trôm đã tập trung vào việc cung cấp các dịch vụ nông nghiệp như tưới tiêu, thu mua lương thực, cung cấp giống cây trồng, kinh doanh phân bón và thuốc bảo vệ thực vật. HTX cũng dồn lực đầu tư vào cơ giới hóa với việc xây dựng thêm trạm bơm, nâng cấp hệ thống máng tưới nội đồng và sử dụng máy bay để phun thuốc bảo vệ thực vật. Nhờ đó, quy trình sản xuất được cơ giới hóa đến 90%, giúp giảm chi phí và tăng hiệu quả sản xuất.

HTX đã thiết lập mối quan hệ với các công ty như An Nông, Con Cò Vàng, Olam Agri Việt Nam và Farm Angle để đảm bảo đầu vào và bao tiêu sản phẩm đầu ra. Đồng thời, đẩy mạnh chuyển đổi số, tham gia các trang thương mại điện tử và đăng ký nhãn hiệu, truy xuất nguồn gốc để quảng bá sản phẩm đến tay người tiêu dùng.

Nhờ việc xây dựng chuỗi giá trị sản xuất hiệu quả và bền vững, thu nhập của các thành viên HTX đã tăng lên khoảng 15-30% so với trước khi tham gia HTX. Việc sản xuất theo hướng hữu cơ cũng giúp tiết kiệm chi phí và tăng lợi nhuận thêm khoảng 4-5 triệu đồng/ha.

Điểm tựa giúp nông dân thoát nghèo, vươn lên làm giàu

Sự liên kết này không chỉ dừng lại ở cấp độ HTX với doanh nghiệp mà còn mở rộng ra liên kết giữa các HTX với nhau để tạo thành những vùng sản xuất lớn, đồng nhất về chất lượng. Điều này giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của hạt gạo Long An trên thị trường, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng thương hiệu gạo địa phương.

Các HTX còn chủ động tham gia các hội chợ, triển lãm nông nghiệp để quảng bá sản phẩm, tìm kiếm đối tác mới, mở rộng thị trường tiêu thụ. Nhiều HTX đã đầu tư vào hệ thống sấy, kho chứa để bảo quản lúa sau thu hoạch, giảm thiểu tổn thất và nâng cao giá trị sản phẩm.

Long An đang là 1 trong 12 tỉnh, thành phố Vùng Ðồng bằng sông Cửu Long thực hiện Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh Vùng Đồng bằng sông Cửu long đến năm 2030.

Sự ra đời và phát triển của các HTX nông nghiệp kiểu mới như trên đã thực sự trở thành điểm tựa vững chắc cho hàng ngàn hộ nông dân trồng lúa ở Long An. Tham gia vào HTX, nông dân không chỉ được đảm bảo về đầu ra sản phẩm mà còn được hưởng nhiều lợi ích thiết thực khác.

Về mặt kinh tế, thu nhập của các thành viên HTX được cải thiện rõ rệt. Nhờ có hợp đồng bao tiêu, giá lúa ổn định ở mức cao hơn so với việc bán tự do cho thương lái. Bên cạnh đó, việc áp dụng đồng bộ các quy trình kỹ thuật canh tác tiên tiến, sử dụng giống chất lượng cao giúp tăng năng suất và chất lượng lúa, từ đó tăng thêm lợi nhuận.

Anh Nguyễn Văn Minh, một thành viên của HTX Nông nghiệp Gò Gòn (huyện Tân Hưng), phấn khởi cho biết: "Trước đây, làm lúa vất vả mà lời lãi chẳng được bao nhiêu, có khi còn lỗ vì giá cả bấp bênh. Từ khi vào HTX, được hỗ trợ kỹ thuật, bao tiêu đầu ra, năng suất lúa tăng, giá bán cũng cao hơn. Gia đình tôi không chỉ thoát nghèo mà còn có của ăn của để, con cái được học hành đàng hoàng."

Về mặt kỹ thuật và kiến thức, các HTX thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật mới cho thành viên. Nông dân được tiếp cận với các phương pháp canh tác hiện đại, cách sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật an toàn, hiệu quả, giúp giảm chi phí sản xuất và bảo vệ môi trường. Việc sản xuất theo quy trình chung cũng giúp tạo ra sản phẩm đồng đều về chất lượng, dễ dàng đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường.

HTX còn là nơi để nông dân chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau, tạo nên sự gắn kết cộng đồng. Thay vì mạnh ai nấy làm, các thành viên HTX cùng nhau bàn bạc, đưa ra các giải pháp tối ưu cho sản xuất, cùng nhau đối mặt và vượt qua khó khăn. Nhiều HTX còn đứng ra tín chấp cho thành viên vay vốn ưu đãi từ các ngân hàng để đầu tư tái sản xuất, mở rộng quy mô.

Nâng cao vai trò ‘bà đỡ’ trong sản xuất nông nghiệp

Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Long An, địa phương này đang là 1 trong 12 tỉnh, thành phố Vùng Ðồng bằng sông Cửu Long thực hiện Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh Vùng Đồng bằng sông Cửu long đến năm 2030.

Theo số liệu, Long An hiện đứng thứ 4 khu vực Đồng bằng sông Cửu Long về sản lượng lúa, đạt hơn 2,7 triệu tấn/năm. Năm 2024, diện tích gieo trồng lúa ước đạt 530.900 ha, năng suất trung bình 59,1 tạ/ha, sản lượng dự kiến hơn 3,18 triệu tấn, vượt kế hoạch đề ra. Trong đó, sản lượng lúa chất lượng cao chiếm 72%, tương đương 2,29 triệu tấn. Tuy nhiên, tình trạng tiêu thụ lúa vẫn gặp khó khăn, đặc biệt về giá cả và đầu ra.

Trên địa bàn hiện có nhiều HTX đang tham gia sản xuất theo Đề án, điển hình là HTX Đồng Đưng (xã Tuyên Thạnh, thị xã Kiến Tường) có 4ha lúa trong số 10ha lúa thực hiện mô hình điểm của tỉnh thuộc Đề án. Sau thời gian canh tác, hiệu quả mang lại khá tích cực, lượng giống, phân bón và thuốc đều giảm so với canh tác truyền thống. Năng suất lúa trong mô hình từ 8-9 tấn/ha, bằng năng suất lúa ngoài mô hình nhưng chi phí sản xuất thấp hơn từ 2-2,5 triệu đồng/ha”.

Giám đốc HTX Đồng Đưng - Nguyễn Minh Tâm cho biết, HTX cũng sẵn sàng thay đổi quan niệm canh tác, hướng tới sản xuất xanh, cho năng suất cao. HTX không đốt rơm trên đồng, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tận dụng được nguồn rơm để tụ dưới gốc cây mít, sầu riêng, dùng chế phẩm sinh học phân hủy làm phân bón cho cây trồng.

Được biết, để đảm bảo các mục tiêu đề ra, Liên minh HTX tỉnh Long An đã tích cực triển khai nhiều chương trình, hoạt động thiết thực nhằm hỗ trợ các HTX. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm là công tác tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò, vị trí của kinh tế tập thể, HTX trong phát triển kinh tế - xã hội. Liên minh HTX tỉnh thường xuyên tổ chức các hội nghị, hội thảo, các lớp bồi dưỡng kiến thức về quản lý HTX, kỹ năng xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, tiếp cận thị trường cho đội ngũ cán bộ quản lý HTX.

Bên cạnh đó, Liên minh HTX tỉnh còn đóng vai trò là cầu nối quan trọng giúp các HTX tiếp cận với các chính sách ưu đãi của nhà nước về vốn, đất đai, khoa học công nghệ. Tổ chức này thường xuyên phối hợp với các sở, ngành liên quan để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho HTX trong quá trình hoạt động. Đặc biệt, Liên minh HTX tỉnh rất chú trọng đến việc hỗ trợ các HTX xây dựng thương hiệu sản phẩm, xúc tiến thương mại, tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ. Nhiều HTX đã được hỗ trợ tham gia các chương trình OCOP, giúp nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương.

Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng quá trình phát triển của các HTX trồng lúa ở Long An vẫn còn nhiều thách thức phía trước như vấn đề biến đổi khí hậu, yêu cầu ngày càng cao của thị trường về chất lượng và an toàn thực phẩm, hay năng lực quản lý của một số HTX còn hạn chế.

Tuy nhiên, với sự quan tâm, hỗ trợ từ các cấp chính quyền, sự đồng hành của Liên minh HTX các cấp và đặc biệt là sự năng động, sáng tạo của chính các HTX và bà con nông dân, tin tưởng rằng mô hình kinh tế tập thể trong lĩnh vực sản xuất lúa gạo ở Long An sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

Những cánh đồng lúa liên kết, những hạt gạo chất lượng cao mang thương hiệu Long An sẽ không chỉ góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn mang lại cuộc sống ấm no, sung túc cho người nông dân, đóng góp vào sự phát triển bền vững của tỉnh nhà. Con đường liên kết sản xuất thông qua HTX chính là hướng đi đúng đắn, giúp nông dân Long An tự tin làm chủ trên đồng ruộng của mình và vươn ra thị trường lớn.

Quốc Anh

 

Ứng dụng chuyển đổi số trong tiêu thụ sản phẩm OCOP

Để thuận lợi cho việc quảng bá, giới thiệu sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ, ngoài việc đa dạng hóa sản phẩm, ứng dụng công nghệ và đầu tư dây chuyền sản xuất nâng cao chất lượng và kéo dài thời gian bảo quản sản phẩm, Hợp tác xã (HTX) Sản xuất gạo nếp Gà gáy Mỹ Lung và kinh doanh dịch vụ tổng hợp, xã Mỹ Lung, huyện Yên Lập đã mạnh dạn tham gia vào hệ thống Bản đồ số nông nghiệp của tỉnh.

Người tiêu dùng sử dụng điện thoại thông minh tra cứu thông tin sản phẩm của Tổ sản xuất chè Quang Tiến, xã Ngọc Lập, huyện Yên Lập.

Ông Khúc Ngọc Tung, Giám đốc HTX chia sẻ: “Đối với việc tiêu thụ sản phẩm hiện nay, các kênh tiêu thụ truyền thống ngày càng giảm sút, bán hàng theo hình thức online ngày càng mở rộng, chiếm được thị phần. Để xây dựng HTX phát triển ổn định, bền vững và nâng cao thu nhập cho các thành viên, HTX cũng phải thay đổi phương thức kinh doanh, quảng bá và giới thiệu sản phẩm. Thời gian qua, chúng tôi cũng đã tham gia một số trang giới thiệu sản phẩm như giaothuong.net; voso.com... đặc biệt là tham gia hệ thống Bản đồ số nông nghiệp của tỉnh (tên miền là nongsanphutho.com.vn). Nhờ đó, nhiều khách hàng ngoại tỉnh cũng đã biết đến thương hiệu gạo Nếp Gà gáy Mỹ Lung, đặt mua hàng. Lượng sản phẩm tiêu thụ ngày càng tăng, giúp nâng cao thu nhập cho thành viên HTX”.

Tương tự như HTX sản xuất gạo Nếp Gà gáy Mỹ Lung và kinh doanh dịch vụ tổng hợp, HTX rau, củ, quả Mạnh Liên, xã Hương Nộn, huyện Tam Nông cũng chủ động đưa sản phẩm của HTX lên các nền tảng thương mại điện tử, đồng thời tham gia chương trình Bản đồ số nông nghiệp của tỉnh. Nhờ tạo dựng được thương hiệu từ trước, cùng với việc được công nhận đạt hạng OCOP, sức tiêu thụ của HTX tăng lên, giúp cho thu nhập của các thành viên HTX đạt khoảng 6-7 triệu đồng/người/tháng. Ông Nguyễn Hoàng Mạnh, Giám đốc HTX chia sẻ: “Từ khi tham gia các sàn thương mại điện tử và hệ thống Bản đồ số nông nghiệp, việc tiêu thụ sản phẩm của HTX gặp rất nhiều thuận lợi. Hiện nay, khách hàng không chỉ đặt mua theo hình thức online mà còn tìm đến tận địa chỉ của HTX giúp chúng tôi phát triển thêm hình thức du lịch trải nghiệm sản xuất nông nghiệp, góp phần tăng doanh thu cho HTX”.

Thời gian qua, để quảng bá, liên kết tiêu thụ sản phẩm, các chủ thể có sản phẩm đã được công nhận đạt hạng OCOP đã tập trung kinh phí đầu tư máy móc hiện đại vào sản xuất cũng như ứng dụng công nghệ thông tin nâng cao chất lượng và tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời sử dụng các nền tảng mạng xã hội như: Zalo, Facebook, các sàn thương mại điện tử để mở rộng khách hàng, kết nối với các đơn vị tiêu thụ. Nhờ chủ động, nắm bắt nhanh lợi thế của các nền tảng mạng xã hội đã giúp cho sản phẩm của các chủ thể tiếp cận được với đông đảo khách hàng, góp phần giải quyết việc làm cho các thành viên và tăng thu nhập cho người dân địa phương.

Ông Nguyễn Thanh Hiệp, Phó Chi cục trưởng phụ trách Chi cục Phát triển nông thôn khẳng định: “Chuyển đổi số đã giúp các chủ thể OCOP liên kết với các đối tác, kết nối với các đơn vị thu mua để xuất khẩu sản phẩm, trao đổi với người dân vùng trồng nguyên liệu về quy trình, kỹ thuật chăm sóc bảo đảm đạt tiêu chuẩn, yêu cầu về sạch, an toàn. Cũng từ chuyển đổi số, các chủ thể có thể tìm hiểu, nâng cao nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm, từ đó lượng tiêu thụ hàng hóa sản xuất ra cũng được nâng lên, củng cố thương hiệu sản phẩm và khẳng định được vai trò của chứng nhận OCOP trong đánh giá sản phẩm nông, lâm nghiệp”.

Có thể nói, việc mở rộng quảng bá, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp thông qua việc chuyển đổi số đã góp phần giúp sản phẩm OCOP đến gần hơn, nhanh hơn với người tiêu dùng cả nước, hướng tới mục tiêu phát triển hiệu quả và bền vững cho sản phẩm OCOP địa phương trên thị trường. Đồng thời, qua việc kết nối với các kênh phân phối hiện đại, các chủ thể OCOP có thể chủ động trong các công đoạn sản xuất, chế biến, quảng bá, tiêu thụ sản phẩm để đáp ứng yêu cầu với sự thay đổi về nhu cầu tiêu dùng và thị trường.

Phan Cường

 

Hợp tác xã nông nghiệp nắm bắt cơ hội phát triển

Trên địa bàn tỉnh hiện có trên 400 hợp tác xã (HTX) đầu tư sản xuất ở các lĩnh vực: Chăn nuôi, trồng trọt, thủy sản, chế biến thức ăn, sơ chế nông- lâm sản... Ngoài ra còn có nhiều HTX dịch vụ sản xuất nông nghiệp, hoạt động khá hiệu quả. Đây là kết quả của việc áp dụng các chính sách hỗ trợ, phát triển kinh tế HTX thời gian qua.

Nhờ được hỗ trợ các hoạt động quảng bá, kết nối tiêu thụ, các sản phẩm chè của HTX sản suất, chế biến chè Long Cốc, xã Long Cốc, huyện Tân Sơn đã có mặt tại hội chợ thương mại.

Tiên phong trong triển khai mô hình liên kết nuôi dê thịt, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, HTX Nông lâm Tất Thắng, xã Tất Thắng, huyện Thanh Sơn đã tập trung tổ chức chăn nuôi theo quy trình kỹ thuật tiên tiến, tạo ra sự kết nối chặt chẽ giữa các thành viên trong chuỗi giá trị. Bà Đinh Thị Thạo, Giám đốc HTX chia sẻ: “Với sản lượng cung cấp thị trường trên 250 tấn dê thịt/năm, sản phẩm sau khi nuôi được phân bổ hợp lý cho các nhóm thị trường chính như cung cấp nhà hàng đặc sản dê của thành viên HTX. Các sản phẩm chế biến Thịt dê chua Tuấn Thạo, giò dê Tuấn Thạo, thịt chua Tuấn Thạo đã được công nhận tiêu chuẩn OCOP hạng 3 sao tiêu thụ trong các gian trưng bày sản phẩm OCOP của tỉnh và trên các sàn giao dịch thương mại điện tử. Được sự hỗ trợ của Liên minh HTX tỉnh, việc đa dạng kênh phân phối không chỉ tối ưu hóa giá trị sản phẩm mà còn giúp HTX đa dạng hóa nguồn thu, giảm thiểu rủi ro và đảm bảo sự phát triển bền vững”.

Không chỉ có HTX Nông lâm Tất Thắng, hiện nay, đối với các HTX nông nghiệp, ngoài việc tạo điều kiện về cơ chế, chính sách, hỗ trợ phát triển, tăng thêm nguồn thu ngân sách cho địa phương, các thành viên HTX còn có cơ hội được học tập phương thức sản xuất hiện đại, bền vững, an toàn. Nhờ đó, nhiều HTX đã chủ động xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, mở rộng cung ứng nhiều dịch vụ, đa dạng hóa ngành nghề, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đưa cơ giới hóa vào sản xuất, tổ chức dịch vụ từ đầu vào đến chế biến, tiêu thụ sản phẩm, đồng thời triển khai liên kết sản xuất giữa các HTX, hộ nông dân, doanh nghiệp. Nhờ vậy, quy mô và trình độ sản xuất có sự chuyển biến tích cực.

Cùng với đó, nhằm “tiếp sức” hỗ trợ HTX nông nghiệp, Liên minh HTX tỉnh chủ động lồng ghép các nguồn lực thực hiện dự án ứng dụng khoa học và công nghệ mới vào sản xuất - kinh doanh; triển khai mô hình hỗ trợ thiết kế, in ấn bao bì, hệ thống tưới, phân bón, giống... của các HTX; trợ giúp các HTX có năng lực tiếp cận các chính sách hỗ trợ của tỉnh như: Chương trình mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc và miền núi...; phối hợp tổ chức tập huấn cho hàng ngàn lượt học viên là đối tượng cán bộ quản lý, thành viên, người lao động trong HTX về quản trị HTX, nghiệp vụ kế toán, hạch toán và kê khai thuế điện tử; kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin và các nền tảng số để tuyên truyền, quảng bá sản phẩm. Đồng thời, đẩy mạnh xúc tiến thương mại; xây dựng sản phẩm OCOP cho các HTX; ứng dụng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP; hướng dẫn hỗ trợ các HTX nông nghiệp đăng ký, xây dựng nhãn hiệu hàng hóa cho nông sản.

Toàn tỉnh hiện có trên 49.000 thành viên tham gia HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Năm qua, doanh thu bình quân đạt trên 2,2 tỷ đồng/HTX/năm; lợi nhuận bình quân đạt 81,5 triệu đồng/HTX/năm. Tổng số lao động làm việc thường xuyên trong HTX gần 4.000 người; thu nhập bình quân của lao động làm việc thường xuyên trong HTX là 4 triệu đồng/người/tháng. Các HTX luôn duy trì hoạt động hiệu quả bền vững qua các năm như: HTX Mì gạo Hùng Lô; HTX Sản xuất và sơ chế tiêu thụ rau an toàn Tứ Xã; HTX Thịt chua Thanh Sơn - Phú Thọ; HTX Sản suất chế biến chè Long Cốc... Đặc biệt, xuất hiện nhiều mô hình HTX ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ cao; liên kết trong sản xuất các sản phẩm như: Đông trùng hạ thảo, trà thảo mộc, chè xanh, gà ủ muối... Từ đó, thu nhập của các thành viên được nâng lên, HTX đã góp phần tích cực trong xây dựng nông thôn mới, phát triển du lịch cộng đồng tại địa phương.

Thanh Nga

 

Cây ăn quả trên đất dốc - Biến không thành có, biến khó thành dễ

Từ chủ trương của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về phát triển cây ăn quả trên đất dốc, đã biến thách thức, khó khăn về điều kiện canh tác thành lợi thế, tạo đột phá sản xuất nông nghiệp, đưa Sơn La trở thành 'hiện tượng nông nghiệp' của cả nước.

Thủ tướng Chính phủ cùng các đại biểu tham quan gian hàng giới thiệu sản phẩm tại Festival trái cây và sản phẩm OCOP Việt Nam năm 2022 tổ chức tại Sơn La.Ảnh: PV

Thăm, làm việc và dự Festival trái cây và sản phẩm OCOP Việt Nam năm 2022 tại Sơn La, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đánh giá: “Đưa cây ăn quả lên sườn dốc là thay đổi tư duy quan trọng, giúp người dân làm giàu trên mảnh đất quê hương, không phải đi làm ăn xa nhà; minh chứng cho sự thành công của đổi mới sáng tạo, biến không thành có, biến khó thành dễ, biến không thể thành có thể”.

Quyết sách xoay chuyển ngành nông nghiệp

Những năm 1990, Tỉnh ủy có chủ trương phát triển một số cây chủ lực: Cà phê, chè, cây ăn quả, dâu tằm. Đến năm 2015, toàn tỉnh có hơn 23.600 ha cây ăn quả, chủ yếu giống cũ, năng suất, chất lượng kém. Một số địa phương xuất hiện tình trạng chặt phá cây ăn quả, quay lại trồng ngô, lúa nương.

Thực hiện nhiệm vụ di dân tái định cư phục vụ thủy điện Sơn La, bình quân đất sản xuất của các hộ dân thu hẹp, trong khi trồng ngô, lúa nương hiệu quả thấp, thực tiễn đặt ra yêu cầu chuyển đổi sản xuất, nâng cao thu nhập nhân dân.

Đồng chí Hoàng Văn Chất, nguyên Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Chủ tịch HĐND tỉnh, chia sẻ: Chuẩn bị Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2015-2020, Tỉnh ủy tổ chức đánh giá 25 năm thực hiện chủ trương của tỉnh về phát triển cây chủ lực, gồm: cà phê, chè, cây ăn quả... tìm hướng sản xuất hiệu quả hơn. Thời điểm đó, Học viện Nông nghiệp công bố đề tài ghép mắt cây ăn quả giống mới trên thân cây cũ cho năng suất, chất lượng quả cao, một số hộ áp dụng thành công. Sau 30 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ban hành nhiều chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn. Từ các cơ sở trên, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Thông báo Kết luận số 121-TB/TU ngày 30/11/2015 về một số chủ trương trồng cây ăn quả trên đất dốc đến năm 2020.

Vùng cây ăn quả tại xã Hát Lót, huyện Mai Sơn.Ảnh: PV

Tỉnh ủy, HĐND tỉnh ban hành nhiều chủ trương, chính sách, hỗ trợ hơn 77 tỷ đồng, lồng ghép các chương trình, dự án, mở rộng diện tích cây ăn quả thay thế cây lương thực kém hiệu quả, khuyến khích ứng dụng công nghệ cao, sản xuất theo quy trình VietGAP, GlobalGAP, xây dựng thương hiệu, quảng bá, hỗ trợ tiêu thụ, xuất khẩu.

Chính sách đột phá là Nghị quyết số 28/2017/NQ-HĐND ngày 15/3/2017 hỗ trợ ghép mắt cải tạo vườn tạp 200.000 đồng/hộ, bình quân mỗi hộ được hỗ trợ 16 mắt cải tạo xoài, nhãn bằng giống mới. Hàng nghìn nông dân được chuyển giao kỹ thuật, ghép mắt thuần thục như những kỹ sư nông nghiệp. Trong 2 năm (2017-2018), toàn tỉnh ghép cải tạo trên 13.000 ha cây ăn quả; chuyển đổi hàng chục nghìn ha cây trồng kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả... Con số khiến nhiều nhà chính sách, nhà khoa học, các chuyên gia nông nghiệp ngạc nhiên.

Tỉnh huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc, tạo khí thế mạnh mẽ thúc đẩy nông dân thay đổi tư duy sản xuất từ nhỏ lẻ, manh mún, sang sản xuất hàng hóa. Phát triển các HTX kiểu mới làm đầu mối giúp các hộ sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ, thực hành sản xuất nông nghiệp tốt, xây dựng chuỗi liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm.

Sơn La nhanh chóng mở rộng diện tích cây ăn quả lớn nhất miền Bắc và thứ 2 cả nước. Toàn tỉnh hiện có 85.050 ha cây ăn quả và sơn tra, so với năm 2016 diện tích tăng 219%, sản lượng tăng 332%. Đất dốc, độ cao, chênh lệch nhiệt độ ngày - đêm và giữa các mùa là những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp, nhưng lại thành lợi thế, làm cho hoa quả Sơn La có hương vị, chất lượng đặc biệt.

Đại biểu tham quan gian hàng trong Lễ hội mận hậu và nông sản tỉnh Sơn La tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Tỉnh đã ban hành 63 định mức kinh tế kỹ thuật về trồng trọt; 62 quy trình sản xuất cây trồng, quy định về canh tác hữu cơ, chuyển giao kỹ thuật ghép cây, hạ cành, tỉa cành, tạo tán “trẻ hóa cây”, kỹ thuật rải vụ, trái vụ, tăng giá trị sản phẩm lên nhiều lần. Toàn tỉnh có 5 vùng cây ăn quả được công nhận vùng ứng dụng công nghệ cao.

Nông dân “mặc áo” cho quả, thực hiện sản xuất nông nghiệp tốt, đã xây dựng 202 mã số vùng trồng cây ăn quả xuất khẩu. 13 sản phẩm cây ăn quả mang địa danh của tỉnh được Cục Sở hữu trí tuệ cấp văn bằng bảo hộ; duy trì 201 chuỗi sản xuất, chế biến, kinh doanh quả an toàn. Các sản phẩm quả được cấp văn bằng bảo hộ, chứng nhận OCOP, chứng nhận VietGAP, gắn tem, nhãn, bao bì đảm bảo việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

HTX Phương Nam, xã Lóng Phiêng, huyện Yên Châu, thành lập năm 2016, từ 80 ha nhãn ban đầu, đến nay, liên kết sản xuất hơn 300 ha nhãn. Các hộ thành viên HTX áp dụng công nghệ tưới ẩm, gắn camera giám sát phục vụ truy xuất nguồn gốc...

Ông Trần Như Kiên, Giám đốc HTX Phương Nam, cho hay: Vùng sản xuất nhãn của HTX được cấp mã số vùng trồng, UBND tỉnh công nhận là vùng sản xuất ứng dụng công nghệ cao. Sản phẩm nhãn của HTX tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sang Mỹ, Italia, Nhật Bản... Bình quân thu nhập 200 triệu đồng/ha.

Phủ xanh đồi đất dốc, đưa trái ngọt vươn xa

Sau 10 năm triển khai thực hiện chủ trương của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, cây ăn quả đã “xanh hóa” các đồi dốc ở Sơn La, ngát thơm những mùa hoa cho nghề nuôi ong mật, thúc đẩy du lịch trải nghiệm nông nghiệp phát triển với bạt ngàn trái ngọt thơm ngon.

Khởi hành lô nhãn Sông Mã xuất khẩu sang thị trường EU, Vương Quốc Anh và Trung Quốc.

Phát triển cây ăn quả trên đất dốc còn giải quyết việc làm, thu nhập cho nông dân trong tỉnh. Các hộ nông dân không những thoát nghèo mà còn vươn lên làm giàu từ trồng cây ăn quả. Năm 2024, toàn tỉnh có 26.201 hộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi các cấp, nổi trội nhất là trồng cây ăn quả.

Xã Mường Bú có vùng cây ăn quả lớn nhất huyện Mường La với hơn 1.600 ha các loại, mang lại thu nhập ổn định cho bà con, cũng là một trong những xã có nhiều hộ sản xuất, kinh doanh giỏi các cấp của huyện với 312 hộ.

Là hộ tái định cư thủy điện Sơn La, gia đình anh Lò Văn Thương đến tiểu khu 2, xã Mường Bú, huyện Mường La, khởi nghiệp với 1,2 ha đất trồng ngô sắn, cuộc sống chỉ tạm đủ ăn. Nhận thấy hiệu quả của trồng cây ăn quả, gia đình anh đã dần mở rộng diện tích trồng kết hợp với sản xuất và kinh doanh cây giống. Với 13 ha cây ăn quả, lãi hơn 2 tỷ đồng/năm, trở thành hộ sản xuất, kinh doanh giỏi cấp tỉnh, tạo việc làm cho hàng chục lao động thời vụ. Anh Thương cho hay: Khi có chủ trương của tỉnh về phát triển cây ăn quả, gia đình chuyển đổi sang trồng xoài, nhãn, táo, na. Áp dụng kỹ thuật làm cho nhãn ra quả trái vụ, xoài rải vụ có giá bán cao hơn nhiều so với chính vụ, bình quân mỗi ha đạt 200 triệu đồng/năm.

10 năm trước, xã Hát Lót, huyện Mai Sơn, chủ yếu trồng ngô, sắn, song cuộc sống của bà con cũng chỉ ở mức đủ ăn. Nhưng nay Hát Lót đã trở thành xã nông thôn mới nâng cao, trù phú; vùng cây ăn quả xanh ngát nương đồi. Xã vinh dự được Thủ tướng Phạm Minh Chính tới thăm vùng sản xuất nông nghiệp hữu cơ.

“Mận Sơn La” được đưa lên các chuyến bay của Vietnam Airlines phục vụ hành khách.

Ông Tòng Văn Tâm, Phó Chủ tịch UBND xã Hát Lót, vui mừng nói: Toàn xã có gần 1.900 ha cây ăn quả các loại, được sản xuất theo hướng hữu cơ, VietGAP, xây dựng vùng trồng xuất khẩu, có gần 270 ha được công nhận vùng sản xuất ứng dụng công nghệ cao; 1.020 ha cây ăn quả sản xuất theo hướng ứng dụng công nghệ cao. Bình quân mỗi ha cây ăn quả đạt 180-200 triệu đồng/năm. Đời sống nhân dân ngày càng nâng cao, thu nhập bình quân trên 55 triệu đồng/người/năm.

Các sản phẩm trái cây Sơn La hiện nay có mặt ở hầu khắp các siêu thị trong nước, các sàn thương mại điện tử, chợ đầu mối, đưa vào suất ăn trên các chuyến bay của Vietnam Airlines, đặc biệt là xuất khẩu tới 15 thị trường các nước: Trung Quốc, Úc Hàn Quốc, Nhật Bản, EU, Mỹ, Đài Loan, UAE...

Từ năm 2015 đến nay, các địa phương tổ chức nhiều ngày hội trái cây; tỉnh tổ chức trên 70 hội chợ, hội nghị kết nối tiêu thụ, giới thiệu sản phẩm quả Sơn La tại các tỉnh, thành và quốc tế. Sự kiện nổi bật, tỉnh Sơn La phối hợp tổ chức thành công Lễ hội Festival trái cây và sản phẩm OCOP Việt Nam năm 2022, khẳng định thương hiệu, vị thế nông sản Sơn La trên thị trường trong nước và quốc tế.

Đồng chí Hoàng Văn Chất, nguyên Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Chủ tịch HĐND tỉnh, cho biết: Tỉnh chỉ đạo sản xuất sản phẩm sạch - ngon - đẹp và lo thị trường tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Xuất khẩu vào các thị trường yêu cầu cao như: Mỹ, EU... để tạo thương hiệu cho sản phẩm vào các thị trường khác.

Nông dân xã Tú Nang, huyện Yên Châu bao quả xoài.

Bên cạnh đó, tỉnh cũng đẩy mạnh thu hút các doanh nghiệp đầu tư các nhà máy chế biến rau, quả. Toàn tỉnh hiện có 560 nhà máy, cơ sở chế biến nông sản, trong đó, 17 nhà máy, 543 cơ sở; trên 2.994 cơ sở sấy long nhãn, nông sản và 40 kho lạnh. Toàn tỉnh có 59 sản phẩm OCOP được sản xuất, chế biến từ quả, góp phần nâng giá trị sản phẩm trái cây Sơn La.

Phát triển xanh, bền vững

Chủ trương phát triển cây ăn quả của tỉnh Sơn La được ví như mũi tên trúng 3 đích: Hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả môi trường. Giá trị sản xuất cây ăn quả đạt 150-300 triệu đồng/ha/năm, so với năm 2016 tăng gấp 4-10 lần. Nhiều diện tích cây ăn quả giống mới, cho hiệu quả kinh tế cao: Na SR-1, na Hoàng Hậu 600 -700 triệu đồng/ha; nhãn ánh vàng trên 500 triệu đồng/ha; dâu tây trên 800 triệu đồng/ha...

Nhân dân xã Cò Nòi, huyện Mai Sơn đóng gói sản phẩm na sau thu hoạch.

Sơn La dự kiến đến năm 2030 ổn định 90.000 ha cây ăn quả, đảm bảo nguyên liệu phục vụ chế biến khi Sơn La trở thành trung tâm chế biến nông sản của khu vực trung du miền núi phía Bắc. Tỉnh tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp tổ chức sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, quan tâm đầu tư về hệ thống kết cấu hạ tầng, phục vụ sản xuất, bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm; phát triển thị trường tiêu thụ nông sản.

Đồng chí Nguyễn Thành Công, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng ban Chỉ đạo tỉnh về sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp, thông tin: Tỉnh tiếp tục tổ chức sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP để nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh sản phẩm; phát triển các chuỗi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm giữa các HTX, doanh nghiệp với các nhà máy chế biến. Chú trọng xây dựng mã số vùng trồng xuất khẩu; tăng hàm lượng khoa học, chế biến sâu đối với các sản phẩm nông sản, trái cây.

Trở thành “hiện tượng nông nghiệp” là tiền đề, động lực quan trọng để tỉnh Sơn La tiếp tục khơi nguồn sáng tạo, đổi mới, đưa hành trình phát triển cây ăn quả trên đất dốc ở Sơn La từ “hiện tượng” trở thành hình tượng, hình mẫu phát triển nhanh, xanh, bền vững.

Phạm Đức

 

Nông thôn Bắc Tân Uyên thêm mới, nông dân thêm ấm no

Tại huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, các HTX đang đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất nông nghiệp bền vững và nâng cao thu nhập cho nông dân. Đặc biệt, các HTX đã tham gia tích cực vào các chủ trương, chương trình lớn của tỉnh và huyện là Chương trình xây dựng nông thôn mới, tái cơ cấu nông nghiệp, sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nghèo bền vững…

Đến Bắc Tân Uyên, dọc những tuyến đường là những vườn bưởi, vườn cam, vườn quýt… trĩu quả chạy dài tít tắp, vắt lên những triền đồi mang đến một màu xanh tươi tốt. Nhiều du khách thích thú, trầm trồ bởi không khác gì những cung đường đi Bảo Lộc, Đà Lạt… Kết quả này có sự đóng góp quan trọng từ Chương trình số 04-CTr/HU về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao huyện Bắc Tân Uyên, giai đoạn 2020-2025 của Huyện ủy Bắc Tân Uyên.

Đẩy mạnh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao

Thời gian qua, ngành nông nghiệp huyện Bắc Tân Uyên thực hiện tái cơ cấu gắn với xây dựng nông thôn mới (NTM) đã mang lại những hiệu quả thiết thực. Tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp không chỉ nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương, mà còn giúp người dân tăng tính chủ động, đổi mới tư duy sản xuất, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn.

Ngành nông nghiệp huyện Bắc Tân Uyên thực hiện tái cơ cấu gắn với xây dựng nông thôn mới đã mang lại những hiệu quả thiết thực.

Trong đó, huyện tập trung quy hoạch các vùng sản xuất cây công nghiệp, cây ăn trái, chăn nuôi tập trung quy mô lớn tại các xã phía đông, vùng phát triển nông nghiệp đô thị ứng dụng công nghệ cao ở khu vực phía tây gắn với triển khai thực hiện tốt các chính sách đầu tư phát triển hạ tầng, khuyến khích phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị - nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tiếp tục đầu tư xây dựng vùng chuyên canh cây ăn trái kết hợp phát triển du lịch sinh thái.

Đến cuối năm 2024, diện tích nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong trồng trọt trên địa bàn huyện đạt 2.758ha, với các loại cây trồng có giá trị như bưởi, cam, quýt, chuối, mít, sầu riêng; trong đó diện tích đạt chứng nhận VietGAP, GlobalGAP là 293ha, tăng 90ha so với năm 2020.

Đến nay, toàn huyện có 46 sản phẩm đạt chuẩn OCOP (Chương trình mỗi xã một sản phẩm), gồm 4 sản phẩm đạt OCOP 4 sao, 42 sản phẩm đạt OCOP 3 sao. Các sản phẩm OCOP đều được đăng ký tài khoản, tạo kho hàng trên sàn thương mại điện tử Voso (Viettel), Postmart, Binhduongtrade để bán sản phẩm. Cùng với đó, chăn nuôi của huyện cũng phát triển mạnh, hiện trên địa bàn có 61 trang trại, gia trại, trong đó có 31 trang trại lạnh, khép kín.

Trên địa bàn huyện đã hình thành các vùng chuyên canh cây trồng, như vùng chuyên canh cây cao su với diện tích 20.433 ha; vùng chuyên canh cây ăn trái với diện tích 2.961 ha, tập trung ở địa bàn các xã ven sông Đồng Nai và sông Bé. Các vùng chuyên canh, chăn nuôi công nghệ cao trên địa bàn huyện đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Doanh thu bình quân của các trang trại trên địa bàn huyện đạt từ 600 triệu đồng - 1 tỷ đồng/năm.

Nâng cao vai trò của kinh tế hợp tác

Xác định được tầm quan trọng của nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch, thời gian qua, nhiều HTX, hộ nông dân ở xã Tân Mỹ, huyện Bắc Tân Uyên đã thực hiện theo hướng này.

Nhiều địa phương đầu tư xây dựng vùng chuyên canh cây ăn trái kết hợp phát triển du lịch sinh thái.

Điển hình là HTX Cây ăn trái Tân Mỹ. Được thành lập năm 2015, đến nay, HTX có 22 thành viên, tổng diện tích canh tác là 62ha.

HTX chuyên trồng cây ăn trái an toàn theo hướng hữu cơ và áp dụng VietGAP, với các sản phẩm chủ lực là bưởi da xanh, bưởi đường lá cam, muối tiêu lốp. Đại diện HTX cho biết, HTX sản xuất công nghệ cao, không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, nguồn nước an toàn. Để phát triển nông nghiệp theo hướng hữu cơ đòi hỏi sự đầu tư bài bản từ hạ tầng canh tác đến kỹ thuật sản xuất.

Các thành viên HTX đã mạnh dạn đầu tư máy móc, thiết bị, ứng dụng công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, cụ thể là sử dụng hệ thống tưới nhỏ giọt và tự động hóa để giảm sức lao động, giảm chi phí sản xuất, chế biến. HTX cũng xây dựng và đăng ký nhãn mác, sử dụng tem điện tử mã code QR để truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Hiện nay, sản phẩm của HTX được khách hàng trong và ngoài tỉnh tin dùng. Sản phẩm bưởi da xanh của HTX đạt OCOP 4 sao.

Ngoài thị trường trong nước, sản phẩm bưởi của HTX còn xuất khẩu sang Trung Quốc, Singapore. Hiện nay, mô hình trồng cây có múi đang được nhân rộng trên địa bàn huyện Bắc Tân Uyên.

Với sự đồng hành của các cấp, các ngành, hoạt động sản xuất, canh tác nông nghiệp, đặc biệt là vùng cây ăn trái trên địa bàn xã Hiếu Liêm đang phát triển theo quy mô lớn, thân thiện môi trường; nhiều trang trại, gia trại, HTX hoạt động hiệu quả.

Có thể kể đến HTX Nhân Đức (ấp Cây Dâu), có tổng diện tích trồng cây ăn trái có múi 80ha. Hàng năm, HTX tạo việc làm thường xuyên cho 35-50 nhân công tại địa phương. Mục tiêu của HTX là trồng cây ăn trái hữu cơ. Hiện tại năng suất vườn cây của HTX đạt 50-60 tấn/ha, mang lại thu nhập hàng tỷ đồng cho các thành viên. Bên cạnh đó, HTX trồng thành công 26ha mít Thái, mang lại thu nhập rất tốt.

Ông Trần Thành Có, Giám đốc HTX Nhân Đức cho biết, giá bán sản phẩm trồng theo phương thức hữu cơ cao gấp 2-3 lần so với sản phẩm cùng loại trồng theo cách bình thường, đồng thời giảm được 60% chi phí so với cách làm cũ. Những năm qua, HTX luôn đồng hành, hỗ trợ kỹ thuật nên các thành viên HTX có điều kiện chuyển đổi trồng trọt theo phương thức hữu cơ, loại bỏ tình trạng lạm dụng thuốc trừ sâu, chú trọng vào sản xuất sạch để tạo ra những sản phẩm chất lượng, bảo đảm giá bán ổn định.

Hiện nay, trên địa bàn xã Hiếu Liêm có nhiều nông dân phát triển mô hình HTX, nông nghiệp xanh thành công, như gia đình chị Bùi Thúy Hằng, trang trại ông Võ Quan Huy, ông Lâm Thành Thắm, ông Lâm Thành Thương… Các nông dân chuyên trồng cây ăn trái có múi, doanh thu hàng tỷ đồng mỗi năm, góp phần nâng chất NTM tại địa phương.

Thời gian qua, huyện Bắc Tân Uyên và các địa phương đã đề ra và thực hiện hiệu quả một số giải pháp làm “đòn bẩy” thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể (KTTT), nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh lĩnh vực này.

Đại diện xã Hiếu Liêm cho biết, thực hiện chương trình mục tiêu NTM, xã luôn đồng hành, hỗ trợ tối đa cho KTTT nói chung, các HTX nói riêng phát triển, đề ra và thực hiện hiệu quả các giải pháp tháo gỡ khó khăn, rào cản để HTX chủ động thích ứng với tình hình mới, ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Một trong những giải pháp hiệu quả đó là xã triển khai giới thiệu, dành nguồn vốn tín dụng ưu đãi đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn của các HTX; thực hiện đơn giản hóa thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi nâng cao khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng để khơi thông nguồn lực phục vụ phát triển HTX. Bên cạnh đó, các HTX, THT trên địa bàn huyện thường xuyên được tập huấn những kiến thức, quy định mới liên quan; được hỗ trợ quảng bá sản phẩm, kết nối với các doanh nghiệp ngoài tỉnh…

Nhờ đó, sản phẩm của các HTX, THT trên địa bàn huyện không chỉ được tiêu thụ ở trong tỉnh mà còn lan tỏa mạnh ở các tỉnh, thành trong cả nước. Phát huy những kết quả đạt được, từng bước khắc phục những khó khăn, huyện Bắc Tân Uyên tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền trong phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT. Đồng thời, tiếp tục phối hợp có hiệu quả với các đơn vị thuộc Liên minh HTX Việt Nam, Liên minh HTX tỉnh quan tâm hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các HTX, THT khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của địa phương, đóng góp ngày càng quan trọng vào sự phát triển chung của huyện.

Tăng “chất” nông thôn mới

Triển khai Chương trình số 04-CTr/HU về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, Huyện ủy đã chỉ đạo UBND huyện, cơ quan chuyên môn, ngành chức năng, địa phương bằng nhiều hình thức khác nhau, tạo mọi điều kiện thuận lợi, hướng dẫn thủ tục, hỗ trợ các trang trại, HTX, tổ hợp tác và người sản xuất trên địa bàn huyện để dễ dàng tiếp cận các chính sách vay vốn, bổ sung thêm kiến thức và kịp thời nắm bắt những chủ trương, chính sách có liên quan, phục vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp trên địa bàn... Từ năm 2021 đến nay, tổng kinh phí hỗ trợ vay đầu tư phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập đạt 38,5 tỷ đồng.

UBND huyện cũng chỉ đạo các ngành hỗ trợ nông dân tìm kiếm giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp nói chung và sản phẩm cây ăn trái có múi nói riêng, đáp ứng nhu cầu thị trường; từ đó đẩy mạnh các giải pháp ổn định thị trường tiêu thụ một cách bền vững, mở ra hướng đi mới trong việc liên kết để hàng hóa địa phương xuất hiện ngày càng nhiều tại các kênh phân phối theo phương thức tiêu thụ hiện đại với hợp đồng dài hạn, ổn định và khối lượng lớn.

Cụ thể, huyện xây dựng ấn phẩm sản phẩm nông nghiệp chủ lực huyện Bắc Tân Uyên (trồng trọt, chăn nuôi), với mục đích cung cấp thông tin các nhà vườn, hộ sản xuất giới thiệu quảng bá hình ảnh sản phẩm, trên cơ sở đó kết nối cung, cầu sản xuất, quảng bá thương hiệu sản phẩm nông nghiệp chủ lực của huyện; từng bước phát triển chuỗi giá trị liên kết trong sản xuất nông nghiệp gắn với mục tiêu xây dựng NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu của huyện.

Cùng với công tác tuyên truyền kêu gọi đầu tư, trong thời gian qua, huyện thường xuyên tổ chức tập huấn nâng cao trình độ quản lý, kỹ thuật sản xuất, kinh doanh cho các chủ trang trại, HTX, doanh nghiệp thông qua các dự án, đề tài khoa học và công nghệ; qua đó cung cấp thêm nhiều kiến thức trong trồng trọt, chăn nuôi theo hướng hiện đại, áp dụng kỹ thuật tiên tiến, góp phần nâng cao năng suất, tăng thu nhập cho người dân.

Từ năm 2021 đến nay, huyện đã tổ chức được 4 lớp đào tạo nghề nông nghiệp cho 99 lao động nông thôn trên địa bàn xã Thường Tân, Lạc An, Hiếu Liêm, Tân Thành, vượt 200% kế hoạch UBND tỉnh giao. Thông qua các chương trình đào tạo đã trang bị cho nông dân những kiến thức, kỹ năng về một số nghề trong sản xuất, kinh doanh nông nghiệp; từng bước nâng cao năng lực cho lao động nông thôn, góp phần tạo điều kiện chuyển dịch lao động nông thôn sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, thương mại.

Bằng nhiều giải pháp đồng bộ, cách làm sáng tạo trong thực hiện các nhiệm vụ đề ra, cùng với công tác tuyên truyền thường xuyên, liên tục, đa dạng, hiệu quả, nhất là về các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất sản phẩm hàng hóa nông nghiệp chủ lực, chính sách hỗ trợ vay vốn phát triển sản xuất. đã góp phần mang lại kết quả khả quan, cải thiện bộ mặt nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân trên địa bàn huyện.

Để đạt mục tiêu trở thành huyện NTM trong năm 2025, địa phương đang tập trung nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền và các tổ chức đoàn thể; tiếp tục chỉ đạo rà soát, duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí NTM nâng cao, xây dựng xã NTM kiểu mẫu. Theo thống kê, tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên trên địa bàn huyện đạt 96%; tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí của tỉnh chỉ còn 0,1%. Năm 2024, thu nhập bình quân đầu người toàn huyện đạt trên 80 triệu đồng.

Minh Đức

 

Nông dân Phú Giáo chuyển mình cùng công nghệ cao, ứng dụng số hóa bán hàng thu bạc tỷ

Sự chuyển mình mạnh mẽ của huyện Phú Giáo trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao không chỉ là thành quả của một vài mô hình điểm, mà là kết quả của cả một quá trình đổi mới tư duy, chính sách đồng bộ và tinh thần dám nghĩ, dám làm của nông dân thời đại mới.

Từ những HTX kiểu cũ, manh mún và tự phát, giờ đây Phú Giáo đã có những mô hình HTX kiểu mới vận hành theo chuỗi giá trị, lấy thị trường làm định hướng, công nghệ làm nền tảng, mở ra một tương lai đầy hứa hẹn cho một vùng đất từng bị xem là “lặng lẽ” trong bản đồ nông nghiệp Bình Dương.

Bứt phá nhờ khoa học công nghệ

Phú Giáo, một huyện nằm ở phía bắc tỉnh Bình Dương, từng được biết đến với hình ảnh vùng nông thôn thuần nông, chủ yếu sản xuất nhỏ lẻ.

Nhưng vài năm gần đây, nhờ đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, ứng dụng khoa học công nghệ và đặc biệt là chuyển đổi số vào nông nghiệp, huyện đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ.

Những HTX kiểu mới đang nổi lên như những “đầu tàu” dẫn dắt bà con phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm ổn định cho hàng trăm lao động địa phương.

Nông nghiệp huyện Phú Giáo đang chuyển mình theo hướng công nghệ cao.

Như tại xã Tam Lập – một trong những địa phương đi đầu trong chuyển đổi sản xuất nông nghiệp tại Phú Giáo. Nơi đây từng là vùng chuyên canh cao su, nhưng vài năm trở lại đây, nhiều hộ dân đã mạnh dạn phá bỏ vườn cao su già cỗi để chuyển sang trồng cây ăn trái và rau màu theo mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

Điển hình là HTX Nông nghiệp tổng hợp Phú Lập, thành lập năm 2020 với chỉ vài thành viên, đến nay đã thu hút gần 60 hộ nông dân tham gia.

Ông Nguyễn Văn Thái – Giám đốc HTX – chia sẻ: “Chúng tôi không chỉ liên kết sản xuất mà còn ứng dụng hệ thống tưới nhỏ giọt tự động, cảm biến độ ẩm, sử dụng phân hữu cơ vi sinh và quản lý quy trình canh tác qua phần mềm. Nhờ vậy, chi phí sản xuất giảm tới 30%, sản phẩm sạch, năng suất tăng đều”.

Đặc biệt, HTX đã triển khai nền tảng truy xuất nguồn gốc QR code và bán hàng qua sàn thương mại điện tử. “Bây giờ, khách hàng ở tận Hà Nội, Đà Nẵng cũng có thể đặt mua bưởi da xanh, mít Thái hay rau thủy canh của chúng tôi qua mạng,” ông Thái hồ hởi cho biết.

HTX hiện tạo việc làm thường xuyên cho hơn 40 lao động tại chỗ, với thu nhập từ 6 – 8 triệu đồng/người/tháng, đặc biệt ưu tiên con em hộ nghèo và người lớn tuổi.

Điểm tựa từ HTX và các chính sách trợ lực

Một điều đáng chú ý trong quá trình chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng hiện đại ở Phú Giáo là phong trào khởi nghiệp của những người trẻ, Điển hình như ở xã Vĩnh Hòa, HTX Thanh niên Nông nghiệp Sáng tạo Phú Giáo do nhóm thanh niên địa phương sáng lập đã trở thành điểm sáng trong việc kết hợp công nghệ và mô hình kinh tế tuần hoàn.

HTX hiện chuyên trồng nấm bào ngư và nấm linh chi theo mô hình nhà lạnh, điều khiển nhiệt độ, độ ẩm bằng cảm biến IoT kết nối internet. Phế phẩm sau thu hoạch được xử lý làm phân bón hữu cơ, vừa tiết kiệm, vừa thân thiện môi trường.

Bên cạnh việc sản xuất, HTX còn mở lớp đào tạo kỹ thuật trồng nấm cho thanh niên nông thôn, đặc biệt là lao động thất nghiệp sau đại dịch Covid. Tính đến nay, HTX đã tạo việc làm trực tiếp cho gần 30 người và hỗ trợ kỹ thuật cho hơn 100 hộ sản xuất nhỏ.

Sản phẩm nấm khô, nấm tươi, trà linh chi của HTX đã có mặt trong nhiều siêu thị tại TP.HCM và Bình Dương. “Chúng tôi có gian hàng trên các sàn thương mại điện tử như Tiki, Shopee, Lazada... và cả fanpage riêng để livestream bán hàng. Đây là hướng đi bắt buộc trong thời kỳ nông nghiệp 4.0”, đại diện HTX chia sẻ.

Các HTX đang là điểm tựa sản xuất công nghệ cao của nhiều nông dân huyện Phú Giáo.

Một mô hình khác đáng chú ý là HTX Trồng trọt và Dịch vụ nông nghiệp Phú An. Đây là HTX tiên phong trong ứng dụng máy bay không người lái để phun thuốc bảo vệ thực vật và giám sát cây trồng bằng camera cảm biến NDVI. “Nhờ ứng dụng công nghệ, chúng tôi giảm hẳn chi phí nhân công và kiểm soát tốt sâu bệnh, nâng cao chất lượng trái cây xuất khẩu”, ông Lê Văn Dũng – Chủ tịch HĐQT HTX thông tin.

Hiện, HTX này đang mở rộng hợp tác với nông dân trồng sầu riêng, chôm chôm và bơ theo tiêu chuẩn VietGAP và GlobalGAP, nhắm đến thị trường xuất khẩu sang Trung Quốc và Nhật Bản.

Thay đổi tư duy, định hình tương lai

Theo thống kê, tính đến năm 2024, toàn huyện có hơn 20 HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp đã ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất. Tổng diện tích cây trồng chuyển đổi từ đất cao su kém hiệu quả sang cây ăn quả, rau màu, dược liệu đạt hơn 1.000 ha.

Bình quân mỗi HTX tạo việc làm cho 20 – 50 lao động địa phương, nhiều nơi còn thu hút sinh viên ngành nông nghiệp sau khi ra trường về làm việc.

Thành công của các HTX ở Phú Giáo là kết quả của các chính sách hỗ trợ từ chính quyền huyện trong việc định hướng phát triển, hỗ trợ kỹ thuật và xúc tiến thương mại. Đặc biệt là các chương trình đồng hành, hướng dẫn của Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Đồng Nai.

Một trong những chương trình nổi bật là hỗ trợ xây dựng mô hình HTX kiểu mới theo hướng ứng dụng khoa học công nghệ. Các HTX như Phú Lập, Thanh niên Nông nghiệp Sáng tạo hay Trồng trọt – Dịch vụ nông nghiệp Phú An đã được hỗ trợ về tư vấn kỹ thuật, kết nối thị trường, đào tạo cán bộ quản lý và chuyển giao quy trình canh tác hiện đại. Nhờ đó, các HTX này đã mạnh dạn đầu tư nhà màng, hệ thống tưới tự động, sử dụng phần mềm ghi nhật ký điện tử và thiết bị bay không người lái trong sản xuất.

Song song với hỗ trợ sản xuất, Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Bình Dương còn triển khai các chương trình xúc tiến thương mại, đưa sản phẩm của các HTX lên sàn thương mại điện tử như Voso, Postmart, kết nối với các siêu thị lớn tại TP.HCM và các tỉnh lân cận. Đây là bước tiến quan trọng giúp nông sản Phú Giáo tiếp cận thị trường rộng lớn hơn, nâng cao giá trị gia tăng.

Không chỉ dừng ở hỗ trợ kỹ thuật và thị trường, Liên minh HTX Việt Nam còn phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức các lớp tập huấn về quản trị HTX, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, chuyển đổi số và tiếp cận nguồn vốn ưu đãi. Qua đó, đội ngũ cán bộ HTX ngày càng chuyên nghiệp, các mô hình kinh tế tập thể vận hành hiệu quả hơn.

Thành công của các HTX ở Phú Giáo không chỉ nằm ở công nghệ, mà còn ở sự thay đổi tư duy làm nông. Bà con nông dân đã bắt đầu nhìn nông nghiệp như một ngành kinh doanh thay vì chỉ là nghề “truyền thống” của cha ông.

Ông Nguyễn Văn Bình – một nông dân tham gia HTX Phú Lập – tâm sự: “Trước đây làm nông chỉ biết trồng rồi bán cho thương lái, bị ép giá. Giờ có HTX đứng ra lo đầu ra, lo kỹ thuật, mình yên tâm hơn. Có sổ điện tử ghi chép nhật ký canh tác, mỗi ngày tưới bao nhiêu nước, bón bao nhiêu phân đều lưu lại, khách hàng tin tưởng lắm”.

Chuyển đổi số, với nhiều người dân Phú Giáo, không còn là khái niệm xa lạ mà đã trở thành một phần trong sản xuất thường nhật. Hành trình phát triển nông nghiệp số, nông nghiệp xanh của Phú Giáo tuy mới bắt đầu, nhưng đã mở ra một tương lai đầy hứa hẹn.

An Chi

 

Phát triển vùng sản xuất rau an toàn

Nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người dân về rau an toàn, ngành nông nghiệp đang tích cực khuyến khích các tổ chức, cá nhân, HTX đầu tư mở rộng diện tích sản xuất rau an toàn tập trung, tạo ra sản phẩm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và nâng cao hiệu quả kinh tế trên cùng diện tích đất canh tác.

Vùng sản xuất rau an toàn của Tổ hợp tác sản xuất rau an toàn thôn Giang Sơn, xã Thúy Sơn (Ngọc Lặc).

Trong những năm qua, huyện Ngọc Lặc đã tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân tập trung, tích tụ đất đai, chuyển đổi đất sản xuất kém hiệu quả để hình thành các vùng chuyên canh rau an toàn. Cùng với chính sách hỗ trợ phát triển vùng rau an toàn của tỉnh, huyện đã hỗ trợ nâng cấp đường giao thông, hệ thống kênh mương, xây dựng nhà lưới trồng rau an toàn. Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp huyện còn phối hợp tập huấn kỹ thuật sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGAP, đáp ứng yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm.

Tổ trưởng Tổ hợp tác (THT) sản xuất rau an toàn thôn Giang Sơn, xã Thúy Sơn Dương Đăng Hòa cho biết: THT có 9 thành viên tham gia sản xuất gần 2ha rau sạch các loại. Trước đây, các tổ viên thường sản xuất rau theo phương thức truyền thống, chưa áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật cũng như cách chăm sóc rau đảm bảo an toàn thực phẩm. Được ngành nông nghiệp huyện tổ chức tập huấn, hướng dẫn các tổ viên quy trình sản xuất rau bảo đảm an toàn thực phẩm, đến nay vùng sản xuất rau của THT được công nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP, giá sản phẩm rau các loại cao hơn từ 15 - 30% so với trước.

Thạch Thành là địa phương đầu tiên được UBND tỉnh phê duyệt Đề án “Thực hiện thí điểm việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, gắn với tích tụ, tập trung đất đai, chuyển đổi số để sản xuất nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn huyện đến năm 2030”. Trong đó, đến năm 2030, toàn huyện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tích tụ tập trung đất đai hình thành các vùng sản xuất tập trung rau, quả với diện tích 500ha. Cùng với đó, xây dựng 6 chuỗi liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ rau, quả. Theo Phó trưởng Phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Thạch Thành Bùi Thanh Hiếu: “Để đạt được mục tiêu đó, phòng đã tham mưu cho UBND huyện xây dựng kế hoạch, lộ trình thực hiện xây dựng các vùng chuyên canh tập trung, mô hình chuyên canh rau, quả an toàn, tại các xã Thạch Sơn, Thạch Bình, Thành Hưng, Thạch Long và thị trấn Vân Du... Huyện cũng nỗ lực huy động nguồn lực đầu tư, nâng cấp đồng bộ về cơ sở hạ tầng (giao thông vùng sản xuất, thủy lợi, điện, nhà xưởng, kho bảo quản, xưởng chế biến nông sản...) và xây dựng hạ tầng cho một số mô hình thí điểm ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất rau an toàn làm cơ sở để phát triển nhân rộng ra toàn huyện”.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 14.000ha chuyên canh rau, quả an toàn ở các huyện Nông Cống, Quảng Xương, Như Thanh, Thọ Xuân, Yên Định, Thiệu Hóa, Hoằng Hóa và TP Thanh Hóa... Theo đánh giá của ngành nông nghiệp, 1ha rau có doanh thu bình quân từ 300 - 350 triệu đồng/năm trở lên. Để khuyến khích các tổ chức, HTX, THT, cá nhân đầu tư phát triển sản xuất rau an toàn tập trung, tỉnh đã có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển vùng rau an toàn như: Hỗ trợ 170 triệu đồng/ha đối với vùng đồng bằng, ven biển và 200 triệu đồng/ha đối với vùng miền núi cho diện tích sản xuất rau an toàn tập trung, chuyên canh có quy mô từ 3ha trở lên; hỗ trợ kinh phí chứng nhận VietGAP cho rau an toàn với mức 7 triệu đồng/ha. Hàng năm, tỉnh còn hỗ trợ từ 16 - 18 triệu đồng/ha kinh phí thuê kiểm soát chất lượng và dán tem rau an toàn; tổ chức tập huấn, hướng dẫn nông dân kỹ thuật bảo quản sản phẩm sau thu hoạch theo quy chuẩn kỹ thuật. Từ đó, kích cầu các địa phương đầu tư cơ sở hạ tầng, chuyển đổi vùng trồng rau màu truyền thống sang sản xuất rau an toàn, nâng cao giá trị kinh tế trên đơn vị diện tích.

Để tiếp tục mở rộng và phát triển các vùng sản xuất rau an toàn tập trung, ngành nông nghiệp và các địa phương trong tỉnh đang tính cực thu hút doanh nghiệp đầu tư liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm hình thành vùng sản xuất rau, quả quy mô lớn. Đồng thời, kết nối thị trường cho các HTX để làm trung gian liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp trong sản xuất, bao tiêu sản phẩm. Cùng với đó, phát triển chuỗi sản xuất, tiêu thụ rau an toàn và truy xuất nguồn gốc sản phẩm đến từng diện tích canh tác.

Nhằm nâng cao hiệu quả phát triển vùng sản xuất rau an toàn, các địa phương tích cực tuyên truyền, động viên Nhân dân tiếp tục tích tụ, chuyển nhượng, thuê, cho thuê quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất sản xuất vào doanh nghiệp, HTX để phát triển, tạo ra vùng sản xuất lớn, tập trung.

Bài và ảnh: Lê Hợi

 

3 thị trường xuất khẩu lớn nhất của Đồng Nai

Theo Sở Công thương, trong 4 tháng đầu năm 2025, Đồng Nai xuất khẩu hàng hóa qua 180 quốc gia, vùng lãnh thổ với tổng kim ngạch gần 8,4 tỷ USD. Trong đó có 3 thị trường lớn chiếm hơn một nửa kim ngạch xuất khẩu của tỉnh là: Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc.

Cụ thể, 4 tháng đầu năm nay, Đồng Nai xuất khẩu vào thị trường Mỹ gần 2,83 tỷ USD, chiếm gần 33,8% tổng kim ngạch xuất khẩu; Nhật Bản gần 832 triệu USD, chiếm gần 10%; Trung Quốc khoảng 667 triệu USD,
chiếm gần 8%.

Ngoài xuất khẩu nhiều, những thị trường trên cũng là những thị trường Đồng Nai đang nhập khẩu nguyên liệu nhiều nhất cho sản xuất công nghiệp, nông nghiệp. Đặc biệt, gần đây các doanh nghiệp ở Đồng Nai tăng mua hàng hóa từ Mỹ để cân bằng dần thương mại giữa hai bên. Các nhóm hàng doanh nghiệp Đồng Nai đang nhập nhiều từ Mỹ là: bông, bắp, nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi, hóa chất, máy móc thiết bị.

Uyển Nhi

 

Tập đoàn CJ mở rộng vùng nguyên liệu ớt tại Ninh Thuận

Tập đoàn CJ của Hàn Quốc phối hợp với KOICA tài trợ hơn 4,2 tỷ đồng để mở rộng vùng nguyên liệu ớt tại tỉnh Ninh Thuận, hỗ trợ phát triển nông nghiệp bền vững tại địa phương.

Ảnh minh họa. (Ảnh: TTXVN phát)

Ngày 14/5, Tập đoàn CJ (Hàn Quốc) cho biết đã phối hợp với Cơ quan Hợp tác Quốc tế Hàn Quốc (KOICA) tài trợ hơn 4,2 tỷ đồng để triển khai Dự án mở rộng vùng nguyên liệu ớt tại tỉnh Ninh Thuận, qua đó hỗ trợ phát triển nông nghiệp bền vững và nâng cao đời sống người dân địa phương.

Khoản đầu tư này tập trung vào việc mở rộng vùng trồng và tăng cường sự tham gia của nông dân thông qua hỗ trợ giống, phân bón và máy móc; đồng thời củng cố năng lực hoạt động cho hợp tác xã và nhà máy chế biến.

Đặc biệt, dự án cũng sẽ triển khai chương trình cử chuyên gia Hàn Quốc đến hỗ trợ kỹ thuật trong trồng trọt và sản xuất, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của toàn chuỗi giá trị nông nghiệp địa phương.

Tính đến tháng 5/2025, nhiều hộ nông dân tại thôn Tầm Ngân, xã Lâm Sơn, huyện Ninh Sơn (tỉnh Ninh Thuận) đã quay trở lại trồng ớt sau giai đoạn gián đoạn bởi đại dịch COVID-19.

Tập đoàn CJ hỗ trợ miễn phí giống ớt, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật cho bà con tham gia trồng ớt, đồng thời phía KOICA đã cử tình nguyện viên và chuyên gia Hàn Quốc trực tiếp đến khu vực Tầm Ngân để hỗ trợ dự án.

Nếu trước đây, mỗi năm người dân chỉ xuống giống 1 vụ/năm; hiện nay, dự án đã thúc đẩy việc xuống giống 2 lần/năm.

Năm 2025, dự án ban đầu dự kiến trồng 3ha ớt nhưng dự kiến sẽ tăng lên 5ha do số lượng bà con đăng ký trồng tăng cao.

Dự kiến, sản lượng ớt bột ước đạt 3,6-4 tấn trong năm 2025, cùng với đó sản phẩm ớt bột Ninh Thuận - sản phẩm “Vì cộng đồng” - đã chính thức quay lại các kệ hàng tại chuỗi siêu thị Bách Hóa Xanh và Co.op Mart, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc khôi phục chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ.

“Nhìn những trái ớt chín đỏ mọng trên cánh đồng và sản phẩm ớt bột ra đời từ sự đồng lòng của cộng đồng, chúng tôi càng tin tưởng vào mô hình phát triển bền vững.

CJ mong muốn dự án tiếp tục được củng cố, mở rộng để cải thiện thu nhập và đời sống của nông dân địa phương,” đại diện CJ tại Việt Nam cho biết.

Trước đó, từ năm 2014, dự án đã góp phần cải thiện điều kiện sống cho người dân tại thôn Tầm Ngân, xã Lâm Sơn, huyện Ninh Sơn (tỉnh Ninh Thuận) thông qua việc tăng thu nhập từ hợp đồng trồng ớt với nông dân địa phương.

Năm 2017, CJ chính thức khánh thành nhà máy chế biến nông sản Tầm Ngân, tạo đầu ra ổn định cho sản phẩm ớt tại khu vực.

Sau giai đoạn ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19, Tập đoàn CJ tiếp tục đồng hành cùng người dân bằng nguồn vốn khẩn cấp hơn 400 triệu đồng để sửa chữa nhà máy và hỗ trợ nông dân tái canh tác.

Từ năm 2023, dự án đã bước vào giai đoạn phục hồi mạnh mẽ, với sản phẩm ớt bột đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm được đưa trở lại thị trường, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc khẳng định chất lượng nông sản địa phương./.

(TTXVN/Vietnam+)

 

'Mở đường' cho nông sản vùng thấp Sìn Hồ

Để nông sản không phải 'chờ thương lái', chính quyền và người dân các xã vùng thấp huyện Sìn Hồ đang nỗ lực xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm, kết nối thị trường tiêu thụ ổn định, hướng đến nền nông nghiệp chủ động, hiệu quả và bền vững.

11 xã vùng thấp của huyện Sìn Hồ có đặc trưng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, đất đai màu mỡ thuận lợi phát triển các loại cây trồng ngắn ngày và cây ăn quả. Những năm gần đây, người dân các địa phương đã khai thác hiệu quả lợi thế đó trồng cam, xoài, dứa, mía và các nông sản khác cùng nhiều loại rau màu phục vụ chăn nuôi. Những vùng chuyên canh nhỏ lẻ đang dần được đầu tư mở rộng, tạo ra sản lượng đáng kể, trở thành hàng hóa tiêu thụ trong và ngoài tỉnh. Tuy nhiên, thiếu chuỗi liên kết và phụ thuộc vào thương lái khiến đầu ra của nông sản nơi đây vẫn rất khó khăn và trở thành bài toán khó của địa phương. Trước thực tế đó, cấp ủy, chính quyền các cấp và người dân các xã vùng thấp đang từng bước chuyển hướng sản xuất theo tư duy thị trường, đẩy mạnh kết nối tiêu thụ, xây dựng thương hiệu và ứng dụng chuyển đổi số trong nông nghiệp để tạo nền tảng phát triển bền vững.
Công tác lãnh, chỉ đạo xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, nhiều địa phương đã chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp có tổ chức, gắn với nhu cầu thị trường, có sự tham gia hợp tác đồng bộ từ chính quyền, người dân và doanh nghiệp. Xã Căn Co là một ví dụ điển hình. Những năm trước, người dân trên địa bàn xã chủ yếu canh tác lúa, sắn theo tập quán cũ, sản phẩm thu hoạch không ổn định, đầu ra chủ yếu phụ thuộc vào thương lái. Nay đã khác, nhiều hộ chuyển sang trồng xoài, dứa, mía, chuối, xây dựng vùng chuyên canh với diện tích hàng chục héc-ta. Theo thống kê, hiện xã có hơn 150ha cây trồng hàng hóa, trong đó xoài và dứa chiếm diện tích lớn. Một số hộ mạnh dạn đầu tư hệ thống chuồng trại chăn nuôi tập trung, chủ động thức ăn chăn nuôi, bước đầu cho hiệu quả kinh tế khá rõ rệt.

Người dân bản Pậu (xã Nậm Tăm) chú trọng đầu tư mô hình nuôi ong lấy mật.

Anh Lò Văn Păn ở bản Nậm Ngá (xã Căn Co) chia sẻ. “Những năm trước, gia đình tôi trồng sắn, cả năm bán được khoảng 20 triệu đồng sắn củ. Thấy không hiệu quả nên chuyển hướng trồng hơn 1ha xoài Đài Loan và thí điểm trồng thêm dứa, mía… Năm vừa qua, thu khoảng 50 triệu đồng từ các loại cây trồng mới này. Quan trọng hơn là giờ có hợp tác xã thu mua, không lo bán lẻ như trước nữa”.
Không riêng Căn Co, tại xã Nậm Tăm - địa phương đi đầu sản xuất nông sản của vùng với hơn 400ha cây ăn quả (dứa, cam, xoài...). Hiện xã cũng đang đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo hướng liên kết tiêu thụ. Cây chuối, dứa, mía tím đang được mở rộng diện tích.
Theo báo cáo của Phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Sìn Hồ, các xã vùng thấp như: Căn Co, Nậm Tăm, Nậm Cha… đang chiếm khoảng 60% tổng diện tích cây ăn quả toàn huyện, với những sản phẩm chủ lực như: chuối, xoài, dứa, cam, bưởi. Đặc biệt mô hình nuôi ong lấy mật của các hộ dân ở bản Pậu (xã Nậm Tăm) có hướng phát triển tốt với 30 hộ tham gia nuôi, cho thu nhập ổn định. Ước tính cứ 100 thùng ong, mỗi năm cho thu gần 1 tấn mật, nếu được gắn tem truy xuất nguồn gốc, xây dựng thương hiệu, có đầu ra ổn định, chắc chắn người dân mạnh dạn nhân rộng.
Ông Lò Văn Sâu - Chủ tịch UBND xã Nậm Tăm cho biết: “Xã hiện có nhiều lợi thế về khí hậu, đất đai, đồng bào địa phương thay đổi nếp nghĩ, cách làm, mạnh dạn đầu tư trồng cây ăn quả, cây nguyên liệu (mía, cỏ voi). Nhưng đầu ra vẫn là khâu yếu. Mong muốn lớn nhất của địa phương là được hỗ trợ xây dựng cơ sở sơ chế quy mô bài bản, kho lạnh bảo quản sản phẩm sau thu hoạch và kết nối tiêu thụ sản phẩm ổn định cho bà con. Nếu làm được điều đó, không chỉ người dân Nậm Tăm mà toàn bộ các xã vùng thấp Sìn Hồ có cơ sở vững chắc vươn lên mạnh mẽ hơn”.
Được biết, thời gian qua, chính quyền huyện Sìn Hồ đã chủ động vào cuộc với nhiều giải pháp thiết thực. Từ tập huấn kỹ thuật canh tác theo tiêu chuẩn VietGAP, hỗ trợ cấp mã QR truy xuất nguồn gốc, đến phối hợp đưa các sản phẩm nông sản đặc trưng địa phương lên sàn thương mại điện tử… Từ đầu năm đến nay, đã có hơn 100 hộ dân tại 2 xã: Căn Co và Nậm Tăm được tập huấn kỹ năng bán hàng online, xây dựng kênh phân phối qua mạng xã hội. Huyện cũng đang xúc tiến kêu gọi doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực sơ chế, chế biến quy mô nhỏ gắn với vùng nguyên liệu. Về lâu dài, định hướng của huyện là tập trung xây dựng chuỗi giá trị nông nghiệp khép kín, từ sản xuất - chế biến - tiêu thụ. Mục tiêu đặt ra đến hết năm 2025, mỗi xã vùng thấp sẽ có ít nhất một sản phẩm chủ lực được xây dựng thương hiệu và có hợp đồng liên kết. Phát triển nông nghiệp xanh gắn với du lịch sinh thái, tạo giá trị kép từ các mô hình tăng thêm thu nhập cho người dân.
Việc chính quyền các cấp chủ động “tìm đầu ra” cho nông sản các địa phương đã giúp nâng cao giá trị sản phẩm, ổn định thị trường, góp phần thay đổi tư duy sản xuất của người dân. Với sự đồng hành của chính quyền, doanh nghiệp và sự chủ động của nông dân, ngành Nông nghiệp tại vùng thấp Sìn Hồ sẽ dần bước ra khỏi thế “phụ thuộc”, hướng tới phát triển bền vững, hiệu quả và tự chủ trong tương lai.

Mạnh Hùng 

 

Giá các vật tư phân bón có xu hướng tăng nhẹ

Theo ghi nhận, thị trường vật tư nông nghiệp trên địa bàn tỉnh có xu hướng tăng nhẹ ở giá các loại phân bón so với cùng kỳ năm trước và so với tháng 4/2025, mức tăng dao động từ 3% - 4%.

Đáng chú ý, phân đạm (Ure) hiện có giá 12.000 - 12.800 đồng/kg, tăng khoảng 500 đồng/kg so với tháng 5/2024 và tăng 100 - 1.000 đồng/kg so với tháng 4/2025. Tương tự, phân lân (Supe lân) cũng tăng đáng kể, dao động 6.720 - 10.160 đồng/kg, tăng từ 1.200 - 1.480 đồng/kg so với năm trước và 440 - 880 đồng/kg so với tháng trước.

Người dân mua vật tư nông nghiệp phục vụ sản xuất vụ Đông - Xuân 2025

Giá phân bón hỗn hợp NPK hiện ở mức 5.160 - 18.000 đồng/kg, tùy thuộc hàm lượng dinh dưỡng, đã tăng cao nhất tới 1.000 đồng/kg so với tháng trước và 1.500 đồng/kg so với cùng kỳ năm 2024. Trong khi đó, giá phân Kali duy trì ổn định ở mức 10.400 đồng/kg so với tháng trước, nhưng đã giảm 1.600 đồng/kg so với tháng 5/2024.

Trung bình mỗi năm, nông dân toàn tỉnh Lạng Sơn có nhu cầu sử dụng khoảng 40.000 tấn phân bón các loại, trong đó vụ Đông - Xuân chiếm khối lượng lớn, khoảng 22.000 - 23.000 tấn.

Chi phí phân bón chiếm một phần không nhỏ trong tổng chi phí sản xuất. Giá vật tư phân bón có xu hướng tăng nhẹ sẽ tác động đến chi phí sản xuất nông nghiệp của người dân, đặc biệt là trong thời điểm chuẩn bị cho gieo trồng vụ Đông - Xuân 2025.

Theo ghi nhận, nguồn cung các loại phân bón hiện tại vẫn ổn định, đáp ứng nhu cầu của người dân. Các cơ sở cung cấp, đại lý, cửa hàng điều chỉnh giá theo ngày. Cơ quan chức năng khuyến cáo bà con nông dân cần có kế hoạch sử dụng phân bón một cách hợp lý và tiết kiệm, bón đúng thời điểm và liều lượng. Đồng thời, việc theo dõi sát diễn biến thị trường và áp dụng các biện pháp canh tác tiên tiến để giảm sự phụ thuộc vào phân bón hóa học.

Hà My

 

Bàn giải pháp đưa các sản phẩm nông sản vào các chuỗi siêu thị

Ngày 14/5, Sở Nông nghiệp và Môi trường Lạng Sơn đã tổ chức hội nghị thảo luận về giải pháp đưa các sản phẩm nông sản vào các chuỗi siêu thị trong và ngoài tỉnh.

Tham dự hội nghị có lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường và một số phòng, đơn vị chuyên môn trực thuộc cùng 10 doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ sản xuất kinh doanh sản phẩm nông sản - chủ thể các sản phẩm OCOP trên địa bàn tỉnh.

Lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường phát biểu tại hội nghị

Theo báo cáo đề dẫn tại hội nghị, hiện trên địa bàn tỉnh có 399 hợp tác xã hoạt động ở lĩnh vực nông nghiệp. Tuy còn ở mức độ khác nhau nhưng các hợp tác xã hoạt động lĩnh vực nông nghiệp đã chủ động vươn lên, mạnh dạn tiếp cận các nguồn vốn, tín dụng để đầu tư thiết bị, máy móc, xây dựng cơ sở vật chất, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng thương hiệu, nhãn mác sản phẩm, áp dụng các quy trình quy chuẩn cao hơn. Quy mô sản xuất của HTX ngày càng được mở rộng, đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh, khai thác được tiềm năng lợi thế phát triển sản phẩm có tính đặc thù, sản xuất theo hướng sản phẩm sạch, chuỗi liên kết tiêu thụ sản phẩm.

Những năm qua, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Sở Nông nghiệp và Môi trường) đã triển khai hỗ trợ chuẩn hóa sản phẩm (xây dựng nhãn hiệu; bao bì nhãn mác; truy xuất nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa; phát triển sản phẩm OCOP…) cùng các hoạt động xúc tiến thương mại (hội chợ triển lãm thương mại, trưng bày giới thiệu sản phẩm, phiên chợ nông sản, tuần lễ quảng bá nông sản…), từ đó các hợp tác xã hoạt động lĩnh vực nông nghiệp có điều kiện tiếp cận và mở rộng thị trường, tìm kiếm các đối tác để thực hiện liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

Mặc dù đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng các hợp tác xã hoạt động lĩnh vực nông nghiệp vẫn còn một số hạn chế như: Số lượng đăng ký thành lập mới tăng nhanh về số lượng, nhưng chủ yếu vẫn ở quy mô nhỏ và siêu nhỏ; hoạt động sản xuất kinh doanh còn manh mún, chưa đa dạng hóa sản phẩm; thiếu kỹ năng quản lý và kinh doanh; lúng túng trong tổ chức sản xuất kinh doanh; sự liên kết trong sản xuất kinh doanh của các hợp tác xã với doanh nghiệp và các hợp tác xã khác chưa chặt chẽ…

Đại diện các doanh nghiệp, hợp tác xã trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong tiêu thụ sản phẩm nông sản

Tại hội nghị, đại diện các doanh nghiệp và hợp tác xã đã nêu một số khó khăn như: Thiếu vốn đầu tư dây chuyền thiết bị sản xuất, công nghệ bảo quản; chưa tích tụ đất đai để phát triển và tạo ra các nguồn nguyên liệu tập trung; sản xuất kinh doanh chưa gắn được với du lịch sinh thái cộng đồng; hiện tượng cạnh tranh thiếu lành mạnh của một số sản phẩm không rõ nguồn gốc giá rẻ lưu hành trên thị trường…

Trong chương trình hội nghị, đại diện các cơ quan chuyên môn của Sở Nông nghiệp và Môi trường cũng đã trả lời một số thắc mắc của các doanh nghiệp, hợp tác xã về thực hiện một số quy định trong hoạt động kinh doanh, vay vốn tín dụng ưu đãi… Đồng thời hướng dẫn các doanh nghiệp, hợp tác xã về cách thức điều chỉnh, hiệu đính thông tin đăng tải quảng bá sản phẩm trên sàn thương mại điện tử.

Tại hội nghị, lãnh đạo ngành nông nghiệp và môi trường tỉnh và các doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động lĩnh vực nông nghiệp đã trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong quản lý, các giải pháp nhằm thúc đẩy tiêu thụ các sản phẩm nông sản, nhất là các giải pháp để tổ chức đưa các sản phẩm nông sản vào các chuỗi siêu thị trong và ngoài tỉnh.

Qua thảo luận, trao đổi, lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường, các doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động lĩnh vực nông nghiệp (chủ thể các sản phẩm OCOP) đã thống nhất về một số giải pháp cơ bản để phát triển sản phẩm, mở rộng thị trường, đưa các sản phẩm nông sản vào các chuỗi siêu thị trong và ngoài tỉnh.

Thời gian tới đây, Sở Nông nghiệp và Môi trường sẽ phối hợp với các cơ quan liên quan hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia các chương trình xúc tiến thương mại; hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã gặp gỡ, làm việc với các siêu thị để đặt vấn đề liên kết.

Các doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ tiếp tục hoàn thiện các tiêu chí để duy trì và nâng cao chất lượng, hình ảnh sản phẩm OCOP; tập trung đảm bảo các điều kiện, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các sản phẩm; xây dựng kế hoạch phát triển thị trường cho các sản phẩm phù hợp với các phân khúc thị trường.

TRÍ DŨNG - DUY HÀ

 

Sản phẩm hữu cơ chỉ chiếm khoảng 1,46% kim ngạch xuất khẩu

Giá trị xuất khẩu nông nghiệp hữu cơ mới đạt khoảng 20 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,46% tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nông lâm thủy sản, một con số khá khiêm tốn.

Thông tin được đưa ra tại Hội thảo về phát triển nông nghiệp hữu cơ do Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp với Đại sứ quán Đan Mạch tổ chức ngày 15/5, tại Hà Nội.

Dư địa cho thị trường còn rất lớn

Phát biểu khai mạc tại hội thảo, ông Phạm Văn Duy - Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường cho biết, nông nghiệp hữu cơ đang ngày càng nhận được sự quan tâm sâu sắc của người tiêu dùng và cộng đồng doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đã có những bước phát triển tích cực. Diện tích canh tác hữu cơ tăng lên, ngày càng nhiều doanh nghiệp hợp tác xã quan tâm đầu tư và người tiêu dùng bắt đầu tin tưởng vào các sản phẩm sạch bền vững.

Hội thảo về phát triển nông nghiệp hữu cơ do Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp với Đại sứ quán Đan Mạch tổ chức ngày 15/5, tại Hà Nội.

Tuy nhiên, nông nghiệp hữu cơ phát triển chưa đồng đều giữa các vùng miền, chuỗi giá trị liên kết còn thiếu, khâu kiểm soát chứng nhận chất lượng chưa thực sự đồng bộ. Do đó, việc tạo không gian đối thoại giữa các bên liên quan; chia sẻ các chính sách, quy trình, mô hình thực hiện của Đan Mạch trong sản xuất và chứng nhận nông nghiệp hữu cơ; lắng nghe những câu chuyện thực tế từ các trang trại tiên phong trong nước; cùng nhau thảo luận các sáng kiến và giải pháp thiết thực để mở độ quy mô và nâng cao hiệu quả ngành nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam là rất quan trọng.

Ông Trương Xuân Sinh - Trung tâm Kiểm nghiệm, kiểm chứng và dịch vụ chất lượng (RETAQ) thuộc Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường - cho biết, theo số liệu cập nhật mới nhất, hiện, diện tích sản xuất nông nghiệp hữu cơ khoảng 174.579,6 ha, chiếm 1,41% so với diện tích sản xuất nông nghiệp; giá trị xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp hữu cơ khoảng 20 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,46% tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản.

Khẳng định Việt Nam có nhiều thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ do có điều kiện tự nhiên thuận lợi; nhiều sản phẩm nông sản có lợi thế cạnh tranh như lúa gạo, cà phê, hồ tiêu, điều, chè, trái cây nhiệt đới, thủy sản…; nguồn lao động dồi dào; Việt Nam tham gia nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) giúp mở rộng thị trường nông sản. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam đang đối diện với nhiều khó khăn từ thị trường, chính sách, chi phí sản xuất cao, dẫn đến giá sản phẩm cao, sản xuất manh mún, kỹ thuật công nghệ và trình độ lao động còn thấp.

“Chính phủ đã ban hành các nghị định về nông nghiệp hữu cơ. Các tỉnh, thành phố đã xây dựng và ban hành đề án hoặc kế hoạch và chính sách phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ của địa phương. Tuy nhiên, phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam còn khiêm tốn”, ông Trương Xuân Sinh nói.

Cần có quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp hữu cơ

Khẳng định tiềm năng cho phát triển nông nghiệp hữu cơ còn rất lớn, tuy nhiên, để đủ sức hấp dẫn các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp FDI đầu tư vào lĩnh vực này, ông Trương Xuân Sinh cho rằng, cần có quy hoạch vùng sản xuất.

Mô hình trồng nấm hữu cơ tại Công ty Cổ phần Nấm Tốt Nameco (huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ). Ảnh: N. H

Theo ông Trương Xuân Sinh, việc sản xuất nông nghiệp hữu cơ gắn với xây dựng thương hiệu; gắn với chuyển đổi xanh và sản xuất thực phẩm bền vững; gắn với phát thải ròng bằng 0; gắn với du lịch sinh thái… sẽ giúp nông nghiệp hữu cơ ổn định lâu dài và giảm thiểu chi phí.

Bên cạnh đó, cần số hóa hồ sơ sản xuất, kinh doanh và truy xuất nguồn gốc. Nâng cao kiến thức sản xuất nông nghiệp hữu cơ cho nhà sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng. Tối ưu hóa, giảm chi phí chứng nhận hữu cơ bằng cách đánh giá duy trì chứng nhận thay cho chứng nhận lại cùng với việc tăng cường giám sát từ cộng đồng. Xây dựng cộng đồng sản xuất, tiêu thụ, kênh phân phối.

Tại hội thảo, các chuyên gia đến từ Đan Mạch cũng đã chia sẻ kinh nghiệm và cách làm từ quốc gia mình. Đan Mạch là quốc gia đi đầu trong xu hướng nông nghiệp hữu cơ và phát triển bền vững. Khoảng 12% diện tích đất nông nghiệp được canh tác theo phương pháp hữu cơ. Người tiêu dùng Đan Mạch đặc biệt ưa chuộng thực phẩm hữu cơ.

Từ năm 1987, Đan Mạch đã có luật hữu cơ và cũng là quốc gia đầu tiên trên thế giới có luật riêng cho sản xuất hữu cơ. Các tiêu chí về hữu cơ được áp dụng xuyên suốt chuỗi giá trị từ nông trại đến bàn ăn. Chỉ khi đáp ứng được hết các tiêu chí, người sản xuất mới được cấp nhãn dán chứng nhận là sản phẩm hữu cơ.

Việc cấp nhãn hữu cơ cũng được kiểm soát chặt chẽ ở từng địa phương. Theo đó, các nhà sản xuất thực phẩm sẽ được cơ quan chức năng tổ chức các đợt kiểm tra định kỳ và đột xuất ở toàn bộ chuỗi cung ứng, để đảm bảo chắc chắn thực phẩm tới tay người tiêu dùng là an toàn.

Năm 2009, Đan Mạch còn tiếp tục cải tiến quy định. Ngoài việc gắn nhãn sản phẩm tại các siêu thị, còn tạo ra một nhãn dành cho nhà bếp công cộng. Điều này giúp người tiêu dùng biết được liệu thực phẩm tại nhà hàng, trường học có phải là hữu cơ hay không...

Sự hợp tác chặt chẽ trong toàn bộ chuỗi giá trị và các bên liên quan đã đưa Đan Mạch trở thành quốc gia không chỉ thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ trong nước mà còn cung cấp cho người tiêu dùng trên toàn thế giới những thực phẩm được sản xuất theo cách hữu cơ.

Tại hội thảo, các chuyên gia cũng nhận định, hiện nay, quan điểm của người tiêu dùng đã khác. Họ ăn ngon thôi chưa đủ, cần ăn sạch, lành mạnh. Điều này tác động lớn tới các phương thức canh tác hiện nay, đòi hỏi người nông dân, nhà sản xuất phải cùng nhau gắn kết để tạo nên sự thay đổi cho nền nông nghiệp Việt Nam.

Theo các chuyên gia, "chìa khóa" của nông nghiệp hữu cơ chính là thiết lập tiêu chí rõ ràng, có cơ chế và quy trình giám sát minh bạch, nâng cao nhận thức của nông dân và người tiêu dùng.

Nguyễn Hạnh

 

Người đưa dịch vụ phun thuốc trừ sâu bằng thiết bị bay nông nghiệp về Gia Lai

Với mong muốn giảm thiểu tác hại của thuốc hóa học đến sức khỏe bà con nông dân, anh Châu Khắc Cường (SN 1992, tổ 6, thị trấn Chư Sê, tỉnh Gia Lai) quyết định đầu tư thiết bị bay nông nghiệp để cung cấp dịch vụ phun thuốc trừ sâu tại địa phương.

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình thuần nông tại huyện Chư Sê, anh Cường thấu hiểu nỗi vất vả của bà con nông dân mỗi khi đến kỳ phun thuốc trừ sâu cho cây trồng. Năm 2020, khi làm việc tại AgriDrone Việt Nam-một công ty chuyên nghiên cứu, ứng dụng công nghệ máy bay không người lái vào các lĩnh vực đời sống, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, anh đã có cơ hội tiếp cận với công nghệ mới. Chàng trai 9X nghĩ tới việc mua thiết bị bay nông nghiệp để về phục vụ bà con quê mình. Tuy nhiên, thấy nhiều người chưa rành về thiết bị này nên anh Cường có phần e ngại. Mới đây, anh quyết định đầu tư thiết bị để mở dịch vụ phun thuốc trừ sâu khi nghiên cứu thấy thị trường có sự khả quan.

Khi triển khai ý tưởng, anh Cường gặp phải sự can ngăn từ phía gia đình. Bởi vốn đầu tư cho 1 chiếc máy DJI AGRAS T50 lên tới 300 triệu đồng, trong khi chưa rõ hiệu quả ra sao. Tuy nhiên, sau khởi đầu thuận lợi, anh dần nhận được sự ủng hộ. Để có nhân sự hỗ trợ, anh thuê thêm 2 thanh niên ở địa phương cùng làm việc và dành thời gian hướng dẫn, đào tạo giúp họ nắm bắt cách sử dụng và vận hành thiết bị bay phun thuốc trừ sâu nông nghiệp.

Anh Châu Khắc Cường (ở giữa) cùng các nhân viên bên thiết bị bay nông nghiệp dùng phun thuốc trừ sâu (ảnh nhân vật cung cấp).

Từ tháng 4-2025 đến nay, anh Cường đang triển khai dịch vụ phun thuốc trừ sâu bằng máy bay không người lái cho cây cà phê, chanh dây, khoai lang, đậu các loại... tại một số huyện như: Chư Prông, Phú Thiện, Đak Đoa, Chư Sê... Để đảm bảo tính hợp pháp trong quá trình vận hành, anh Cường đã đăng ký giấy phép bay từ Cục Tác chiến (thuộc Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam).

“Thiết bị bay DJI AGRAS T50 nặng khoảng 110 kg khi đầy nước và pin, được điều khiển từ xa bằng bộ điều khiển. Với trọng lượng lớn, việc lắp ráp và vận chuyển cần ít nhất 2 người. Tôi thường dùng ô tô để chở máy đến địa điểm làm việc và gặp không ít khó khăn khi phải len lỏi vào những vườn rẫy có địa hình dốc, gồ ghề”-anh Cường cho hay.

So với phun thuốc bằng phương pháp thủ công, việc sử dụng máy bay không người lái giúp tiết kiệm nhiều chi phí và nhân công. Với 1 ha cà phê, phun bằng máy bay chỉ cần khoảng 200 lít nước, thay vì 1.000-1.200 lít như phun thủ công. Thời gian phun thuốc cũng được rút ngắn còn khoảng 1 giờ cho mỗi ha. Riêng chanh dây, khoai lang, lượng nước chỉ cần 90-150 lít/ha. Giá dịch vụ phun thuốc trừ sâu bằng máy bay không người lái của anh Cường dao động 500-900 ngàn đồng/ha. Đây cũng đang là lựa chọn tối ưu cho nhiều hộ sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, khó tìm nhân công phun thuốc.

Cũng theo anh Cường, việc sử dụng thiết bị bay nông nghiệp phun thuốc trừ sâu còn giúp bảo vệ sức khỏe cho người nông dân. Bởi lẽ, người vận hành đứng ở xa, không tiếp xúc trực tiếp với hóa chất.

Điều khiển thiết bị bay phun thuốc sâu trên vườn sầu riêng. Ảnh: C.H

Vừa trải nghiệm dịch vụ phun thuốc trừ dịch hại bằng thiết bị bay nông nghiệp cho 1 ha cà phê của gia đình, anh Nguyễn Huấn (thôn Cát Mỹ, xã Ia Vê, huyện Chư Prông) đánh giá: “Trước đây, khi phun thủ công, tôi mất khoảng 1 buổi mới hoàn thành thì giờ phun bằng thiết bị bay chỉ 1 giờ đã xong; hiệu quả đạt khoảng 90%. Ngoài giảm thiểu thời gian, công sức lao động, quan trọng nhất vẫn là ít ảnh hưởng tới sức khỏe khi bản thân không phải tiếp xúc trực tiếp với thuốc bảo vệ thực vật”.

Trung bình mỗi ngày, nhóm anh Cường phun được 2 ha, thù lao nhận về khoảng 1,8 triệu đồng. Những ngày cao điểm, nhóm có thể có nguồn thu 9-10 triệu đồng. Anh Hồ Đắc Nam (thôn 6, xã Ia Blang, huyện Chư Sê) phấn khởi nói: “Làm công việc điều khiển thiết bị phun thuốc này với tôi khá nhẹ nhàng, có thu nhập ổn định. Chỉ vất vả là bản thân phải di chuyển nhiều, xa, đi sớm về khuya”.

Hiện nay, Gia Lai chưa có trung tâm sửa chữa chuyên biệt đối với thiết bị bay nông nghiệp nên mỗi lần gặp sự cố kỹ thuật, anh Cường phải gửi thiết bị đi xa để khắc phục, sửa chữa dẫn đến vừa mất thời gian mà chi phí lại cao. Đây cũng là khó khăn mà anh phải đối mặt khi khởi nghiệp với dịch vụ mới mẻ này. Dù vậy, chàng trai 9X vẫn kiên định: “Đây không chỉ là hướng đi của riêng tôi mà còn mở ra cơ hội khởi nghiệp thiết thực cho người trẻ đam mê công nghệ, muốn làm giàu từ nền nông nghiệp hiện đại”.

CHU HẰNG

 

Tiếp sức cho nông nghiệp bằng chính sách thuế

Chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp (SDĐNN) tiếp tục được Chính phủ đề xuất kéo dài đến hết năm 2030. Điều này thể hiện sự nhất quán trong chủ trương hỗ trợ nông dân, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cũng cho rằng, để chính sách này phát huy hiệu quả cao hơn, cần hoàn thiện cơ chế, tránh hỗ trợ dàn trải và lãng phí nguồn lực.

Việc tiếp tục miễn thuế sẽ là hình thức hỗ trợ tài chính trực tiếp và thiết thực nhất cho người nông dân. Ảnh minh họa

Báo cáo tổng kết cho thấy số thuế được miễn, giảm có xu hướng tăng theo thời gian: Từ hơn 3.200 tỷ đồng/năm giai đoạn 2001-2010 lên hơn 6.300 tỷ đồng/năm giai đoạn 2011-2016, hơn 7.400 tỷ đồng/năm giai đoạn 2017-2020 và ước tính đạt khoảng 7.500 tỷ đồng/năm trong giai đoạn 2021-2023.

Tạo động lực đầu tư vào nông nghiệp

Ngày 13/5, thay mặt Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng đã trình bày Tờ trình về Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội liên quan đến việc tiếp tục kéo dài thời gian miễn thuế SDĐNN theo các quy định trước đây. Dự kiến, Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua Nghị quyết này vào ngày 27/6 tới. Nếu được thông qua, chính sách miễn thuế SDĐNN sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2026 đến hết ngày 31/12/2030.

Qua hơn 20 năm triển khai, chính sách miễn thuế SDĐNN đã được thực hiện nhất quán, ổn định và mang lại nhiều hiệu quả tích cực. Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng khẳng định, việc tiếp tục miễn thuế đến năm 2030 sẽ là hình thức hỗ trợ tài chính trực tiếp và thiết thực nhất cho người nông dân. Số tiền được miễn sẽ giúp nông dân đầu tư sản xuất, mở rộng quy mô canh tác, cải thiện thu nhập và nâng cao chất lượng sản phẩm. Đồng thời, chính sách cũng tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng bền vững.

Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, việc miễn thuế đến hết năm 2030 phù hợp với chu kỳ sản xuất của nhiều loại cây trồng, nhất là cây lâu năm và hỗ trợ người dân yên tâm canh tác, ổn định kế hoạch đầu tư. Bên cạnh đó, chính sách còn giúp thực hiện các cam kết hợp tác, liên kết trong sản xuất, tiêu thụ nông sản, đồng thời củng cố niềm tin vào đường hướng phát triển nông nghiệp hiện đại, hiệu quả.

Gắn miễn thuế với hiệu quả sử dụng đất

Mặc dù chủ trương miễn thuế SDĐNN được ủng hộ, nhiều ý kiến từ Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội cho rằng, chính sách hiện hành cần điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn, tránh hỗ trợ dàn trải và thiếu hiệu quả. Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi nhấn mạnh: Sau hơn 30 năm áp dụng, chính sách miễn thuế SDĐNN đã trở thành một chủ trương xuyên suốt và quan trọng. Tuy nhiên, do đang áp dụng đại trà, chính sách chưa phân biệt giữa các loại đất được sử dụng hiệu quả và đất bị bỏ hoang, sử dụng sai mục đích. Điều này có thể làm giảm động lực tích tụ ruộng đất, hạn chế hiệu quả sản xuất quy mô lớn và làm thất thoát tài nguyên đất đai ở một số địa phương.

Ủy ban này đề xuất cần đánh giá thực trạng sử dụng đất nông nghiệp trên toàn quốc, thiết kế lại chính sách miễn, giảm thuế theo hướng có điều kiện. Ví dụ, chỉ miễn thuế cho diện tích đất được sử dụng đúng mục đích, có đầu tư sản xuất thực tế; không áp dụng với diện tích bỏ hoang hoặc không phục vụ hoạt động nông nghiệp. Đồng thời, cần thực hiện cơ chế đánh giá định kỳ về tác động của chính sách đối với sản xuất, đời sống nông dân và hiệu quả sử dụng đất.

Một số chuyên gia kinh tế cũng kiến nghị kết hợp chính sách miễn thuế với các công cụ tài khóa và tài chính khác như: hỗ trợ tín dụng, bảo hiểm nông nghiệp, hoặc ưu đãi đầu tư hạ tầng sản xuất… nhằm tối ưu hóa nguồn lực ngân sách, tăng hiệu quả hỗ trợ và thúc đẩy chuỗi giá trị nông nghiệp phát triển toàn diện.

Mặc dù còn một số ý kiến khác nhau về phương thức triển khai song đa số đại biểu trong Ủy ban Kinh tế và Tài chính đều đồng thuận về sự cần thiết tiếp tục kéo dài chính sách miễn thuế SDĐNN thêm 5 năm nữa, đến hết ngày 31/12/2030. Theo các đại biểu, nếu dừng chính sách vào cuối năm 2025 như quy định hiện hành thì điều này sẽ tạo thêm gánh nặng chi phí cho người dân và doanh nghiệp, đồng thời gây xáo trộn chính sách, ảnh hưởng đến lòng tin và kế hoạch đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp.

Tăng cường giám sát và hỗ trợ có chọn lọc

Theo Dự thảo Nghị quyết, Chính phủ sẽ được giao trách nhiệm hướng dẫn chi tiết việc thực hiện chính sách miễn thuế trong giai đoạn 2026-2030 nhằm đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước và hạn chế các trường hợp lợi dụng chính sách.

Trong bối cảnh ngành nông nghiệp đang chuyển mình theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ cao và ngày càng có nhiều doanh nghiệp lớn tham gia đầu tư, việc duy trì chính sách ổn định là yếu tố then chốt. Miễn thuế SDĐNN là một phần trong hệ thống chính sách hỗ trợ cần thiết để khuyến khích dòng vốn đầu tư, đặc biệt vào các mô hình sản xuất quy mô lớn, liên kết chuỗi và áp dụng khoa học công nghệ.

Việc tiếp tục kéo dài miễn thuế SDĐNN cũng là một thông điệp rõ ràng về ưu tiên của Đảng và Nhà nước dành cho tam nông: nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tuy nhiên, để chính sách này phát huy hiệu quả cao hơn, cần có những điều chỉnh mang tính chiến lược. Việc phân loại đối tượng được miễn thuế, gắn chính sách với hiệu quả sử dụng đất và kết hợp thêm các công cụ hỗ trợ tài chính sẽ giúp tối ưu hóa nguồn lực, tránh dàn trải và lãng phí. Theo giới chuyên gia, trong bối cảnh đất đai là tài nguyên hữu hạn có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển nông nghiệp và bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, chính sách miễn thuế SDĐNN cần được thiết kế theo hướng chọn lọc, hiệu quả và công bằng hơn. Đồng thời, các Bộ, ngành và địa phương cần tăng cường giám sát, quản lý việc sử dụng đất nông nghiệp để bảo đảm đất thực sự phục vụ sản xuất, tránh tình trạng bị bỏ hoang hoặc sử dụng sai mục đích.

Chính sách miễn thuế SDĐNN không chỉ đơn thuần là hỗ trợ tài chính mà còn là công cụ thúc đẩy việc tái cơ cấu nông nghiệp, hỗ trợ nông dân vươn lên làm giàu từ chính mảnh đất của mình. Việc tiếp tục kéo dài miễn thuế SDĐNN đến năm 2030 là sự khẳng định nhất quán của Nhà nước về ưu tiên phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tuy nhiên, để chính sách phát huy hiệu quả cao hơn, cần sớm đánh giá thực trạng sử dụng đất nông nghiệp và thiết kế các công cụ hỗ trợ có chọn lọc, tránh tình trạng hỗ trợ dàn trải, gây lãng phí nguồn lực. Đồng thời cần kết hợp giữa chính sách tài khóa và cơ chế khuyến khích đầu tư thông minh để hỗ trợ ngành nông nghiệp phát triển bền vững trong những năm tới./.

MINH ANH

 

Hiếu Giang tổng hợp

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop