Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 16 tháng 4 năm 2025

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 16 tháng 4 năm 2025

 

Việt Nam-Trung Quốc ký kết thêm 4 nghị định thư nông nghiệp

Các nghị định thư này sẽ mở đường cho nhiều sản phẩm nông nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường Trung Quốc.

Trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đến Việt Nam, từ ngày 14 đến 15/4, hai quốc gia đã tiến hành ký các nghị định thư về xuất khẩu ớt, chanh leo, tổ yến, cám gạo từ Việt nam sang Trung Quốc.

Cụ thể, các nghị định thư được ký kết gồm: (1) Nghị định thư về yêu cầu kiểm dịch thực vật đối với quả ớt xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc; (2) Nghị định thư về yêu cầu kiểm dịch thực vật đối với quả chanh leo xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc; (3) Nghị định thư về yêu cầu an toàn và kiểm dịch động, thực vật đối với cám gạo và cám gạo chiết ly làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi xuất khẩu của từ Việt Nam sang Trung Quốc; (4) Nghị định thư về các yêu cầu kiểm dịch, kiểm tra và vệ sinh thú y đối với các sản phẩm tổ yến thô và tổ yến sạch xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc.

Bên cạnh các mặt hàng trên, Trung Quốc đang tích cực triển khai thủ tục cấp phép chính thức cho các mặt hàng nông sản Việt Nam như hoa quả có múi, dược liệu đông y có nguồn gốc thực vật. Ngược lại, phía Việt Nam sẽ đẩy nhanh nhập khẩu cá tầm từ Trung Quốc.

Đến thời điểm hiện tại, hai bên đã ký 24 thỏa thuận ghi nhớ và nghị định thư về xuất, nhập khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản. Riêng năm 2024 đã ký 4 nghị định thư bao gồm: Nghị định thư về xuất khẩu sầu riêng đông lạnh, xuất khẩu cá sấu, xuất khẩu khỉ (nhân chuyến thăm Trung Quốc, từ 18-20/8/2024 của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm) và Nghị định thư xuất khẩu dừa tươi (ký ngày 6/6/2024 nhân chuyến thăm làm việc với Bộ Nông nghiệp và PTNT của lãnh đạo Tổng cục Hải quan Trung Quốc).

Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam và Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc tại ASEAN. Năm ngoái, người tiêu dùng Trung Quốc chi 4,6 tỷ USD để mua rau quả Việt.

Số liệu từ Cục Hải quan (Bộ Tài chính) cho thấy trong quý I/2025, Trung Quốc tiếp tục là thị trường nhập khẩu lớn nhất với rau quả Việt Nam, với khoản chi là 521 tỷ USD.

Hiện 14 loại nông sản Việt đã được xuất khẩu chính ngạch sang thị trường tỷ dân, đem lại doanh thu hàng tỷ USD mỗi năm. Trong đó, 6 mặt hàng hai bên đã ký Nghị định thư xuất khẩu (dưa hấu, măng cụt, thạch đen, sầu riêng, chuối tươi và khoai lang) và 6 mặt hàng truyền thống chưa được chuẩn hóa bằng Nghị định thư xuất khẩu (thanh long, chôm chôm, xoài, vải, nhãn, mít). Riêng mặt hàng chanh leo, ớt đang được xuất khẩu thí điểm.

Nhung Bùi

 

Thống nhất trình Quốc hội kéo dài miễn thuế đất nông nghiệp đến hết 2030

Nguồn: Báo Tài chính doanh nghiệp

TCDN - Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất sẽ trình với Quốc hội xem xét để quyết định việc kéo dài thời gian thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết năm 2023 để khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, góp phần tái cơ cấu ngành nông nghiệp…

Khoảng 7.500 tỷ miễn mỗi năm

Ngày 15/4, tiếp tục chương trình Phiên họp thứ 44, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự thảo Nghị quyết về kéo dài thời hạn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp được quy định tại Nghị quyết số 55/2010/QH12 của Quốc hội về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 28/2016/QH14 và Nghị quyết số 107/2020/QH14.

Trình bày Tờ trình tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, việc ban hành dự thảo Nghị quyết về kéo dài thời hạn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp là cần thiết nhằm tiếp tục khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, góp phần tái cơ cấu ngành nông nghiệp, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia và ổn định kinh tế xã hội, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trên thị trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, hỗ trợ tạo công ăn việc làm cho khu vực nông thôn, nâng cao thu nhập của người nông dân, góp phần giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng.

Theo Bộ trưởng, việc tiếp tục miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết năm 2030 sẽ không làm giảm thu do đây là chính sách đang được thực hiện trên thực tế. Với đề xuất kéo dài thời gian miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp như quy định hiện hành đến hết ngày 31/12/2030 thì số thuế sử dụng đất nông nghiệp được miễn khoảng 7.500 tỷ đồng/năm.

Đây sẽ tiếp tục là hình thức hỗ trợ trực tiếp tới người nông dân, là nguồn đầu tư tài chính trực tiếp cho khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn để đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, qua đó giúp tạo công ăn việc làm cho người nông dân, cải thiện cuộc sống, gắn bó với hoạt động sản xuất nông nghiệp, góp phần khuyến khích đầu tư, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển bền vững.

Đồng thời, thể hiện chủ trương nhất quán của Đảng và nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, quy hoạch tổng thể phát triển sản xuất ngành nông nghiệp, đảm bảo tính khả thi của chính sách.

Xem xét đánh giá trong tổng thể các chính sách thuế với đất đai

Thẩm tra nội dung này, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho biết, đa số ý kiến trong Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính thống nhất về sự cần thiết kéo dài chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong giai đoạn tới như đề xuất của Chính phủ.

qu

Bên cạnh đó, các ý kiến cũng cho rằng, chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp cần được xem xét, đánh giá trong tổng thể các chính sách về thuế đối với đất đai, bao gồm thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, các loại thuế, các khoản thu khác đang áp dụng với đất (tiền sử dụng đất, tiền thuê đất) và cần được đặt trong mối liên hệ chung với Luật Đất đai mới được sửa đổi để có thể đưa ra những chính sách mới nhằm triển khai các định hướng phát triển của Đảng và nhà nước trong lĩnh vực này.

Thảo luận tại phiên họp, Phó chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan cho biết, qua khảo sát thực tế tại một số vùng nông thôn, tình trạng đất nông nghiệp bị bỏ hoang vẫn diễn ra. Mô hình "câu lạc bộ đại điền" cho thấy tiềm năng khai thác hiệu quả đất bỏ hoang, song việc thuê đất gặp khó khăn do chủ đất có xu hướng đòi lại sau khi đất được đầu tư. Cho rằng ý kiến thẩm tra của Ủy ban Kinh tế và Tài chính là xác đáng, Phó Chủ tịch Quốc hội chỉ ra rằng việc miễn thuế tràn lan có thể không tạo động lực sử dụng đất hiệu quả và gây lãng phí tài nguyên quốc gia.

Phó chủ tịch Quốc hội đề nghị nghiên cứu giải pháp miễn thuế có mục tiêu, ưu tiên đối với người trực tiếp sản xuất nông nghiệp, đồng thời có biện pháp quản lý, khai thác hiệu quả quỹ đất nông nghiệp đang bị bỏ hoang, đảm bảo hài hòa lợi ích của người dân và mục tiêu phát triển nông nghiệp bền vững theo Hiến pháp và Luật Đất đai. Đồng thời, đề nghị Bộ Tài chính, với vai trò cơ quan tham mưu, phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất giải pháp cụ thể để vừa tạo điều kiện cho người nông dân yên tâm sản xuất, vừa khắc phục tình trạng bỏ hoang đất.

Kết luận phiên họp, Phó chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh nêu rõ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao Báo cáo thẩm tra sơ bộ của Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính cũng như sự chuẩn bị của cơ quan soạn thảo là Bộ Tài chính.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất sẽ trình với Quốc hội xem xét để quyết định việc kéo dài thời gian thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp quy định tại Nghị quyết số 55/2010/QH12 của Quốc hội về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 28/2016/QH14 và Nghị quyết số 107/2020/QH14.

Hà Linh

 

Thanh niên Quảng Trị kiến nghị nhiều nội dung liên quan đến phát triển nông nghiệp, nông thôn

Chiều nay 15/4, Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị Hà Sỹ Đồng chủ trì hội nghị gặp mặt, đối thoại với thanh niên tỉnh năm 2025 với chủ đề 'Phát huy vai trò của thanh niên trong phát triển nông nghiệp, nông thôn'. Hội nghị được kết nối trực tuyến đến 9 điểm cầu tại các địa phương, đơn vị trong tỉnh, thu hút đông đảo cán bộ đoàn, đoàn viên, thanh niên (ĐVTN) tham gia.

Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Hà Sỹ Đồng trao đổi với các ĐVTN - Ảnh: Lê Trường

Lắng nghe các vấn đề thanh niên quan tâm

Phát biểu khai mạc, Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Hà Sỹ Đồng khẳng định, Quảng Trị là tỉnh có diện tích đất sản xuất nông nghiệp không lớn, nhưng khoảng 80 % dân số sống bằng nông nghiệp. Những năm qua, nông nghiệp của tỉnh luôn là điểm sáng và khẳng định vị thế quan trọng, là động lực, bệ đỡ vững chắc của nền kinh tế.

Thông qua nhiều chính sách thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số, phát triển sản phẩm OCOP, nâng cao chuỗi giá trị nông sản và xây dựng nông thôn mới bền vững. Có không ít thanh niên trên địa bàn tỉnh đã mạnh dạn khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, áp dụng khoa học công nghệ để chế biến sâu, tiêu thụ sản phẩm qua nền tảng số. Nhiều mô hình tổ hợp tác thanh niên đã góp phần thúc đẩy sản xuất bền vững, tạo việc làm và nâng cao thu nhập. Tuy nhiên, quá trình khởi nghiệp bằng nông nghiệp, thanh niên vẫn đang gặp không ít khó khăn như thiếu vốn, hạn chế trong tiếp cận khoa học công nghệ, đầu ra cho sản phẩm, liên kết sản xuất...

Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Hà Sỹ Đồng phát biểu tại hội nghị - Ảnh: Lê Trường

Các đại biểu tham dự hội nghị tại điểm cầu trung tâm ở UBND tỉnh - Ảnh: Lê Trường

Do đó, buổi đối thoại này là cơ hội để lãnh đạo tỉnh lắng nghe những ý kiến, đề xuất của thanh niên, đồng thời trao đổi những định hướng, gợi mở giúp thanh niên phát huy tốt hơn vai trò của mình trong phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Bí thư đoàn Phường 1 (TP. Đông Hà) Nguyễn Nữ Mai Linh phát biểu ý kiến tại hội nghị - Ảnh: Lê Trường

Tại hội nghị, trong không khí cởi mở, thẳng thắn, các ĐVTN đã mạnh dạn bày tỏ những suy nghĩ, kiến nghị, hiến kế liên quan đến các lĩnh vực về lao động việc làm, phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số... và nhiều vấn đề mà các bạn trẻ đang quan tâm.

Theo Bí thư đoàn Phường 1 (TP. Đông Hà) Nguyễn Nữ Mai Linh, những năm gần đây, trên địa bàn tỉnh đã và đang triển khai nhiều chủ trương, chính sách về phát triển sản xuất nông nghiệp, nông dân và nông thôn theo hướng hiện đại, bền vững. Trong đó, nông nghiệp hữu cơ, công nghệ cao và liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị được quan tâm và hỗ trợ triển khai thực hiện. Để khởi nghiệp trên lĩnh này, thanh niên trên địa bàn tỉnh sẽ được hỗ trợ những chính sách cụ thể nào, nhất là việc tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi, đất đai và khoa học kỹ thuật...

Liên quan đến hoạt động chi trả dịch vụ môi trường rừng, đoàn viên Hồ Văn Dinh, điểm cầu huyện Đakrông cho rằng, đây là nguồn lực tài chính quan trọng, góp phần giúp cải thiện đời sống cho người dân địa phương. Đồng thời, góp phần bảo vệ môi trường rừng, giảm tình trạng phá rừng, khai thác lâm sản trái phép. Vậy, phương án nào để thanh niên có thể tiếp cận các chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng và cải thiện thu nhập từ việc bảo vệ rừng?

Đoàn viên Đinh Thị Thu Thảo, ở điểm cầu huyện Hướng Hóa đề xuất UBND tỉnh cần có các chính sách, giải pháp để hỗ trợ giúp thanh niên tham gia phát triển du lịch nông thôn, nhất là cơ chế liên quan đến cơ sở pháp lý về đất đai, quy hoạch, định hướng phát triển, tiêu chí đánh giá chất lượng...

Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Hà Sỹ Đồng và lãnh đạo Tỉnh đoàn trao tượng trưng 4 tỉ đồng hỗ trợ 40 ĐVTN có mô hình khởi nghiệp - Ảnh: Lê Trường

Nghiên cứu, xem xét giải quyết các kiến nghị

Sau khi lắng nghe các nội dung, kiến nghị, đề xuất của ĐVTN, Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Hà Sỹ Đồng đề nghị lãnh đạo các sở, ban, ngành, đơn vị, địa phương liên quan căn cứ chức năng nhiệm vụ của mình thông tin, trao đổi và có câu trả lời cụ thể cho từng vấn đề, ý kiến. Đồng thời, thông tin thêm về những cơ chế, chính sách quan trọng của tỉnh để giúp ĐVTN địa phương tiếp cận các chủ trương, chính sách cũng như nguồn lực hỗ trợ trong quá trình khởi nghiệp.

Thời gian tới, để xây dựng lực lượng lao động trẻ có trình độ chuyên môn tham gia vào sản xuất nông nghiệp, phát triển nông thôn với tư duy mới, đề nghị các cơ quan, đơn vị, địa phương cần rà soát các mô hình, dự án phát triển nông nghiệp của thanh niên để kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, vướng mắc nhằm có giải pháp hỗ trợ; xây dựng các chương trình đào tạo tập trung về nông nghiệp hữu cơ, sinh thái, công nghệ cao...; tiếp tục hỗ trợ và đồng hành với thanh niên tham gia phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng hữu cơ, nông nghiệp xanh, áp dụng các quy trình sản xuất thân thiện với môi trường...

Bí thư Tỉnh đoàn Trần Thị Thu phát biểu tại hội nghị - Ảnh: Lê Trường

Thay mặt ĐVTN trong tỉnh, Bí thư Tỉnh đoàn Trần Thị Thu tiếp thu và cảm ơn những thông tin, gợi mở của lãnh đạo tỉnh, đại diện các sở, ngành, đơn vị. Thời gian tới, thế hệ trẻ trong tỉnh mong muốn tiếp tục nhận được nhiều hơn sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp trong việc hỗ trợ, đồng hành với thanh niên trong tiến trình lập thân, lập nghiệp, xây dựng quê hương.

Tại hội nghị, Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Hà Sỹ Đồng đã trao 4 tỉ đồng là nguồn vốn vay theo Nghị quyết 103/NQ-HĐND của HĐND tỉnh cho 40 ĐVTN có mô hình khởi nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Lê Trường

 

Huyện Lạc Thủy phát triển nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới

Với định hướng phát triển nông nghiệp hàng hóa, ứng dụng khoa học kỹ thuật và chú trọng xây dựng thương hiệu sản phẩm, huyện Lạc Thủy từng bước nâng cao giá trị sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, tạo đà cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

Với định hướng phát triển nông nghiệp hàng hóa, ứng dụng khoa học kỹ thuật và chú trọng xây dựng thương hiệu sản phẩm, huyện Lạc Thủy từng bước nâng cao giá trị sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, tạo đà cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

Nông dân xã Phú Thành, huyện Lạc Thủy đầu tư phát triển chăn nuôi bò sữa mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Thực hiện Đề án số 03-ĐA/TU, ngày 9/9/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về "Phát triển nông nghiệp, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm gắn với xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025”, huyện Lạc Thủy đã tích cực triển khai nhiều giải pháp, từ rà soát, xây dựng kế hoạch cụ thể, ban hành chương trình hành động phù hợp với điều kiện thực tiễn, đến huy động hiệu quả nguồn lực đầu tư, khuyến khích người dân, doanh nghiệp tham gia sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại.

Lạc Thủy cũng là địa phương đi đầu của tỉnh về phát triển sản phẩm OCOP. Đến nay, toàn huyện có 23 sản phẩm OCOP được tỉnh công nhận, trong đó có 2 sản phẩm đạt hạng 5 sao cấp quốc gia. Các sản phẩm không chỉ đảm bảo tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm, mà còn được chứng nhận quy trình sản xuất VietGAP, chứng nhận vùng trồng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường. Năm 2024, khoảng 90% nông sản chủ lực của huyện được tiêu thụ qua hệ thống siêu thị, chợ đầu mối tại Hà Nội và các tỉnh, thành phố lớn.

Cùng với đẩy mạnh sản xuất, huyện chủ động mở rộng kênh tiêu thụ nông sản thông qua sàn thương mại điện tử. Giai đoạn 2021 - 2023, doanh số bán hàng qua sàn postmart.vn đạt khoảng 1,6 tỷ đồng, tập trung vào các sản phẩm trứng gà, dưa lưới, kim chi măng, na Đồng Bong... Việc ứng dụng công nghệ số không chỉ mở rộng thị trường tiêu thụ, mà còn giúp người dân từng bước tiếp cận phương thức kinh doanh hiện đại.

Xác định xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, huyện Lạc Thủy đã huy động hiệu quả nguồn lực để nâng cấp hạ tầng nông thôn, cải thiện chất lượng cuộc sống. Các tiêu chí về giao thông, thủy lợi, điện, trường học, cơ sở vật chất văn hóa... được quan tâm đầu tư. Khoảng 86% diện tích đất sản xuất đã chủ động được nguồn nước tưới tiêu, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất.

Mức độ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp ngày càng cao, nhất là trong khâu làm đất, thu hoạch. Công tác chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, đào tạo lao động nông thôn được chú trọng. Giai đoạn 2021 - 2024, huyện tổ chức 88 lớp tập huấn kỹ thuật với hơn 3.600 lượt nông dân tham gia; đào tạo nghề cho hơn 1.000 lao động nông thôn. Nhờ đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo ngày càng tăng, góp phần tạo việc làm mới cho khoảng 3.800 lao động, nâng cao thu nhập, giảm tỷ lệ hộ nghèo.

Đến năm 2024, thu nhập bình quân trên mỗi ha đất canh tác của Lạc Thủy đạt 206 triệu đồng, tăng 1,25 lần so với năm 2021. Đây là kết quả từ quá trình chuyển đổi phương thức canh tác truyền thống sang sản xuất hàng hóa quy mô tập trung, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, giống mới vào sản xuất.

Cơ cấu ngành nông nghiệp của huyện có sự chuyển dịch theo hướng cân đối, hiệu quả: trồng trọt chiếm gần 50%, chăn nuôi khoảng 28%, còn lại là lâm nghiệp và thủy sản. Trên địa bàn huyện đã hình thành nhiều vùng sản xuất chuyên canh mang lại giá trị cao như: vùng rau an toàn, vùng chè Sông Bôi, vùng cây ăn quả (na, nhãn, thanh long, macca...). Nhiều sản phẩm nông nghiệp đặc trưng như gà Lạc Thủy, dê Lạc Thủy, chè Sông Bôi, na Đồng Bong đã tạo dựng được vị thế trên thị trường trong và ngoài tỉnh.

Đồng chí Hoàng Thị Thu Hằng, Phó Chủ tịch UBND huyện cho biết: "Lạc Thủy đã hoàn thành 13/14 chỉ tiêu theo kế hoạch đề ra trong Đề án số 03-ĐA/TU. Kết quả này cho thấy sự quyết tâm, nỗ lực của cả hệ thống chính trị và nhân dân trong huyện. Những thành quả đạt được không chỉ tạo nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế - xã hội, mà còn góp phần làm thay đổi diện mạo nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại, bền vững. Trong thời gian tới, huyện sẽ tiếp tục huy động nguồn lực, đẩy mạnh chuyển đổi số trong nông nghiệp, hướng tới nông nghiệp bền vững, thông minh và có giá trị gia tăng cao”.

La Hưng

 

Tái cơ cấu nông nghiệp gắn với phát triển kinh tế nông thôn - Bài cuối: Phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới bền vững

Không thể phủ nhận, với những chủ trương đúng đắn, cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kịp thời của tỉnh Yên Bái và khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế đã góp phần tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội khu vực nông thôn trong những năm gần đây.

Công nhân làm việc trong Nhà máy ươm tơ của Công ty Dâu tằm tơ Yên Bái đặt tại xã Báo Đáp, huyện Trấn Yên.

Việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp ở tỉnh Yên Bái theo hướng nâng cao giá trị gia tăng mục tiêu hướng tới "Nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh”. Trong đó, "Người nông dân là trung tâm, nông thôn là nền tảng, nông nghiệp là động lực” không chỉ làm thay đổi diện mạo sản xuất nông nghiệp mà còn tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới (NTM), nâng cao đời sống người dân một cách toàn diện và bền vững.

Khởi sắc những vùng quê

Có thể thấy, mỗi bước đi trong việc cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng NTM bền vững đều đã và đang góp phần làm tươi mới bức tranh đời sống nông thôn Yên Bái, dệt thêm gam màu ấm no trên những vùng quê một thời nghèo khó.

Đến Báo Đáp hôm nay - xã đầu tiên của huyện Trấn Yên đạt chuẩn NTM, khó ai có thể mường tượng 10 năm trước, địa phương này vẫn là một trong những xã nghèo của huyện; nông nghiệp thuần túy chủ yếu tập trung vào cây lúa, ngô; cây dâu tằm chưa hình thành được vùng, liên kết sản xuất. Trên hành trình xây dựng NTM, Báo Đáp đã cán đích những mục tiêu mới là NTM nâng cao năm 2022 và NTM kiểu mẫu về chuyển đổi số năm 2023.

Nhận thức rõ một trong những vấn đề then chốt trong xây dựng NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu chính là tổ chức lại sản xuất, nâng cao giá trị, thương hiệu sản phẩm, dễ dàng tiếp cận thị trường và thu hút đầu tư. Nền kinh tế nông nghiệp của địa phương được cơ cấu lại, Báo Đáp đã hình thành vùng sản xuất cây dâu tằm tập trung. Các hợp tác xã (HTX) đã ký kết chuỗi liên kết với Công ty Dâu tằm tơ Yên Bái cung ứng giống, tiêu thụ sản phẩm. Công ty này đã đầu tư xây dựng nhà máy ươm tơ hiện đại tại địa bàn xã, bảo đảm ổn định đầu ra cho toàn bộ sản phẩm kén tằm của nhân dân trong xã và vùng lân cận.

Chủ tịch UBND xã Trần Đức Tiến khẳng định: "Việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với xây dựng NTM đã đưa kinh tế nông nghiệp, nông thôn khởi sắc và bứt phá. Những vùng kinh tế, cây kinh tế, ngành nghề ở nông thôn được định hình rõ nét. Hiện nay, Cụm công nghiệp xã Báo Đáp đã thu hút thêm 3 doanh nghiệp mới đầu tư là Công ty Dâu tằm tơ Yên Bái, Chi nhánh Công ty cổ phần Phát triển và Ứng dụng ATECH và Công ty Sản xuất gỗ ván ép Vina. Lĩnh vực thương mại - dịch vụ chuyển dịch phát triển mạnh với khoảng 400 hộ kinh doanh. Báo Đáp hiện nay chỉ còn 0,87% hộ nghèo; thu nhập bình quân đầu người đạt 64 triệu đồng/năm, đứng trong tốp đầu của huyện. Người dân thực sự hạnh phúc với cuộc sống nơi mảnh đất quê hương mình”.

Kinh tế nông thôn giờ không chỉ đơn thuần là ruộng đồng mà đang mở rộng sang du lịch cộng đồng, chế biến thủ công và chuyển đổi số, từng bước đưa nông thôn Yên Bái chuyển mình mạnh mẽ. Thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp, chuyển đổi tập quán canh tác, sản xuất theo hướng liên kết, tập thể, Đại Minh - xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu đầu tiên của Yên Bình đang là địa phương đầu tiên của huyện không còn hộ nghèo, đúng nghĩa là không có tư liệu sản xuất. Cả xã hiện có 5 hộ nghèo, tỷ lệ 0,5% - đây là những hộ thuộc diện cao tuổi, già yếu, đơn thân, không có khả năng lao động.

Chủ tịch UBND xã Nguyễn Kiều Hưng cho hay: "Nếu nói mặt bằng đời sống chung của người dân, Đại Minh đang có mức sống khá so với các địa phương trong huyện. Năm 2023, bình quân thu nhập đầu người của xã đạt gần 60 triệu đồng. Kinh tế nông thôn không còn là thuần túy khi mà NTM thực sự là đòn bẩy động lực. Việc chuyển đổi tư duy sản xuất theo hướng tập trung và tập thể đã thúc đẩy hình thành 4 hợp tác xã và 23 tổ hợp tác nông nghiệp trên địa bàn, hỗ trợ nhau về kỹ thuật, giống cây trồng, vật nuôi, tiêu thụ sản phẩm. Năm 2025, Đại Minh phấn đấu thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 62 triệu đồng.

Từ đời sống kinh tế 2 địa phương tiên phong trong xây dựng NTM, nhìn rộng ra để thấy, kinh tế nông thôn Yên Bái hiện nay đang có những bước phát triển mạnh mẽ, đa dạng và bền vững hơn: nông nghiệp chuyển mình theo hướng hiệu quả, xanh và bền vững; du lịch nông thôn và kinh tế dịch vụ mở rộng không gian phát triển; chuyển đổi số và khởi nghiệp nông thôn tạo hướng đi mới và rõ nhất là thành quả về thu nhập và đời sống nông dân. Đó là sự kết hợp giữa tái cơ cấu ngành nông nghiệp và chương trình xây dựng NTM.

Trong năm nay, tỉnh đặt mục tiêu đào tạo nghề cho trên 4.000 lao động nông thôn, từng bước nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo có chứng chỉ và bằng cấp. Đây là một phần trong mục tiêu lớn của tỉnh nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất và thu nhập cho người dân, giảm nghèo bền vững trên địa bàn.

Xây nông thôn mới vững bền

Nông thôn mới đã làm đổi thay diện mạo từng làng quê tại mỗi địa phương của tỉnh Yên Bái.

Định hướng tiếp tục cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng, đẩy mạnh phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng NTM bền vững, trên quan điểm thay đổi tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp với 3 yếu tố chủ đạo là nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh, ngành nông nghiệp Yên Bái tiếp tục duy trì và phát triển vùng nguyên liệu chuyên canh, phát triển nhanh về quy mô sản lượng, chất lượng các sản phẩm chủ lực, sản phẩm đặc sản, hữu cơ, sản phẩm OCOP gắn với xây dựng nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc, đáp ứng nhu cầu của thị trường, bảo đảm an ninh lương thực.

Đồng thời là phát triển lâm nghiệp đa mục tiêu; bảo vệ tốt diện tích rừng tự nhiên hiện có, nâng cao chất lượng, hiệu quả rừng trồng theo hướng gỗ lớn gắn với du lịch, dịch vụ, công nghiệp chế biến, bảo quản, tiêu thụ, phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Yên Bái khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao, sử dụng hiệu quả tài nguyên gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu; tạo lập sinh kế bền vững trên cơ sở phát huy lợi thế, điều kiện tự nhiên, thế mạnh của các vùng trong tỉnh. Bên cạnh đó, đẩy mạnh thu hút các dự án đầu tư chế biến sâu, sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm sản… đặt nền tảng vững chắc thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn, tạo đà kiến tạo NTM.

Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo Nghị quyết số 20/2021-NQ/TU của Tỉnh ủy, Nghị quyết số 69/2020/NQ-HĐND, Nghị quyết số 05/2022/NQ-HĐND của HĐND tỉnh và các quyết định, đề án của UBND tỉnh sẽ phấn đấu gia tăng tốc độ tăng trưởng khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản năm 2025 đạt 5,85%. Cùng đó là triển khai hiệu quả các chủ trương, chính sách hỗ trợ phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân để đưa cơ cấu tổng sản phẩm nông, lâm nghiệp, thủy sản trên địa bàn đạt 21,1%.

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM được tỉnh chỉ đạo phải bảo đảm theo hướng thực chất, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững gắn với quá trình đô thị hóa nông thôn ở những nơi có điều kiện.

Đặc biệt đã phát huy được vai trò chủ thể, tự nguyện, trực tiếp của người dân trong xây dựng NTM; tích cực thu hút doanh nghiệp đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại, kết nối nông thôn với đô thị; giữ gìn môi trường cảnh quan xanh, sạch, đẹp, giàu bản sắc văn hóa địa phương, nhất là lấy cư dân nông thôn là chủ thể, đem lại sự chuyển biến tích cực rõ nét hơn về nếp sống tới thôn, bản, từng hộ gia đình và cuộc sống trực tiếp của mỗi người dân sinh sống ở nông thôn. Toàn tỉnh phấn đấu trong năm 2025 có thêm 9 xã trở lên đạt chuẩn NTM; 8 xã trở lên đạt chuẩn NTM nâng cao; 3 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu và huyện Trấn Yên hoàn thành tiêu chí đạt chuẩn huyện NTM nâng cao.

Rõ ràng, tái cơ cấu nông nghiệp gắn với phát triển kinh tế nông thôn ở Yên Bái không chỉ là một chủ trương lớn mà đã và đang trở thành một hành trình chuyển mình sâu sắc, toàn diện và đầy sức sống. Đồng đất Yên Bái hôm nay, từ vùng thấp đến vùng cao không còn là độc canh thuần nông truyền thống mà đang dần trở thành những vùng sản xuất hiện đại, xanh, hiệu quả, tạo dựng giá trị bền vững cho cộng đồng.

Kinh tế nông thôn không còn là vùng trũng mà đang bứt phá mạnh mẽ với nông nghiệp công nghệ cao, sản phẩm OCOP, du lịch bản sắc và khởi nghiệp sáng tạo. Phía trước hẳn là vẫn còn nhiều khó khăn nhưng với tư duy mới, cách làm mới và sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị và người dân, nông nghiệp Yên Bái sẽ tiếp tục là "trụ đỡ” vững chắc, là nền tảng thúc đẩy nông thôn phát triển phồn thịnh, bền vững theo đúng tinh thần "Lấy nông dân làm trung tâm, nông thôn làm nền tảng và nông nghiệp làm động lực”.

Minh Thúy

 

'Đòn bẩy' công nghệ giúp nông nghiệp Yên Bái 'vươn mình'

Yên Bái đang chứng kiến một cuộc cách mạng thầm lặng nhưng đầy mạnh mẽ trong lĩnh vực nông nghiệp. Không còn bó hẹp trong những phương thức canh tác truyền thống, người nông dân nơi đây đang dần làm quen và ứng dụng hiệu quả các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa công nghệ trở thành đòn bẩy quan trọng để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hướng tới một nền nông nghiệp hiện đại, bền vững và thông minh.

Mô hình trồng dưa lê Hàn Quốc tại huyện Trấn Yên áp dụng hệ thống tưới tự động giúp tiết kiệm công lao động và chi phí sản xuất.

Một trong những điểm sáng trong bức tranh ứng dụng công nghệ vào nông nghiệp ở Yên Bái phải kể đến dự án chăn nuôi và chế biến thỏ công nghệ cao của Tập đoàn Nippon Zoki (Nhật Bản) tại huyện Văn Chấn.

Với tổng vốn đầu tư lên đến hơn 78,6 triệu USD (tương đương khoảng 1.700 tỷ đồng), dự án này không chỉ là minh chứng cho sức hút đầu tư của Yên Bái mà còn thể hiện tầm nhìn chiến lược trong việc phát triển các lĩnh vực nông nghiệp có giá trị gia tăng cao.

Dự án được triển khai trên diện tích 30ha tại xã Thượng Bằng La, áp dụng các kỹ thuật và công nghệ tiên tiến từ Nhật Bản và châu Âu trong toàn bộ quy trình chăn nuôi, từ nhân giống, nuôi dưỡng đến chế biến. Từ hệ thống chuồng trại, cấp thức ăn, nước uống tự động đến quy trình kiểm soát dịch bệnh nghiêm ngặt, tất cả đều hướng đến việc tối ưu hóa năng suất, chất lượng và bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm.

Bên cạnh những mô hình chăn nuôi quy mô lớn, Yên Bái cũng đang chú trọng phát triển các mô hình trồng trọt áp dụng hệ thống canh tác tự động, thông minh, giảm công lao động nhưng lại cho hiệu quả, năng suất sản phẩm cao hơn.

Đáng chú ý, ngay cả những hộ nông dân nhỏ lẻ cũng đã bắt đầu ứng dụng công nghệ vào sản xuất. Ông Lục Vân Anh tại thị trấn Yên Thế (huyện Lục Yên) đã xây dựng vườn rau an toàn thâm canh theo tiêu chuẩn VietGAP trên diện tích 7.000m2, cho lợi nhuận cao hơn nhiều so với canh tác truyền thống.

Ông Lục Vân Anh chia sẻ: "Hệ thống tưới nhỏ giọt trực tiếp từng gốc cây đã tiết kiệm đến 80% lượng nước tưới và 30 - 40% lượng phân bón, đồng thời tôi chỉ sử dụng chế phẩm sinh học mà không dùng thuốc bảo vệ thực vật".

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp, hợp tác xã trên địa bàn tỉnh cũng tích cực triển khai, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm nâng cao giá trị sản lượng, hiệu quả kinh tế.

Bà Lâm Thị Kim Thoa - Giám đốc Hợp tác xã Trà Shan tuyết Suối Giàng (huyện Văn Chấn), cho biết: "Nhờ việc ứng dụng công nghệ mới kết hợp với bí quyết truyền thống trong chế biến chè Shan tuyết, đặc biệt là kỹ thuật ủ lên men và ướp tẩm hương vị, hợp tác xã hiện sở hữu nhiều loại sản phẩm trà có giá trị cao. Các sản phẩm của chúng tôi được xuất khẩu sang các thị trường cao cấp như Nhật Bản, Đức và Hoa Kỳ. Công nghệ đã giúp chúng tôi kiểm soát tốt hơn chất lượng sản phẩm, đồng thời tạo ra những sản phẩm mới, độc đáo, đáp ứng được yêu cầu khắt khe của thị trường quốc tế”.

Để thúc đẩy quá trình ứng dụng công nghệ vào nông nghiệp, tỉnh Yên Bái đã và đang triển khai nhiều chính sách và chương trình hỗ trợ nhằm khuyến khích đầu tư vào khoa học và công nghệ trong nông nghiệp.

Tỉnh ưu tiên tập trung nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp, đồng thời đưa các giống cây trồng, vật nuôi mới có năng suất, chất lượng cao và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu vào sản xuất đại trà.

Các chính sách hỗ trợ cũng hướng đến việc thu hút các nhà đầu tư, khuyến khích người dân, hợp tác xã và doanh nghiệp đầu tư phát triển và nhân rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Tỉnh đặc biệt chú trọng đến việc hỗ trợ nông dân về giống mới, vật tư và kỹ năng canh tác tiên tiến.

Bên cạnh đó, việc xây dựng và xác lập quyền đối với chỉ dẫn địa lý và nhãn hiệu cho các sản phẩm đặc sản của tỉnh cũng được triển khai, góp phần nâng cao giá trị và uy tín của nông sản Yên Bái trên thị trường.

Tỉnh cũng tích cực thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong nông nghiệp, nông dân và nông thôn, với mục tiêu nâng cao tỷ trọng kinh tế số trong tổng giá trị ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản. Các mô hình thôn, làng, xã chuyển đổi số được triển khai, cùng với việc hỗ trợ các doanh nghiệp và hợp tác xã nông nghiệp chuyển đổi số.

Theo thống kê, trong ba năm qua (2021-2024) các nhiệm vụ khoa học và công nghệ nông nghiệp đã được đầu tư trên 34 tỷ đồng, bao gồm nhiều loại hình dự án khác nhau, cho thấy sự đa dạng trong cách tiếp cận của tỉnh đối với việc ứng dụng khoa học - công nghệ vào nông nghiệp. Cụ thể, đã có 26 giống cây trồng mới, 3 giống cây lâm nghiệp, 9 giống cây dược liệu và 1 giống vật nuôi mới được đưa vào sản xuất đại trà.

Kết thúc năm 2024, tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp tỉnh đạt 3,56%, đứng thứ 5/14 tỉnh trung du và miền núi phía Bắc, đứng thứ 24/63 tỉnh, thành phố cả nước. Cơ cấu nông, lâm nghiệp và thủy sản ước đạt 21,62% trong cơ cấu GRDP của tỉnh.

Các chỉ tiêu chủ yếu của ngành đều cơ bản hoàn thành và hoàn thành vượt kế hoạch: sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước đạt trên 81.000 tấn, bằng 108,5% kế hoạch và 107,9% so với cùng kỳ; sản lượng thủy sản ước đạt 14.605 tấn, bằng 100% kế hoạch và 101,9% so với cùng kỳ. Những kết quả trên cho thấy việc áp dụng công nghệ trong sản xuất nông nghiệp đã tạo chuyển biến mạnh mẽ, đưa nông nghiệp từng bước phát triển ổn định, bền vững.

Những kết quả ban đầu đầy khích lệ cho thấy Yên Bái đang đi đúng hướng trong việc ứng dụng công nghệ vào nông nghiệp. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại, bền vững và thông minh vẫn còn nhiều việc phải làm. Những thách thức như chi phí đầu tư ban đầu cao, nhu cầu về nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn và việc bảo đảm đầu ra ổn định cho sản phẩm vẫn còn tồn tại.

Để vượt qua những thách thức này, Yên Bái cần tiếp tục tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, mở rộng các chương trình đào tạo cho nông dân, tạo ra các chính sách hỗ trợ hấp dẫn hơn và tăng cường hợp tác giữa các bên liên quan.

Hùng Cường

 

Mộc Châu vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao

Phát huy lợi thế về thổ nhưỡng, khí hậu, nông dân thị xã Mộc Châu từng bước thay đổi tư duy sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ. Từ đó, hình thành vùng sản xuất tập trung, liên kết tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị, nâng cao giá trị trên một đơn vị diện tích đất canh tác.

Nông dân phường Mường Sang, thị xã Mộc Châu mở rộng diện tích trồng dâu tây.

Mô hình sản xuất mới hiệu quả

Rải vụ là giải pháp đang được nông dân thị xã Mộc Châu nhân rộng, để kéo dài thời gian thu hoạch, giảm áp lực tiêu thụ, nâng cao giá bán, tăng thu nhập. Tại phường Cờ Đỏ, thời điểm này, nhiều diện tích trồng mận chính vụ mới đang trong giai đoạn dưỡng trái non, thì tại vườn mận của gia đình anh Nguyễn Văn Hạnh, tổ dân phố Pa Khen đã có quả mận chín sớm cho thu hoạch, với giá bán 50.000-100.000 đồng/kg, cao hơn nhiều lần so với giá mận chính vụ.

Thăm vườn mận của gia đình, anh Hạnh chia sẻ: Gia đình tôi, đang áp dụng kỹ thuật rải vụ cho 4 ha mận, cho thu hoạch từ tháng 11 năm trước đến tháng 5 năm sau. Để làm được điều đó, năm 2023, tôi đầu tư hơn 100 triệu đồng, lắp đặt hệ thống tưới nhỏ giọt, đảm bảo nguồn nước tưới và cung cấp đầy đủ dưỡng chất cho cây. Cùng với đó, tôi phải lựa chọn những gốc mận đủ tuổi, đủ điều kiện ra hoa, kết quả sớm; lựa thời điểm tỉa cành, bón phân đúng cách để mận ra quả trái vụ. Bằng kỹ thuật rải vụ, giúp tôi không phải lo lắng nhiều về vấn đề tiêu thụ, thu hoạch đến đâu, thương lái thu mua đến đó; với giá bán trung bình đạt 60.000 đồng/kg, cao hơn gấp 3 lần so với mận chính vụ.

Nông dân phường Đông Sang, thị xã Mộc Châu trồng cà chua trong nhà lưới.

Còn tại phường Đông Sang, hiện có hơn 200 ha trồng rau màu. Nắm bắt được nhu cầu thị trường, nhiều năm nay, các HTX, hộ nông dân đầu tư làm nhà lưới, nhà kính, mua thiết bị, hệ thống tưới nhỏ giọt, tưới phun sương để sản xuất rau trái vụ. Chị Nguyễn Thị Hương, tổ dân phố Tự Nhiên, phường Đông Sang, cho biết: Tôi đã đầu tư hệ thống nhà lưới, nhà màng và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trồng và chăm sóc rau, giúp gia đình chủ động sản xuất các sản phẩm theo nhu cầu thị trường và hạn chế được những tác động tiêu cực của thời tiết. Với 1 ha trồng cà chua và bắp cải trái vụ, so sánh về hiệu quả kinh tế, trồng rau trái vụ cho thu nhập cao gấp 3 lần so với trồng chính vụ, nhờ đó, gia đình tôi thu về hơn 500 triệu đồng/năm từ trồng rau trái vụ.

Cây cam đường canh được đưa vào trồng ở Mộc Châu cũng đã chứng minh hiệu quả kinh tế vượt trội so với các loại cây trồng truyền thống. Được đưa vào trồng từ năm 2015, đến nay tổ dân phố Thái Hòa, phường Cờ Đỏ đã có hơn 100 ha cam. Chị Nguyễn Thị Hiên, tổ dân phố Thái Hòa, cho biết: Từ trồng thử nghiệm 300 cây cam đường canh ban đầu, sau một năm chăm sóc thấy cam phát triển tốt, ít sâu bệnh, có triển vọng, tôi quyết định mở rộng diện tích trồng cam. Đến nay, gia đình tôi có vườn cam hơn 1 ha, sản lượng đạt 25-30 tấn/ha, giúp gia đình thu hơn 1,3 tỷ đồng/năm.

Hỗ trợ ứng dụng công nghệ trong sản xuất

Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 21/01/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển nông, lâm nghiệp và thủy sản tập trung, bền vững, ứng dụng công nghệ cao đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, thị xã Mộc Châu tập trung lãnh đạo đưa công nghệ cao và sản xuất hữu cơ vào nông nghiệp, hướng đến phát triển bền vững và nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp địa phương.

HTX nông nghiệp Dũng Tiến, phường Vân Sơn, thị xã Mộc Châu đầu tư phần mềm điều khiển hệ thống tưới nhỏ giọt qua điện thoại thông minh.

Ông Lê Trọng Bình, Chủ tịch UBND thị xã Mộc Châu, cho biết: Hiện thực hóa mục tiêu của đề án, cấp ủy, chính quyền thị xã Mộc Châu đã chủ động triển khai nhiều biện pháp đồng bộ. Trong đó, bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp để xây dựng và ban hành kế hoạch triển khai, thường xuyên, quyết liệt trong công tác chỉ đạo và kiểm tra các cơ quan, đơn vị, xã, phường, các doanh nghiệp, HTX trong việc ứng dụng chuyển đổi số, công nghệ cao và sản xuất hữu cơ. Đồng thời, tuyên truyền, phổ biến, tập huấn, hướng dẫn nông dân ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản.

Lựa chọn cây trồng mới gắn với áp dụng công nghệ trong sản xuất đã đem lại những thay đổi về lượng và chất ở Mộc Châu. 10 năm trước cây dâu tây được đưa vào trồng ở Mộc Châu, đến nay, đã khẳng định là cây trồng thế mạnh. Bình quân 1 ha cho sản lượng khoảng 15 tấn quả, doanh thu khoảng 2 tỷ đồng. Với giá trị của cây dâu tây mang lại, nhiều hộ đã đầu tư phát triển trồng loại cây này theo tiêu chuẩn VietGAP để nâng cao giá trị sản phẩm. Từ trồng thử nghiệm vài ha, đến nay, thị xã Mộc Châu có gần 130 ha dâu tây, tập trung chủ yếu ở phường Đông Sang, Mường Sang và Mộc Sơn.

Anh Nguyễn Văn Hòa, tổ dân phố Nà Bó 1, phường Mường Sang, cho biết: Dâu tây là loại cây có giá trị kinh tế cao, nhưng cũng là loại cây trồng khó tính, đòi hỏi nhiều công chăm bón. Bởi vậy, ngay từ khâu chọn giống cây trồng, tôi đều chủ động ươm và trồng trong hệ thống nhà màng, nhà lưới; sử dụng phương pháp tưới nhỏ giọt, bón phân tự động, để tăng năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm. Gia đình tôi có gần 3 ha dâu tây, vụ năm nay thu hơn 40 tấn quả, bán được gần 2 tỷ đồng.

Nông dân phường Cờ Đỏ, thị xã Mộc Châu chăm sóc cây mận ra qua rải vụ.

Bức tranh toàn cảnh nông nghiệp huyện Mộc Châu ngày càng đa sắc, với hơn 11.400 ha cây ăn quả, gần 3.000 ha rau, hơn 2.100 ha chè. Các doanh nghiệp, HTX, hộ dân chú trọng ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất với 486 cơ sở ứng dụng tưới tiết kiệm cho hơn 610 ha; 141 cơ sở đầu tư nhà kính, nhà lưới với diện tích hơn 100 ha; hơn 1.120 ha cây ăn quả, rau màu các loại được công nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP; 24 mã số vùng trồng phục vụ xuất khẩu; giá trị sản xuất trên 1 ha đất canh tác đạt gần 80 triệu đồng.

Với sự vào cuộc của cấp ủy, chính quyền địa phương cùng những nỗ lực, sáng tạo, thay đổi tư duy trong sản xuất của nông dân, đã tạo ra sản phẩm nông sản chất lượng, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản Mộc Châu trên thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, từng bước xây dựng Mộc Châu trở thành vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của vùng Tây Bắc.

Huy Thành

 

Phấn đấu 80% lao động nông thôn được đào tạo

UBND tỉnh vừa ban hành Kế hoạch đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh năm 2025. Theo đó, tỉnh phấn đấu tỉ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt 80%, trong đó qua đào tạo nghề nông nghiệp đạt trên 55%.

UBND tỉnh yêu cầu UBND các huyện, thị xã, thành phố xây dựng kế hoạch và bố trí đầy đủ kinh phí để thực hiện đạt chỉ tiêu kế hoạch đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn năm 2025 trên địa bàn quản lý, bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tiễn thị trường lao động và kế hoạch phát triển KT-XH của địa phương; tăng cường tuyên truyền công tác đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn ở cấp xã, nhất là các xã miền núi, vùng đồng bào DTTS.

UBND tỉnh cũng yêu cầu các đơn vị định hướng ngành nghề đào tạo để thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình như: Bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam; mỗi xã một sản phẩm; phát triển du lịch nông thôn; đào tạo cho người lao động biết nâng cao giá trị các sản phẩm chủ lực, phát triển sản phẩm OCOP, biết ứng dụng các công nghệ thông tin, áp dụng các quy trình sản xuất tiên tiến, công nghệ cao.

Đồng thời đào tạo cho người lao động nắm được các tiêu chuẩn, quy chuẩn trong sản xuất nông nghiệp, nông nghiệp thông minh, quy trình kỹ thuật mới, công nghệ mới trong sản xuất, chế biến; bổ sung các nghề mới, nghề đặc thù thu hút nhiều lao động nông thôn và đáp ứng với các yêu cầu phát triển kinh tế nông thôn trong thời gian tới.

Được biết, năm 2024, toàn tỉnh đã tổ chức đào tạo nghề cho 10.197 người, đạt 127,46% kế hoạch. Tỉ lệ lao động qua đào tạo hơn 78%, đạt hơn 100% kế hoạch; trong đó có văn bằng, chứng chỉ 29,15%, đạt 100,5% kế hoạch.

HOÀNG LÊ

 

Nông dân Đăk Đoa thắng đậm nhờ chuyển từ 'sản xuất những gì mình có sang cái thị trường cần'

Trong hành trình hiện đại hóa nông nghiệp, huyện Đăk Đoa đang nổi lên như một điểm sáng của tỉnh Gia Lai nhờ những bước chuyển mình mạnh mẽ trong tái cơ cấu sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho người dân.

Vài năm trở lại đây, huyện Đăk Đoa không còn là một vùng thuần nông với các phương thức canh tác lạc hậu. Thay vào đó, địa phương đã và đang từng bước chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững và hiệu quả cao.

Chuyển mình mạnh mẽ

Việc chuyển đổi sản xuất theo hướng công nghệ cao, giàu khoa học công nghệ là một phần quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới của huyện, hướng tới xóa đói giảm nghèo, làm giàu cho người dân trên địa bàn huyện.

Đại diện ngành nông nghiệp huyện Đăk Đoa cho hay, quá trình chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp tại địa phương tập trung vào 3 trụ cột chính: ứng dụng công nghệ cao, tổ chức sản xuất theo chuỗi liên kết và phát triển các mô hình HTX kiểu mới.

HTX, nông dân ở Đăk Đoa đang chuyển đổi từ "sản xuất cái mình có sang cái thị trường cần".

Thực tế chứng minh việc ứng dụng khoa học công nghệ không chỉ giúp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm mà còn làm thay đổi tư duy sản xuất của người nông dân trên địa bàn huyện. Từ chỗ “sản xuất những gì mình có” sang “sản xuất cái thị trường cần”.

Trong hành trình chuyển mình này, nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Đăk Đoa đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Tiêu biểu là mô hình trồng dưa lưới trong nhà màng của HTX Nông nghiệp và Dịch vụ Tân Hưng, xã Tân Bình.

Với diện tích canh tác hơn 3.000 m², mỗi vụ thu hoạch, HTX có thể cung cấp ra thị trường hàng chục tấn dưa lưới đạt chuẩn VietGAP, chủ yếu tiêu thụ tại TP. Pleiku và TP. HCM.

Ông Nguyễn Văn Hoài – Giám đốc HTX Tân Hưng cho biết: “Chúng tôi đầu tư hệ thống nhà màng, tưới nhỏ giọt tự động và sử dụng giống cây trồng chất lượng cao. Việc áp dụng quy trình sản xuất sạch giúp sản phẩm đảm bảo chất lượng, dễ dàng tiếp cận các thị trường khó tính, đồng thời nâng cao giá trị thu nhập trên cùng một đơn vị diện tích”.

Tạo sức lan tỏa

Mô hình chăn nuôi heo hữu cơ khép kín của HTX Thanh Niên Đồng Tâm (xã Kdang) cũng là một trong những mô hình điểm đáng chú ý trên địa bàn huyện Đăk Đoa.

Với sự hỗ trợ kỹ thuật từ Trung tâm Khuyến nông tỉnh và hợp tác với doanh nghiệp tiêu thụ, HTX này không chỉ mang lại thu nhập ổn định cho các thành viên mà còn tạo việc làm cho hơn 30 lao động địa phương.

“Trước đây, thanh niên ở xã chủ yếu đi làm thuê, nhiều người phải rời quê. Nay với mô hình HTX, họ có việc làm ngay tại địa phương, lại được học hỏi kỹ thuật và chia sẻ lợi nhuận một cách minh bạch”, đai diện HTX Đồng Tâm cho biết.

Không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cho riêng các HTX, mô hình sản xuất hiện đại còn tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực đến cộng đồng nông dân tại Đăk Đoa. Nhiều hộ dân mạnh dạn chuyển đổi cây trồng kém hiệu quả sang các loại cây trồng chủ lực có giá trị kinh tế cao như sầu riêng, cà phê tái canh, rau quả hữu cơ...

Cụ thể, xã Hải Yang đã chuyển đổi hơn 150 ha đất trồng mì, bắp sang trồng sầu riêng và bơ theo hướng hữu cơ. Nhờ áp dụng kỹ thuật cắt tỉa, bón phân vi sinh và sử dụng chế phẩm sinh học, năng suất cây trồng tăng 20 – 30%, thu nhập bình quân của người dân tăng gần gấp đôi so với trước.

Chị Rmah H’Mai, một hộ dân ở thôn Kloong chia sẻ: “Lúc đầu, mình chưa tin lắm vào cách làm mới, nhưng thấy hàng xóm làm có lời nên học theo. Nay vườn bơ nhà mình đã cho trái vụ đầu tiên, thu nhập cao hơn hẳn đi bán mì như trước”.

Hiệu quả của khoa học công nghệ là chìa khóa giúp nông dân, HTX ở Đăk Đoa nâng cao thu nhập.

Để có được những bước tiến vững vàng như hiện tại, thời gia qua, huyện đã chú trọng đến việc xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm, đẩy mạnh liên kết giữa nông dân – HTX – doanh nghiệp – nhà khoa học.

Các mô hình liên kết tiêu biểu như chuỗi sản xuất cà phê đặc sản Đăk Đoa hay chuỗi rau củ an toàn giữa HTX Phú An (xã Glar) và doanh nghiệp phân phối tại TP.HCM đang ngày càng khẳng định vai trò cầu nối thị trường cho người nông dân.

Song song đó, chính quyền huyện cũng tăng cường các chương trình đào tạo, tập huấn kỹ thuật, nâng cao năng lực quản trị HTX và hỗ trợ xây dựng nhãn hiệu, bao bì, truy xuất nguồn gốc. Nhờ đó, nhiều sản phẩm nông sản của Đăk Đoa đã từng bước có chỗ đứng trên thị trường và tham gia vào các sàn thương mại điện tử.

Cũng cần phải nhấn mạnh hiệu quả hoạt động của HTX trên địa bàn huyện Đăk Đoa hiện tại đến từ sự đồng hành thiết thực của các ban ngành địa phương, đặc biệt là sự hỗ trợ của Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Gia Lai.

Điển hình, qua các chương trình hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo và tiếp cận vốn của Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Gia Lai, hàng chục HTX trên địa bàn đã có cơ hội đổi mới phương thức hoạt động và phát triển sản phẩm theo hướng bền vững.

Hướng tới nông nghiệp bền vững

Đáng chú ý, chương trình “HTX phát triển sản xuất gắn với chuỗi giá trị” đã giúp nhiều HTX nông nghiệp tại Đăk Đoa như HTX Nông nghiệp Ia Pết, HTX Sản xuất cà phê hữu cơ Hải Yến… mở rộng thị trường và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Bên cạnh đó, Liên minh HTX Việt Nam còn hỗ trợ xây dựng mô hình HTX kiểu mới gắn với chuyển đổi số. Một số HTX đã được trang bị phần mềm quản lý, ứng dụng truy xuất nguồn gốc sản phẩm, góp phần tăng tính minh bạch và sức cạnh tranh trên thị trường. Ngoài ra, chương trình đào tạo cán bộ HTX cũng được triển khai thường xuyên, giúp nâng cao năng lực quản lý và điều hành.

Theo đánh giá, Đăk Đoa là một trong những địa phương đi đầu trong tỉnh về chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng hiện đại. Tính đến cuối năm 2024, toàn huyện có hơn 40 mô hình ứng dụng công nghệ cao, 25 HTX hoạt động hiệu quả, tạo việc làm cho hơn 600 lao động địa phương.

Hành trình chuyển mình của nông nghiệp Đăk Đoa chưa dừng lại. Trong giai đoạn 2025 – 2030, huyện tiếp tục xác định nông nghiệp công nghệ cao là hướng đi chủ lực, đồng thời khuyến khích phát triển các mô hình kinh tế tập thể, nông nghiệp tuần hoàn và nông nghiệp sinh thái. Mục tiêu không chỉ là tăng năng suất, hiệu quả mà còn là phát triển nông thôn bền vững, giữ gìn môi trường và văn hóa bản địa.

“Chúng tôi đặt kỳ vọng biến Đăk Đoa thành vùng sản xuất nông nghiệp chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu trong nước và hướng đến xuất khẩu. Muốn vậy, người nông dân phải là trung tâm, còn HTX và công nghệ sẽ là công cụ để họ tiến xa hơn”, đại diện ngành nông nghiệp huyện Đăk Đoa nhấn mạnh.

Từ một huyện thuần nông, Đăk Đoa đang từng bước trở thành hình mẫu về chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp trong thời kỳ mới. Hành trình này không dễ dàng, nhưng với quyết tâm từ chính quyền và sự đồng lòng của người dân, tương lai của một nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả và nhân văn tại vùng đất cao nguyên này đang dần hiện hữu.

Nhật Minh

 

Nhiều chương trình cho vay ưu đãi từ nguồn vốn địa phương

Các hộ có mức sống trung bình, các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có nhu cầu vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh để tham gia thực hiện Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), phát triển du lịch nông thôn, phát triển các làng nghề truyền thống, phát triển nông nghiệp theo hướng hữu cơ, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao sẽ được vay vốn ưu đãi từ nguồn vốn địa phương.

Khu vực trưng bày, quảng bá sản phẩm của Cơ sở Phúc Bảo - chuyên sản xuất, kinh doanh trà Phú Hội đạt chuẩn OCOP ở xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch. Ảnh: L.Phương

Đó là những đối tượng được vay vốn ưu đãi được nêu trong Quyết định số 26/2025/QĐ-UBND của UBND tỉnh (gọi tắt là Quyết định 26) quy định về điều kiện, nội dung, mức cho vay ưu đãi để thực hiện một số hoạt động cho vay tại chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn tỉnh. Quyết định 26 chính thức có hiệu lực từ ngày 30-3-2025.

Hỗ trợ vốn vay ưu đãi

Hộ có mức sống trung bình tại địa bàn thuộc phạm vi thực hiện của các chương trình mục tiêu quốc gia sẽ được hỗ trợ vay vốn ưu đãi từ nguồn vốn địa phương. Chính sách này giúp các đối tượng thụ hưởng tiếp cận nguồn vốn ưu đãi phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm và cải thiện sinh kế cho người lao động.

Theo Quyết định 26, mức cho vay tối đa đối với hộ có mức sống trung bình là 100 triệu đồng/hộ với lãi suất bằng lãi suất cho vay đối với hộ mới thoát nghèo theo quy định của Chính phủ trong từng thời kỳ (năm 2025 mức lãi suất quy định là 8,25%/năm). Thời hạn vay tối đa không quá 60 tháng. Mục đích sử dụng vốn vay là tổ chức sản xuất, kinh doanh…

Phó giám đốc Ngân hàng Chính sách xã hội chi nhánh Đồng Nai NGUYỄN SỸ CƯỜNG cho biết, đơn vị sẽ phối hợp với Sở Nông Nghiệp và môi trường để có danh sách hộ có mức sống trung bình, các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình tham gia Chương trình OCOP, phát triển làng nghề truyền thống, phát triển nông nghiệp theo hướng hữu cơ, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh. Đơn vị sẽ phối hợp với chính quyền địa phương thực hiện rà soát nhu cầu vay vốn, sau đó sẽ tổng hợp nhu cầu vốn, báo cáo UBND tỉnh để cân đối vốn giải ngân cho vay, từ đó sẽ giải ngân nguồn vốn vay kịp thời, đảm bảo đúng đối tượng theo quy định.

Phó giám đốc Ngân hàng Chính sách xã hội chi nhánh Đồng Nai Nguyễn Sỹ Cường cho biết, đối tượng áp dụng là hộ có mức sống trung bình có tên trong danh sách UBND cấp xã công nhận theo chuẩn quy định của tỉnh Đồng Nai trong từng thời kỳ.

Đặc biệt, hộ gia đình không phải thế chấp tài sản và được miễn lệ phí làm thủ tục vay vốn. Tuy nhiên, cần đáp ứng điều kiện là thành viên tổ tiết kiệm và vay vốn, được tổ tiết kiệm và vay vốn bình xét, lập thành danh sách đề nghị vay vốn có xác nhận của UBND cấp xã nơi cư trú. Chủ hộ hoặc người được ủy quyền của các thành viên trong hộ là người đại diện hộ gia đình có đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định giao dịch với bên cho vay (cho vay thông qua hộ gia đình, các thành viên trong hộ gia đình cùng chịu trách nhiệm về số tiền vay).

Thêm nguồn vốn vay để phát triển sản phẩm OCOP

Bên cạnh nguồn vốn vay ưu đãi dành cho các hộ có thu nhập trung bình, Quyết định 26 còn quy định các gói vay vốn ưu đãi dành cho các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có nhu cầu vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh để tham gia thực hiện Chương trình OCOP, phát triển du lịch nông thôn, phát triển các làng nghề truyền thống, phát triển nông nghiệp theo hướng hữu cơ, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao…

Theo Ngân hàng Chính sách xã hội chi nhánh Đồng Nai, trong chương trình vay vốn này, đối với hộ gia đình được hỗ trợ vay vốn cần đảm bảo điều kiện là hộ gia đình cư trú hợp pháp trên địa bàn tỉnh và có xác nhận của UBND cấp xã về nơi cư trú. Mức vay vốn tối đa là 200 triệu đồng/hộ. Lãi suất cho vay là 6,6%/năm, thời hạn cho vay cụ thể do ngân hàng chính sách xã hội ở nơi cho vay xem xét nhưng không quá 120 tháng. Mục đích sử dụng vốn vay này nhằm tổ chức sản xuất, kinh doanh để tham gia thực hiện Chương trình OCOP, phát triển du lịch nông thôn, phát triển các làng nghề truyền thống.

Anh Nguyễn Minh Phúc (ngụ phường Bảo Vinh, thành phố Long Khánh) chia sẻ, gia đình anh đang triển khai mô hình trồng dưa lưới trong nhà màng, ứng dụng khoa học kỹ thuật để phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Anh mong muốn địa phương tạo điều kiện để gia đình anh tiếp cận nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi để phát triển, mở rộng mô hình sản xuất dưa lưới sạch, ứng dụng công nghệ cao.

“Đặc biệt, tôi thấy quy định về chương trình vay vốn ưu đãi dành cho hộ gia đình có nhu cầu vay vốn phát triển sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao mà tỉnh mới áp dụng là rất cần thiết để nông dân như tôi có thêm nguồn vốn vay để mở rộng mô hình, đầu tư trang thiết bị để ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất. Tôi cũng mong muốn ngân hàng chính sách xã hội ở địa phương tiếp tục hỗ trợ, đơn giản hóa các thủ tục vay vốn, tạo điều kiện để các hộ sản xuất như tôi tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi một cách thuận lợi, hiệu quả” - anh Nguyễn Minh Phúc bày tỏ.

Bên cạnh đó, theo Quyết định 26, các doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có thể vay vốn tối đa 4 tỷ đồng/dự án để tổ chức sản xuất, kinh doanh, sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

Phó giám đốc Ngân hàng Chính sách xã hội chi nhánh Đồng Nai Nguyễn Sỹ Cường cho biết thêm, một trong những điều kiện để vay vốn ưu đãi là doanh nghiệp, hợp tác xã cần tài sản đảm bảo. Lãi suất cho vay bằng lãi suất cho vay hộ nghèo theo quy định của Thủ tướng Chính phủ trong từng thời kỳ. Mức lãi suất này hiện là 6,6%/năm; thời hạn cho vay không quá 120 tháng.

Lam Phương

 

Hỗ trợ sản xuất nông nghiệp phát triển bền vững

Những năm qua, tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ người dân đầu tư sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo hướng tập trung hàng hóa, ứng dụng khoa học kỹ thuật, gia tăng giá trị. Qua đó tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân, thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững và hiệu quả.

Nhờ được hỗ trợ giống, phân bón, tập huấn kỹ thuật, nông dân thôn Làng Hà, xã Hồ Sơn (Tam Đảo) trồng rau su su theo hướng thâm canh và theo quy trình VietGAP hiệu quả.

Từ năm 2015 đến nay, tỉnh đã ban hành nhiều nghị quyết, kế hoạch, quyết định hỗ trợ sản xuất nông nghiệp như cơ chế chính sách hỗ trợ thực hiện tái cơ cấu ngành Nông nghiệp Vĩnh Phúc giai đoạn 2016-2020; hỗ trợ giống lúa chất lượng cho người trồng lúa trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, giai đoạn 2016-2020; 2020-2025; chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh; hỗ trợ cơ cấu lại ngành Nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho nông dân tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025... Nhờ đó tạo động lực phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, gia tăng giá trị ổn định và bền vững.

Chỉ tính riêng giai đoạn 2020-2024, tỉnh đã dành hơn 207 tỷ đồng để hỗ trợ cấp phát hơn 3.411 tấn lúa giống các loại phục vụ hơn 68,2 nghìn ha gieo cấy, gồm BC15, TBR225, ADI28, ADI168, DQ11, DT39 Quế Lâm, Tân ưu 98….

Riêng năm 2024, tỉnh hỗ trợ hơn 805 tấn giống lúa mới các loại (Tân ưu98, TBR225, ADI168, Hương cốm 4, DT39 Quế Lâm; AID28, Tân Bình) trên hơn 16 nghìn ha; triển khai xây dựng nhiều mô hình trình diễn giống lúa mới, sản xuất lúa hữu cơ bằng giống DT39 Quế Lâm của Tập đoàn Quế Lâm. Nhờ vậy, mặc dù diện tích đất trồng lúa giảm hằng năm do chuyển đổi mục đích sử dụng đất nhưng năng suất, sản lượng lúa vẫn tăng đều hằng năm.

Nếu như năm 2020, năng suất lúa trung bình đạt hơn 58,1 tạ/ha thì đến năm 2023 đạt 59,82 tạ/ha; riêng năng suất lúa vụ Đông Xuân 2023-2024 đạt hơn 62,4 tạ/ha. Sản lượng lương thực năm 2023 đạt 257 nghìn tấn, vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025 đề ra (đến năm 2030, sản lượng lương thực trên địa bàn tỉnh đạt hơn 252 nghìn tấn thóc).

Đến nay, tỷ lệ giống lúa chất lượng đạt 77% tổng diện tích gieo trồng lúa toàn tỉnh (tăng 0,7% so với năm 2020). Hiệu quả kinh tế trung bình tăng thêm từ 3-6 triệu đồng/ha; có diện tích tăng 6 - 8 triệu đồng/ha.

Trong lĩnh vực chăn nuôi, giai đoạn 2020-2024, tỉnh đã hỗ trợ tiêm phòng vắc xin cúm cho hơn 28 triệu con gia cầm; tiêm vắc xin phòng dịch lở mồm long móng cho gần 550 nghìn lượt con trâu, bò; tiêm vắc xin phòng bệnh tụ huyết trùng cho 269,6 nghìn lượt con trâu, bò; tiêm vắc xin lở mồm long móng cho hơn 385,3 nghìn lượt lợn đực, lợn nái giống; tiêm vắc xin phòng dịch tả cho gần 211,8 nghìn con lợn; tiêm vắc xin phòng bệnh tai xanh 384,3 nghìn lượt con lợn; sử dụng hơn 43 nghìn lít hóa chất phun khử trùng, tiêu độc chuồng trại và môi trường chăn nuôi cho hơn 857,7 nghìn lượt hộ.

Hỗ trợ hơn 1,8 triệu con cá chép lai, hơn 1,2 triệu con cá trắm cỏ và 3,42 triệu con cá rô phi đơn tính trên diện tích 535 ha cho 437 hộ; hỗ trợ 6 nghìn con cá tầm, gần 6.700 con cá nheo Mỹ, 22 nghìn con cá trắm cỏ, 1 nghìn con cá trắm đen và 64 nghìn con ếch Thái Lan trên thể tích 6.400 m3 cho 15 lượt hộ trên địa bàn 5 huyện, thành phố: Sông Lô, Lập Thạch, Phúc Yên, Tam Đảo, Yên Lạc…

Với việc triển khai đồng bộ, hiệu quả các chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp, đến nay, trên địa bàn tỉnh đã hình thành hơn 3.100 mô hình, vùng sản xuất trồng trọt, chăn nuôi tập trung hàng hóa quy mô lớn, hiệu quả như: Vùng rau, quả an toàn theo quy trình VietGAP tại các huyện Tam Dương, Tam Đảo, Yên Lạc, Vĩnh Tường, Lập Thạch; chăn nuôi ở Lập Thạch, Sông Lô, Tam Dương, Tam Đảo; mô hình chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ rau, quả an toàn, rau quả sạch.

Trong đó, đã có một số sản phẩm tạo dựng được thương hiệu và đẩy mạnh xuất khẩu như thanh long ruột đỏ, trà hoa vàng, ớt, chuối tiêu hồng… Nhiều mô hình nông nghiệp công nghệ cao, chăn nuôi an toàn sinh học cho thu lãi hàng tỷ đồng mỗi năm.

Với cơ chế, chính sách đúng hướng, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh đạt nhiều kết quả tích cực, liên tục tăng trưởng qua các năm với giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích liên tục tăng.

Ngành trồng trọt đã chuyển dịch mạnh cơ cấu giống, cây trồng, mùa vụ theo hướng sản xuất hàng hóa, phù hợp với điều kiện các vùng sinh thái và địa phương trong tỉnh, tạo bước phát triển mới cho ngành Nông nghiệp theo hướng gia tăng giá trị bền vững, góp phần phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.

Năm 2024, tổng sản lượng lương thực toàn tỉnh đạt 337,2 nghìn tấn, đạt mục tiêu đề ra giai đoạn 2021 - 2025 đưa tổng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản của tỉnh đạt hơn 11.790 tỷ đồng, tăng 1,58% so với năm 2023. Nhờ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, năm 2023, Vĩnh Phúc là tỉnh đứng thứ Nhất vùng đồng bằng sông Hồng và đứng thứ 9 cả nước về tốc độ tăng trưởng nông nghiệp.

Báo cáo đánh giá kết quả 4 năm thực hiện Nghị quyết số 20 của HĐND tỉnh và Quyết định số 07 của UBND tỉnh về triển khai thực hiện các nội dung hỗ trợ cơ cấu lại ngành Nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho nông dân tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025 khẳng định: Tiếp tục thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ nông dân theo Nghị quyết số 20 của HĐND tỉnh đảm bảo hiệu quả hơn nữa.

Theo đó, tiếp tục nghiên cứu lựa chọn, ban hành danh mục các giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản có năng suất, chất lượng để thực hiện tốt chính sách hỗ trợ cơ cấu lại ngành Nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho nông dân trên địa bàn tỉnh; nâng cao trình độ nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, nông nghiệp theo hướng hữu cơ nhằm tạo đột phá về năng suất, chất lượng trong sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản.

Nâng cao nhận thức cho người dân trong việc bảo vệ nguồn lợi cây trồng, vật nuôi. Rà soát, tổng hợp đánh giá lại các hạn chế, điều chỉnh phù hợp với sản xuất trong tình hình mới, phát triển ngành Nông nghiệp hiệu quả, bền vững.

Bài, ảnh: Xuân Hùng

 

Tập trung các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội

Trong những tháng đầu năm, hoạt động sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện diễn ra theo đúng kế hoạch, đảm bảo sự ổn định và phát triển. Ngành công nghiệp, thương mại - dịch vụ tiếp tục phục hồi mạnh mẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của huyện. Bên cạnh đó, lĩnh vực du lịch từng bước khai thác hiệu quả tiềm năng của các điểm du lịch cộng đồng, mở ra nhiều cơ hội phát triển bền vững...

Huyện Lấp Vò tập trung triển khai nhiều giải pháp trong phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững

Theo UBND huyện Lấp Vò, từ đầu năm đến nay, toàn huyện có 13 doanh nghiệp thành lập mới, đạt 18,8%. Số hộ kinh doanh đăng ký mới 171/585 hộ, đạt 29,2%. Tổng số hộ kinh doanh hiện có trên địa bàn huyện là 4.990 hộ.

Trong những tháng đầu năm, huyện tiếp tục triển khai kêu gọi đầu tư các dự án đầu tư tư nhân trên địa bàn, theo đó, có 4 đơn vị đến tìm hiểu và xem xét đầu tư. Đến nay, toàn huyện có 45 sản phẩm OCOP, gồm 5 sản phẩm đạt 4 sao và 40 sản phẩm đạt 3 sao. Số lao động đã tham gia xuất khẩu lao động là 103/230 lao động, đạt 44,8% so với chỉ tiêu tỉnh giao; giới thiệu 1.986 lao động làm việc trong và ngoài tỉnh, đạt 39,7%.

Trong quý 2/2025, địa phương tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ về kinh tế - xã hội năm 2025; đồng thời đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công. Triển khai thực hiện công tác xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo, cận nghèo và người có công; triển khai thực hiện tốt Kế hoạch tổ chức các hoạt động kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025) và 139 năm Ngày Quốc tế lao động (1/5/1886 - 1/5/2025)...

Trang Huỳnh

 

Hậu Giang xúc tiến dự án nông nghiệp không chất thải với đối tác Singapore

Chiều 15/4, UBND tỉnh Hậu Giang có buổi làm việc với các doanh nghiệp Singapore đến tìm hiểu môi trường đầu tư trên địa bàn tỉnh.

Tại buổi làm việc, các doanh nghiệp được thông tin về tình hình kinh tế - xã hội, điều kiện giao thông, cơ sở hạ tầng và chính sách thu hút đầu tư của tỉnh Hậu Giang. Các doanh nghiệp và lãnh đạo tỉnh cùng trao đổi về việc hỗ trợ đầu tư dự án nhà máy nông nghiệp tuần hoàn không chất thải.

Ông Avier Lim Shao-lin, Giám đốc điều hành H2G Green Limited phát biểu tại buổi làm việc. Ảnh: Hồng Thái - TTXVN

Theo ông Avier Lim Shao-lin, Giám đốc điều hành Tập đoàn H2G Green Limited, tập đoàn có thế mạnh trong tham gia sản xuất nhiên liệu sinh học, có nguồn gốc từ chất thải nông nghiệp, thân thiện hơn với môi trường. Khi đầu tư trên địa bàn tỉnh Hậu Giang, tập đoàn mong muốn được hỗ trợ bước vào chuỗi cung ứng phân phối phân bón, tiếp cận thị trường vốn; đồng thời, sẽ hợp tác với Hợp tác xã trái cây sinh học OCOP thực hiện dự án sử dụng công nghệ xử lý các phụ phẩm nông nghiệp theo hướng tuần hoàn, không tạo ra khí thải, nước thải, chất thải ra môi trường.

Ông Trần Bá Sơn, Chủ tịch Hội đồng quản trị Hợp tác xã trái cây sinh học OCOP cho biết, thời gian qua, hợp tác xã đã liên kết nông dân trong và ngoài tỉnh để cung ứng, xuất khẩu trái cây đến 8 nước trên thế giới. Trong quá trình sản xuất, có những phụ phẩm không được xử lý triệt để, gây ra nhiều vấn đề về môi trường. Do đó, việc hợp tác đầu tư dự án nhà máy nông nghiệp tuần hoàn không chất thải sẽ góp phần giải quyết vấn đề về môi trường, tận dụng được những phụ phẩm từ quá trình sơ chế, chế biến nông sản từ các nhà máy ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.

Ông Sơn thông tin thêm, dự án được triển khai tại Khu công nghiệp Tân Phú Thạnh (huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang) và dự kiến thực hiện trong 18 tháng sau khi các bên ký hợp đồng với tổng nguồn vốn 32 triệu USD.

Ông Trần Văn Huyến, Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang phát biểu tại buổi làm việc. Ảnh: Hồng Thái - TTXVN

Ông Trần Văn Huyến, Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang nhấn mạnh, trong thời gian tới, dư địa phát triển của địa phương sẽ mở rộng với việc sáp nhập các tỉnh, thành phố, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh. Tỉnh sẽ hỗ trợ tối đa cho các doanh nghiệp đầu tư theo thẩm quyền, trên địa bàn tỉnh cũng có nhiều ngân hàng sẵn sàng hỗ trợ nguồn vốn cho các doanh nghiệp.

Chủ tịch UBND tỉnh đề nghị, hai doanh nghiệp tiến hành thực hiện sớm các thủ tục, hồ sơ cụ thể của dự án để trình UBND tỉnh cấp chủ trương đầu tư và tin tưởng hai bên sẽ đưa dự án đi vào hoạt động hiệu quả. Đồng thời, mong muốn các doanh nghiệp Singapore sẽ tiếp tục đầu tư trên các lĩnh vực công nghệ thông tin, nông nghiệp, du lịch sinh thái.

Hồng Thái/TTXVN

 

Tuyên truyền, vận động nông dân xử lý rác thải tại Việt Nam

Ngày 15/4, tại Hà Nội, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam đã tổ chức Hội thảo tổng kết dự án 'Tuyên truyền, vận động nông dân xử lý rác thải tại Việt Nam, góp phần vào nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính của cộng đồng quốc tế'. Hội thảo đã thu hút đông đảo đại biểu là nông dân của các tỉnh, thành phố tham dự dự án cùng các nhà quản lý, các chuyên gia nông nghiệp tham dự.

Đại biểu bên mô hình xử lý thải của nông dân được mô hình hóa tại hội thảo. (Ảnh: HNV)

Bà Nguyễn Thị Việt Hà, Phó Chánh Văn phòng Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Phó Giám đốc Ban quản lý dự án cho biết, dự án "Tuyên truyền, vận động nông dân xử lý rác thải tại Việt Nam, góp phần vào nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính của cộng đồng quốc tế" đã thu được những kết quả ấn tượng với 200.000 sản phẩm và tài liệu truyền thông được in và phát hành; 120.000 lượt nông dân được tuyên truyền thông qua hơn 3.200 buổi sinh hoạt tổ, nhóm nông dân; 15.800 lượt hội viên, nông dân được tập huấn kỹ thuật xử lý rác thải thông qua 566 lớp tập huấn cơ sở; 10.700 lượt hội viên, nông dân, đại diện cấp ủy, chính quyền tham gia 154 sự kiện kết nối; 9.150 mô hình xử lý rác thải thân thiện với môi trường đã được dự án hỗ trợ về con giống, chế phẩm, cơ sở vật chất…

Phát biểu khai mạc, ông Mai Bắc Mỹ, Chánh Văn phòng Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Giám đốc Ban quản lý dự án đã ví những người tham gia dự án là “những người gìn giữ tương lai xanh” và khẳng định, dự án đã làm thay đổi nhận thức cũng như thói quen xử lý rác thải của hội viên, nông dân vùng dự án theo hướng thân thiện với môi trường và có tác động lan tỏa đối với cả những hội viên nông dân không trực tiếp tham gia vào dự án.

Các kỹ thuật cũng như cách tiếp cận, phương pháp tuyên truyền, vận động nông dân ứng dụng khoa học hành vi của dự án đã rất phù hợp, dễ hiểu, dễ làm và giúp nông dân dễ dàng thay đổi hành vi, chuyển đổi sang xử lý rác thải thân thiện với môi trường.

Ngày 15/4, tại Hà Nội, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam đã tổ chức hội thảo tổng kết dự án. (Ảnh: HNV)

Tại hội thảo, các đại biểu đã cùng nhau lắng nghe các báo cáo, tham luận, ý kiến thảo luận và đóng góp của các chuyên gia, Hội Nông dân các tỉnh, thành phố, của những nông dân tiêu biểu tham gia dự án về việc triển khai thực hiện các hoạt động dự án và xây dựng mô hình; các bài học kinh nghiệm, đề xuất trong nhân rộng mô hình xử lý rác thải thân thiện với môi trường nói riêng và những mô hình nông nghiệp bền vững, thân thiện với môi trường nói chung.

Theo đó, Hội Nông dân Thành phố Hà Nội cho biết, thực hiện dự án Hội Nông dân Hà Nội đã tuyên truyền, tập huấn cho gần 1.000 cán bộ, hội viên nông dân; xây dựng 135 mô hình ủ lên men phụ phẩm cây trồng; 90 mô hình nuôi gà đệm lót sinh học; 126 mô hình xử lý rơm rạ; 180 mô hình nuôi sâu canxi, trùn quế.

Trong khi đó, tại Ninh Bình, dự án đã được triển khai từ năm 2021 đến quý I/2025 trên địa bàn 9 xã thuộc huyện Nho Quan, Gia Viễn, Yên Khánh. Cụ thể, địa phương đã triển khai 32 lớp tập huấn, hướng dẫn 5 kỹ thuật (lên men phụ phẩm cây trồng làm thức ăn chăn nuôi, ủ phân hữu cơ từ phụ phẩm cây trồng tại ruộng, nuôi gà trên đệm lót sinh học dày, nuôi sâu canxi, nuôi trùn quế) cho 950 lượt hội viên nông dân; hỗ trợ xây dựng 540 mô hình; bàn giao 9 máy băm phụ phẩm nông nghiệp, 18 thùng phân loại rác thải cho Hội Nông dân 9 xã, thị trấn và 8 nhà hàng tham gia dự án; gần 1.000 hội viên, nông dân áp dụng thành công kỹ thuật của dự án.

Hội thảo đã khẳng định thành công bước đầu của dự án và tin tưởng sẽ ngày càng nhiều mô hình xử lý rác thải trong sản xuất nông nghiệp hiệu quả ở nước ta. (Ảnh: HNV)

Chia sẻ về dự án, Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Bến Tre Nguyễn Văn Bàn cho biết, dự án đã nhân rộng đến 1.200 mô hình xử lý rác thải trên địa bàn tỉnh gồm: mô hình lên men phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn chăn nuôi; mô hình ủ phân hữu cơ; mô hình nuôi sâu canxi; mô hình nuôi trùn quế; mô hình nuôi gà trên đệm lót sinh học dày…

Dự án đã góp phần vào duy trì, nhân rộng các kỹ thuật xử lý rác thải hữu cơ thân thiện với môi trường, giải quyết một cách cơ bản việc lãng phí thức ăn dư thừa, chất thải trong chăn nuôi, tận dụng phụ phẩm trong sản xuất nông nghiệp, giảm thiểu lượng rác thải gây ô nhiễm môi trường, từ đó giảm phát thải khí nhà kính.

Có thể thấy, dự án tuyên truyền, vận động nông dân xử lý rác thải không chỉ là một mô hình điểm trong lĩnh vực xử lý rác thải và bảo vệ môi trường mà còn đặt thêm một viên gạch vững chắc cho quá trình chuyển đổi tư duy sản xuất trong nông nghiệp theo hướng tuần hoàn, bền vững.

Ảnh chụp lại nguồn từ báo cáo tổng kết dự án. (Ảnh: HNV)

Cũng tại hội thảo, Tiến sĩ Chu Văn Chuông, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam) bày tỏ vui mừng trước những kết quả tuyệt vời mà dự án đã mang lại.

Nỗ lực của mỗi cá nhân đóng góp Tin tưởng rằng với sự phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ban ngành, địa phương, các nhà tài trợ, Hội sẽ tiếp tục làm tốt công tác vận động, tuyên truyền nông dân áp dụng các phương pháp sản xuất nông nghiệp xanh, an toàn, thân thiện với môi trường.

Ông Mai Bắc Mỹ, Chánh Văn phòng Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Giám đốc Ban quản lý dự án

Đáng chú ý, dưới góc nhìn của nhà quản lý, chuyên gia vận động tuyên truyền, Tiến sĩ Chu Văn Chuông cho rằng, dự án nhằm cụ thể hóa cam kết của Chính phủ trong COP 16 và COP 26, đặc biệt phục vụ cả mục tiêu phát triển nông nghiệp bền vững trong đó tập trung vào đối tượng cốt lỗi là nông dân – chủ thể của nông nghiệp, nông thôn, không chỉ có tác động thay đổi nhận thức mà còn từng bước thay đổi hành vi, giúp nông dân bước đầu xử lý rác thải và lâu dài là tiến tới sản xuất nông nghiệp bền vững, gắn với bảo vệ môi trường và bảo đảm quy chuẩn, tiêu chuẩn chất lượng nông sản Việt trong bước đường hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay.

“Nỗ lực của mỗi cá nhân đóng góp một phần quan trọng quyết định thành công và hiệu quả của dự án này, thúc đẩy cộng đồng cùng nhau xử lý rác hiệu quả hôm nay vì phồn vinh của cộng đồng ngày mai. Với sự phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban ngành, địa phương, các nhà tài trợ, hội sẽ tiếp tục làm tốt công tác vận động, tuyên truyền nông dân áp dụng các phương pháp sản xuất nông nghiệp xanh, an toàn, thân thiện với môi trường”, ông Mai Bắc Mỹ nhấn mạnh.

Dự án “Tuyên truyền, vận động nông dân xử lý rác thải tại Việt Nam, góp phần vào nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính của cộng đồng quốc tế” được Trung ương Hội Nông dân Việt Nam triển khai từ năm 2021 trên cơ sở lựa chọn và tổ chức triển khai tại 15 tỉnh, thành phố với sự tham gia của 135 phường, xã dưới sự tài trợ của tổ chức EarthCare Foundation. Việc triển khai dự án đã mang lại những hiệu quả thiết thực, góp phần kéo giảm phát thải khí nhà kính trong cộng đồng dân cư và mang lại nhiều lợi ích tích cực làm cải thiện đời sống kinh tế của hội viên nông dân.

Dự án có 4 hoạt động chính về thúc đẩy các tổ-nhóm hội nông dân, hội thảo khởi động và kết nối cấp tỉnh, tập huấn cho nông dân về các kỹ thuật phân loại, xử lý rác thải hữu cơ, xây dựng mô hình điểm. Ngoài ra, còn có nhiều hoạt động thiết thực khác nhằm mở rộng dự án đến với hội viên nông dân trên cả nước.

HÀ ANH

 

Nâng cao năng lực quản trị, marketing cho các hợp tác xã

Từ ngày 14-16/4, Liên minh Hợp tác xã (HTX) tỉnh phối hợp với Trung tâm Xúc tiến thương mại và Đầu tư, Liên minh HTX Việt Nam tổ chức hội nghị tập huấn quản lý tiêu thụ nông sản, thí điểm, nhân rộng các giải pháp, sáng kiến phát triển sản xuất nông nghiệp gắn với chuỗi giá trị hiệu quả cho các HTX trên địa bàn tỉnh.

Tham gia lớp tập huấn có trên 60 học viên là cán bộ quản lý, thành viên Hội đồng quản trị các HTX. Trong thời gian 3 ngày các học viên được nghiên cứu, học tập những nội dung: Các giai đoạn phát triển của HTX; hành trình phát triển của sản phẩm; quản trị gian hàng thương mại điện tử và kinh doanh trên internet; xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm; marketing, chăm sóc khách hàng, truyền thông trên nền tảng số; giải pháp phát triển sản xuất nông nghiệp gắn với chuỗi giá trị…

Giảng viên Trung tâm Xúc tiến thương mại và Đầu tư, Liên minh HTX Việt Nam truyền đạt nội dung tại lớp tập huấn.

Hội nghị tập huấn nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đào tạo kỹ năng kinh doanh, tổ chức mạng lưới bán lẻ, đẩy mạnh tiêu thụ các sản phẩm hàng hóa trên môi trường số… cho cán bộ quản lý, thành viên các HTX trên địa bàn tỉnh. Giúp các HTX có định hướng cụ thể, rõ ràng hơn trong hoạch định chiến lược sản xuất, kinh doanh; phát triển sản phẩm gắn với chuỗi giá trị; nâng cao năng lực cạnh tranh và vị thế trên thị trường trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.

Trong chương trình tập huấn, các học viên được đi tham quan thực tế mô hình HTX Mùa Ban, HTX nông nghiệp tổng hợp Noong Luống, HTX dứa Mường Nhà.

Tin, ảnh: Lan Phương

 

Chuyển đổi cơ cấu sản xuất giúp nông dân nâng cao đời sống

Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về XDNTM, công tác chuyển đổi cơ cấu sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân được Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể của huyện Trà Cú đặc biệt quan tâm; trong đó, tập trung tái cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị, giúp nông dân chuyển đổi cây trồng, vật nuôi hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế gia đình.

Bà Thạch Thị Mon Phiếc (bìa trái) ấp Giồng Lớn A phấn khởi với vụ bắp được mùa, được giá.

Huyện Trà Cú có hơn 62% dân số là dân tộc Khmer, cao nhất của tỉnh. Vùng đất Trà Cú một thời được xem là vùng đất khó, sản xuất kém hiệu quả, năng suất bấp bênh, tỷ lệ hộ nghèo cao. Những năm gần đây, với sự hỗ trợ từ Trung ương, của tỉnh và đẩy mạnh chuyển giao khoa học - kỹ thuật, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, đời sống của người dân chuyển biến rõ rệt. Năm 2024, huyện thực hiện chuyển đổi hơn 200ha đất lúa kém hiệu quả sang các loại cây, con có giá trị kinh tế cao, từng bước cơ cấu lại mùa vụ, bố trí cây trồng, vật nuôi theo quy hoạch phát triển.

Tại xã Đại An, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong XDNTM, NTM nâng cao và thực hiện hiệu quả công tác giảm nghèo. Qua tuyên truyền, vận động, nhiều nông dân của xã đã mạnh dạn chuyển đổi cây trồng trên cùng diện tích đất nông nghiệp kém hiệu quả. Trong đó, ông Thạch Long, ngụ ấp Giồng Lớn A là một điển hình; ông đã chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng bắp trên diện tích 4.000m2.

Ông Thạch Long cho biết: với 4.000m2, trong đó 2.000m2 bắp nếp dẻo, tôi bán cho bạn hàng nấu bán ngoài chợ, còn 2.000m2 thì trồng bắp Mỹ, đầu ra ổn định, có thương lái thu mua tận rẫy, giá bán trung bình 7.000 - 8.000 đồng/kg. Được chính quyền, đoàn thể địa phương tuyên truyền, vận động thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, kéo điện phục vụ tưới tiêu nên người dân phấn khởi, đồng tình chuyển đổi sản xuất mỗi năm 01 vụ lúa, 02 hoặc 03 vụ màu, giúp đời sống nâng lên.

Theo ông Thạch Long, từ khi gieo giống đến thu hoạch bắp là 60 ngày, chất lượng giống tốt nên năng suất cao, bình quân 1.000m2 đạt hơn 1,2 tấn bắp, lợi nhuận hơn 07 triệu đồng. Như vậy, với 4.000m2 trồng bắp, gia đình ông lợi nhuận gần 30 triệu đồng.

Được biết, ấp Giồng Lớn A có trên 80% dân tộc Khmer, quen với trồng màu, nhờ chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp, hiện nay, đời sống của người dân nâng cao so với trước đây, nhà cửa khang trang. Nhiều nông dân trong ấp cho biết, từ khi chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang trồng bắp, kinh tế ổn định hơn. Cây bắp rất dễ trồng, phù hợp với khí hậu và thổ nhưỡng của địa phương. Hiện nay, cây bắp được xem là loại cây phát triển kinh tế, thoát nghèo của nông dân xã Đại An. Việc thu hoạch bắp vào giữa tháng 3 đến tháng 4 hàng năm đã trở thành niềm vui, niềm hy vọng của nông dân. Bởi, đây là thời điểm đón năm mới của đồng bào Khmer, nếu được mùa, nông dân sẽ có thêm vốn đầu tư trồng trọt những vụ màu ngắn ngày tiếp theo trong năm.

Bà Thạch Thị Mon Phiếc, ấp Giồng Lớn A chia sẻ: từ khi trồng bắp kinh tế gia đình khá hơn so với làm lúa, tận dụng thêm cây cho bò ăn, đời sống nâng lên. Tôi luôn mong muốn bán được giá cao hơn để có thêm lợi nhuận, tiếp tục sản xuất vụ mùa sau.

Đồng chí Trầm Thị Xuân Triều, Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ xã Đại An, cho biết: người dân chuyển đổi sản xuất từ 02 vụ lúa/năm sang 01 vụ lúa, 02 vụ màu hiệu quả kinh tế cao hơn, đời sống của người dân, cũng như hội viên phụ nữ ngày càng nâng cao. Hiện nay, Hội Liên hiệp phụ nữ phối hợp Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội, Quỹ Hỗ trợ phụ nữ phát triển hỗ trợ vốn cho hội viên vay xây nhà ở, trồng trọt, chăn nuôi, giúp nâng cao đời sống.

Theo đại diện UBND xã Đại An, thực hiện chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp UBND xã Đại An định hướng cho nông dân đưa cây màu xuống chân ruộng, hiện tại, xã tập trung vào 02 cây trồng chủ lực là bí đỏ (diện tích hơn 30ha) và bắp (hơn 25ha) và một số loại cây trồng khác, hiện nông dân đang tiếp tục xuống giống chuẩn bị cho vụ mùa tới. Trên cơ sở chuyển đổi, UBND xã tập trung tuyên truyền, vận động nông dân xuống giống tập trung, thành lập các tổ hợp tác để đảm bảo diện tích và mời các cơ sở, doanh nghiệp liên kết đầu ra nhằm tạo sự an tâm cho người dân.

Việc vận động người dân tham gia các mô hình kinh tế tập thể gắn với thực hiện Đề án chuyển đổi cơ cấu cây trồng đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước trong định hướng phát triển kinh tế- xã hội. Đồng thời, khơi dậy tiềm năng và làm chuyển biến nhận thức của người dân trong sản xuất, góp phần nâng giá trị sản phẩm, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống.

Bài, ảnh: NGỌC XOÀN - NGUYỆT HÂN

 

Hiếu Giang tổng hợp

 

 

 

 

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop