Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 16 tháng 8 năm 2024

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 16 tháng 8 năm 2024

 

Phù Mỹ (Bình Định): Nông dân lãi cao nhờ dưa hấu tăng giá

 

Nguồn tin: Báo Bình Định

Tại các vùng trồng dưa hấu nhiều nhất ở huyện Phù Mỹ (Bình Định) trong vụ Hè Thu này là các xã Mỹ Tài, Mỹ Quang người dân đang khẩn trương thu hoạch để bán vì giá dưa đang ở mức cao, bình quân 6.000 đồng/kg (ảnh). Dưa hấu nông dân thu hoạch đều được thương lái đến thu mua tại điểm tập trung, khỏi phải vận chuyển đi xa.

Theo ông Nguyễn Văn Chớ, Chủ tịch Hội Nông dân xã Mỹ Tài, trên địa bàn xã có khoảng 200 ha được trồng dưa hấu 3 vụ/năm, tập trung nhiều nhất là các thôn Vạn Ninh 1, Vạn Ninh 2, Vĩnh Nhơn, Vạn Thái. Riêng vụ Hè Thu năm nay, toàn xã trồng trên 70 ha, nhờ thời tiết thuận lợi và trồng đúng lịch thời vụ, giá hạt giống và phân bón ổn định nên đạt năng suất cao, bình quân từ 2 - 2,6 tấn/sào, lãi từ 80 - 90 triệu đồng/ha.

 

 

Ảnh: V.T

Vụ Hè Thu này, xã Mỹ Quang trồng 45 ha dưa hấu siêu ngọt, tăng gần một nửa so với vụ Đông Xuân. Hiện nay, các hộ trồng dưa đang khẩn trương thu hoạch để lấy đất chuẩn bị sản xuất kiệu tết.

Anh Ngô Thành Tâm, ở thôn Tân An, xã Mỹ Quang, cho hay: Vụ dưa này, gia đình tôi trồng 8 sào giống Apolo 66, đây là giống dưa ngắn ngày, cho năng suất cao, chất lượng tốt, ruột đỏ, ngọt. Gia đình tôi thu hoạch được gần 18 tấn, bán được giá cao trên 5.200 đồng/kg. Sau khi từ chi phí, lãi gần 50 triệu đồng.

VĂN TỐ

 

Làm giàu từ mô hình trồng bưởi da xanh

 

Nguồn tin: Báo Hòa Bình

Thực hiện phong trào thanh niên lập thân, lập nghiệp, trên địa bàn huyện Yên Thủy (tỉnh Hòa Bình) đã có nhiều tấm gương thanh niên dám nghĩ, dám làm, vươn lên làm giàu chính đáng, góp sức xây dựng quê hương ngày càng phát triển. Trong đó, anh Nguyễn Quang Huy, sinh năm 1998 ở xóm Nghìa 2, xã Ngọc Lương là một điển hình.

 

 

Anh Nguyễn Quang Huy ở xóm Nghìa 2, xã Ngọc Lương (Yên Thủy) bọc những quả bưởi để tránh bị rám nắng, sâu bệnh hại, mưa axit.

Với tinh thần dám nghĩ, dám làm, từ năm 2012, nhận thấy bưởi là loại cây khá phổ biến tại địa phương, lại có giá trị cao trên thị trường, anh Nguyễn Quang Huy đã tận dụng diện tích đất trống của gia đình đầu tư trồng thử nghiệm 200 cây bưởi da xanh. Hợp đất, khí hậu, sau hơn 2 năm, vườn bưởi bắt đầu cho thu quả. Đặc biệt, chất lượng bưởi thơm ngon, quả to, căng mọng nên được thị trường ưa chuộng.

Nhạy bén, chịu khó tìm tòi, học hỏi, anh Huy tích cực ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Nhờ vậy, vườn bưởi da xanh phát triển tốt và cho thu hoạch ổn định nhiều năm nay. Bình quân vườn bưởi cho thu hoạch từ 5 - 6 tấn quả/năm, năm nào được mùa, thời tiết thuận lợi có thể cho đến 7 - 8 tấn. Giá bưởi da xanh hiện được tư thương thu mua tại vườn khoảng 25 - 30 nghìn đồng/kg. Với năng suất và lợi nhuận cao, để tiếp tục nâng cao thu nhập, anh Huy đã nghiên cứu cải tạo vườn để trồng xen ghép thêm 150 cây bưởi diễn và 80 cây cam. Nhờ giá cả tương đối ổn định, vườn cây đem lại cho gia đình doanh thu khoảng 150 đến hơn 200 triệu đồng/năm.

Để cây bưởi phát triển tốt, anh Huy tích cực học hỏi kinh nghiệm qua sách, báo và những mô hình trồng bưởi trong, ngoài huyện. Anh Huy chia sẻ: Muốn thu hoạch được bưởi da xanh ngon, trước hết phải chọn mua giống cây chất lượng, phù hợp với thổ nhưỡng và khí hậu của địa phương. Hàng năm, sau khi thu hoạch quả phải tiếp tục chăm bón cây, cải tạo đất, tưới nước giữ ẩm và cắt, tỉa cành. Thường xuyên kiểm tra cây, quả để sớm phát hiện sâu bệnh và xử lý kịp thời, tránh lây lan ra các cây khác. Ngoài ra, để xây dựng thương hiệu bưởi của địa phương, việc ứng dụng thương mại điện tử trong quảng bá, tiêu thụ sản phẩm cũng rất quan trọng.

Hiện tại, bưởi da xanh được người dân xã Ngọc Lương trồng nhiều và được đánh giá là loại cây chủ lực để phát triển kinh tế. Mặc dù vậy, những năm gần đây, thách thức với người trồng bưởi trong xã nói riêng và huyện Yên Thủy nói chung ngày càng nhiều, nhất là tình hình biến đổi khí hậu. Mưa nhiều, ngập úng dễ dẫn đến nấm bệnh và nguy cơ làm chết cây. Việc thiếu điện vào mùa hè cũng gây khá nhiều bất tiện cho người dân vì không thể hoạt động được hệ thống tưới nước tự động, phải tưới thủ công. Trước những khó khăn đó, anh Huy cùng các hộ trồng bưởi ở đây chủ động thay đổi phương pháp chăm sóc cây để thích ứng, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo thu nhập.

Đồng chí Bùi Thị Lan Phương, Bí thư Đoàn Thanh niên xã Ngọc Lương cho biết: Không chỉ phát triển kinh tế gia đình, anh Huy còn tích cực tham gia các hoạt động xã hội do địa phương, đặc biệt là tổ chức Đoàn phát động; sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ khó khăn với mọi người, xứng đáng là tấm gương để đoàn viên, thanh niên trong xã học tập. Thông qua những mô hình kinh tế của thanh niên đã và đang mở ra hướng phát triển mới trong nông nghiệp, đem lại hiệu quả kinh tế cao, đồng thời hiện thực hóa ước mơ làm giàu trên mảnh đất quê hương.

Hoàng Dương

 

Đồng Nai: Nông dân xã Xuân Thọ nỗ lực khôi phục lại vườn tiêu

 

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai

Xã Xuân Thọ (huyện Xuân Lộc, Đồng Nai) có diện tích tiêu đạt gần 700 hécta. Cây tiêu một thời giúp cho nông dân địa phương giàu nhanh theo sự vươn mình cùng nông thôn mới.

Sau thời gian cây tiêu bị sâu bệnh, mất giá, hiện nông dân xã Xuân Thọ đang có phong trào phục hồi lại vườn và diện tích tiêu.

 

 

Nông dân ấp Lộc Thọ (xã Xuân Thọ) đang đẩy mạnh chăm sóc vườn tiêu đang cho thu hoạch

Trồng tiêu kết hợp chăn nuôi dê

Thời điểm năm 2010, cây tiêu ở xã Xuân Thọ và nhiều vùng trồng tiêu lớn khác trong huyện, tỉnh gặp phải dịch bệnh dẫn tới chết dây, giảm năng suất và giá hạt tiêu trên thị trường xuống dưới 50 ngàn đồng/kg làm cho nông dân trồng tiêu thật sự điêu đứng. Vì lẽ đó, trong suốt thời gian dài, các vườn tiêu bị bỏ bê, chăm sóc kém càng thêm xơ xác.

Đầu năm 2024, giá hồ tiêu bắt đầu tăng dần đến mốc gần 200 ngàn đồng/kg, càng tạo động lực cho nông dân xã Xuân Thọ tập trung vốn, kỹ thuật, công sức chăm sóc diện tích vườn tiêu hiện còn gần 700 hécta, trong đó tập trung cải tạo lại một số diện tích tiêu đã già cỗi, kém năng suất và cả trồng mới.

Cây tiêu ở xã Xuân Thọ phần lớn bám thân những cây gòn, cây lồng mức, cây Muồng đen… mà phát triển. Chính vì vậy, ngoài thu nhập từ cây tiêu, nông dân địa phương còn tận dụng lá các cây trồng làm nọc tiêu để chăn nuôi dê, rồi tận dụng nguồn phân dê chăm sóc lại cho vườn tiêu.

Chi hội trưởng Chi hội Nông dân ấp Thọ Lộc (xã Xuân Thọ) Vương Văn Công bộc bạch, khi hồ tiêu có giá, tổng đàn dê của ấp cũng đạt hàng ngàn con. Mô hình Trồng tiêu kết hợp chăn nuôi dê không cần diện tích đất sản xuất lớn cũng mở ra cơ hội khá, giàu cho nông dân.

Tìm lại vị thơm của tiêu

Cây tiêu có mặt nơi vùng đất Xuân Thọ khi việc khai hoang phục hóa vùng đất của nhà nông đã thành hình. Năm 2010, cây tiêu trở thành cây trồng chính của nông dân xã Xuân Thọ, bên cạnh những cây trồng chính như: lúa, bắp, cà phê, điều, hoa màu. Tuy nhiên, thời điểm này, cây tiêu được đánh giá là cây trồng đem lại giá trị kinh tế cao hơn hẳn các cây trồng khác khi một hécta tiêu cho thu nhập từ vài trăm triệu đến 1 tỷ đồng/năm.

Cũng ở thời điểm này, vùng đất ấp Thọ Lộc (xã Xuân Thọ) xuất hiện người trồng tiêu giỏi nhất thế giới Trần Hữu Thắng (nông dân gọi là “vua" tiêu). Nông dân Thắng nổi tiếng với kỹ thuật chăm sóc vườn tiêu cho năng suất ổn định từ 8-11 tấn/hécta/vụ, lợi nhuận đạt trên 600 triệu đồng/hécta/năm.

Thời điểm năm 2018-2020, giá hồ tiêu bắt đầu hạ, cùng với dịch bệnh chết nhanh, chết chậm xuất hiện diện rộng khắp các vườn tiêu trong và ngoài xã Xuân Thọ. Điều này càng làm cho người trồng tiêu không chỉ ở xã Xuân Thọ mà khắp nơi thua lỗ nặng, dẫn tới ngưng đầu tư chăm sóc, chuyển sang trồng cây khác.

Theo một số nông dân trồng tiêu ở xã Xuân Thọ, lý do họ phục hồi diện tích vườn tiêu vì cây tiêu đã qua giai đoạn dịch bệnh chết nhanh, chết chậm diện rộng, nguồn tiêu xuất khẩu đang khan hiếm, phần lớn diện tích trồng tiêu cũ đã được nông dân chuyển sang trồng cây dài ngày nên không dễ dàng quay lại với tiêu ngay được. Tuy vậy, hiện người trồng tiêu đang gặp khó khăn về giống khi cải tạo vườn; nhân công trồng, chăm sóc, thu hoạch tiêu khó tìm và giá cao…

Thời tiết tháng 8, mưa nắng điều hòa làm cho các vườn tiêu đang cho thu hoạch của nông dân xã Xuân Thọ thêm xanh, sung sức ra hoa, kết hạt. Riêng các vườn tiêu mới trồng thì nhanh chóng vươn lên những lá non xanh mướt. Thêm một lần nông dân xã Xuân Thọ nỗ lực quay lại với cây tiêu. Hy vọng thời gian tới, cây tiêu sẽ giúp nông dân địa phương làm giàu, cuộc sống ngày càng sung túc.

Nông dân Phạm Văn Hoành (ngụ ấp Thọ Trung, xã Xuân Thọ) cho biết, thời điểm năm 2019, giá hồ tiêu chỉ còn 40-50 ngàn đồng/kg thì vườn tiêu càng thêm xơ xác vì dịch bệnh trên cây tiêu, lẫn ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 nên khi bàn về sự phục hồi vườn tiêu, người trồng tiêu rất kiệm lời. Nay giá tiêu có thời điểm lên tới gần 200 ngàn đồng/kg nên chỉ cần một người mở lời sẽ có nhiều người tham gia góp ý.

Nhân Thái

 

Mắc ca được giá

 

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Nông dân huyện Krông Năng (tỉnh Đắk Lắk) đang bước vào thời điểm thu hoạch rộ mắc ca. Năm nay, năng suất không tăng nhưng giá thu mua cao hơn năm trước từ 10.000 - 20.000 đồng/kg nên người trồng mắc ca rất phấn khởi.

Năm 2003, cây mắc ca được đưa vào trồng khảo nghiệm tại xã Dliê Ya và Phú Lộc do Tổng Cục lâm nghiệp đầu tư theo hình thức xen canh trong vườn cà phê. Hiện nay, huyện Krông Năng trở thành địa phương đứng đầu toàn tỉnh về diện tích mắc ca, với 3.759 ha, trong đó khoảng 1.500 ha cho thu hoạch; chủ yếu trồng xen trong vườn cà phê, hồ tiêu, cây ăn quả với mật độ khoảng 100 cây/ha. Sản lượng niên vụ 2023 - 2024 ước đạt 3.600 tấn. Theo bà con nông dân, năng suất mắc ca vụ này chỉ đạt khoảng 1,2 tấn/ha nhưng giá thu mua từ 80.000 - 100.000 đồng/kg sau khi tách vỏ nên vẫn thu về hơn 100 triệu đồng/ha...

 

 

Sơ chế hạt mắc ca tại Công ty Cổ phần Damaca Nguyên Phương (xã Phú Lộc).

Gia đình bà Bùi Thị Nhung ở thôn Lộc Phú (xã Phú Lộc) trồng xen canh 200 cây mắc ca trong vườn cà phê rộng 2 ha, nhiều cây đã 10 năm tuổi. Bà cho biết, năng suất mắc ca ổn định, thậm chí vụ sau tăng hơn vụ trước do cây càng lớn, tán rộng hơn. Mắc ca thu về, tách vỏ tại nhà rồi bán cho thương lái hoặc cơ sở thu mua, đầu ra ổn định. Mắc ca có thể phơi khô cất giữ đợi khi được giá thì bán, không sợ hư hỏng. Năm ngoái gia đình bà thu được gần 2 tấn hạt mắc ca tươi, bán với giá 65.000 - 75.000 đồng/kg. Năm nay cũng thu hoạch chừng đó song giá tăng lên trên 90.000 đồng/kg nên mỗi cây mắc ca gia đình bà thu được gần 1 triệu đồng.

Tương tự, gia đình bà Hà Thị Phán ở buôn Ea Krái (xã Dliê Ya) cũng trồng hơn 100 cây mắc ca xen canh vườn tiêu 1 ha. Vụ này, gia đình bà thu được khoảng 1,2 tấn quả tươi, thương lái đến mua với giá trên 90.000 đồng/kg (loại đã tách vỏ). Theo bà Phán, so với trồng cà phê thì mắc ca ít tốn công chăm sóc. Đến vụ thu hoạch, mỗi héc-ta chỉ cần 2 - 3 nhân công thu hái trong vòng 15 ngày là xong. Mỗi cây mắc ca kinh doanh có thể cho trung bình từ 8 - 20 kg hạt (tùy độ tuổi của cây).

Xã Dliê Ya là địa phương trồng nhiều mắc ca nhất trên địa bàn huyện với gần 770 ha, sản lượng ước đạt 2.700 tấn hạt. Theo ông Vũ Anh Tuấn, Phó Chủ tịch UBND xã, mắc ca là cây lâm nghiệp, chi phí đầu tư thấp, cho năng suất, giá cả tương đối ổn định. Hạt mắc ca dễ bảo quản trong thời gian dài mà không bị hư hỏng. Mặc dù là cây trồng cho giá trị kinh tế cao nhưng ngành nông nghiệp huyện cũng như chính quyền xã khuyến cáo người dân không nên ồ ạt mở rộng diện tích mà tập trung chăm sóc vườn cây đang có và xen canh với nhiều loại cây trồng khác trên cùng một đơn vị diện tích để tránh rủi ro. Huyện Krông Năng hiện có 58 hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp; trong đó có 48 hợp tác xã đăng ký ngành nghề kinh doanh kết hợp sản xuất và chế biến sản phẩm cà phê, mắc ca. Ngoài ra, còn có nhiều doanh nghiệp, cơ sở chuyên thu mua, sản xuất và chế biến hạt mắc ca.

Cây mắc ca rất phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu ở huyện Krông Năng. So với các địa phương khác trong tỉnh, cây mắc ca trồng trên địa bàn huyện cho năng suất cao, chất lượng tốt hơn, được thị trường rất ưa chuộng" - Trưởng Phòng NN-PTNT huyện Lê Ký Sự.

Đơn cử, từ năm 2016 đến nay, Công ty Cổ phần Damaca Nguyên Phương (xã Phú Lộc) đã đầu tư máy móc, xây dựng nhà xưởng chuyên sấy, chẻ hạt, máy hút chân không... để thu mua mắc ca cho nông dân trên địa bàn huyện và địa phương lân cận. Hiện đang trong giai đoạn cao điểm mùa thu hoạch mắc ca nên mỗi ngày công ty mua từ 7 - 10 tấn quả để sơ chế, chế biến, bán ra thị trường trong nước và xuất khẩu. "Nhu cầu mắc ca trên thị trường khá lớn, đặc biệt để phục vụ chế biến sản phẩm bánh kẹo cho thị trường Tết Trung thu và dự trữ hàng hóa dịp Tết Nguyên đán. Từ nay đến cuối năm còn khá nhiều đơn đặt hàng, do đó công ty sẵn sàng thu mua sản phẩm cho người dân", chị Nguyễn Thị Thu Phương, Giám đốc Công ty cho hay.

Cây mắc ca không những cho thu nhập cao về kinh tế mà còn giúp che phủ, không để đất xói mòn, chịu hạn tốt, ít phải sử dụng thuốc trừ sâu. Do đó, ngoài cà phê là cây trồng chủ lực thì cây mắc ca đang được huyện Krông Năng quan tâm nâng tầm nhằm giúp nông dân trên địa bàn huyện có thêm nguồn thu nhập đáng kể.

Huyện Krông Năng có 15 sản phẩm đạt chứng nhận OCOP (Chương trình mỗi xã một sản phẩm); trong đó có 14 sản phẩm đạt 3 sao và 1 sản phẩm đạt 4 sao. Riêng mắc ca có 4 sản phẩm đạt chứng nhận OCOP 3 sao, 1 sản phẩm đạt chứng nhận 4 sao (hiện đang chờ thẩm định nâng cấp lên 5 sao đối với sản phẩm mắc ca của Công ty Cổ phần Damaca Nguyên Phương). Mắc ca của huyện cũng được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp chứng nhận nhãn hiệu “Mắc ca Krông Năng” bởi chất lượng hạt được phân tích và đánh giá rất tốt. Sản phẩm mắc ca Krông Năng cũng được thị trường trong nước và thế giới đón nhận, đặc biệt Công ty Cổ phần Damaca Nguyên Phương đã xuất khẩu mắc ca của huyện sang thị trường Nhật Bản theo đường chính ngạch.

Thế Hùng

 

Lập trang trại hữu cơ từ cây cà rốt cọng tím

 

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Từ TP Hồ Chí Minh trở về quê quán Đà Lạt chọn cây cà rốt cọng tím truyền thống ở vùng nông nghiệp xã Xuân Thọ để chuyển đổi quy trình sản xuất vô cơ sang hữu cơ, vợ Phạm Thị Thu Thúy (sinh năm 1986), kỹ sư môi trường cùng chồng Vũ Đức Hùng (sinh năm 1984), kỹ sư điện đã nhân rộng thành quy mô trang trại hữu cơ, được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lâm Đồng chọn làm mô hình điểm hỗ trợ cấp Chứng nhận hữu cơ theo tiêu chuẩn TCVN 11041-2:2017 năm 2024.

 

 

Chủ Farm hữu cơ Phạm Thị Thu Thúy trong vườn cà rốt hữu cơ cọng tím tại xã Xuân Thọ, Đà Lạt

Chủ nhân Thúy Hùng Farm Phạm Thị Thu Thúy kể lại, từ năm 2019, thôi công việc thu nhập tương đối khá tại một doanh nghiệp TP Hồ Chí Minh, vợ chồng Thúy - Hùng tìm gặp một nhà nông ở xã Xuân Thọ, TP Đà Lạt vận động sản xuất cà rốt cọng tím ngoài trời theo phương pháp hữu cơ, người nông dân này băn khoăn “mấy chục năm chăm sóc cây cà rốt bằng “thức ăn mặn”, nay bắt phải chuyển sang “thức ăn chay” thì e rằng sẽ gặp nhiều khó khăn về cách chăm bón, năng suất thu hoạch và giá trị thu nhập…”. Thúy thuyết phục “vợ chồng chúng tôi cam kết cung cấp hạt giống chất lượng, hướng dẫn kỹ thuật mới về canh tác hữu cơ, đồng thời bao tiêu toàn bộ sản phẩm thu hoạch với giá cao hơn thị trường…”. Nhiều ngày sau khi cân nhắc, trăn trở, nhà nông này quyết định bắt tay với Thúy - Hùng cùng sản xuất ban đầu 2.000 m2 diện tích cà rốt cọng tím theo phương pháp hữu cơ tại xã Xuân Thọ nói trên.

Kết quả hơn 90 ngày thực hành liên tục quy trình nông nghiệp hữu cơ từ gieo hạt giống trồng đến nuôi dưỡng, phòng trừ sâu bệnh, thu hoạch, nhà nông hợp tác vợ chồng Thúy - Hùng khá bất ngờ khi nhổ từng cây cà rốt lên khỏi mặt đất, cân nặng 0,3 - 0,5 kg/củ. Nhân lên tổng sản lượng đạt hơn 2 tấn/1.000 m2. Đưa ra thị trường bán tăng giá từ 30 - 40% so với giá cà rốt sản xuất theo phương pháp vô cơ. Vụ mùa tiếp theo, nhà nông này chính thức đồng hành với vợ chồng Thúy - Hùng mở rộng diện tích cà rốt hữu cơ lên 6.000 m2 sản xuất kỹ thuật hoàn chỉnh đến nay. Năng suất cà rốt thu hoạch trung bình trên diện tích 1.000 m2 đạt từ 2- 2,5 tấn vào mùa khô; 1- 1,2 tấn vào mùa mưa. Đặc biệt từ cây cà rốt hữu cơ, vợ chồng Thúy - Hùng bố trí 500 m2 diện tích sản xuất lấy hạt giống cho mùa sau. Sau 6 tháng chăm sóc lấy hạt, phơi nắng tự nhiên khoảng một tuần trước khi đưa ra gieo trồng vụ mới ngoài trời, trồng và thu hoạch gối đầu, mỗi vụ xuống giống trồng diện tích khoảng 700 m2. Theo hợp đồng đầu ra mỗi ngày, Thúy - Hùng Farm bao tiêu 100 - 200 kg cà rốt hữu cơ trên tổng diện tích sản xuất liên kết ở đây.

Từ cây cà rốt cọng tím hữu cơ sản xuất hiệu quả từ năm 2019 đến nay, vợ chồng Thúy - Hùng đã mở rộng quy mô sản xuất hữu cơ trang trại gần 10 ha với gần 40 dòng sản phẩm rau, củ, quả, cây ăn trái, cà phê khác nhau tại các vùng nông nghiệp Trại Mát, Xuân Thọ, Măng Lin, TP Đà Lạt; xã Đạ Sa, xã Đạ Chais, huyện Lạc Dương. Trong đó có 6,6 ha đang đáp ứng các thông số cuối cùng để được cấp Chứng nhận sản xuất hữu cơ theo tiêu chuẩn TCVN 11041-2:2017 nói trên. Trên tổng diện tích trồng rau, củ, quả luân canh ở đây, tính trong tuần đầu tháng 8/2024, Thúy Hùng Farm hữu cơ thu hoạch đưa ra phân phối 100 điểm bán hàng trên thị trường trong nước gồm các sản phẩm chủ lực luân canh như dưa leo, súp lơ xanh, củ dền, cải thảo, củ cải, ớt chuông, cà chua... mỗi ngày hơn 500 kg. Bên cạnh đó, Thúy Hùng Farm đã mở cửa hoạt động cửa hàng rau hữu cơ tại số 233, Nguyễn Công Trứ, Đà Lạt tiêu thụ mỗi ngày 30 - 40 kg rau các loại. Đáng kể với tổng số 10 ha canh tác theo quy trình hữu cơ vừa nêu, Thúy - Hùng Farm đã phân bổ 5 ha trồng cà phê, chuối Laba, mít, thanh long, bơ..., đạt năng suất và giá thị trường tiêu thụ hàng năm cao hơn 30 - 40% so với biện pháp canh tác thông thường.

“Quy trình sản xuất hữu cơ của trang trại chúng tôi đến nay ổn định lượng phân chuồng bò, dê chăn nuôi an toàn dịch bệnh từ Ninh Thuận mua về ủ với men sinh học 2 - 3 tháng đưa ra sử dụng cho tất cả các loại cây trồng, đồng thời thay thế hoàn toàn thuốc bảo vệ thực vật phòng trừ sâu bệnh bằng các chế phẩm sinh học phù hợp, tiết kiệm từ 30 - 40% vốn đầu tư qua từng vụ mùa. Qua đó lợi ích cao nhất của trang trại hữu cơ chúng tôi là bảo vệ sức khỏe người sản xuất, bảo vệ môi trường sinh thái trong lành…”, chủ Farm Phạm Thị Thu Thúy chia sẻ.

VĂN VIỆT

 

Rau hữu cơ Kim Long

 

Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế

Gần 10 năm trải qua nhiều khó khăn, thách thức, đến nay, mô hình trồng rau hữu cơ của Hợp tác xã Nông nghiệp Kim Long (TP. Huế) đã ổn định sản xuất, kinh doanh. Bình quân mỗi sào cho thu nhập khoảng 15 triệu đồng/năm, gấp 1,3 lần so với trồng rau thông thường.

 

 

Quầy bán rau hữu cơ ở Kim Long

Bà Trần Thị Đào, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Kim Long thông tin, mô hình trồng rau theo quy trình hữu cơ tại Kim Long được triển khai thí điểm từ cuối năm 2015, với sự hỗ trợ của Hội Nông dân TP. Huế. Chỉ sau đó chưa đầy một năm, mô hình này đã được nhân rộng trên địa bàn và đến nay có sự tham gia của 8 hộ, với diện tích gần 5.000m2.

Khi tham gia mô hình trồng rau này, các hộ được tập huấn kỹ thuật trồng, chăm sóc bằng cách “bắt tay chỉ việc” và thực hiện đúng quy trình trồng rau hữu cơ, từ khâu ủ phân, làm cỏ đến sử dụng nguồn nước tưới đảm bảo an toàn… Phân bón cho rau được các hộ tích cực thu gom, mua phân lợn, phân bò, cây xanh và tiến hành ủ đúng quy trình.

Tổ chức WWF hỗ trợ thêm về kỹ thuật, nguyên liệu, vật dụng để ủ phân, ủ chất dinh dưỡng cho rau từ các loại trái cây, rau củ quả… Trong phòng trừ sâu bệnh, chỉ dùng thảo mộc được pha chế từ gừng, tỏi, ớt hoặc chịu khó bắt bằng tay vào ban đêm. Các hộ tích cực làm cỏ bằng tay, không sử dụng thuốc diệt cỏ hay thuốc hóa học. Đất và nước để phục vụ sản xuất rau hữu cơ đã được lấy mẫu xét nghiệm, đảm bảo an toàn mới đưa vào sản xuất.

Qua nhiều năm triển khai thực hiện, được chăm bón phân hữu cơ, đến nay đất trồng rau hữu cơ đã tơi xốp, giàu chất dinh dưỡng nên cây rau mọc khỏe, tươi tốt, ít bị sâu bệnh. Các loại rau được đưa vào sản xuất như rau dền, mồng tơi, rau muống hạt, các loại cải và các loại rau gia vị như hành lá, rau thơm… Ngoài ra, còn có các loại quả như bầu, bí ngô, bí đao, mướp đắng, mướp ngọt được trồng theo mùa vụ. Thu nhập từ trồng rau hữu cơ bình quân mỗi ha đạt 300 triệu đồng/năm.

Đến nay, thỉnh thoảng các hộ trồng rau được Trung tâm Hành động vì sự phát triển đô thị (ACCD) hỗ trợ, tạo điều kiện đi tham quan, tập huấn để giao lưu, học hỏi thêm kinh nghiệm từ chủ vườn rau Thanh Đông - Hội An (Quảng Nam). ACCD đã hỗ trợ kinh phí để nâng cấp nhà sơ chế đủ tiêu chuẩn để hợp tác xã làm thủ tục đề nghị Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm thủy sản tỉnh cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm.

Thời gian đầu, chỉ có một vài cửa hàng thu mua rau cho các hộ nông dân, sau đó có thêm một số khách hàng nhỏ lẻ khác, trong đó có nhóm khách hàng thân thiện đến trực tiếp thu mua tại vườn, chia sẻ khó khăn với các hộ dân. Còn lại phần lớn sản phẩm hữu cơ được các hộ đem ra bán tại chợ Kim Long. Nhiều khách hàng đã hiểu được tính chất, lợi ích của rau trồng theo hướng hữu cơ nên chọn sử dụng sản phẩm này. Nhờ vậy, hiện nay đầu ra sản phẩm tương đối ổn định, đem lại thu nhập tốt cho các hộ tham gia dự án. Những hộ trồng rau còn hạn chế sử dụng túi nilon khi giao hàng mà chủ yếu sử dụng lá chuối để gói rau, giao rau bằng giỏ đệm, góp phần bảo vệ môi trường. Vườn rau hữu cơ còn là nơi trải nghiệm của học sinh các trường mầm non, tiểu học trên địa bàn thành phố Huế.

Bài, ảnh: Thanh Nga

 

Phú Lương (Thái Nguyên): Nhân rộng diện tích trồng măng lục trúc lên 35ha

 

Nguồn tin: Báo Thái Nguyên

Từ những hiệu quả bước đầu, năm 2024, huyện Phú Lương (Thái Nguyên) tiếp tục nhân rộng diện tích trồng măng lục trúc lên 35ha (tăng 27ha so với năm 2023) tại các xã: Động Đạt, Phủ Lý và Ôn Lương.

 

 

Gia đình ông Bùi Văn Dương (ở xóm Khe Nác, xã Động Đạt, Phú Lương) trồng 350 gốc măng lục trúc và đang được thu hoạch.

Măng lục trúc có nhiều ưu điểm như: chịu hạn tốt, không bị ảnh hưởng bởi sâu bệnh và thâm canh được trên nhiều loại đất; cây măng bắt đầu cho thu hoạch từ năm thứ 2 và thu hoạch ổn định từ năm thứ 3; thời gian thu hoạch kéo dài 6 tháng/năm; trọng lượng đạt khoảng 20kg/khóm/năm; giá bán tại vườn đạt 40 nghìn đồng/kg; măng có thể được chế biến thành nhiều món ăn. Năm 2022, một số hộ dân xã Động Đạt đã đưa cây măng lục trúc vào trồng trên đồng đất địa phương, với diện tích 5ha.

Năm 2023, diện tích trồng cây măng lục trúc tiếp tục được người dân Phú Lương nhân rộng lên 8ha, với 37 hộ tham gia, toàn bộ sản phẩm măng tươi được Hợp tác xã nông nghiệp công nghệ cao Phú Lương bao tiêu.

Vi Vân

 

Làm giàu từ rau lớn siêu nhanh

 

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Trồng đa dạng các loại rau, ưu tiên những loại rau có thu nhập siêu nhanh, một nông dân ở Di Linh (tỉnh Lâm Đồng) đã cho thấy hướng đi năng động. Đó là ông Nguyễn Văn Dư, nông dân thôn Hiệp Thành 1, xã Tam Bố, huyện Di Linh.

 

 

Ông Nguyễn Văn Dư bên vườn bí nụ

Ông Nguyễn Văn Dư chia sẻ, ông là cư dân vùng đất đồng bằng sông Cửu Long, chọn Lâm Đồng là quê hương đã nhiều chục năm nay. Khác với các nông hộ xung quanh thôn Hiệp Thành 1 thường chọn cây cà phê làm cây trồng chính, ông Nguyễn Văn Dư chọn hướng trồng rau thương phẩm. Đặc biệt, ông ưu tiên những loại rau có thời gian sinh trưởng ngắn, cho thu hoạch siêu nhanh.

Vừa thu hoạch bí nụ, một giống bí chuyên lấy hoa, ông Nguyễn Văn Dư vừa chia sẻ: “Bí nụ là một trong những loại rau thương phẩm cho thu hoạch nhanh nhất. Tôi nhập hạt, gieo 12 ngày trên vỉ, sau đó cho ra vườn. Chỉ 30 ngày sau là bí cho thu hoạch. Bí nụ được hái hằng ngày. Sau thu hoạch 45 ngày, vườn bí giảm năng suất, huỷ để trồng lứa bí khác. Một lứa bí nụ, từ gieo hạt cho tới thu hoạch chỉ hơn hai tháng, giá cả rất ổn định, được thị trường ưa chuộng”. Không chỉ bí nụ, ông còn trồng cải dưa, cũng là một giống rau thương phẩm siêu nhanh. Cải dưa, sau khi ươm 2 tuần trên vỉ, sau đó cây non được trồng xuống đất, chỉ 30 ngày là cho thu hoạch. Một năm, có thể thu hoạch tới 10 lứa cải dưa. Ông Dư nhận xét, bí nụ 50 ngàn đồng/kg, cải dưa giá tuỳ thị trường, nông dân có thu nhập rất nhanh từ các loại rau này, giảm rủi ro khi canh tác các loại cây dài ngày.

Ngoài các giống rau siêu nhanh thường được trồng ngoài trời, ông Nguyễn Văn Dư còn làm nhà kính để trồng các giống rau khó tính như cà chua Rita, ớt chuông… Ông cũng đáp ứng nhu cầu của khách hàng bằng việc xuống giống một ha chanh dây Đài Loan, thứ chanh dây có vị đậm, mùi thơm. Chanh dây cũng được hái mỗi ngày để cung cấp cho thị trường TP Hồ Chí Minh. Ông Nguyễn Văn Dư chia sẻ: “Nhu cầu của các cửa hàng rau sạch tại TP Hồ Chí Minh là đa dạng nguồn hàng, đa dạng mặt hàng, rau được canh tác an toàn. Khách hàng rất thích một số loại rau thương phẩm có nguồn gốc Lâm Đồng như: Bí nụ, cải dưa, bắp sú, đặc biệt là các loại cà chua trồng trong nhà kính và chanh dây. Vì vậy, gia đình tôi canh tác tới 3,5 ha rau màu các loại để đa dạng hoá nguồn hàng”.

Theo ông Nguyễn Văn Dư, do vùng đất Tam Bố, Di Linh chưa có diện tích trồng rau đủ lớn, chuyên môn hóa cao như vùng rau thương phẩm Đà Lạt, Đức Trọng hay Đơn Dương, vì vậy khi canh tác, ông thường chọn đa dạng giống cây trồng, ưu tiên những giống cho thu hoạch siêu nhanh. Theo ông, ở các vùng sâu chưa được chuyên môn hóa, cần trồng cây rau thương phẩm theo hướng đa dạng, tránh tình trạng thừa hàng rớt giá, thiệt hại cho nông dân. Đặc biệt, các loại rau siêu nhanh thường rất ít khi bị các loại bệnh tấn công hoặc côn trùng gây hại, việc chăm sóc dễ dàng và ít phải sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Ông cũng khuyến cáo, khi trồng rau an toàn, bà con cần sử dụng phân bón và thuốc theo đúng quy định của ngành Nông nghiệp, đảm bảo thời gian cách ly. Ông cũng cho biết, theo kinh nghiệm của ông, bà con nên tham gia các liên kết, có đầu ra ổn định sẽ an toàn và yên tâm xuống giống, tránh tình trạng bấp bênh được mùa mất giá.

Ngoài tự trồng rau để cung cấp cho hệ thống cửa hàng, ông Nguyễn Văn Dư còn liên kết với một số nông hộ trồng rau trên địa bàn Di Linh để đa dạng hóa các mặt hàng cung cấp cho thị trường. Theo ông, một nông hộ không thể đảm bảo hết tất cả các loại rau theo yêu cầu của đối tác. Vì vậy, ông liên kết với một số nông hộ để thu mua các loại rau gia đình không trồng hoặc năng suất chưa đáp ứng kịp. Mỗi ngày, gia đình ông Nguyễn Văn Dư vừa tự thu hoạch đồng thời thu mua của các nông hộ liên kết với sản lượng 10 tấn rau các loại, cung cấp cho hệ thống cửa hàng tại TP Hồ Chí Minh.

Ông Phạm Tấn Châu - Phó Chủ tịch UBND xã Tam Bố, huyện Di Linh đánh giá cao mô hình trồng rau thương phẩm của gia đình ông Nguyễn Văn Dư. Ông Phạm Tấn Châu nhận xét, ông Nguyễn Văn Dư là nông dân rất tiến bộ, canh tác nông sản hợp lý, là nhà nông gắn bó với người dân xung quanh, sẵn sàng đồng hành cùng Tam Bố xây dựng nông thôn mới. Mô hình trồng rau thương phẩm năng suất cao của ông Nguyễn Văn Dư đã góp phần đa dạng hóa cơ cấu cây trồng của xã Tam Bố, bên cạnh những cây trồng truyền thống như cà phê, dâu tằm. Nông trại của ông Nguyễn Văn Dư cũng giải quyết việc làm thường xuyên cho 8-10 lao động, thu mua rau thương phẩm của các nông hộ trong xã, là một nông dân sản xuất giỏi của mảnh đất Tam Bố.

DIỆP QUỲNH

 

Họp báo thông tin về Festival 100 năm Dừa sáp Trà Vinh và Tuần lễ Vu lan Thắng hội huyện Cầu Kè năm 2024

 

Nguồn tin:  Cổng TTĐT tỉnh Trà Vinh

Chiều ngày 12/8, ông Lê Thanh Bình, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Chủ tịch UBMTTQVN tỉnh chủ trì buổi họp báo để cung cấp thông tin, tuyên truyền về chuỗi các hoạt động diễn ra tại Festival 100 năm Dừa sáp Trà Vinh và Tuần lễ Vu lan Thắng hội huyện Cầu Kè năm 2024.

Tại buổi họp báo, ông Lê Thanh Bình, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Chủ tịch UBMTTQVN tỉnh cho biết: Festival 100 năm Dừa sáp Trà Vinh là sự kiện đặc biệt, lần đầu tiên được tổ chức tại tỉnh Trà Vinh, nhằm tôn vinh, quảng bá thương hiệu, những giá trị đặc sắc của dừa sáp Trà Vinh, góp phần khẳng định sự nỗ lực, quyết tâm đưa các sản phẩm chế biến từ dừa sáp ra thị trường thế giới.

Festival cũng là dịp để tạo điều kiện giao thương hàng hóa, kết nối cung cầu, cũng như tiếp tục bảo tồn, giữ gìn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia Lễ hội Vu lan Thắng hội, tín ngưỡng thờ Ông Bổn của cộng đồng người Hoa huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giúp tăng cường giao lưu, liên kết các sản phẩm du lịch trong và ngoài tỉnh; thực hiện tốt công tác xúc tiến, kêu gọi các đơn vị, tổ chức, cá nhân đầu tư vào việc phát triển ngành du lịch của tỉnh Trà Vinh.

Sự kiện sẽ diễn ra liên tục trong 7 ngày, từ ngày 25/8 - 31/8/2024 (nhằm ngày 22 - 28/7 âm lịch) tại huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, với 12 hoạt động chính. Trong đó, có các hoạt động nổi bật như: chương trình nghệ thuật và bắn pháo hoa tại lễ khai mạc Festival 100 năm Dừa sáp Trà Vinh; hội thảo về cây dừa sáp; trưng bày các sản phẩm đặc sản trái ngon của tỉnh Trà Vinh; hội thi chế biến 100 món ăn ngon từ dừa sáp; tọa đàm "Du lịch Cầu Kè - Tiềm năng ven sông Hậu"; chương trình khai mạc Tuần lễ Vu lan Thắng hội gắn với công bố Quyết định của Bộ trưởng Bộ VHTTDL chứng nhận Lễ hội Vu lan Thắng hội huyện Cầu Kè vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia; hội chợ thương mại; không gian ẩm thực; liên hoan lân sư rồng; trưng bày hình ảnh di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia Lễ Vu lan Thắng hội huyện Cầu Kè; các hoạt động thể thao, trò chơi dân gian; các hoạt động tín ngưỡng thờ Ông Bổn.

Tại buổi họp báo, Ban tổ chức đã trực tiếp làm rõ, giải đáp những câu hỏi của đại diện các cơ quan báo chí về ý nghĩa của việc lấy mốc 100 năm để tổ chức Festival; công tác tổ chức, phân luồng giao thông trong thời gian diễn ra lễ hội Festival; một số vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, việc tạo điều kiện cho phóng viên tiếp cận thông tin cụ thể về lễ hội Vu lan Thắng hội của người Hoa; địa điểm, thời gian tổ chức bắn pháo hoa…

Quốc Bình

 

Hướng đến nền nông nghiệp xanh, sạch, bền vững

Nguồn tin:  Báo Thừa Thiên Huế

Cùng với việc đẩy mạnh áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất, Hội Nông dân (HND) tỉnh Thừa Thiên Huế phối hợp với các ngành liên quan tích cực tuyên truyền, khuyến khích, hỗ trợ cho hội viên, nông dân phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng kinh tế tuần hoàn. Nhiều mô hình nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn phát huy hiệu quả, đem lại thu nhập cao cho người dân.

Mô hình hữu cơ, tuần hoàn

Mô hình nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn của gia đình ông Nguyễn Văn Lịch ở thôn Trạch Hữu, xã Phong Thu (Phong Điền) góp phần bảo vệ môi trường, tạo ra các sản phẩm nông nghiệp an toàn cho sức khỏe của người tiêu dùng. Ông Lịch cho biết, trước đây gia đình ông chăn nuôi theo tập quán truyền thống, tạo ra sản phẩm không đảm bảo chất lượng. Đầu ra sản phẩm khó khăn, không ổn định nên hiệu quả, thu nhập từ chăn nuôi bấp bênh.

Sau nhiều lần được đi tập huấn, tham quan mô hình chăn nuôi từ các trang trại, gia trại an toàn trong và ngoài tỉnh, ông Lịch nhận thấy nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn vừa góp phần cải tạo môi trường, vừa gia tăng hiệu quả kinh tế trên cùng một đơn vị diện tích. Mô hình này hoàn toàn chỉ sử dụng thức ăn và phân hữu cơ, không sử dụng thuốc trừ sâu hóa học, nên sức khỏe của người chăn nuôi, canh tác lẫn chất lượng sản phẩm đều an toàn.

Từ năm 2010, gia đình ông Lịch liên kết để làm nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn theo quy trình của Công ty CP Tập đoàn Quế Lâm. Từ lợi thế diện tích vườn lớn, nắm bắt và học hỏi kỹ thuật “chắc tay” cùng niềm đam mê, ông Lịch ngày càng quyết tâm theo con đường nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn.

Nắm bắt được quy trình kỹ thuật, ông Lịch tận dụng tất cả lợi thế từ đất vườn và chuồng trại của mình để phát triển trồng trọt, chăn nuôi. Hiện tại, mỗi lứa ông nuôi từ 50-70 lợn thịt hữu cơ, trung bình mỗi năm xoay vòng 2,5 lứa. Thu nhập từ chăn nuôi lợn hữu cơ đạt 320 triệu đồng/năm.

Chi hội Nông dân thôn Trạch Hữu mới đây xây dựng mô hình tập thể với cây ăn quả thanh trà 5ha được công nhận chương trình VietGAP. Ông Lịch là một trong những người đi đầu tham gia mô hình, chuyển đổi vườn tạp sang trồng cây ăn quả thanh trà hữu cơ. Ông sử dụng nguồn phân chuồng từ chăn nuôi lợn hữu cơ để bón cho cây thanh trà. Hiện nay, gia đình ông có 200 cây thanh trà, hàng năm thu nhập 100 - 200 triệu đồng.

Ông Lịch luôn sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm và những kiến thức tích góp được cho nhiều người. Với phương pháp làm nông nghiệp hiện đại, thân thiện với môi trường, ông Lịch hiện là thành viên câu lạc bộ nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi cấp tỉnh.

 

 

Mô hình trồng dưa lê ở An Hòa

Hướng đi đúng

Sản xuất nông nghiệp hữu cơ, an toàn là hướng đi phù hợp của tỉnh trong tiến trình xây dựng nông thôn mới, hiện đại, góp phần đưa Thừa Thừa Thiên Huế sớm trở thành thành phố trực thuộc Trung ương. Thời gian qua, tỉnh đã phối hợp với Công ty CP Tập đoàn Quế Lâm xây dựng, mở rộng và phát triển nông nghiệp hữu cơ, kinh tế tuần hoàn trên địa bàn tỉnh. Hội Nông dân (HND) tỉnh cũng phối hợp với Tập đoàn Quế Lâm hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ, kinh tế tuần hoàn giai đoạn 2024-2025.

Mục tiêu của tỉnh, HND tỉnh trong phối hợp với Tập đoàn Quế Lâm, các đơn vị, doanh nghiệp liên quan là nhằm xây dựng, phát triển nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn vì sức khỏe cộng đồng và môi trường sinh thái gắn với xây dựng nông thôn mới. Trên cơ sở thế mạnh từng vùng của mỗi địa phương, HND tỉnh vận động nông dân thay đổi tư duy, chuyển đổi phương thức chăn nuôi, trồng trọt truyền thống sang sản xuất theo hướng organic tuần hoàn Quế Lâm.

Theo ông Nguyễn Hồng Lam, Chủ tịch Hội Nông nghiệp tuần hoàn Việt Nam, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Quế Lâm, tại Thừa Thiên Huế đã xây dựng, hình thành bước đầu hệ sinh thái nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn. Trong đó, có chuỗi giá trị nông sản hữu cơ thu hút hằng trăm hộ nông dân tham gia.

Theo thống kê, toàn tỉnh hiện có khoảng 500ha lúa, ngô, đậu tương… sản xuất hữu cơ theo chuỗi giá trị; 42 hộ dân và 2 hợp tác xã đang hợp tác phát triển chăn nuôi lợn hữu cơ, an toàn sinh học, liên kết theo chuỗi giá trị với hơn 300 lợn nái, 6.000 con lợn thịt, 1.000 con gia cầm/năm và 21 nhà lưới với tổng diện tích hơn 60.000m2.

Thời gian tới, HND tỉnh tiếp tục tuyên truyền, phổ biến các quy trình sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn để xây dựng các mô hình trồng trọt, chăn nuôi có hiệu quả. Trong đó, tập trung phổ biến cơ chế, chính sách đối với phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.

HND các cấp phối hợp hướng dẫn kỹ thuật sử dụng phân bón, các chế phẩm sinh học cho cán bộ chủ chốt, HVND; vận động HVND thay đổi nhận thức, tập tục canh tác từ sử dụng nhiều sản phẩm phân bón vô cơ, chất kích thích tăng trưởng, thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng sang sử dụng các sản phẩm phân hữu cơ, hữu cơ vi sinh theo hướng bền vững. Đồng thời, phối hợp cung ứng dịch vụ phân bón hữu cơ, hữu cơ vi sinh và các chế phẩm sinh học cho HVND phục vụ sản xuất nông nghiệp; xây dựng các gian hàng trưng bày, quảng bá và kết nối tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ cho HVND.

Bài, ảnh: Quang Hòa

 

Phát triển chăn nuôi theo hướng tập trung

 

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

 

 

Người chăn nuôi giảm dần chăn nuôi nhỏ lẻ chuyển sang chăn nuôi có kiểm soát, gia trại, trang trại.

Theo ngành nông nghiệp, tỉnh Vĩnh Long đã và đang định hướng chăn nuôi (CN) tập trung theo hướng công nghiệp. Ưu tiên các dự án trong thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp về con giống, mô hình CN trang trại, CN nông hộ theo hướng an toàn sinh học, xây dựng các cơ sở nuôi an toàn dịch bệnh.

Theo Sở Nông nghiệp-PTNT, thời gian qua, tỉnh duy trì và phát triển các mô hình CN gia cầm tập trung, kết hợp bảo vệ môi trường và an toàn dịch bệnh. Cụ thể, nhiều địa phương trong tỉnh đã quan tâm phát triển mô hình liên kết theo chuỗi có khả năng phòng chống dịch bệnh, giảm phát thải khí nhà kính.

Đến cuối năm 2023, toàn tỉnh có 51 trại thực hiện mô hình nuôi gà trong chuồng lạnh với trên 1,9 triệu con, đầu tư hệ thống úm, làm mát, máng ăn, máng uống tự động; phương thức CN khép kín, xử lý bằng cách thu phân bán, dội rửa chuồng sau mỗi đợt xuất bán đến các ao lắng có lục bình để lọc nước trước khi thải ra sông rạch đã xử lý clorin; sử dụng thêm hệ thống xử lý khí thải bằng phương pháp thiết bị làm lạnh.

Bên cạnh đó, có 9 trại nuôi theo mô hình nuôi heo thịt trong chuồng lạnh, đầu tư khép kín, sử dụng vòi nước uống, máng ăn tự động, có hệ thống xử lý chất thải và có 1 trại sử dụng túi HDPE kết hợp sử dụng máy tách ép phân để sử dụng làm phân bón hữu cơ. Bên cạnh đó, CN gia cầm phát triển khá, chủ yếu do phương thức nuôi công nghiệp, nuôi gia công có xu hướng tăng; thời gian CN rút ngắn, hiệu quả kinh tế đạt khá, từ đó người CN mạnh dạn đầu tư, mở rộng quy mô tăng đàn, tái đàn...

Với các trang trại CN quy mô nhỏ, chủ cơ sở đều quan tâm ứng dụng giải pháp đảm bảo đáp ứng chỉ tiêu an toàn về môi trường như: sử dụng đệm lót sinh học, hệ thống xử lý bằng hầm biogas, xử lý bằng chế phẩm sinh học, ủ phân hữu cơ, xử lý nước thải bằng oxy hóa…

Ông Hồ Phước Dư- Trưởng Phòng Nông nghiệp-PTNT huyện Mang Thít cho biết: Huyện đang tìm điểm triển khai các dự án gồm: “Phát triển giống heo chất lượng cao tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2021-2025”, “Phát triển giống thủy sản tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2023-2025”, “Hỗ trợ phát triển đàn bò sinh sản chất lượng cao theo hướng an toàn sinh học quy mô nông hộ tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2021-2025” và mô hình “CN heo rừng lai sinh sản”.

“Huyện luôn chú trọng tăng cường tuyên truyền, vận động, tạo điều kiện cho người dân giảm dần CN nhỏ lẻ chuyển sang CN có kiểm soát, gia trại, trang trại. Thúc đẩy CN theo hướng liên kết, liên doanh và sản xuất theo chuỗi hàng hóa.

Cùng với đó, ngành nông nghiệp huyện cũng phối hợp mở các lớp tập huấn, phổ biến kỹ thuật CN, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật để nâng cao hiệu quả trong CN gia súc, gia cầm. Đặc biệt chỉ đạo tốt việc thực hiện nghiêm túc công tác phòng, chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm”- ông Dư cho biết thêm.

Theo bà Lê Ngọc Yến- Phó Phòng Nông nghiệp-PTNT huyện Vũng Liêm: Thời gian qua phòng phối hợp các ban ngành đoàn thể huyện, UBND các xã, thị trấn tăng cường công tác tuyên truyền, vận động người dân áp dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến vào trong lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực CN theo hướng an toàn sinh học, VietGAP.

Cụ thể, năm qua, huyện đã duy trì mô hình nuôi gà thịt ở xã Tân Quới Trung với tổng quy mô 84.000 con/đợt nuôi, các mô hình CN gà thịt thương phẩm áp dụng quy trình nuôi khép kín, hệ thống điều hòa không khí, có hồ sơ môi trường theo quy định, hệ thống dây chuyền thức ăn, nước uống với quy mô CN 20.000-34.000 con/hộ/đợt nuôi, được Công ty TNHH TM Vietlight, Công ty Tuấn Phát và Công ty Greenfeed thu mua.

Bên cạnh đó, mô hình CN heo nái sinh sản đạt tiêu chuẩn VietGAP với quy mô 150 con nái ở xã Thanh Bình nhằm cung cấp heo con khỏe mạnh, ít dịch bệnh cho hộ gia đình CN và bán heo thịt.

Tuy nhiên, bà Lê Ngọc Yến cho hay: Ngành nông nghiệp có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển trong CN, đồng thời có nhiều mô hình CN cho hiệu quả kinh tế, nhưng do huyện Vũng Liêm đang trong giai đoạn hội nhập kinh tế, nên cần đẩy mạnh CN theo các tiêu chuẩn.

Do đó, ngành CN cần phát triển theo hình thức trang trại quy mô lớn, an toàn và bền vững, đảm bảo cạnh tranh với các sản phẩm thịt nhập khẩu trên thị trường, đồng thời giảm dần hình thức CN manh mún, nhỏ lẻ.

Thời gian tới, huyện sẽ đẩy mạnh cơ cấu lại ngành CN, phát triển ngành CN có lợi thế, tiếp tục nâng cao chất lượng con giống gia súc, gia cầm, CN theo hướng an toàn sinh học, xây dựng vùng an toàn dịch bệnh viêm da nổi cục trên đàn bò, VietGAP.

Phát triển CN trang trại và tuyên truyền, vận động hộ CN nhỏ, lẻ vào tổ hợp tác, HTX liên kết trong tiêu thụ, xây dựng mã QRcode truy xuất nguồn gốc trong CN đối với HTX, trang trại. Tăng cường công tác phòng, chống các loại dịch bệnh nguy hiểm để bảo vệ đàn vật nuôi. Duy trì và mở rộng các mô hình CN có hiệu quả kinh tế, giảm giá thành trong CN và sử dụng có hiệu quả chất thải trong CN để bảo vệ môi trường.

Tính đến cuối năm 2023, toàn tỉnh có 1.074 trang trại CN; 158 cơ sở CN chim yến; có 55,8ha cá tra được chứng nhận VietGAP/ASC/BAP, có 1ha nuôi thủy sản được chứng nhận tiêu chuẩn VietGAP, 1 cơ sở nuôi thủy sản lồng bè được chứng nhận tiêu chuẩn VietGAP với thể tích 7.128m2 và duy trì 1 cơ sở sản xuất giống cá tra 4,5ha đạt chứng nhận VietGAP, cung cấp 54 triệu con giống/năm; có 2 nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu còn đang hoạt động, công suất thiết kế có khả năng tiếp nhận khoảng 150.000 tấn nguyên liệu/năm và sản xuất khoảng 70.000-80.000 tấn thành phẩm và 24 cơ sở an toàn dịch bệnh.

Ông Nguyễn Văn Liêm- Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp-PTNT tỉnh cho biết: Ngành tiếp tục phát triển theo hướng CN trang trại, hộ CN chuyên nghiệp từng bước ứng dụng công nghệ cao, đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, an toàn dịch bệnh; xây dựng và nhân rộng các mô hình khai thác hiệu quả nguồn phụ phế phẩm CN, thúc đẩy phát triển nông nghiệp tuần hoàn trong chuỗi sản phẩm CN; từng bước cơ cấu lại hệ thống cơ sở giết mổ mở rộng quy mô, đổi mới dây chuyền thiết bị đảm bảo vệ sinh thú y, an toàn thực phẩm và vệ sinh môi trường.

Bài, ảnh: NGUYÊN KHANG

 

Nghề nuôi ong lấy mật

 

Nguồn tin: Báo Bình Phước

Với lợi thế đất rộng, diện tích cây công nghiệp như điều, cao su, cà phê và cây ăn trái nhiều, Bình Phước đã và đang phát triển nghề nuôi ong lấy mật. Thực tế cho thấy, nghề nuôi ong không cần nhiều vốn, cho thu nhập khá nên đã có nhiều hộ dân đầu tư nuôi ong.

Gắn bó với nghề nuôi ong gần 20 năm, gia đình ông Vũ Văn Bồng ở thôn 10, xã Long Hưng, huyện Phú Riềng đang sở hữu 260 thùng ong. Trung bình 1 năm, đàn ong của gia đình ông cho thu khoảng 30 tấn mật, lợi nhuận hàng trăm triệu đồng. “Nuôi ong cũng nhàn, phù hợp cả với những người lớn tuổi như tôi, chỉ vất vả là lúc quay mật. Chỉ cần giá cả ổn định là người nuôi ong sống khỏe” - ông Bồng chia sẻ.

Theo ông Bồng, nghề nuôi ong lấy mật không khó, nhưng đòi hỏi người nuôi phải cẩn thận, tỉ mỉ và am hiểu đặc tính của ong như xây tổ, chia đàn. Đồng thời cũng cần hiểu biết về các loài hoa; cách luân chuyển đàn ong để tìm kiếm nơi có nguồn mật hoa dồi dào; cách học làm ong chúa, xử lý ong bệnh... Ong thường mắc bệnh bại liệt, tiêu chảy, nếu không phát hiện, điều trị kịp thời thì ong rất dễ bị lây lan dẫn đến mất cả đàn. Ngoài ra, ong hay bị bọ trĩ cắn, làm suy kiệt gây chết. Do vậy, người nuôi ong phải am hiểu, có kinh nghiệm, biết áp dụng khoa học - kỹ thuật trong chăm sóc mới mang lại hiệu quả cao.

“Ong thường bị tấn công bởi các loại sâu bệnh và vi khuẩn gây hại, làm suy giảm nghiêm trọng số lượng đàn. Bên cạnh đó, thuốc trừ sâu, phân hóa học được sử dụng trong nông nghiệp cũng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và cho mật của đàn ong” - ông Bồng cho biết thêm.

Còn anh Vũ Văn Phòng ở thôn 2, xã Long Bình, huyện Phú Riềng đang nuôi 200 thùng ong trong vườn cao su. Để đàn ong phát triển tốt, cho nhiều mật, anh đặt thùng ong cách xa trường học, khu chế biến sản phẩm chăn nuôi, bệnh viện, hệ thống kênh mương thoát nước thải... Một năm phải thay ong chúa 1 lần, thường xuyên vệ sinh thùng và khu nuôi. Mùa mưa che chắn cẩn thận, không để ong bị lạnh, không để mưa thấm ướt thùng.

Anh Phòng cho biết, trong quá trình nuôi ong lấy mật, người nuôi không chỉ tỉ mỉ, chịu khó chăm sóc mà còn phải am hiểu tập tính của ong, hiểu biết về các loài hoa, mùa hoa nở, mùa ong đi lấy mật, những nơi có nguồn mật hoa dồi dào. Đặc biệt, phải nắm được quy trình ra hoa của các giống cây, lựa chọn các loài hoa tạo mật tốt để ong hút nhụy. Như vậy mới có thể duy trì được số lượng đàn cũng như chất lượng mật.

Do đàn ong sống trong một quần thể lớn, bay rất nhiều nơi để tìm phấn hoa nên khả năng nhiễm và lây bệnh rất cao, nhất là mùa hoa nhãn vì người dân sử dụng thuốc bảo vệ thực vật nhiều. Khi phát bệnh, người nuôi khó kiểm soát sự lây lan giữa các cá thể ong với nhau. Dịch bệnh có thể tiêu diệt đàn ong một cách nhanh chóng. Do đó, việc phòng bệnh cho ong là hết sức quan trọng.

Anh Phòng chia sẻ: “Mỗi thùng tôi để từ 6-10 cầu ong. Vào mùa mật chính, khoảng 10 ngày tôi quay mật 1 lần, mỗi thùng thu được 5-6kg mật. Thị trường tiêu thụ mật ong cũng thuận lợi, tuy nhiên vài năm nay giá giảm thấp. Hy vọng, thời gian tới, việc xuất khẩu mật ong thuận lợi, giá mật tăng lên thì người nuôi ong sẽ có cuộc sống tốt hơn".

 

 

Anh Vũ Văn Phòng vệ sinh thùng và khu nuôi ong

Hiền Lương

 

Hậu Giang khống chế 4 ổ dịch, tiêu hủy 211 con heo mắc bệnh dịch tả heo châu Phi

 

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Sở NN&PTNT tỉnh Hậu Giang cho biết, từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh xảy ra 4 ổ dịch bệnh dịch tả heo châu Phi; trong đó, có một ổ tại huyện Châu Thành A, còn 3 ổ ở thành phố Vị Thanh. Tổng số heo chết và tiêu hủy do mắc bệnh dịch tả heo châu Phi đến ngày 18-7 là 211 con, trọng lượng 5.540kg.

 

 

Ngành chức năng tỉnh khuyến cáo người dân cần chủ động thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống bệnh dịch tả heo châu Phi.

Ngay sau khi có ổ dịch xảy ra, ngành chức năng có liên quan của tỉnh và địa phương đã đến hiện trường để tiến hành tiêu độc, khử trùng và tiêu hủy đàn heo mắc bệnh đúng theo quy định. Hiện nay, các ổ dịch bệnh cơ bản được khống chế, không lây lan diện rộng. Trong đó, ổ dịch phát hiện gần nhất là vào ngày 18-7 ở thành phố Vị Thanh đến nay cũng đã trải qua 25 ngày.

Trước tình hình dịch tả heo châu Phi đang diễn biến phức tạp, UBND tỉnh đã có văn bản đề nghị ngành liên quan và UBND các huyện, thị xã, thành phố của tỉnh cần tăng cường thực hiện nghiêm các biện pháp phòng, chống bệnh dịch tả heo châu Phi trên địa bàn tỉnh. Trong đó, UBND tỉnh yêu cầu UBND các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh trực tiếp chỉ đạo, huy động các nguồn lực của địa phương để tổ chức xử lý dứt điểm ổ dịch, không để phát sinh thêm ổ dịch mới; tổ chức xử lý tiêu hủy heo mắc bệnh, nghi mắc bệnh, heo chết, chủ động triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ người chăn nuôi bị thiệt hại do dịch bệnh theo đúng quy định của pháp luật; đồng thời tăng cường thông tin, tuyên truyền sâu rộng bằng nhiều hình thức về tính chất nguy hiểm của bệnh dịch tả heo châu Phi, cũng như nguy cơ dịch bệnh tái phát để người chăn nuôi chủ động áp dụng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả…

HỮU PHƯỚC

 

Tăng dần tính liên kết trong chăn nuôi lợn

 

Nguồn tin: Báo Chính Phủ

Ngành chăn nuôi lợn đang có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo xu hướng giảm chăn nuôi nhỏ lẻ ở hộ gia đình, tăng mạnh các hộ chăn nuôi chuyên nghiệp và trang trại quy mô lớn.

 

 

Cuối năm 2023 tổng đàn lợn cả nước đạt 25,5 triệu con - Ảnh: VGP/Đỗ Hương

Chăn nuôi nhỏ lẻ cũng cần tăng kết nối

Trong 5 năm qua, tỷ lệ chăn nuôi nông hộ giảm từ 5-7%/năm, riêng năm 2019-2022, cơ sở chăn nuôi nhỏ, quy mô nông hộ giảm 15-20%. Trong khi đó, doanh nghiệp chăn nuôi FDI đang chiếm tỷ lệ áp đảo.

Đó là con số được Cục Chăn nuôi thông tin tại Hội nghị thúc đẩy phát triển chăn nuôi lợn bền vững do Bộ NN&PTNT tổ chức tại Hà Nội hôm nay (14/8).

Theo thông tin từ Cục Chăn nuôi, đến cuối năm 2023, tổng đàn lợn cả nước đạt 25,5 triệu con (chưa tính khoảng 4 triệu lợn con theo mẹ), tăng 4,2% so với cùng kỳ năm 2022. Năm 2023 là năm có số đầu con lợn cao nhất trong 5 năm trở lại đây và tốc độ tăng trưởng về đầu con đạt trung bình là 6,0%/năm trong giai đoạn 2019 - 2023.

Tổng đàn lợn đến thời điểm cuối tháng 6/2024 ước tính đạt 25.549,2 nghìn con, tăng khoảng 2,9% so với cùng thời điểm năm 2023 (theo Tổng cục Thống kê). Trong đó, đàn lợn vùng Tây Nguyên có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất cả nước, tăng 16,5%.

Ông Phạm Kim Đăng, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi đánh giá nguyên nhân là do có nhiều doanh nghiệp đầu tư xây dựng trang trại chăn nuôi lợn vào khu vực này trong năm 2023. Tiếp đến là khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, tăng 3,1%; vùng Đông Nam Bộ tăng 3,0%; Đồng bằng sông Hồng tăng 2,8%; Trung du miền núi phía Bắc tăng 1,9%; chỉ có vùng ĐBSCL giảm 1,3%.

Lãnh đạo Cục Chăn nuôi cho biết, ngành này đang có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo xu hướng giảm chăn nuôi nhỏ lẻ ở hộ gia đình, tăng mạnh các hộ chăn nuôi chuyên nghiệp và trang trại quy mô lớn. Trong 5 năm qua, tỷ lệ chăn nuôi nông hộ giảm từ 5-7%/năm. Riêng giai đoạn 2019-2022, cơ sở chăn nuôi nhỏ quy mô nông hộ giảm 15-20%. Hiện nay sản lượng lợn sản xuất trong nông hộ nhỏ lẻ giảm còn 35-40%; sản lượng lợn sản xuất trong hộ chuyên nghiệp và trang trại chiếm 60-65%.

Lãnh đạo Cục Chăn nuôi cũng khẳng định chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ không bị mất đi hoàn toàn, vì đó là sinh kế của hàng triệu hộ chăn nuôi được hình thành bao đời nay. Tuy nhiên, nông dân chăn nuôi nhỏ lẻ muốn đứng vững buộc phải liên kết với nhau nhằm tăng sức mạnh để trở thành thành viên của tổ nhóm, HTX, hoặc liên kết với doanh nghiệp. Còn muốn đứng vững độc lập thì các hộ chăn nuôi buộc phải chăn nuôi chuyên nghiệp hoặc chăn nuôi con đặc sản, quý hiếm có giá trị cao, chăn nuôi hữu cơ, sinh thái gắn với dụ lịch.

Chuyển đổi cơ cấu chăn nuôi

Hiện nay các doanh nghiệp chăn nuôi lớn trong nước (như Dabaco, Masan, Tân Long, Thiên Thuận Trường, Mavin, Greenfeed, Trường Hải, Hòa Phát...) và nước ngoài (CP, Japfa Comfeed, New Hope, CJ, Emivest, Cargill...) đang xây dựng và từng bước hình thành hệ thống trang trại liên kết chuỗi. Đây chính là bước chuyển dịch cơ cấu chăn nuôi để từng bước hiện đại hóa ngành này.

Sự chuyển dịch mạnh mẽ của ngành chăn nuôi lợn cũng được thể hiện rõ rệt ở cơ cấu đàn lợn nái. Theo đó, trong tổng số 3,12 triệu con nái năm 2023 thì đàn lợn nái của các doanh nghiệp, công ty là 1,21 triệu con, chiếm 38,8% tổng đàn lợn nái cả nước. Đàn lợn nái trong nông hộ chiếm 1,91 triệu con, chiếm tỷ lệ 61,2% tổng đàn lợn nái cả nước.

Nhưng do hiệu suất sinh sản của đàn nái trong khu vực công ty cao và điều kiện chuồng nuôi tốt hơn nên khu vực này đóng góp 47% tổng lượng lợn thịt xuất chuồng năm 2022.

Cục Chăn nuôi nhận định, xu hướng tất yếu của chăn nuôi lợn hiện nay là chuyển từ chăn nuôi lợn nhỏ lẻ (nông hộ) sang chăn nuôi trang trại và chăn nuôi trang trại kết hợp với liên kết HTX, tổ hợp tác (liên kết ngang), liên kết giữa các khâu và liên kết theo chuỗi khép kín (liên kết dọc), trong đó doanh nghiệp là trung tâm. Vì vậy, số hộ chăn nuôi lợn có quy mô nhỏ giảm dần theo từng năm do không cạnh tranh được về giá thành, chất lượng, an toàn thực phẩm.

Về tình hình dịch bệnh trên đàn lợn, ông Phan Quang Minh, Phó Cục trưởng Cục Thú y cho biết, dịch bệnh "nóng" nhất thời gian qua là bệnh dịch tả lợn châu Phi. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 863 ổ dịch trên 46/63 tỉnh thành, tiêu huỷ hơn 57.400 con lợn, cao hơn tổng số lợn phải tiêu huỷ vì dịch bệnh này của năm ngoái (44.390 con).

So với cùng kỳ năm 2023, số ổ dịch tăng 3,02 lần và số lợn bị chết, tiêu hủy tăng 3,87 lần. "Khó khăn hiện nay là nhiều nơi không có cán bộ thú y xã, dẫn đến không phát hiện dịch bệnh kịp thời. Cũng do thiếu cán bộ thú y nên công tác phòng chống dịch bệnh nảy sinh nhiều bất cập, khi phát hiện ổ dịch thì phản ứng với ổ dịch cũng chậm trễ", ông Minh nói.

Theo Cục Thú y, thực tế dịch bệnh xảy ra chủ yếu ở các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, chưa áp dụng nghiêm ngặt các biện pháp vệ sinh phòng bệnh, sát trùng, tiêu độc và chăn nuôi an toàn sinh học. Mặc dù đã có vaccine dịch tả lợn châu Phi, nhưng các địa phương và người chăn nuôi chưa tổ chức tiêm phòng rộng rãi cho đàn lợn thịt; một số địa phương còn chủ quan, lơ là, buông lỏng công tác phòng chống dịch bệnh.

Phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến nhấn mạnh: "Trong rổ thực phẩm, thịt lợn đang chiếm 65% chỉ số CPI. Hiện, giá thị lợn đang ở mức khá cao đã đem lại lợi nhuận cho người chăn nuôi và doanh nghiệp sau một thời gian bị thua lỗ".

Do đó, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến, ngành chăn nuôi phải vừa đảm bảo tăng trưởng, nguồn cung thực phẩm, đảm bảo người chăn nuôi có lãi song cũng cần sớm có những giải pháp quyết liệt, kịp thời để chỉ số CPI tăng ở mức hợp lý, hài hòa lợi ích giữa người chăn nuôi và người tiêu dùng, góp phần nâng cao đời sống của người dân.

Đỗ Hương

 

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop