Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 17 tháng 4 năm 2025

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 17 tháng 4 năm 2025

 

Công ty CP Phân Bón Bình Điền 50 năm góp phần phát triển nông nghiệp bền vững

Trong khuôn khổ Lễ tôn vinh 50 doanh nghiệp và đơn vị tiêu biểu của TP. Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 50 năm ngày Thống nhất đất nước (30.4.1975 - 30.4.2025), Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền với thương hiệu phân bón Đầu Trâu, đã được vinh danh là một trong những doanh nghiệp tiêu biểu. Sự kiện do UBND TP. Hồ Chí Minh tổ chức nhằm ghi nhận những đóng góp nổi bật của cộng đồng doanh nghiệp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố trong giai đoạn 1975 - 2025.

Phương châm "Hướng về người nông dân"

Trải qua hơn 50 năm hình thành và phát triển, Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền đã khẳng định vị thế là người bạn đồng hành tin cậy của hàng triệu nông dân Việt Nam. Với phương châm "Hướng về người nông dân", Bình Điền không ngừng đổi mới, ứng dụng công nghệ tiên tiến và nghiên cứu phát triển các sản phẩm phân bón phù hợp với đặc điểm từng vùng sinh thái và loại cây trồng. Những nỗ lực này đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng nông sản và thúc đẩy nền nông nghiệp bền vững.

Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền với thương hiệu phân bón Đầu Trâu được vinh danh là một trong 50 doanh nghiệp tiêu biểu của TP. Hồ Chí Minh. Ảnh: Ngọc Vân

Việc được vinh danh trong top 50 doanh nghiệp tiêu biểu TP. Hồ Chí Minh là minh chứng cho chiến lược phát triển bền vững, hiệu quả và hướng đến cộng đồng của Bình Điền. Bên cạnh việc cung cấp sản phẩm chất lượng cao, Công ty còn tích cực tham gia các chương trình lớn của ngành nông nghiệp, nổi bật là đề án phát triển 1 triệu hecta lúa chất lượng cao tại đồng bằng sông Cửu Long. Thông qua các giải pháp canh tác thông minh, Bình Điền hỗ trợ nông dân thích ứng với biến đổi khí hậu, tối ưu hóa quy trình, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp và bảo vệ môi trường.

Phát biểu tại sự kiện, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền Ngô Văn Đông nhấn mạnh, giải thưởng này là động lực để chúng tôi tiếp tục đồng hành cùng nông dân, đổi mới sáng tạo và đóng góp cho nền nông nghiệp phát triển một cách bền vững. Ông Đông cũng khẳng định cam kết của Công ty trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nông dân.

Sự kiện không chỉ đánh dấu một cột mốc quan trọng trong hành trình 50 năm của Bình Điền mà còn truyền cảm hứng cho các doanh nghiệp khác trong ngành nông nghiệp. Với những giá trị cốt lõi đã xây dựng, Bình Điền cam kết tiếp tục đóng góp vào sự phát triển của TP. Hồ Chí Minh và nền nông nghiệp Việt Nam, hướng tới mục tiêu bền vững và thịnh vượng trong tương lai.

Xây dựng nhiều mục tiêu phát triển bền vững

Để tiếp tục gặt hái thành công trong tương lai, Bình Điền đặt ra mục tiêu mở rộng thị trường quốc tế và phát triển thêm nhiều dòng sản phẩm mới. Công ty sẽ đầu tư vào công nghệ hiện đại nhằm cải tiến quy trình sản xuất, giảm thiểu chi phí và tăng cường năng suất. Đặc biệt, việc nghiên cứu các giải pháp phân bón tiên tiến sẽ giúp nâng cao giá trị nông sản Việt Nam và đáp ứng xu hướng nông nghiệp sạch, bền vững và giảm phát khí thải.

Hơn nửa thế kỷ đồng hành cùng nông dân Việt Nam, Bình Điền luôn hướng đến xây dựng những quy trình canh tác thông minh và bền vững. Công ty không ngừng cải tiến sản phẩm để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của bà con nông dân. Việc được vinh danh trong top 50 doanh nghiệp tiêu biểu chính là minh chứng rõ ràng cho sự nỗ lực không ngừng nghỉ của toàn bộ đội ngũ nhân viên cũng như ban lãnh đạo công ty.

Năm 2024 chứng kiến sự bứt phá ngoạn mục của Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền khi ghi nhận doanh thu hơn 9.489 tỷ đồng, tăng 9% so với năm 2023, trong khi lợi nhuận trước thuế đạt đỉnh 531,1 tỷ đồng, tăng tới 170,6%. Đây là mức lợi nhuận kỷ lục từ trước đến nay của thương hiệu phân bón Đầu Trâu. So với mục tiêu năm 2024 được đặt ra trước đó (doanh thu 7.137 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế 210 tỷ đồng), Bình Điền đã hoàn thành xuất sắc khi vượt 32,96% về doanh thu và 152,9% về lợi nhuận. Đây là kết quả đáng tự hào, khẳng định vị thế của một doanh nghiệp dẫn đầu trong lĩnh vực phân bón.

Năm 2025, Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền cũng đã công bố kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2025 với các chỉ tiêu: doanh thu hợp nhất dự kiến đạt hơn 7.438 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế đạt 281 tỷ đồng. Ngoài ra, Công ty cũng đặt mục tiêu sản xuất 605.000 tấn sản phẩm (trong đó, công ty mẹ sản xuất 310.000 tấn); tiêu thụ 605.000 tấn (công ty mẹ 310.000 tấn).

Về kế hoạch sản xuất kinh doanh quý I.2025, Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền đã thông qua chỉ tiêu sản lượng sản xuất là 110.300 tấn, sản lượng tiêu thụ là 100.300 tấn, tổng doanh thu là 1.336,4 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế hợp nhất là 45,5 tỷ đồng.

Tâm Anh

 

Cú 'lột xác' trong sản xuất nông nghiệp ở Phú Yên nhìn từ những mô hình công nghệ cao tiền tỷ

Trong những năm gần đây, ngành nông nghiệp tỉnh Phú Yên đang chứng kiến sự 'lột xác' mạnh mẽ khi ngày càng nhiều mô hình sản xuất ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số được triển khai rộng khắp các địa phương.

Không chỉ góp phần nâng cao năng suất, chất lượng nông sản, xu hướng này còn mở ra hướng đi mới, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Đặc biệt, các HTX đã và đang đóng vai trò hạt nhân, thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong sản xuất nông nghiệp.

Bắt nhịp công nghệ

Bắt nhịp với xu thế cách mạng công nghiệp 4.0, tỉnh Phú Yên đã chú trọng đầu tư phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Từ vùng đồng bằng ven biển đến miền núi, vùng gò đồi, làn gió đổi mới đang lan tỏa khắp các cánh đồng, mang theo kỳ vọng về một nền nông nghiệp năng suất cao.

Trong xu thế đổi mới, các hộ sản xuất ở Phú Yên không còn bám ruộng vườn theo cách truyền thống. Thay vào đó, họ chủ động tiếp cận với khoa học – công nghệ, từng bước làm chủ kỹ thuật canh tác mới, mạnh dạn thử nghiệm mô hình sản xuất nông nghiệp hiện đại.

Nông dân, HTX ở Phú Yên đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng công nghệ cao (Ảnh: BPY).

Như tại huyện Phú Hòa, mô hình trồng rau thủy canh, dưa lưới trong nhà màng đã không còn xa lạ với nhiều nông hộ. Thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào thời tiết như trước, giờ đây người dân đã biết áp dụng hệ thống tưới nhỏ giọt, giám sát môi trường trồng bằng cảm biến, tự động hóa khâu chăm sóc.

Nhờ ứng dụng công nghệ giúp nông dân Phú Hòa giảm đáng kể chi phí sản xuất và rủi ro dịch bệnh. Nhiều hộ thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm nhờ áp dụng công nghệ cao.

Đáng chú ý, không chỉ dừng lại ở công nghệ sản xuất, chuyển đổi số trong quản lý và tiêu thụ sản phẩm cũng đang được tỉnh Phú Yên quan tâm thúc đẩy. Nhiều HTX và cơ sở sản xuất trên địa bàn tỉnh đã chủ động áp dụng công nghệ số trong quản lý chuỗi sản xuất, truy xuất nguồn gốc, quảng bá và tiêu thụ sản phẩm.

HTX Nông nghiệp Kinh doanh Tổng hợp Đồng Din (thị trấn Phú Hòa, huyện Phú Hòa) là một trong những đơn vị đi đầu trong việc gắn tem QR truy xuất nguồn gốc cho các sản phẩm OCOP như trái khóm, bánh khóm, rượu khóm, giấm khóm và nước rửa chén.

Việc có “định danh” rõ ràng không chỉ giúp nâng cao uy tín, niềm tin của người tiêu dùng mà còn giúp HTX Đồng Din mở rộng thị trường tiêu thụ, đặc biệt là trên các nền tảng thương mại điện tử.

Đưa nông sản vươn xa

Cùng với đó, các nền tảng số như mạng xã hội, sàn giao dịch nông sản trực tuyến, các ứng dụng di động… cũng được nông dân và HTX tận dụng hiệu quả. Đây chính là “cánh tay nối dài” giúp nông sản Phú Yên tiếp cận gần hơn với người tiêu dùng khắp cả nước và từng bước hướng tới thị trường quốc tế.

Không chỉ tổ chức sản xuất, nhiều HTX còn thực hiện vai trò dẫn dắt, hỗ trợ thành viên từ khâu chọn giống, kỹ thuật canh tác, quản lý chất lượng, xây dựng thương hiệu đến tiêu thụ sản phẩm.

Điển hình như HTX Nông nghiệp Kinh doanh Dịch vụ Hòa Phong (huyện Tây Hòa) đã liên kết với Công ty CP Tập đoàn Quế Lâm để sản xuất lúa hữu cơ theo quy trình khép kín. Sản phẩm gạo Tây Hòa của HTX này hiện được dán mã QR truy xuất nguồn gốc, bảo đảm chất lượng và an toàn, qua đó tạo được niềm tin nơi người tiêu dùng.

HTX Dịch vụ Nông nghiệp Hòa Hội (huyện Phú Hòa) cũng là một mô hình hiệu quả khi triển khai trồng dưa hấu theo tiêu chuẩn VietGAP. Sản phẩm của HTX được doanh nghiệp bao tiêu với mức giá ổn định, giúp nông dân yên tâm sản xuất và có thu nhập khá.

Ứng dụng hiệu quả khoa học công nghệ mang lại lợi ích kép về kinh tế, môi trường (Ảnh: BPY).

Ngoài ra, các HTX như Hòa Mỹ Tây, Hòa Bình 1, Hòa Vinh, Bình Kiến 2… đã mạnh dạn ứng dụng KH-CN vào chuỗi sản xuất lúa giống, nuôi tôm càng xanh xen canh lúa, trồng nấm ăn và nấm dược liệu. Nhờ vậy, không chỉ tăng hiệu quả kinh tế mà còn tạo thêm hàng trăm việc làm cho người dân địa phương, nhất là lao động nông thôn và phụ nữ.

Điểm chung của các HTX, tổ hợp tác này là đều chú trọng phát triển chuỗi giá trị, liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp, nhà phân phối và thị trường tiêu dùng. Qua đó, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản Phú Yên trong bối cảnh hội nhập.

Những thành công của hàng loạt HTX cho thấy các chính sách hỗ trợ của ban ngành địa phương, đặc biệt là sự đồng hành của Liên minh HTX tỉnh và Liên minh HTX Việt nam đang đi đúng hướng.

Cụ thể, trong những năm gần đây, Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Phú Yên đã phối hợp triển khai nhiều chương trình hỗ trợ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế hợp tác trên địa bàn tỉnh. Các hoạt động này không chỉ góp phần nâng cao năng lực cho các HTX mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng sản xuất, kinh doanh và cải thiện đời sống cho người dân địa phương.

Hướng tới nông nghiệp hiện đại

Một trong những điểm nhấn là chương trình phối hợp giữa Liên minh HTX tỉnh Phú Yên và Liên minh HTX tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2024-2030.

Chương trình này tập trung vào việc phát triển mô hình HTX nông nghiệp theo chuỗi giá trị gắn với du lịch cộng đồng, xây dựng các HTX thủy sản ứng dụng công nghệ cao và đẩy mạnh xúc tiến thương mại thông qua liên kết liên vùng.

Bên cạnh đó, Liên minh HTX Việt Nam cũng phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Phú Yên triển khai Đề án 01/QĐ-TTg, hỗ trợ HTX do phụ nữ tham gia quản lý và tạo việc làm cho lao động nữ đến năm 2030.

Thông qua các hoạt động như tập huấn, tư vấn pháp lý, hỗ trợ tiếp cận vốn và xây dựng thương hiệu, nhiều HTX do phụ nữ điều hành đã được thành lập và hoạt động hiệu quả, tiêu biểu như HTX Nông nghiệp hữu cơ An Xuân Phát và HTX Kinh doanh dịch vụ Xương rồng Nopal Phú Yên.

Có thể nói, sự đồng hành của Liên minh HTX Việt Nam và các tổ chức liên quan, kinh tế hợp tác tại Phú Yên đang từng bước khẳng định vai trò trong phát triển kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao đời sống người dân và thúc đẩy sự phát triển bền vững của địa phương.

Tính đến cuối năm 2024, tỉnh Phú Yên đã có 206 HTX đang hoạt động với tổng vốn lên đến 673,45 tỷ đồng, thu hút hơn 112.000 thành viên và tạo việc làm cho gần 3.200 lao động thường xuyên. Doanh thu bình quân đạt khoảng 3,4 tỷ đồng/HTX/năm.

Nhìn lại chặng đường đổi mới trong nông nghiệp Phú Yên có thể thấy, việc ứng dụng khoa học công nghệ và thúc đẩy chuyển đổi số đã góp phần tạo ra những bước chuyển tích cực, hiệu quả trong sản xuất. Không chỉ giúp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, xu hướng này còn mở ra nhiều cơ hội mới cho người nông dân – từ cải thiện thu nhập đến kết nối thị trường.

Đặc biệt, vai trò của các HTX, tổ hợp tác không chỉ dừng lại ở việc “giúp nhau làm ăn” mà thực sự trở thành những “đầu tàu” sáng tạo, tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng. Với định hướng đúng đắn, chính sách hỗ trợ kịp thời và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, Phú Yên đang vững bước trên con đường xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, xanh – sạch – thông minh và hội nhập quốc tế.

Nam Phong

 

Mường Nhà phát triển kinh tế, giảm nghèo nhờ dứa mật

Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, cây dứa mật Mường Nhà (xã Mường Nhà, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên) với sự giúp đỡ tích cực của cán bộ địa phương, cũng như các mô hình liên kết, HTX đã giúp người dân phát triển kinh tế và giảm nghèo bền vững.

Nhờ mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên trên đất dốc như ngô, sắn, lúa nương sang trồng dứa mật, bà con người H’Mông tại xã Mường Nhà đã có nguồn thu nhập ổn định. Cây dứa đã trở thành cây trồng chủ lực giúp người dân ở Mường Nhà xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế.

Đảm bảo cho đầu ra về lâu dài

Dứa Mường Nhà được trồng trên các sườn đồi với đặc điểm có hình dạng tròn, vỏ màu vàng xanh và thịt chín có màu vàng cam, có vị ngọt và mùi thơm đặc trưng. Quả to hơn các loại dứa bình thường, trung bình khoảng 2-3kg/quả; quả nhiều nước, mắt nông, ngọt, mép lá không có gai. Thời gian thu hoạch từ cuối tháng 6 đến hết tháng 8 hàng năm. Cây dứa cho thu hoạch ổn định từ năm thứ 3 đến năm thứ 7.

Vì phát triển theo hướng tự nhiên nên dứa mật Mường Nhà chín thành nhiều đợt chứ không chín đại trà, không tạo sức ép mùa vụ quá lớn như các loại cây trồng khác. Dứa mật trồng nhàn hơn ngô, lúa vì chỉ cần trồng một lần sẽ cho thu hoạch 3-4 năm mới phải trồng lại. Mỗi năm, chỉ vất vả nhất là khi làm cỏ và thu hoạch, không cần tưới nước hay dùng thuốc trừ sâu.

Cây dứa đã trở thành cây trồng chủ lực giúp người dân ở Mường Nhà xóa đói giảm nghèo.

Với lợi thế nằm ngay bên đường vành đai biên giới kết nối Quốc lộ 279 nên việc tiêu thụ dứa của người dân Mường Nhà khá thuận lợi. Cùng với giá ổn định, thị trường ngày càng rộng, cây dứa mật ở Mường Nhà đã thật sự trở thành cây trồng chủ lực cho đường hướng phát triển kinh tế, có tiềm năng để xây dựng thành sản phẩm nông nghiệp đặc trưng cho thế mạnh vùng đất Mường Nhà.

Mặc dù là một trong những mặt hàng nông sản rất dễ tiêu thụ trên thị trường, các thương lái từ nhiều nơi đã vào tận thôn, bản để đặt hàng, thu mua dứa. Tuy nhiên, nhằm định hướng đảm bảo cho đầu ra về lâu dài, trong năm 2022, với sự hỗ trợ của Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh, HTX Dứa Mường Nhà được thành lập và liên kết với các hộ dân phát triển, nhân rộng và bao tiêu sản phẩm cho người dân. Đến nay, toàn xã Mường Nhà có 60ha dứa của gần 300 hộ dân, trong đó vùng trồng dứa tập trung tại bản Pu Lau với hơn 30ha đã liên kết với HTX Dứa Mường Nhà.

Theo ông Thào A Giàng, Giám đốc HTX Dứa Mường Nhà: HTX hướng dẫn bà con trồng dứa theo quy trình kỹ thuật để nâng cao năng suất cũng như chất lượng quả. HTX nhận tiêu thụ toàn bộ sản lượng cho bà con, đồng thời liên kết với các công ty thu mua quả xanh, quả chín. Được hướng dẫn áp dụng khoa học kỹ thuật, bao tiêu sản phẩm, những năm gần đây sản phẩm dứa ngày càng chất lượng, giá cả ổn định, giúp nhiều hộ dân thoát nghèo.

Không chỉ thu nhập chính từ dứa quả, HTX Dứa Mường Nhà đã liên kết tiêu thụ các sản sản phẩm khác như lá dứa, mầm dứa, gốc dứa già. Đối với mầm dứa, gần 2 năm phát triển sẽ bắt đầu tách mầm bán giống. Một cây khỏe mạnh khi tách sẽ thu được 3 mầm với giá 2.000 đồng/mầm, 1ha đất dốc mật độ trung bình 35.000 cây đem lại thu nhập không nhỏ cho bà con.

Lá dứa tươi cũng được thu hái phụ thêm thu nhập cho bà con. Đây là nguyên liệu thô thay thế sợi gai xanh được HTX sợi dứa thu mua giá 1.000 đồng/kg. Với diện tích 1ha, một năm thu về hơn 20 triệu đồng.

Điểm sáng Pu Lau

Pu Lau là bản vùng cao thuộc xã Mường Nhà, huyện Điện Biên, là nơi cư trú của đồng bào dân tộc H’Mông. Nhờ trồng dứa mật mà bản Pu Lau từ bản khó khăn nhất xã vươn lên thành bản tiên phong xóa đói giảm nghèo điển hình.

Theo chia sẻ của bà con Pu Lau, nhận thấy cây giống phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, nên bà con nơi đây dần dần nhân rộng diện tích cây trồng.

Nhờ sự tích cực vận động chuyển đổi cơ cấu cây trồng của chính quyền địa phương, nhiều hộ dân đã chuyển đổi sang trồng dứa mật. Pu Lau hiện là bản có diện tích dứa lớn nhất xã với hơn 100 ha; sau đó đến HTX dứa Mường Nhà có hơn 60 ha; còn lại các bản: Na Khoang, Phì Cao, Huổi Hương, Pha Thinh có gần 20 ha, vì các bản này mới chuyển dần diện tích trồng lúa nương không hiệu quả sang trồng dứa.

Theo tính toán, mỗi ha trồng khoảng 2,5 vạn cây dứa mật, năng suất khoảng 17 -18 tấn quả/ha, với giá bán 10.000 - 12.000 đồng/kg, thì mỗi ha trồng dứa sau khi trừ mọi chi phí người dân lãi khoảng 150 triệu đồng/ha. Đặc biệt, sau mỗi vụ, dứa ra cây con, người dân có thể tách chồi trồng mới, nên vụ sau bà con chủ động được nguồn giống.

Anh Vàng A Sống, bản Pu Lau cho biết, trước đây gia đình anh thuộc hộ nghèo, thu nhập gia đình phụ thuộc vào lúa nương. Nhưng từ năm 2016 đến nay, anh đã chuyển đổi gần 3.000m2 đất trồng lúa nương sang trồng giống dứa mật.

“Mỗi vụ dứa mang lại thu nhập khoảng 70 - 90 triệu đồng, giúp chúng tôi phát triển kinh tế, giảm được đói nghèo”, anh Vàng A Sống chia sẻ.

HTX Dứa Mường Nhà đã liên kết với các hộ dân phát triển, nhân rộng và bao tiêu sản phẩm cho bà con.

Đại diện xã Mường Nhà cho biết, cây dứa đã và đang mở ra một hướng đi mới cho người dân bản Pu Lau nói riêng và xã Mường Nhà nói chung.

“Bản Pu Lau đều là đồng bào dân tộc H’Mông. Nhờ có nguồn vốn hỗ trợ thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, diện tích trồng trọt kém hiệu quả đã dần được bà con Pu Lau thay thế bằng những hàng dứa đều tăm tắp, cho thu nhập cao”, vị này nói.

Hướng tới liên kết chuỗi giá trị bền vững

Theo đại diện Hội Nông dân xã Mường Nhà, hiện nay giống dứa mật được xác định là cây trồng chủ lực để phát triển kinh tế ở vùng đất dốc, thay thế cho những cây trồng kém hiệu quả nhằm giúp người dân địa phương nâng cao thu nhập.

Bên cạnh đó, việc phát triển các chuỗi liên kết trong sản xuất nông nghiệp thời gian qua cho thấy, các HTX nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong quá trình tái cơ cấu ngành Nông nghiệp và liên kết, hợp tác phát triển sản xuất. Theo đó, huyện đã tiếp tục thành lập HTX Pu Lau nhằm mở rộng chuỗi tiêu thụ.

Theo định hướng của chính quyền xã, thời gian tới, xã sẽ mở rộng thêm diện tích đất trồng dứa. Đồng thời áp dụng khoa học kỹ thuật cho nông dân, giúp nâng cao năng suất, sản lượng và đặc biệt là mục tiêu sản xuất 100% theo hướng hữu cơ, phát triển sản phẩm dứa Mường Nhà trở thành một trong những sản phẩm OCOP tiêu biểu của địa phương.

Đại diện xã cho biết: “Chính quyền xã Mường Nhà ra kế hoạch nhân rộng diện tích dứa mỗi năm khoảng hơn 10 ha. Hiện tại, đây là sản phẩm sạch, xã cũng đang trình để được công nhận sản phẩm OCOP của xã và của huyện Điện Biên”.

Đặc biệt, vùng trồng dứa Mường Nhà được tỉnh Điện Biên đồng hành, hỗ trợ, hướng dẫn người dân, HTX, doanh nghiệp đẩy mạnh việc thiết lập, xây dựng mã số vùng trồng. Đến nay, dứa Mường Nhà bước đầu đã được cấp mã số vùng trồng.

Việc xây dựng mã số vùng trồng mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho người dân như chuẩn hóa quy trình chăm sóc, quản lý cây trồng, giúp cây trồng cho năng suất cao, đáp ứng được tiêu chuẩn của những thị trường khó tính nhất.

Cùng với đó tạo điều kiện thuận lợi cho người sản xuất và doanh nghiệp liên kết sản xuất, nâng cao giá trị sản phẩm nhờ được xuất khẩu theo đường chính ngạch.

Ngoài ra còn góp phần rút ngắn khâu trung gian, nâng cao giá trị gia tăng và hiệu quả kinh tế, cũng như đảm bảo đầu ra ổn định cho người dân. Qua đó, góp phần phát triển sản xuất theo hướng hàng hóa tập trung, theo hình thức liên kết chuỗi giá trị bền vững.

Giang Nguyễn

 

Xuân Trường phát triển đa dạng các mô hình kinh tế nông nghiệp

Ngày 31/3/2025, huyện Xuân Trường được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận đạt chuẩn nông thôn mới (NTM) nâng cao năm 2024 - là một trong 3 huyện đầu tiên của tỉnh và 20 huyện đầu tiên của cả nước về đích xây dựng huyện NTM nâng cao. Một trong những yếu tố then chốt góp phần vào thành công đó chính là sự đa dạng và hiệu quả của các mô hình kinh tế nông nghiệp. Những mô hình này không chỉ nâng cao thu nhập cho người dân mà còn thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế, hướng tới nền nông nghiệp hiện đại và bền vững.

Ứng dụng máy cuộn rơm trong sản xuất nông nghiệp.

Từ kết quả dồn điền, đổi thửa trong thực hiện chương trình xây dựng NTM, huyện Xuân Trường đã tập trung, tích tụ ruộng đất hình thành các vùng sản xuất lớn, chỉnh trang đồng ruộng, đắp bờ vùng, bờ thửa, đầu tư hệ thống giao thông, thủy lợi nội đồng thuận lợi cho tưới tiêu, đi lại vận chuyển vật tư sản xuất cũng như thu hoạch sản phẩm bằng phương tiện cơ giới. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu thuê mượn sản xuất nông nghiệp hàng hóa và đầu tư, đẩy mạnh áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, cơ giới hóa các khâu sản xuất nhằm giảm chi phí đầu tư, tăng hiệu quả sản xuất. Xuân Trường là một trong những huyện đầu tiên của tỉnh xây dựng thành công mô hình liên doanh, liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân trong sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Đến nay, trên địa bàn huyện có 80 cánh đồng lớn, 8 mô hình liên kết, 5 doanh nghiệp và trên 100 tổ chức, cá nhân tập trung, tích tụ được 852ha sản xuất giống lúa chất lượng cao, lúa giống và rau màu các loại. Điển hình là Công ty TNHH Cường Tân tích tụ ruộng đất và liên kết với 13 nhóm hộ nông dân đầu tư sản xuất hạt giống lúa lai F1, quy mô 50ha tại xã Xuân Ninh tạo thêm hàng nghìn ngày công lao động mỗi năm cho nông dân địa phương; Công ty Cổ phần Thương mại Hoàng Diệu tích tụ ruộng đất và đầu tư sản xuất 13ha cây dược liệu (cây đinh lăng, cây gấc) kết hợp chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản tại vùng bãi các xã Xuân Thành, Xuân Tân cho thu nhập cao hơn 4-6 lần so với trồng lúa… Năng suất lúa bình quân của huyện đạt 125,2 tạ/ha/năm; giá trị sản xuất trên 1ha canh tác năm 2024 đạt 145 triệu đồng.

Chăn nuôi phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng theo hướng chuyển từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi tập trung theo mô hình trang trại, đảm bảo an toàn dịch bệnh và vệ sinh môi trường. Hiện huyện có 30 cơ sở chăn nuôi trang trại. Trong đó, có 1 trang trại chăn nuôi quy mô lớn của Công ty TNHH Japfa Comfeed Việt Nam ở xã Xuân Ninh quy mô hơn 1.200 con lợn nái đã được Sở Nông nghiệp và Môi trường cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi. 100% cơ sở chăn nuôi lợn trên địa bàn huyện sử dụng hệ thống máng uống tự động, trên 50% cơ sở chăn nuôi có hệ thống làm mát sử dụng động cơ, việc cung cấp thức ăn cho lợn thịt, lợn con đều sử dụng xi lô để chứa thức ăn nhằm đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm. Tận dụng lợi thế có 2 con sông lớn (sông Hồng và sông Ninh Cơ) chảy qua, nhiều hộ dân ven sông đã đầu tư vốn để phát triển nuôi cá lồng với các đối tượng nuôi chủ yếu là các loại cá truyền thống, cá có giá trị kinh tế cao như cá lăng, cá chép giòn… Có 2 cơ sở sản xuất, sơ chế, chế biến cá truyền thống đã được cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm là HTX Sản xuất kinh doanh dịch vụ nuôi trồng thủy sản Xuân Hòa, xã Xuân Phúc với mặt hàng sản xuất, kinh doanh là cá lăng, cá trắm đen, cá trắm cỏ và hộ kinh doanh Trần Thanh Năm, xã Xuân Vinh với mặt hàng sản xuất kinh doanh là cá trắm đen, cá trắm cỏ, cá chép.

Bên cạnh chuyển tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, phát triển chuỗi liên kết giá trị theo hướng kinh tế tuần hoàn, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, huyện Xuân Trường cũng hình thành các sản phẩm tích hợp “đa giá trị”, phát triển du lịch nông thôn gắn với bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, bảo vệ môi trường và bảo tồn cảnh quan sáng - xanh - sạch - đẹp, phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Điển hình là mô hình sản xuất nước đóng bình, đóng chai của hộ kinh doanh Đặng Văn Biên, xã Xuân Hồng với sản phẩm nước uống Vina Hành Thiện được công nhận sản phẩm OCOP đạt 3 sao; mô hình đã thu hút và giải quyết việc làm cho 15 lao động với thu nhập bình quân trên 5 triệu đồng/người/tháng. Mô hình sản xuất nem, giò, chả của hộ sản xuất kinh doanh Bùi Quang Điện, xã Xuân Phúc với các sản phẩm là nem, giò, chả, trong đó có 2 sản phẩm được công nhận sản phẩm OCOP 3 sao giải quyết việc làm cho 6 lao động, với thu nhập bình quân từ 5-7 triệu đồng/người/tháng. Mô hình sản xuất gạo Hom Xuân Thành kết hợp với khai thác con rươi của Công ty cổ phần Du lịch Trường Khoa, xã Xuân Thành với sản lượng trên 20 tấn gạo/năm và trên 2 tấn rươi/năm thu hút, giải quyết việc làm cho 10 lao động thường xuyên và 30 lao động thời vụ với thu nhập bình quân từ 7-8 triệu đồng/người/tháng…

Nhờ đổi mới tư duy làm nông nghiệp nên kinh tế nông nghiệp của huyện Xuân Trường đã có những chuyển biến tích cực về chất. Tỷ trọng nông nghiệp, thủy sản trong cơ cấu kinh tế tuy giảm nhưng giá trị kinh tế tăng cao,… Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM đạt được nhiều kết quả quan trọng, nổi trội. Đến nay, 100% xã, thị trấn trong huyện đạt chuẩn NTM nâng cao; có 7/13 xã được công nhận NTM kiểu mẫu, thị trấn Xuân Trường được công nhận đạt chuẩn đô thị văn minh, xã Xuân Phúc đạt chuẩn xã thông minh; có 140/167 thôn, xóm, tổ dân phố được công nhận đạt chuẩn khu dân cư NTM kiểu mẫu.

Những mô hình kinh tế nông nghiệp, nông thôn đa dạng và hiệu quả đã và đang góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện Xuân Trường. Sự linh hoạt, dám nghĩ dám làm của người nông dân kết hợp với chính sách hỗ trợ của địa phương đã tạo nên những thay đổi tích cực, tạo nền tảng quan trọng cho sự phát triển của địa phương trong bối cảnh mới, kỷ nguyên vươn mình của quê hương, đất nước.

Bài và ảnh: Ngọc Ánh

 

Khẳng định thương hiệu nông sản An Giang

Với diện tích sản xuất nông nghiệp thuộc 'tốp đầu' ĐBSCL, An Giang sở hữu tiềm năng lớn trong liên kết tiêu thụ, chế biến nông sản. Ngành nông nghiệp An Giang đang nỗ lực đề xuất, thực hiện các giải pháp nhằm khai thác hiệu quả lợi thế của tỉnh.

Tiềm năng dồi dào

Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường, năm 2024, tổng diện tích xuống giống cây lúa khoảng 618.600ha, sản lượng gần 4,072 triệu tấn. Bên cạnh, tổng diện tích hoa màu, cây ăn trái lần lượt là 48.800ha và 20.500ha; tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt gần 700.000 tấn, trong đó, cá tra khoảng 583.000 tấn.

Ngành nông nghiệp đã hỗ trợ cấp 564 mã số vùng trồng, với tổng diện tích 19.766ha, phục vụ nhu cầu xuất khẩu đi các thị trường: Úc, Hoa Kỳ, New Zealand, Nga, Châu Âu, Hàn Quốc, Trung Quốc... Ngoài ra, cấp 1 mã số cơ sở đóng gói khoai lang xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc của Công ty Cổ phần Rau quả thực phẩm An Giang (Antesco). Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển chuỗi liên kết tiêu thụ, chế biến nông sản của tỉnh.

Theo Công ty Antesco, đơn vị đã liên kết Sở Nông nghiệp và Môi trường và Hội Nông dân tỉnh ký kết hợp tác xây dựng, tạo vùng nguyên liệu, với diện tích 10.000ha. Hiện, công ty đã ký kết trực tiếp với nông dân các huyện: Phú Tân, Chợ Mới, An Phú để bao tiêu và xây dựng vùng nguyên liệu cho các sản phẩm chủ lực, như: Bắp non, đậu nành rau, bắp ngọt, xoài keo, xoài Đài Loan. Nhờ đó, công ty có vùng nguyên liệu ổn định, có thể kiểm soát tốt về số lượng, chất lượng, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật… nhằm đáp ứng nhu cầu khắt khe của thị trường.

Cần tích cực hỗ trợ doanh nghiệp tham tham gia liên kết sản xuất, mở rộng vùng nguyên liệu

Cùng thuận lợi trên, Nhà máy Gạo Hạnh Phúc (Tập đoàn Tân Long), với sự hỗ trợ của UBND tỉnh, ngành chuyên môn và các địa phương đã liên kết sản xuất - tiêu thụ lúa chất lượng cao với 15 hợp tác xã trong tỉnh, chủ yếu ở các huyện: Tri Tôn, Thoại Sơn, Châu Thành, Phú Tân. Theo kế hoạch, công ty sẽ liên kết sản xuất với diện tích trên 10.000ha trong năm 2025, góp phần đưa hạt gạo An Giang chinh phục các thị trường khó tính.

Ngoài các đơn vị nói trên, ngành nông nghiệp An Giang còn thực hiện hỗ trợ nhiều doanh nghiệp (DN) trong và ngoài tỉnh để liên kết sản xuất, tiêu thụ, chế biến nông sản của tỉnh. Chỉ riêng lúa gạo, diện tích liên kết năm 2024 đã đạt khoảng 74.623ha, chiếm 12,1% tổng diện tích gieo trồng. Đặc biệt, An Giang còn có 2 sản phẩm gạo đạt OCOP (Chương trình mỗi xã một sản phẩm) 5 sao cấp quốc gia; 1 sản phẩm gạo, 2 sản phẩm rượu gạo và 1 sản phẩm thanh gạo lứt ngũ cốc đạt OCOP 3 sao.

Tăng cường giải pháp

Dù đã chủ động thực hiện nhiều giải pháp thúc đẩy liên kết tiêu thụ, chế biến nông sản của tỉnh, nhưng ngành nông nghiệp An Giang vẫn đối mặt với khó khăn, như: Cơ chế, chính sách thu hút, mời gọi DN chưa thực sự hấp dẫn; năng lực của các hợp tác xã còn hạn chế, khó khăn cho việc hình thành các chuỗi liên kết; hệ thống logistics trong nông nghiệp của tỉnh còn hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến việc đầu tư vào lĩnh vực này.

Ngành nông nghiệp An Giang hỗ trợ cấp mã số vùng trồng cho nông sản phục vụ xuất khẩu

DN đề xuất các ngành, địa phương đẩy mạnh tuyên truyền, thay đổi nhận thức nông dân trong việc tham gia liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản, nhằm tạo được vùng nguyên liệu lớn. Việc giữ “chữ tín” trong quá trình liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản chưa đáp ứng yêu cầu. Đặc biệt, công tác xây dựng mã số vùng trồng chưa được hợp tác xã, tổ hợp tác và nông dân quan tâm đúng mức, gây khó khăn cho quá trình xuất khẩu.

Ngành nông nghiệp An Giang đã kiến nghị UBND tỉnh ban hành cơ chế, chính sách đặc thù, tạo môi trường thuận lợi nhằm thu hút, thúc đẩy các DN đầu tư tại địa phương. Phát triển các khu công nghiệp dành riêng cho chế biến nông sản, cũng như đầu tư cơ sở hạ tầng đồng bộ, đáp ứng nhu cầu phát triển. Thường xuyên gặp gỡ, đối thoại với DN, nông dân để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc. Tăng cường giới thiệu tiềm năng, thế mạnh nông nghiệp của tỉnh nhằm thu hút DN đến An Giang.

Để nâng cao hiệu quả hoạt động liên kết tiêu thụ, chế biến nông sản, UBND tỉnh yêu cầu ngành nông nghiệp đẩy mạnh áp dụng các tiêu chuẩn nông nghiệp sạch, nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ để đáp ứng nhu cầu thị trường, giúp gia tăng giá trị sản phẩm. Thường xuyên phối hợp với các địa phương hỗ trợ, kết nối với DN để xây dựng các vùng nguyên liệu lớn theo nhu cầu DN. Tích cực xây dựng mã số vùng trồng để thực hiện truy xuất nguồn gốc, phục vụ xuất khẩu. Tăng cường hỗ trợ nông dân, hợp tác xã và DN trong quá trình tham gia liên kết sản xuất, mở rộng vùng nguyên liệu.

Với các sở, ngành, UBND tỉnh yêu cầu kịp thời thông tin đến các DN, hợp tác xã, tổ hợp tác và nông dân về các chính sách thu hút đầu tư, chính sách tín dụng vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn để tạo động lực cho quá trình liên kết tiêu thụ, chế biến nông sản của tỉnh…

THANH TIẾN

 

Chư Sê đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất

Những năm qua, huyện Chư Sê (tỉnh Gia Lai) chú trọng tuyên truyền, hỗ trợ người dân áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp giúp nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng và đem lại nguồn thu nhập ổn định.

Xã Bar Măih là một trong những địa phương làm tốt công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Theo đó, xã đã chú trọng định hướng người dân chuyển đổi những diện tích cây trồng kém hiệu quả sang phát triển các loại cây công nghiệp dài ngày, có giá trị kinh tế cao như cà phê, sầu riêng, hồ tiêu…

Đặc biệt, tập trung đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật, sản xuất theo các tiêu chuẩn, có mã số vùng trồng, tem truy xuất nguồn gốc… để nâng cao giá trị trên một đơn vị diện tích.

Huyện Chư Sê chú trọng tuyên truyền, hỗ trợ người dân áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Ảnh: Q.T

Bên cạnh đa canh, xen canh các loại cây trồng để giảm thiểu rủi ro, gia đình anh Đinh Y Viên (làng Tơ Drăh, xã Bar Măih) còn tiên phong trồng cây sầu riêng. Nhờ chịu khó học hỏi kinh nghiệm cũng như áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chăm sóc vườn cây nên gần 100 gốc sầu riêng trồng xen trong vườn cà phê của gia đình phát triển khá tốt. Anh cũng thực hiện tương tự đối với hơn 1.000 cây cà phê và 500 trụ hồ tiêu. Nhờ đó, năng suất và sản lượng vườn cây luôn duy trì ở mức cao.

“Để chăm sóc vườn cây hiệu quả, mình thường xuyên tham quan, học tập kinh nghiệm, kỹ thuật trồng và chăm sóc sầu riêng, cà phê, hồ tiêu của các hộ trong xã, huyện; đồng thời, tận dụng các loại phế phẩm nông nghiệp như vỏ cà phê, vỏ trấu… kết hợp với chế phẩm sinh học để ủ phân bón cho cây.

Bên cạnh đó, mình ứng dụng công nghệ tưới nước tiên tiến nhằm đảm bảo cung cấp lượng nước phù hợp cho cây trồng trong từng giai đoạn. Năm ngoái, dù sầu riêng mới cho thu bói nhưng cũng góp phần nâng tổng thu nhập của gia đình lên 400-500 triệu đồng. Năm nay, sầu riêng đang ra hoa, đậu quả nhiều. Nếu thời tiết thuận lợi, giá giữ ổn định, mình sẽ có thêm nguồn thu lớn từ cây trồng này”-anh Viên chia sẻ.

Tương tự, gia đình ông Phạm Công Tới (thôn 5, xã Ia Pal) cũng ngày càng khấm khá sau thời gian chật vật với “cơn bạo bệnh” của cây hồ tiêu. Cũng như nhiều nông dân trên địa bàn, sau khi toàn bộ diện tích hồ tiêu bị chết do dịch bệnh vào năm 2016, cuộc sống của gia đình ông Tới gặp vô vàn khó khăn.

Tuy nhiên, với quyết tâm làm lại từ đầu, ông đã tập trung cải tạo đất, trồng các loại rau màu, chanh dây để lấy ngắn nuôi dài và tìm hiểu, đưa giống cây trồng mới vào sản xuất.

Năm 2020, ông Tới cùng một số hộ trong thôn liên kết với Hợp tác xã Nông-lâm nghiệp và dịch vụ Trường Xuân (tỉnh Đắk Lắk) để trồng nhãn Hương Chi theo tiêu chuẩn VietGAP. Đồng thời, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để chăm sóc vườn cây theo hướng bền vững nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường.

Ông Tới phấn khởi nói: “Hơn 400 cây nhãn Hương Chi của gia đình đã cho thu hoạch được 2 năm nay, năng suất năm sau cao hơn năm trước. Như vụ vừa rồi, tôi thu hoạch được khoảng 20 tấn, với giá bán 20-25 ngàn đồng/kg, tôi lãi trên 200 triệu đồng. Trồng nhãn Hương Chi theo tiêu chuẩn VietGAP chi phí đầu tư thấp, đầu ra lại ổn định nên gia đình rất yên tâm”.

Gia đình ông Phạm Công Tới (thôn 5, xã Ia Pal) có thu nhập ổn định nhờ trồng nhãn Hương Chi theo tiêu chuẩn VietGAP. Ảnh: Q.T

Triển khai thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/HU của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện về phát triển nông nghiệp công nghệ cao đến năm 2025, bình quân mỗi năm, huyện lồng ghép bố trí khoảng 10 tỷ đồng để hỗ trợ người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất.

Trong đó, huyện tập trung đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, sử dụng các loại giống lai, giống mới đưa vào sản xuất đại trà, góp phần tăng năng suất, sản lượng thu hoạch; khuyến khích mở rộng áp dụng cơ giới hóa, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, nhất là ở khâu làm đất, gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch.

Đến nay, toàn huyện có trên 2.100 ha cây trồng được ứng dụng công nghệ cao, chiếm 5,43% tổng diện tích gieo trồng. Giá trị thu nhập trên 1 ha đất canh tác cùng nhóm sản phẩm có ứng dụng công nghệ cao đến thời điểm hiện tại tăng 12% so với năm 2020.

Trao đổi với P.V, ông Nguyễn Hữu Tỵ-Trưởng phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Chư Sê-cho biết: Huyện tiếp tục lựa chọn một số giống cây trồng có năng suất, chất lượng cao, thị trường tiêu thụ ổn định để đầu tư phát triển. Đồng thời, kêu gọi, thu hút các doanh nghiệp đầu tư, liên kết với hợp tác xã, người dân để phát triển sản xuất gắn với sơ chế, bảo quản, chế biến, tiêu thụ cũng như xây dựng thương hiệu sản phẩm cây trồng, vật nuôi.

Đặc biệt, huyện tiếp tục tuyên truyền, vận động người dân phát triển, mở rộng diện tích đất canh tác nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao để nâng cao hiệu quả kinh tế; xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc, mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói sản phẩm…

NGUYỄN QUANG

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop