Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 17 tháng 4 năm 2025
Công ty CP Phân Bón Bình Điền 50 năm góp phần phát triển nông nghiệp bền vững
Trong khuôn khổ Lễ tôn vinh 50 doanh nghiệp và đơn vị tiêu biểu của TP. Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 50 năm ngày Thống nhất đất nước (30.4.1975 - 30.4.2025), Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền với thương hiệu phân bón Đầu Trâu, đã được vinh danh là một trong những doanh nghiệp tiêu biểu. Sự kiện do UBND TP. Hồ Chí Minh tổ chức nhằm ghi nhận những đóng góp nổi bật của cộng đồng doanh nghiệp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố trong giai đoạn 1975 - 2025.
Phương châm "Hướng về người nông dân"
Trải qua hơn 50 năm hình thành và phát triển, Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền đã khẳng định vị thế là người bạn đồng hành tin cậy của hàng triệu nông dân Việt Nam. Với phương châm "Hướng về người nông dân", Bình Điền không ngừng đổi mới, ứng dụng công nghệ tiên tiến và nghiên cứu phát triển các sản phẩm phân bón phù hợp với đặc điểm từng vùng sinh thái và loại cây trồng. Những nỗ lực này đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng nông sản và thúc đẩy nền nông nghiệp bền vững.
Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền với thương hiệu phân bón Đầu Trâu được vinh danh là một trong 50 doanh nghiệp tiêu biểu của TP. Hồ Chí Minh. Ảnh: Ngọc Vân
Việc được vinh danh trong top 50 doanh nghiệp tiêu biểu TP. Hồ Chí Minh là minh chứng cho chiến lược phát triển bền vững, hiệu quả và hướng đến cộng đồng của Bình Điền. Bên cạnh việc cung cấp sản phẩm chất lượng cao, Công ty còn tích cực tham gia các chương trình lớn của ngành nông nghiệp, nổi bật là đề án phát triển 1 triệu hecta lúa chất lượng cao tại đồng bằng sông Cửu Long. Thông qua các giải pháp canh tác thông minh, Bình Điền hỗ trợ nông dân thích ứng với biến đổi khí hậu, tối ưu hóa quy trình, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp và bảo vệ môi trường.
Phát biểu tại sự kiện, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền Ngô Văn Đông nhấn mạnh, giải thưởng này là động lực để chúng tôi tiếp tục đồng hành cùng nông dân, đổi mới sáng tạo và đóng góp cho nền nông nghiệp phát triển một cách bền vững. Ông Đông cũng khẳng định cam kết của Công ty trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nông dân.
Sự kiện không chỉ đánh dấu một cột mốc quan trọng trong hành trình 50 năm của Bình Điền mà còn truyền cảm hứng cho các doanh nghiệp khác trong ngành nông nghiệp. Với những giá trị cốt lõi đã xây dựng, Bình Điền cam kết tiếp tục đóng góp vào sự phát triển của TP. Hồ Chí Minh và nền nông nghiệp Việt Nam, hướng tới mục tiêu bền vững và thịnh vượng trong tương lai.
Xây dựng nhiều mục tiêu phát triển bền vững
Để tiếp tục gặt hái thành công trong tương lai, Bình Điền đặt ra mục tiêu mở rộng thị trường quốc tế và phát triển thêm nhiều dòng sản phẩm mới. Công ty sẽ đầu tư vào công nghệ hiện đại nhằm cải tiến quy trình sản xuất, giảm thiểu chi phí và tăng cường năng suất. Đặc biệt, việc nghiên cứu các giải pháp phân bón tiên tiến sẽ giúp nâng cao giá trị nông sản Việt Nam và đáp ứng xu hướng nông nghiệp sạch, bền vững và giảm phát khí thải.
Hơn nửa thế kỷ đồng hành cùng nông dân Việt Nam, Bình Điền luôn hướng đến xây dựng những quy trình canh tác thông minh và bền vững. Công ty không ngừng cải tiến sản phẩm để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của bà con nông dân. Việc được vinh danh trong top 50 doanh nghiệp tiêu biểu chính là minh chứng rõ ràng cho sự nỗ lực không ngừng nghỉ của toàn bộ đội ngũ nhân viên cũng như ban lãnh đạo công ty.
Năm 2024 chứng kiến sự bứt phá ngoạn mục của Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền khi ghi nhận doanh thu hơn 9.489 tỷ đồng, tăng 9% so với năm 2023, trong khi lợi nhuận trước thuế đạt đỉnh 531,1 tỷ đồng, tăng tới 170,6%. Đây là mức lợi nhuận kỷ lục từ trước đến nay của thương hiệu phân bón Đầu Trâu. So với mục tiêu năm 2024 được đặt ra trước đó (doanh thu 7.137 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế 210 tỷ đồng), Bình Điền đã hoàn thành xuất sắc khi vượt 32,96% về doanh thu và 152,9% về lợi nhuận. Đây là kết quả đáng tự hào, khẳng định vị thế của một doanh nghiệp dẫn đầu trong lĩnh vực phân bón.
Năm 2025, Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền cũng đã công bố kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2025 với các chỉ tiêu: doanh thu hợp nhất dự kiến đạt hơn 7.438 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế đạt 281 tỷ đồng. Ngoài ra, Công ty cũng đặt mục tiêu sản xuất 605.000 tấn sản phẩm (trong đó, công ty mẹ sản xuất 310.000 tấn); tiêu thụ 605.000 tấn (công ty mẹ 310.000 tấn).
Về kế hoạch sản xuất kinh doanh quý I.2025, Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền đã thông qua chỉ tiêu sản lượng sản xuất là 110.300 tấn, sản lượng tiêu thụ là 100.300 tấn, tổng doanh thu là 1.336,4 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế hợp nhất là 45,5 tỷ đồng.
Tâm Anh
Cú 'lột xác' trong sản xuất nông nghiệp ở Phú Yên nhìn từ những mô hình công nghệ cao tiền tỷ
Trong những năm gần đây, ngành nông nghiệp tỉnh Phú Yên đang chứng kiến sự 'lột xác' mạnh mẽ khi ngày càng nhiều mô hình sản xuất ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số được triển khai rộng khắp các địa phương.
Không chỉ góp phần nâng cao năng suất, chất lượng nông sản, xu hướng này còn mở ra hướng đi mới, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Đặc biệt, các HTX đã và đang đóng vai trò hạt nhân, thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong sản xuất nông nghiệp.
Bắt nhịp công nghệ
Bắt nhịp với xu thế cách mạng công nghiệp 4.0, tỉnh Phú Yên đã chú trọng đầu tư phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Từ vùng đồng bằng ven biển đến miền núi, vùng gò đồi, làn gió đổi mới đang lan tỏa khắp các cánh đồng, mang theo kỳ vọng về một nền nông nghiệp năng suất cao.
Trong xu thế đổi mới, các hộ sản xuất ở Phú Yên không còn bám ruộng vườn theo cách truyền thống. Thay vào đó, họ chủ động tiếp cận với khoa học – công nghệ, từng bước làm chủ kỹ thuật canh tác mới, mạnh dạn thử nghiệm mô hình sản xuất nông nghiệp hiện đại.
Nông dân, HTX ở Phú Yên đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng công nghệ cao (Ảnh: BPY).
Như tại huyện Phú Hòa, mô hình trồng rau thủy canh, dưa lưới trong nhà màng đã không còn xa lạ với nhiều nông hộ. Thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào thời tiết như trước, giờ đây người dân đã biết áp dụng hệ thống tưới nhỏ giọt, giám sát môi trường trồng bằng cảm biến, tự động hóa khâu chăm sóc.
Nhờ ứng dụng công nghệ giúp nông dân Phú Hòa giảm đáng kể chi phí sản xuất và rủi ro dịch bệnh. Nhiều hộ thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm nhờ áp dụng công nghệ cao.
Đáng chú ý, không chỉ dừng lại ở công nghệ sản xuất, chuyển đổi số trong quản lý và tiêu thụ sản phẩm cũng đang được tỉnh Phú Yên quan tâm thúc đẩy. Nhiều HTX và cơ sở sản xuất trên địa bàn tỉnh đã chủ động áp dụng công nghệ số trong quản lý chuỗi sản xuất, truy xuất nguồn gốc, quảng bá và tiêu thụ sản phẩm.
HTX Nông nghiệp Kinh doanh Tổng hợp Đồng Din (thị trấn Phú Hòa, huyện Phú Hòa) là một trong những đơn vị đi đầu trong việc gắn tem QR truy xuất nguồn gốc cho các sản phẩm OCOP như trái khóm, bánh khóm, rượu khóm, giấm khóm và nước rửa chén.
Việc có “định danh” rõ ràng không chỉ giúp nâng cao uy tín, niềm tin của người tiêu dùng mà còn giúp HTX Đồng Din mở rộng thị trường tiêu thụ, đặc biệt là trên các nền tảng thương mại điện tử.
Đưa nông sản vươn xa
Cùng với đó, các nền tảng số như mạng xã hội, sàn giao dịch nông sản trực tuyến, các ứng dụng di động… cũng được nông dân và HTX tận dụng hiệu quả. Đây chính là “cánh tay nối dài” giúp nông sản Phú Yên tiếp cận gần hơn với người tiêu dùng khắp cả nước và từng bước hướng tới thị trường quốc tế.
Không chỉ tổ chức sản xuất, nhiều HTX còn thực hiện vai trò dẫn dắt, hỗ trợ thành viên từ khâu chọn giống, kỹ thuật canh tác, quản lý chất lượng, xây dựng thương hiệu đến tiêu thụ sản phẩm.
Điển hình như HTX Nông nghiệp Kinh doanh Dịch vụ Hòa Phong (huyện Tây Hòa) đã liên kết với Công ty CP Tập đoàn Quế Lâm để sản xuất lúa hữu cơ theo quy trình khép kín. Sản phẩm gạo Tây Hòa của HTX này hiện được dán mã QR truy xuất nguồn gốc, bảo đảm chất lượng và an toàn, qua đó tạo được niềm tin nơi người tiêu dùng.
HTX Dịch vụ Nông nghiệp Hòa Hội (huyện Phú Hòa) cũng là một mô hình hiệu quả khi triển khai trồng dưa hấu theo tiêu chuẩn VietGAP. Sản phẩm của HTX được doanh nghiệp bao tiêu với mức giá ổn định, giúp nông dân yên tâm sản xuất và có thu nhập khá.
Ứng dụng hiệu quả khoa học công nghệ mang lại lợi ích kép về kinh tế, môi trường (Ảnh: BPY).
Ngoài ra, các HTX như Hòa Mỹ Tây, Hòa Bình 1, Hòa Vinh, Bình Kiến 2… đã mạnh dạn ứng dụng KH-CN vào chuỗi sản xuất lúa giống, nuôi tôm càng xanh xen canh lúa, trồng nấm ăn và nấm dược liệu. Nhờ vậy, không chỉ tăng hiệu quả kinh tế mà còn tạo thêm hàng trăm việc làm cho người dân địa phương, nhất là lao động nông thôn và phụ nữ.
Điểm chung của các HTX, tổ hợp tác này là đều chú trọng phát triển chuỗi giá trị, liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp, nhà phân phối và thị trường tiêu dùng. Qua đó, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản Phú Yên trong bối cảnh hội nhập.
Những thành công của hàng loạt HTX cho thấy các chính sách hỗ trợ của ban ngành địa phương, đặc biệt là sự đồng hành của Liên minh HTX tỉnh và Liên minh HTX Việt nam đang đi đúng hướng.
Cụ thể, trong những năm gần đây, Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Phú Yên đã phối hợp triển khai nhiều chương trình hỗ trợ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế hợp tác trên địa bàn tỉnh. Các hoạt động này không chỉ góp phần nâng cao năng lực cho các HTX mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng sản xuất, kinh doanh và cải thiện đời sống cho người dân địa phương.
Hướng tới nông nghiệp hiện đại
Một trong những điểm nhấn là chương trình phối hợp giữa Liên minh HTX tỉnh Phú Yên và Liên minh HTX tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2024-2030.
Chương trình này tập trung vào việc phát triển mô hình HTX nông nghiệp theo chuỗi giá trị gắn với du lịch cộng đồng, xây dựng các HTX thủy sản ứng dụng công nghệ cao và đẩy mạnh xúc tiến thương mại thông qua liên kết liên vùng.
Bên cạnh đó, Liên minh HTX Việt Nam cũng phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Phú Yên triển khai Đề án 01/QĐ-TTg, hỗ trợ HTX do phụ nữ tham gia quản lý và tạo việc làm cho lao động nữ đến năm 2030.
Thông qua các hoạt động như tập huấn, tư vấn pháp lý, hỗ trợ tiếp cận vốn và xây dựng thương hiệu, nhiều HTX do phụ nữ điều hành đã được thành lập và hoạt động hiệu quả, tiêu biểu như HTX Nông nghiệp hữu cơ An Xuân Phát và HTX Kinh doanh dịch vụ Xương rồng Nopal Phú Yên.
Có thể nói, sự đồng hành của Liên minh HTX Việt Nam và các tổ chức liên quan, kinh tế hợp tác tại Phú Yên đang từng bước khẳng định vai trò trong phát triển kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao đời sống người dân và thúc đẩy sự phát triển bền vững của địa phương.
Tính đến cuối năm 2024, tỉnh Phú Yên đã có 206 HTX đang hoạt động với tổng vốn lên đến 673,45 tỷ đồng, thu hút hơn 112.000 thành viên và tạo việc làm cho gần 3.200 lao động thường xuyên. Doanh thu bình quân đạt khoảng 3,4 tỷ đồng/HTX/năm.
Nhìn lại chặng đường đổi mới trong nông nghiệp Phú Yên có thể thấy, việc ứng dụng khoa học công nghệ và thúc đẩy chuyển đổi số đã góp phần tạo ra những bước chuyển tích cực, hiệu quả trong sản xuất. Không chỉ giúp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, xu hướng này còn mở ra nhiều cơ hội mới cho người nông dân – từ cải thiện thu nhập đến kết nối thị trường.
Đặc biệt, vai trò của các HTX, tổ hợp tác không chỉ dừng lại ở việc “giúp nhau làm ăn” mà thực sự trở thành những “đầu tàu” sáng tạo, tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng. Với định hướng đúng đắn, chính sách hỗ trợ kịp thời và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, Phú Yên đang vững bước trên con đường xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, xanh – sạch – thông minh và hội nhập quốc tế.
Nam Phong
Mường Nhà phát triển kinh tế, giảm nghèo nhờ dứa mật
Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, cây dứa mật Mường Nhà (xã Mường Nhà, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên) với sự giúp đỡ tích cực của cán bộ địa phương, cũng như các mô hình liên kết, HTX đã giúp người dân phát triển kinh tế và giảm nghèo bền vững.
Nhờ mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên trên đất dốc như ngô, sắn, lúa nương sang trồng dứa mật, bà con người H’Mông tại xã Mường Nhà đã có nguồn thu nhập ổn định. Cây dứa đã trở thành cây trồng chủ lực giúp người dân ở Mường Nhà xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế.
Đảm bảo cho đầu ra về lâu dài
Dứa Mường Nhà được trồng trên các sườn đồi với đặc điểm có hình dạng tròn, vỏ màu vàng xanh và thịt chín có màu vàng cam, có vị ngọt và mùi thơm đặc trưng. Quả to hơn các loại dứa bình thường, trung bình khoảng 2-3kg/quả; quả nhiều nước, mắt nông, ngọt, mép lá không có gai. Thời gian thu hoạch từ cuối tháng 6 đến hết tháng 8 hàng năm. Cây dứa cho thu hoạch ổn định từ năm thứ 3 đến năm thứ 7.
Vì phát triển theo hướng tự nhiên nên dứa mật Mường Nhà chín thành nhiều đợt chứ không chín đại trà, không tạo sức ép mùa vụ quá lớn như các loại cây trồng khác. Dứa mật trồng nhàn hơn ngô, lúa vì chỉ cần trồng một lần sẽ cho thu hoạch 3-4 năm mới phải trồng lại. Mỗi năm, chỉ vất vả nhất là khi làm cỏ và thu hoạch, không cần tưới nước hay dùng thuốc trừ sâu.
Cây dứa đã trở thành cây trồng chủ lực giúp người dân ở Mường Nhà xóa đói giảm nghèo.
Với lợi thế nằm ngay bên đường vành đai biên giới kết nối Quốc lộ 279 nên việc tiêu thụ dứa của người dân Mường Nhà khá thuận lợi. Cùng với giá ổn định, thị trường ngày càng rộng, cây dứa mật ở Mường Nhà đã thật sự trở thành cây trồng chủ lực cho đường hướng phát triển kinh tế, có tiềm năng để xây dựng thành sản phẩm nông nghiệp đặc trưng cho thế mạnh vùng đất Mường Nhà.
Mặc dù là một trong những mặt hàng nông sản rất dễ tiêu thụ trên thị trường, các thương lái từ nhiều nơi đã vào tận thôn, bản để đặt hàng, thu mua dứa. Tuy nhiên, nhằm định hướng đảm bảo cho đầu ra về lâu dài, trong năm 2022, với sự hỗ trợ của Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh, HTX Dứa Mường Nhà được thành lập và liên kết với các hộ dân phát triển, nhân rộng và bao tiêu sản phẩm cho người dân. Đến nay, toàn xã Mường Nhà có 60ha dứa của gần 300 hộ dân, trong đó vùng trồng dứa tập trung tại bản Pu Lau với hơn 30ha đã liên kết với HTX Dứa Mường Nhà.
Theo ông Thào A Giàng, Giám đốc HTX Dứa Mường Nhà: HTX hướng dẫn bà con trồng dứa theo quy trình kỹ thuật để nâng cao năng suất cũng như chất lượng quả. HTX nhận tiêu thụ toàn bộ sản lượng cho bà con, đồng thời liên kết với các công ty thu mua quả xanh, quả chín. Được hướng dẫn áp dụng khoa học kỹ thuật, bao tiêu sản phẩm, những năm gần đây sản phẩm dứa ngày càng chất lượng, giá cả ổn định, giúp nhiều hộ dân thoát nghèo.
Không chỉ thu nhập chính từ dứa quả, HTX Dứa Mường Nhà đã liên kết tiêu thụ các sản sản phẩm khác như lá dứa, mầm dứa, gốc dứa già. Đối với mầm dứa, gần 2 năm phát triển sẽ bắt đầu tách mầm bán giống. Một cây khỏe mạnh khi tách sẽ thu được 3 mầm với giá 2.000 đồng/mầm, 1ha đất dốc mật độ trung bình 35.000 cây đem lại thu nhập không nhỏ cho bà con.
Lá dứa tươi cũng được thu hái phụ thêm thu nhập cho bà con. Đây là nguyên liệu thô thay thế sợi gai xanh được HTX sợi dứa thu mua giá 1.000 đồng/kg. Với diện tích 1ha, một năm thu về hơn 20 triệu đồng.
Điểm sáng Pu Lau
Pu Lau là bản vùng cao thuộc xã Mường Nhà, huyện Điện Biên, là nơi cư trú của đồng bào dân tộc H’Mông. Nhờ trồng dứa mật mà bản Pu Lau từ bản khó khăn nhất xã vươn lên thành bản tiên phong xóa đói giảm nghèo điển hình.
Theo chia sẻ của bà con Pu Lau, nhận thấy cây giống phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, nên bà con nơi đây dần dần nhân rộng diện tích cây trồng.
Nhờ sự tích cực vận động chuyển đổi cơ cấu cây trồng của chính quyền địa phương, nhiều hộ dân đã chuyển đổi sang trồng dứa mật. Pu Lau hiện là bản có diện tích dứa lớn nhất xã với hơn 100 ha; sau đó đến HTX dứa Mường Nhà có hơn 60 ha; còn lại các bản: Na Khoang, Phì Cao, Huổi Hương, Pha Thinh có gần 20 ha, vì các bản này mới chuyển dần diện tích trồng lúa nương không hiệu quả sang trồng dứa.
Theo tính toán, mỗi ha trồng khoảng 2,5 vạn cây dứa mật, năng suất khoảng 17 -18 tấn quả/ha, với giá bán 10.000 - 12.000 đồng/kg, thì mỗi ha trồng dứa sau khi trừ mọi chi phí người dân lãi khoảng 150 triệu đồng/ha. Đặc biệt, sau mỗi vụ, dứa ra cây con, người dân có thể tách chồi trồng mới, nên vụ sau bà con chủ động được nguồn giống.
Anh Vàng A Sống, bản Pu Lau cho biết, trước đây gia đình anh thuộc hộ nghèo, thu nhập gia đình phụ thuộc vào lúa nương. Nhưng từ năm 2016 đến nay, anh đã chuyển đổi gần 3.000m2 đất trồng lúa nương sang trồng giống dứa mật.
“Mỗi vụ dứa mang lại thu nhập khoảng 70 - 90 triệu đồng, giúp chúng tôi phát triển kinh tế, giảm được đói nghèo”, anh Vàng A Sống chia sẻ.
HTX Dứa Mường Nhà đã liên kết với các hộ dân phát triển, nhân rộng và bao tiêu sản phẩm cho bà con.
Đại diện xã Mường Nhà cho biết, cây dứa đã và đang mở ra một hướng đi mới cho người dân bản Pu Lau nói riêng và xã Mường Nhà nói chung.
“Bản Pu Lau đều là đồng bào dân tộc H’Mông. Nhờ có nguồn vốn hỗ trợ thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, diện tích trồng trọt kém hiệu quả đã dần được bà con Pu Lau thay thế bằng những hàng dứa đều tăm tắp, cho thu nhập cao”, vị này nói.
Hướng tới liên kết chuỗi giá trị bền vững
Theo đại diện Hội Nông dân xã Mường Nhà, hiện nay giống dứa mật được xác định là cây trồng chủ lực để phát triển kinh tế ở vùng đất dốc, thay thế cho những cây trồng kém hiệu quả nhằm giúp người dân địa phương nâng cao thu nhập.
Bên cạnh đó, việc phát triển các chuỗi liên kết trong sản xuất nông nghiệp thời gian qua cho thấy, các HTX nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong quá trình tái cơ cấu ngành Nông nghiệp và liên kết, hợp tác phát triển sản xuất. Theo đó, huyện đã tiếp tục thành lập HTX Pu Lau nhằm mở rộng chuỗi tiêu thụ.
Theo định hướng của chính quyền xã, thời gian tới, xã sẽ mở rộng thêm diện tích đất trồng dứa. Đồng thời áp dụng khoa học kỹ thuật cho nông dân, giúp nâng cao năng suất, sản lượng và đặc biệt là mục tiêu sản xuất 100% theo hướng hữu cơ, phát triển sản phẩm dứa Mường Nhà trở thành một trong những sản phẩm OCOP tiêu biểu của địa phương.
Đại diện xã cho biết: “Chính quyền xã Mường Nhà ra kế hoạch nhân rộng diện tích dứa mỗi năm khoảng hơn 10 ha. Hiện tại, đây là sản phẩm sạch, xã cũng đang trình để được công nhận sản phẩm OCOP của xã và của huyện Điện Biên”.
Đặc biệt, vùng trồng dứa Mường Nhà được tỉnh Điện Biên đồng hành, hỗ trợ, hướng dẫn người dân, HTX, doanh nghiệp đẩy mạnh việc thiết lập, xây dựng mã số vùng trồng. Đến nay, dứa Mường Nhà bước đầu đã được cấp mã số vùng trồng.
Việc xây dựng mã số vùng trồng mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho người dân như chuẩn hóa quy trình chăm sóc, quản lý cây trồng, giúp cây trồng cho năng suất cao, đáp ứng được tiêu chuẩn của những thị trường khó tính nhất.
Cùng với đó tạo điều kiện thuận lợi cho người sản xuất và doanh nghiệp liên kết sản xuất, nâng cao giá trị sản phẩm nhờ được xuất khẩu theo đường chính ngạch.
Ngoài ra còn góp phần rút ngắn khâu trung gian, nâng cao giá trị gia tăng và hiệu quả kinh tế, cũng như đảm bảo đầu ra ổn định cho người dân. Qua đó, góp phần phát triển sản xuất theo hướng hàng hóa tập trung, theo hình thức liên kết chuỗi giá trị bền vững.
Giang Nguyễn
Xuân Trường phát triển đa dạng các mô hình kinh tế nông nghiệp
Ngày 31/3/2025, huyện Xuân Trường được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận đạt chuẩn nông thôn mới (NTM) nâng cao năm 2024 - là một trong 3 huyện đầu tiên của tỉnh và 20 huyện đầu tiên của cả nước về đích xây dựng huyện NTM nâng cao. Một trong những yếu tố then chốt góp phần vào thành công đó chính là sự đa dạng và hiệu quả của các mô hình kinh tế nông nghiệp. Những mô hình này không chỉ nâng cao thu nhập cho người dân mà còn thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế, hướng tới nền nông nghiệp hiện đại và bền vững.
Ứng dụng máy cuộn rơm trong sản xuất nông nghiệp.
Từ kết quả dồn điền, đổi thửa trong thực hiện chương trình xây dựng NTM, huyện Xuân Trường đã tập trung, tích tụ ruộng đất hình thành các vùng sản xuất lớn, chỉnh trang đồng ruộng, đắp bờ vùng, bờ thửa, đầu tư hệ thống giao thông, thủy lợi nội đồng thuận lợi cho tưới tiêu, đi lại vận chuyển vật tư sản xuất cũng như thu hoạch sản phẩm bằng phương tiện cơ giới. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu thuê mượn sản xuất nông nghiệp hàng hóa và đầu tư, đẩy mạnh áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, cơ giới hóa các khâu sản xuất nhằm giảm chi phí đầu tư, tăng hiệu quả sản xuất. Xuân Trường là một trong những huyện đầu tiên của tỉnh xây dựng thành công mô hình liên doanh, liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân trong sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Đến nay, trên địa bàn huyện có 80 cánh đồng lớn, 8 mô hình liên kết, 5 doanh nghiệp và trên 100 tổ chức, cá nhân tập trung, tích tụ được 852ha sản xuất giống lúa chất lượng cao, lúa giống và rau màu các loại. Điển hình là Công ty TNHH Cường Tân tích tụ ruộng đất và liên kết với 13 nhóm hộ nông dân đầu tư sản xuất hạt giống lúa lai F1, quy mô 50ha tại xã Xuân Ninh tạo thêm hàng nghìn ngày công lao động mỗi năm cho nông dân địa phương; Công ty Cổ phần Thương mại Hoàng Diệu tích tụ ruộng đất và đầu tư sản xuất 13ha cây dược liệu (cây đinh lăng, cây gấc) kết hợp chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản tại vùng bãi các xã Xuân Thành, Xuân Tân cho thu nhập cao hơn 4-6 lần so với trồng lúa… Năng suất lúa bình quân của huyện đạt 125,2 tạ/ha/năm; giá trị sản xuất trên 1ha canh tác năm 2024 đạt 145 triệu đồng.
Chăn nuôi phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng theo hướng chuyển từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi tập trung theo mô hình trang trại, đảm bảo an toàn dịch bệnh và vệ sinh môi trường. Hiện huyện có 30 cơ sở chăn nuôi trang trại. Trong đó, có 1 trang trại chăn nuôi quy mô lớn của Công ty TNHH Japfa Comfeed Việt Nam ở xã Xuân Ninh quy mô hơn 1.200 con lợn nái đã được Sở Nông nghiệp và Môi trường cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi. 100% cơ sở chăn nuôi lợn trên địa bàn huyện sử dụng hệ thống máng uống tự động, trên 50% cơ sở chăn nuôi có hệ thống làm mát sử dụng động cơ, việc cung cấp thức ăn cho lợn thịt, lợn con đều sử dụng xi lô để chứa thức ăn nhằm đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm. Tận dụng lợi thế có 2 con sông lớn (sông Hồng và sông Ninh Cơ) chảy qua, nhiều hộ dân ven sông đã đầu tư vốn để phát triển nuôi cá lồng với các đối tượng nuôi chủ yếu là các loại cá truyền thống, cá có giá trị kinh tế cao như cá lăng, cá chép giòn… Có 2 cơ sở sản xuất, sơ chế, chế biến cá truyền thống đã được cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm là HTX Sản xuất kinh doanh dịch vụ nuôi trồng thủy sản Xuân Hòa, xã Xuân Phúc với mặt hàng sản xuất, kinh doanh là cá lăng, cá trắm đen, cá trắm cỏ và hộ kinh doanh Trần Thanh Năm, xã Xuân Vinh với mặt hàng sản xuất kinh doanh là cá trắm đen, cá trắm cỏ, cá chép.
Bên cạnh chuyển tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, phát triển chuỗi liên kết giá trị theo hướng kinh tế tuần hoàn, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, huyện Xuân Trường cũng hình thành các sản phẩm tích hợp “đa giá trị”, phát triển du lịch nông thôn gắn với bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, bảo vệ môi trường và bảo tồn cảnh quan sáng - xanh - sạch - đẹp, phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Điển hình là mô hình sản xuất nước đóng bình, đóng chai của hộ kinh doanh Đặng Văn Biên, xã Xuân Hồng với sản phẩm nước uống Vina Hành Thiện được công nhận sản phẩm OCOP đạt 3 sao; mô hình đã thu hút và giải quyết việc làm cho 15 lao động với thu nhập bình quân trên 5 triệu đồng/người/tháng. Mô hình sản xuất nem, giò, chả của hộ sản xuất kinh doanh Bùi Quang Điện, xã Xuân Phúc với các sản phẩm là nem, giò, chả, trong đó có 2 sản phẩm được công nhận sản phẩm OCOP 3 sao giải quyết việc làm cho 6 lao động, với thu nhập bình quân từ 5-7 triệu đồng/người/tháng. Mô hình sản xuất gạo Hom Xuân Thành kết hợp với khai thác con rươi của Công ty cổ phần Du lịch Trường Khoa, xã Xuân Thành với sản lượng trên 20 tấn gạo/năm và trên 2 tấn rươi/năm thu hút, giải quyết việc làm cho 10 lao động thường xuyên và 30 lao động thời vụ với thu nhập bình quân từ 7-8 triệu đồng/người/tháng…
Nhờ đổi mới tư duy làm nông nghiệp nên kinh tế nông nghiệp của huyện Xuân Trường đã có những chuyển biến tích cực về chất. Tỷ trọng nông nghiệp, thủy sản trong cơ cấu kinh tế tuy giảm nhưng giá trị kinh tế tăng cao,… Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM đạt được nhiều kết quả quan trọng, nổi trội. Đến nay, 100% xã, thị trấn trong huyện đạt chuẩn NTM nâng cao; có 7/13 xã được công nhận NTM kiểu mẫu, thị trấn Xuân Trường được công nhận đạt chuẩn đô thị văn minh, xã Xuân Phúc đạt chuẩn xã thông minh; có 140/167 thôn, xóm, tổ dân phố được công nhận đạt chuẩn khu dân cư NTM kiểu mẫu.
Những mô hình kinh tế nông nghiệp, nông thôn đa dạng và hiệu quả đã và đang góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện Xuân Trường. Sự linh hoạt, dám nghĩ dám làm của người nông dân kết hợp với chính sách hỗ trợ của địa phương đã tạo nên những thay đổi tích cực, tạo nền tảng quan trọng cho sự phát triển của địa phương trong bối cảnh mới, kỷ nguyên vươn mình của quê hương, đất nước.
Bài và ảnh: Ngọc Ánh
Khẳng định thương hiệu nông sản An Giang
Với diện tích sản xuất nông nghiệp thuộc 'tốp đầu' ĐBSCL, An Giang sở hữu tiềm năng lớn trong liên kết tiêu thụ, chế biến nông sản. Ngành nông nghiệp An Giang đang nỗ lực đề xuất, thực hiện các giải pháp nhằm khai thác hiệu quả lợi thế của tỉnh.
Tiềm năng dồi dào
Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường, năm 2024, tổng diện tích xuống giống cây lúa khoảng 618.600ha, sản lượng gần 4,072 triệu tấn. Bên cạnh, tổng diện tích hoa màu, cây ăn trái lần lượt là 48.800ha và 20.500ha; tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt gần 700.000 tấn, trong đó, cá tra khoảng 583.000 tấn.
Ngành nông nghiệp đã hỗ trợ cấp 564 mã số vùng trồng, với tổng diện tích 19.766ha, phục vụ nhu cầu xuất khẩu đi các thị trường: Úc, Hoa Kỳ, New Zealand, Nga, Châu Âu, Hàn Quốc, Trung Quốc... Ngoài ra, cấp 1 mã số cơ sở đóng gói khoai lang xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc của Công ty Cổ phần Rau quả thực phẩm An Giang (Antesco). Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển chuỗi liên kết tiêu thụ, chế biến nông sản của tỉnh.
Theo Công ty Antesco, đơn vị đã liên kết Sở Nông nghiệp và Môi trường và Hội Nông dân tỉnh ký kết hợp tác xây dựng, tạo vùng nguyên liệu, với diện tích 10.000ha. Hiện, công ty đã ký kết trực tiếp với nông dân các huyện: Phú Tân, Chợ Mới, An Phú để bao tiêu và xây dựng vùng nguyên liệu cho các sản phẩm chủ lực, như: Bắp non, đậu nành rau, bắp ngọt, xoài keo, xoài Đài Loan. Nhờ đó, công ty có vùng nguyên liệu ổn định, có thể kiểm soát tốt về số lượng, chất lượng, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật… nhằm đáp ứng nhu cầu khắt khe của thị trường.
Cần tích cực hỗ trợ doanh nghiệp tham tham gia liên kết sản xuất, mở rộng vùng nguyên liệu
Cùng thuận lợi trên, Nhà máy Gạo Hạnh Phúc (Tập đoàn Tân Long), với sự hỗ trợ của UBND tỉnh, ngành chuyên môn và các địa phương đã liên kết sản xuất - tiêu thụ lúa chất lượng cao với 15 hợp tác xã trong tỉnh, chủ yếu ở các huyện: Tri Tôn, Thoại Sơn, Châu Thành, Phú Tân. Theo kế hoạch, công ty sẽ liên kết sản xuất với diện tích trên 10.000ha trong năm 2025, góp phần đưa hạt gạo An Giang chinh phục các thị trường khó tính.
Ngoài các đơn vị nói trên, ngành nông nghiệp An Giang còn thực hiện hỗ trợ nhiều doanh nghiệp (DN) trong và ngoài tỉnh để liên kết sản xuất, tiêu thụ, chế biến nông sản của tỉnh. Chỉ riêng lúa gạo, diện tích liên kết năm 2024 đã đạt khoảng 74.623ha, chiếm 12,1% tổng diện tích gieo trồng. Đặc biệt, An Giang còn có 2 sản phẩm gạo đạt OCOP (Chương trình mỗi xã một sản phẩm) 5 sao cấp quốc gia; 1 sản phẩm gạo, 2 sản phẩm rượu gạo và 1 sản phẩm thanh gạo lứt ngũ cốc đạt OCOP 3 sao.
Tăng cường giải pháp
Dù đã chủ động thực hiện nhiều giải pháp thúc đẩy liên kết tiêu thụ, chế biến nông sản của tỉnh, nhưng ngành nông nghiệp An Giang vẫn đối mặt với khó khăn, như: Cơ chế, chính sách thu hút, mời gọi DN chưa thực sự hấp dẫn; năng lực của các hợp tác xã còn hạn chế, khó khăn cho việc hình thành các chuỗi liên kết; hệ thống logistics trong nông nghiệp của tỉnh còn hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến việc đầu tư vào lĩnh vực này.
Ngành nông nghiệp An Giang hỗ trợ cấp mã số vùng trồng cho nông sản phục vụ xuất khẩu
DN đề xuất các ngành, địa phương đẩy mạnh tuyên truyền, thay đổi nhận thức nông dân trong việc tham gia liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản, nhằm tạo được vùng nguyên liệu lớn. Việc giữ “chữ tín” trong quá trình liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản chưa đáp ứng yêu cầu. Đặc biệt, công tác xây dựng mã số vùng trồng chưa được hợp tác xã, tổ hợp tác và nông dân quan tâm đúng mức, gây khó khăn cho quá trình xuất khẩu.
Ngành nông nghiệp An Giang đã kiến nghị UBND tỉnh ban hành cơ chế, chính sách đặc thù, tạo môi trường thuận lợi nhằm thu hút, thúc đẩy các DN đầu tư tại địa phương. Phát triển các khu công nghiệp dành riêng cho chế biến nông sản, cũng như đầu tư cơ sở hạ tầng đồng bộ, đáp ứng nhu cầu phát triển. Thường xuyên gặp gỡ, đối thoại với DN, nông dân để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc. Tăng cường giới thiệu tiềm năng, thế mạnh nông nghiệp của tỉnh nhằm thu hút DN đến An Giang.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động liên kết tiêu thụ, chế biến nông sản, UBND tỉnh yêu cầu ngành nông nghiệp đẩy mạnh áp dụng các tiêu chuẩn nông nghiệp sạch, nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ để đáp ứng nhu cầu thị trường, giúp gia tăng giá trị sản phẩm. Thường xuyên phối hợp với các địa phương hỗ trợ, kết nối với DN để xây dựng các vùng nguyên liệu lớn theo nhu cầu DN. Tích cực xây dựng mã số vùng trồng để thực hiện truy xuất nguồn gốc, phục vụ xuất khẩu. Tăng cường hỗ trợ nông dân, hợp tác xã và DN trong quá trình tham gia liên kết sản xuất, mở rộng vùng nguyên liệu.
Với các sở, ngành, UBND tỉnh yêu cầu kịp thời thông tin đến các DN, hợp tác xã, tổ hợp tác và nông dân về các chính sách thu hút đầu tư, chính sách tín dụng vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn để tạo động lực cho quá trình liên kết tiêu thụ, chế biến nông sản của tỉnh…
THANH TIẾN
Chư Sê đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất
Những năm qua, huyện Chư Sê (tỉnh Gia Lai) chú trọng tuyên truyền, hỗ trợ người dân áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp giúp nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng và đem lại nguồn thu nhập ổn định.
Xã Bar Măih là một trong những địa phương làm tốt công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Theo đó, xã đã chú trọng định hướng người dân chuyển đổi những diện tích cây trồng kém hiệu quả sang phát triển các loại cây công nghiệp dài ngày, có giá trị kinh tế cao như cà phê, sầu riêng, hồ tiêu…
Đặc biệt, tập trung đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật, sản xuất theo các tiêu chuẩn, có mã số vùng trồng, tem truy xuất nguồn gốc… để nâng cao giá trị trên một đơn vị diện tích.
Huyện Chư Sê chú trọng tuyên truyền, hỗ trợ người dân áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Ảnh: Q.T
Bên cạnh đa canh, xen canh các loại cây trồng để giảm thiểu rủi ro, gia đình anh Đinh Y Viên (làng Tơ Drăh, xã Bar Măih) còn tiên phong trồng cây sầu riêng. Nhờ chịu khó học hỏi kinh nghiệm cũng như áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chăm sóc vườn cây nên gần 100 gốc sầu riêng trồng xen trong vườn cà phê của gia đình phát triển khá tốt. Anh cũng thực hiện tương tự đối với hơn 1.000 cây cà phê và 500 trụ hồ tiêu. Nhờ đó, năng suất và sản lượng vườn cây luôn duy trì ở mức cao.
“Để chăm sóc vườn cây hiệu quả, mình thường xuyên tham quan, học tập kinh nghiệm, kỹ thuật trồng và chăm sóc sầu riêng, cà phê, hồ tiêu của các hộ trong xã, huyện; đồng thời, tận dụng các loại phế phẩm nông nghiệp như vỏ cà phê, vỏ trấu… kết hợp với chế phẩm sinh học để ủ phân bón cho cây.
Bên cạnh đó, mình ứng dụng công nghệ tưới nước tiên tiến nhằm đảm bảo cung cấp lượng nước phù hợp cho cây trồng trong từng giai đoạn. Năm ngoái, dù sầu riêng mới cho thu bói nhưng cũng góp phần nâng tổng thu nhập của gia đình lên 400-500 triệu đồng. Năm nay, sầu riêng đang ra hoa, đậu quả nhiều. Nếu thời tiết thuận lợi, giá giữ ổn định, mình sẽ có thêm nguồn thu lớn từ cây trồng này”-anh Viên chia sẻ.
Tương tự, gia đình ông Phạm Công Tới (thôn 5, xã Ia Pal) cũng ngày càng khấm khá sau thời gian chật vật với “cơn bạo bệnh” của cây hồ tiêu. Cũng như nhiều nông dân trên địa bàn, sau khi toàn bộ diện tích hồ tiêu bị chết do dịch bệnh vào năm 2016, cuộc sống của gia đình ông Tới gặp vô vàn khó khăn.
Tuy nhiên, với quyết tâm làm lại từ đầu, ông đã tập trung cải tạo đất, trồng các loại rau màu, chanh dây để lấy ngắn nuôi dài và tìm hiểu, đưa giống cây trồng mới vào sản xuất.
Năm 2020, ông Tới cùng một số hộ trong thôn liên kết với Hợp tác xã Nông-lâm nghiệp và dịch vụ Trường Xuân (tỉnh Đắk Lắk) để trồng nhãn Hương Chi theo tiêu chuẩn VietGAP. Đồng thời, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để chăm sóc vườn cây theo hướng bền vững nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường.
Ông Tới phấn khởi nói: “Hơn 400 cây nhãn Hương Chi của gia đình đã cho thu hoạch được 2 năm nay, năng suất năm sau cao hơn năm trước. Như vụ vừa rồi, tôi thu hoạch được khoảng 20 tấn, với giá bán 20-25 ngàn đồng/kg, tôi lãi trên 200 triệu đồng. Trồng nhãn Hương Chi theo tiêu chuẩn VietGAP chi phí đầu tư thấp, đầu ra lại ổn định nên gia đình rất yên tâm”.
Gia đình ông Phạm Công Tới (thôn 5, xã Ia Pal) có thu nhập ổn định nhờ trồng nhãn Hương Chi theo tiêu chuẩn VietGAP. Ảnh: Q.T
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/HU của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện về phát triển nông nghiệp công nghệ cao đến năm 2025, bình quân mỗi năm, huyện lồng ghép bố trí khoảng 10 tỷ đồng để hỗ trợ người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất.
Trong đó, huyện tập trung đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, sử dụng các loại giống lai, giống mới đưa vào sản xuất đại trà, góp phần tăng năng suất, sản lượng thu hoạch; khuyến khích mở rộng áp dụng cơ giới hóa, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, nhất là ở khâu làm đất, gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch.
Đến nay, toàn huyện có trên 2.100 ha cây trồng được ứng dụng công nghệ cao, chiếm 5,43% tổng diện tích gieo trồng. Giá trị thu nhập trên 1 ha đất canh tác cùng nhóm sản phẩm có ứng dụng công nghệ cao đến thời điểm hiện tại tăng 12% so với năm 2020.
Trao đổi với P.V, ông Nguyễn Hữu Tỵ-Trưởng phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Chư Sê-cho biết: Huyện tiếp tục lựa chọn một số giống cây trồng có năng suất, chất lượng cao, thị trường tiêu thụ ổn định để đầu tư phát triển. Đồng thời, kêu gọi, thu hút các doanh nghiệp đầu tư, liên kết với hợp tác xã, người dân để phát triển sản xuất gắn với sơ chế, bảo quản, chế biến, tiêu thụ cũng như xây dựng thương hiệu sản phẩm cây trồng, vật nuôi.
Đặc biệt, huyện tiếp tục tuyên truyền, vận động người dân phát triển, mở rộng diện tích đất canh tác nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao để nâng cao hiệu quả kinh tế; xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc, mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói sản phẩm…
NGUYỄN QUANG
FAO gợi ý Việt Nam cần trao công nghệ AI cho nhà nông
FAO cho rằng Việt Nam có thể đi đầu trong phát triển nông nghiệp xanh nhờ biết tận dụng AI. Theo đó, nhà nông cũng cần được 'trao công nghệ' để không bị bỏ lại phía sau.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, ngành nông nghiệp toàn cầu đứng trước những thách thức chưa từng có: khí hậu cực đoan, nguồn nước suy giảm, dịch bệnh mới, mất đa dạng sinh học… Việt Nam - một trong những quốc gia dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu - đang cho thấy quyết tâm mạnh mẽ trong việc chuyển đổi hệ thống nông nghiệp - thực phẩm theo hướng xanh, phát thải thấp và bền vững.
Bên lề Hội nghị Thượng đỉnh Diễn đàn Đối tác vì Tăng trưởng xanh và Mục tiêu toàn cầu (P4G) 2025, ông Maximo Torero - Kinh tế trưởng Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) - chia sẻ đánh giá tích cực về vai trò tiên phong của Việt Nam. Theo ông, Việt Nam đang đi đúng hướng khi đặt con người làm trung tâm của chuyển đổi xanh, kết hợp đổi mới sáng tạo, khoa học và trí tuệ nhân tạo để kiến tạo một nền nông nghiệp công bằng và bền vững.
Ông Maximo Torero – Kinh tế trưởng Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO).
PV: Theo ông tiềm năng và thách thức của nông nghiệp Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang mô hình xanh, phát thải thấp là gì?
Ông Maximo Torero: Hệ thống nông nghiệp - thực phẩm mang lại giá trị thiết yếu cho con người và xã hội. Đây là nơi đảm bảo quyền được tiếp cận lương thực, là nền tảng cho chế độ ăn lành mạnh, góp phần giảm suy dinh dưỡng và phòng ngừa các bệnh không lây nhiễm. Tuy nhiên, nông nghiệp cũng tạo ra nhiều tác động ngoại lai đáng lo ngại. Khoảng 1/3 lượng khí thải nhà kính toàn cầu phát sinh từ ngành này. Đồng thời, nông nghiệp tiêu tốn nhiều đất đai, nước và tài nguyên thiên nhiên, gây ảnh hưởng lớn đến đa dạng sinh học.
Vì vậy, chúng ta cần sản xuất một cách bền vững - nghĩa là giảm thiểu những tác động tiêu cực nói trên. Đây không phải khoản đầu tư miễn phí, nhưng sẽ mang lại lợi ích dài hạn. Đầu tư hôm nay, như Việt Nam đang thực hiện, sẽ mang lại lợi ích lâu dài - cả về an ninh lương thực lẫn phát triển bền vững.
PV: Trong khuôn khổ hợp tác giữa FAO và Việt Nam, đâu là những lĩnh vực ưu tiên trong thời gian tới, đặc biệt là về đổi mới sáng tạo nhằm đạt được các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs) đến năm 2030?
Ông Maximo Torero: FAO đang triển khai Chiến lược đến năm 2030, và đã xây dựng kế hoạch hợp tác với Việt Nam đến năm 2026. Chiến lược này dựa trên 4 trụ cột: sản xuất tốt hơn, dinh dưỡng tốt hơn, môi trường tốt hơn và cuộc sống tốt hơn. Chúng tôi tiếp cận theo hướng hệ thống, tích hợp cả bốn yếu tố này.
Ngoài ra, FAO còn thúc đẩy bốn yếu tố “tăng tốc”: khoa học, đổi mới sáng tạo, dữ liệu và thể chế. Chúng tôi đang phối hợp với Việt Nam thông qua Quỹ Khí hậu Xanh và các sáng kiến khác để đưa khoa học và bằng chứng vào quá trình phát triển bền vững.
Việt Nam cũng đang được cân nhắc tham gia vào sáng kiến Hand-in-Hand của FAO - nơi chúng tôi thúc đẩy đổi mới và phát triển bền vững nông nghiệp và nông thôn, tăng lợi ích cho nông dân, giúp họ thoát đói nghèo và phát triển bền vững.
PV: Theo ông, đâu là những mô hình nông nghiệp xanh mà FAO đánh giá cao và có thể nhân rộng tại Việt Nam?
Ông Maximo Torero: Không có mô hình nông nghiệp xanh nào duy nhất, mà nó sẽ phụ thuộc vào thách thức và điều kiện cụ thể từng nơi. Việt Nam có thế mạnh trong lĩnh vực rau quả, sản phẩm giá trị cao và đã làm rất tốt ở khâu an toàn thực phẩm.
Tôi từng làm việc ở Đà Lạt và rất ấn tượng với mô hình hợp tác xã nơi nông dân được kết nối để tạo ra quy mô kinh tế, vừa đáp ứng được tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, vừa có thể tích hợp tiêu chuẩn môi trường. Điều quan trọng là mô hình phải đảm bảo bền vững về môi trường, xã hội và kinh tế.
PV: Chủ đề của Diễn đàn P4G năm nay là “Chuyển đổi xanh bền vững, lấy con người làm trung tâm”. Ông đánh giá như thế nào về chủ đề này và vai trò của cơ chế P4G trong bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu?
Ông Maximo Torero: Tôi nghĩ chủ đề này hoàn toàn đúng hướng. Chuyển đổi công bằng không chỉ là năng suất và hiệu quả, mà còn là tái cân bằng vì con người. Việt Nam cũng đang thể hiện đúng tinh thần đó - một sự chuyển đổi hướng đến con người, môi trường và tương lai.
PV: Ông có khuyến nghị gì dành cho Việt Nam và các nước thành viên P4G?
Ông Maximo Torero: Tiếp tục tiến về phía trước, như Thủ tướng của các bạn đã nhấn mạnh - cần khoa học, dữ liệu và bằng chứng để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi. Quan trọng nhất là phải nâng cao khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu thông qua các hệ thống cảnh báo sớm và công nghệ nông nghiệp tiên tiến, như giống cây trồng chịu hạn, chống lũ, kháng sâu bệnh.
Các nước thành viên P4G nói chung và Việt Nam nói riêng cần tận dụng sức mạnh AI, tận dụng công nghệ số trong phát triển nông nghiệp bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu. AI có thể hỗ trợ tư vấn nông nghiệp bằng cách, ví dụ, nông dân chụp ảnh cây bị bệnh, gửi lên hệ thống, AI phân tích và trả kết quả ngay bằng ngôn ngữ địa phương. Nhưng cũng phải lưu ý: người nghèo, nông dân có thể bị bỏ lại phía sau nếu thiếu kỹ năng số, thiết bị hoặc công nghệ.
Các nước có thể tận dụng sức mạnh của AI để tạo ra các sản phẩm công toàn cầu (global public goods) giúp người nghèo, nông dân được hưởng lợi. Chẳng hạn trong nông nghiệp chính xác, các trang trại lớn có thể đầu tư thiết bị hiện đại, vệ tinh, cảm biến... còn nông dân nhỏ thì không. Khi đó, chính phủ cần hỗ trợ hạ tầng số, hệ thống cảnh báo, dữ liệu thời tiết... để tạo ra sân chơi công bằng. FAO cam kết hỗ trợ thúc đẩy những giải pháp này.
PV: Xin cám ơn ông!
Lê Kiều Linh/VOV.VN (Thực hiện)
Ứng dụng truy xuất nguồn gốc nông sản, phát triển sản phẩm OCOP
Việc ứng dụng giải pháp truy xuất nguồn gốc sản phẩm góp phần đổi mới phương thức trong sản xuất, thương mại bền vững; định hướng hỗ trợ triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại các sản phẩm OCOP; kinh nghiệm khai thác tài sản trí tuệ, phát triển chỉ dẫn địa lý sản phẩm nông nghiệp, tăng cường chuyển đổi số trong quản lý, khai thác nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ để đáp ứng mở rộng thị trường, xuất khẩu hàng hóa nông sản của tỉnh.
Phối hợp tuyên truyền ứng dụng
Các nội dung thiết thực trên được Sở Khoa học & Công nghệ (KH & CN) phối hợp các viện, trường đại học, chuyên gia truyền đạt cho nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh, hợp tác xã, nông trại trong tỉnh thời gian gần đây. Tại hội thảo giới thiệu, phổ biến các công nghệ, thiết bị tiến bộ ứng dụng canh tác, quản lý trang trại, chuyên gia Phạm Văn Quân, Giám đốc Công ty CP Công nghệ Checkee (TP. HCM) chia sẻ: “Ứng dụng truy xuất nguồn gốc sản phẩm là mảnh ghép trong hệ sinh thái chuyển đổi số của các doanh nghiệp, cơ hội đổi mới thương mại bền vững, hội nhập của các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp Bình Thuận. Giải pháp truy xuất nguồn gốc cho phép người tiêu dùng cũng như các bên liên quan truy tìm lịch sử các thông tin về quy trình sản xuất, chế biến, phân phối cho đến khi sản phẩm đến được tay người tiêu dùng, giải pháp được ứng dụng xuyên suốt chuỗi giá trị, có thể ứng dụng nhiều công nghệ khác nhau như QR code...”.
Nhiều trang trại sản xuất VietGAP ở Hàm Thuận Nam ứng dụng truy xuất nguồn gốc sản phẩm
Cũng thông qua các hội thảo liên quan, các chuyên gia, nhà quản lý, đơn vị cung cấp ứng dụng công nghệ cao đã giới thiệu các giải pháp chuyển đổi số cho các cơ sở, doanh nghiệp, trang trại, hợp tác xã, hộ nông dân sản xuất nông nghiệp trong tỉnh; hướng dẫn cài đặt và sử dụng ứng dụng các phần mềm quản lý như phần mềm Checkee. Các chuyên gia lưu ý doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, hộ gia đình chú trọng ghi chép dữ liệu, truyền thông tin sử dụng nhật ký nông trại, đảm bảo cho chuỗi cung ứng của doanh nghiệp, đồng nhất thông tin sản phẩm. Các cơ sở, nhà vườn tạo và xác thực mã quản lý duy nhất cho từng đơn vị sản xuất: địa điểm trồng trọt, nhà máy chế biến, tổ chức chịu trách nhiệm về sản phẩm, tạo thuận lợi xuất khẩu hàng hóa.
Sản phẩm OCOP Bình Thuận có mặt nhiều siêu thị trong nước.
Hướng tới sản phẩm OCOP
Ông Nguyễn Hoài Trung, Phó Giám đốc Sở KH & CN Bình Thuận cho biết: “Ứng dụng truy xuất nguồn gốc các sản phẩm nông nghiệp là giải pháp hữu ích trong phát triển sản phẩm ra thị trường trong, ngoài nước. Hàng năm, Sở KH & CN đề xuất các nhiệm vụ khoa học công nghệ để ứng dụng nền tảng công nghệ trong việc truy xuất nguồn gốc, giúp các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp bảo hộ chất lượng sản phẩm của đơn vị trên thị trường. Sở KH & CN phối hợp các chuyên gia chuyển đổi số quốc gia, Cục Sở hữu trí tuệ, hiệp hội, ngành nghề trong tỉnh tuyên truyền hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số truy xuất nguồn gốc các sản phẩm nông nghiệp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp ra thị trường quốc tế. Đồng thời, ngành triển khai định hướng và giải pháp hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp phát triển thương hiệu, nâng cao giá trị tài sản trí tuệ cho nông sản Bình Thuận. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, đẩy mạnh phát triển các hoạt động đổi mới sáng tạo, chương trình phát triển tài sản trí tuệ tỉnh Bình Thuận đến năm 2030; khai thác và quản lý các tài sản sở hữu trí tuệ địa phương”.
Được biết, thông qua việc áp dụng, quản lý hệ thống truy xuất nguồn gốc nhằm nhận diện, truy xuất nguồn gốc các sản phẩm, nhất là các sản phẩm đặc trưng, sản phẩm OCOP, thời gian qua, nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh, hợp tác xã, doanh nghiệp trong tỉnh áp dụng quy trình truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa. Toàn tỉnh có 89 sản phẩm OCOP được công nhận; trong đó có 2 sản phẩm tiềm năng OCOP 5 sao, 8 sản phẩm OCOP 4 sao, 79 sản phẩm OCOP 3 sao. Các sản phẩm OCOP của tỉnh đã và đang khẳng định thương hiệu trên thị trường, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, nhất là vùng nông thôn. Các cơ sở sản xuất cần duy trì phát triển các sản phẩm OCOP như sản phẩm lợi thế mỗi địa phương, góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
T. KHOA
Hưng Yên: Thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở các địa phương trong tỉnh thời gian qua đã phát huy được lợi thế về khí hậu, thổ nhưỡng, phù hợp với trình độ sản xuất, thâm canh của nông dân; qua đó đã mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với trước đây, góp phần nâng cao giá trị sản xuất trên một héc-ta canh tác.Việc đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng đã góp phần nâng cao giá trị sản xuất trên 1 héc-ta canh tác của tỉnh từ hơn 173 triệu đồng/héc-ta năm 2017 lên 245 triệu đồng/héc-ta năm 2024. Nhiều mô hình chuyển đổi đã mang lại giá trị kinh tế cao cho nông dân, đồng thời là điển hình để nông dân các địa phương học tập kinh nghiệm. Trong đó, mô hình chuyển đổi sang trồng hoa, cây cảnh cho thu nhập trung bình từ 800 triệu đồng đến 1 tỷ đồng/héc-ta/năm, đặc biệt mô hình chuyển sang sản xuất hoa chậu, cây cảnh tại các xã: Xuân Quan, Phụng Công (Văn Giang) cho thu nhập 1,5 - 3 tỷ đồng/héc-ta. Mô hình chuyển đổi từ trồng ngô, đậu đỗ... sang sản xuất giống cây ăn quả ở các huyện Khoái Châu, Kim Động... cho thu nhập bình quân 1 - 1,5 tỷ đồng/héc-ta/năm...
Người dân xã Đa Lộc (Ân Thi) với cây vải trứng Hưng Yên
Đồng chí Nguyễn Quốc Chương, Phó Chủ tịch UBND huyện Văn Giang cho biết: Thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp hàng hóa, hiệu quả cao, huyện đã quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp, qua đó đã hình thành một số vùng nguyên liệu tập trung như: Vùng sản xuất hoa, cây cảnh cho giá trị kinh tế cao tại xã Xuân Quan, xã Phụng Công với tổng diện tích trên 350 héc-ta... Đến hết năm 2024, toàn huyện đã chuyển đổi được hơn 2,1 nghìn héc-ta đất sản xuất nông nghiệp hiệu quả thấp sang trồng cây ăn quả, hoa, cây cảnh, cây công trình cho giá trị kinh tế cao. Hiệu quả từ chuyển đổi cơ cấu cây trồng đã nâng cao giá trị thu nhập một héc-ta canh tác của huyện năm 2024 đạt 416 triệu đồng.
Đánh giá hiệu quả của chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đồng chí Nguyễn Văn Tráng, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường cho biết: Chuyển đổi cơ cấu cây trồng đã góp phần thay đổi hình thức tổ chức sản xuất và tư duy sản xuất của nông dân, trong đó chuyển từ sản xuất qui mô nhỏ, hộ gia đình sang sản xuất tập trung theo qui mô lớn, hình thành các tổ hợp tác, hợp tác xã liên kết theo chuỗi giá trị ngành hàng, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất. Các mô hình chuyển đổi đã từng bước chuyển theo hướng có tổ chức, sản xuất an toàn, bền vững. Các vùng chuyển đổi cơ cấu cây trồng được quan tâm, đầu tư theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm.
Thời gian tới, để việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng đạt hiệu quả, Sở Nông nghiệp và Môi trường định hướng một số giải pháp để các địa phương thực hiện. Trong đó, các địa phương chủ động xây dựng kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng ưu tiên chuyển đổi trước đối với những diện tích cấy lúa hiệu quả thấp và những diện tích trồng cây hằng năm (ngô, đậu, đỗ...) ở ngoài bãi sông Hồng, sông Luộc, trong đó trọng tâm chuyển đổi gắn với phát triển các sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh. Nhóm cây ăn quả lâu năm, phát triển theo hướng chuyên canh, gắn kết chặt chẽ sản xuất với công nghiệp bảo quản, chế biến và thị trường tiêu thụ. Tập trung ghép cải tạo bằng những giống nhãn chín sớm, giống nhãn cổ (cùi cổ, đường phèn...) đặc sản hoặc những giống nhãn đáp ứng các tiêu chuẩn phục vụ xuất khẩu. Mở rộng diện tích trồng vải trứng Hưng Yên, vải lai chín sớm Hưng Yên, ghép cải tạo giống vải trứng Hưng Yên... trên gốc cây vải lai. Nhóm hoa, cây cảnh, sản xuất cây giống cần chuyển đổi ở những chân ruộng cao, chất đất từ khá đến tốt; 100% diện tích sản xuất cây ăn quả, hoa, cây cảnh của vùng sản xuất tập trung từ 5 héc-ta trở lên và thực hiện theo chuỗi bảo đảm các tiêu chuẩn an toàn, có thương hiệu và một phần lớn diện tích cây ăn quả được sản xuất, chứng nhận đáp ứng theo tiêu chuẩn VietGAP...
Đào Ban
Nâng cao kiến thức về phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn
Từ ngày 16 đến 18-4, Chi cục Kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn tỉnh Thái Nguyên phối hợp với Trường Cán bộ quản lý nông nghiệp và phát triển nông thôn tổ chức tập huấn về khai thác, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn. 50 học viên là cán bộ quản lý cấp tỉnh, cấp huyện và những người trực tiếp tham gia làm du lịch nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh tham gia tập huấn.
Các đại biểu tham dự lớp tập huấn.
Tại lớp tập huấn, học viên được tìm hiểu một số nội dung cơ bản về phát triển du lịch cộng đồng nông nghiệp, nông thôn; tài nguyên du lịch gắn với bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa truyền thống. Ngoài ra, các giảng viên còn truyền đạt nội dung, phương thức phát triển du lịch cộng đồng nông nghiệp, nông thôn gắn với bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống.
Nằm trong chương trình tập huấn, học viên được trao đổi, thảo luận về thực tiễn phát triển du lịch cộng đồng nông nghiệp, nông thôn tại các địa phương. Đồng thời, tham quan thực tế tại mô hình du lịch cộng đồng nông nghiệp, nông thôn tại địa phương.
Thông qua tập huấn, cán bộ quản lý ở các địa phương đã được nâng cao kiến thức về phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn gắn với phát huy giá trị văn hóa truyền thống.
Tùng Lâm
Xây dựng chuỗi liên kết để phát triển du lịch bền vững
Sở VH-TT&DL phối hợp với Sở NN&MT và UBND huyện Nghĩa Hành đã tổ chức Hội nghị triển khai nhiệm vụ phát triển du lịch; du lịch cộng đồng nông nghiệp, nông thôn trong xây dựng nông thôn mới năm 2025.
Hội nghị được tổ chức vào chiều 16/4 tại Khu du lịch sinh thái Suối Chí, xã Hành Tín Đông (Nghĩa Hành). Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Trần Hoàng Tuấn đã đến dự và phát biểu chỉ đạo tại hội nghị.
Phó Giám đốc Sở VH-TT&DL Nguyễn Văn Thành phát biểu khai mạc hội nghị.
Phát biểu khai mạc hội nghị, lãnh đạo Sở VH-TT&DL cho biết, Quảng Ngãi đã có nhiều nỗ lực trong việc khai thác tiềm năng du lịch, đặc biệt là du lịch cộng đồng gắn với nông nghiệp và nông thôn. Các điểm đến như: Khu du lịch cấp tỉnh Suối Chí, làng du lịch cộng đồng Gò Cỏ, Bình Châu, Tịnh Khê đã dần khẳng định sức hút, góp phần làm phong phú thêm bức tranh du lịch của tỉnh.
Hội nghị là cơ hội để các sở, ngành, địa phương, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành, du lịch cùng nhìn nhận những thành tựu, đánh giá những thách thức và đề ra các giải pháp mang tính đột phá cho năm 2025.
Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Trần Hoàng Tuấn và các đại biểu dự hội nghị.
Năm 2024, ngành du lịch Quảng Ngãi có sự tăng trưởng tích cực. Tổng lượng khách du lịch đạt trên 1,4 triệu lượt, doanh thu hơn 1.434 tỷ đồng. Những điểm đến như đảo Lý Sơn, khu du lịch Sa Huỳnh, bãi biển Mỹ Khê, Châu Tân,… ngày càng thu hút nhiều du khách nhờ vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ và giá trị văn hóa đặc sắc. Ngoài ra, tỉnh đã có những nỗ lực đầu tư vào cơ sở hạ tầng du lịch, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch và đẩy mạnh truyền thông, quảng bá hình ảnh du lịch.
Tại hội nghị, các bài tham luận, ý kiến đóng góp của các sở, ngành, doanh nghiệp tập trung đánh giá thực trạng và tìm giải pháp khắc phục những hạn chế trong công tác quản lý và phát triển du lịch; giải pháp tăng cường đổi mới, sáng tạo trong xây dựng sản phẩm du lịch. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và nâng cao chất lượng truyền thông du lịch. Phát huy vai trò hợp tác giữa các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp trong phát triển du lịch; hướng đến mục tiêu phát triển du lịch bền vững.
Đại diện Công ty Vietravel chi nhánh Quảng Ngãi phát biểu tại hội nghị.
Theo đại diện Công ty Vietravel chi nhánh Quảng Ngãi, để sản phẩm du lịch tại Quảng Ngãi có những bước phát triển vượt trội và đa dạng hơn trong tương lai, cần xây dựng sản phẩm theo mô hình “Sản phẩm du lịch trục - vệ tinh”; tập trung vào sản phẩm du lịch đặc trưng; thiết kế sản phẩm theo mùa và theo sự kiện; ứng dụng công nghệ trong phát triển sản phẩm;...
Đại diện Liên minh Chuỗi giá trị du lịch Quảng Ngãi cho rằng, trong quá trình xây dựng sản phẩm du lịch nông thôn, các địa phương cần áp dụng chính sách càng sớm càng tốt để gia tăng sức mạnh cho điểm, mô hình du lịch nông thôn. Chính sách hỗ trợ không chỉ giúp đẩy nhanh tiến trình nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn gia tăng trách nhiệm của các bên liên quan. Đồng thời, giúp cho các điểm, mô hình phát triển có hệ thống, đồng bộ và bền vững.
Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành, du lịch cũng đề xuất tỉnh Quảng Ngãi cần tập trung đầu tư, nâng cấp hạ tầng giao thông; có chính sách hỗ trợ người dân phát triển các dịch vụ du lịch; xây dựng tour du lịch, kết nối các khu, điểm du lịch thành chuỗi liên kết để cùng nhau phát triển;…
Đại diện Liên minh Chuỗi giá trị du lịch Quảng Ngãi phát biểu tại hội nghị.
Phát biểu chỉ đạo hội nghị, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Trần Hoàng Tuấn nhấn mạnh, Quảng Ngãi luôn tạo mọi điều kiện để các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành, du lịch hoạt động theo đúng quy định của pháp luật.
Thời gian tới, để phát triển du lịch bền vững, đồng chí Trần Hoàng Tuấn yêu cầu, các sở, ngành, địa phương tiếp tục triển khai các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về du lịch với phương thức đa dạng, nội dung phong phú; nâng cao ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên, tài nguyên du lịch để “mỗi người dân thực sự là một đại sứ, hướng dẫn viên du lịch”.
Từng bước hình thành các mô hình chuỗi giá trị du lịch; liên kết, đẩy mạnh phát triển và tiêu thụ các sản phẩm OCOP, bảo tồn và phát triển các làng nghề nông thôn thông qua phát triển du lịch nông nghiệp nông thôn, du lịch xanh, an toàn, bền vững. Tiếp tục đổi mới phương thức, công cụ, ứng dụng công nghệ số trong xúc tiến du lịch; phát huy sức mạnh của truyền thông và tăng cường quảng bá trên mạng xã hội.
Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Trần Hoàng Tuấn phát biểu tại hội nghị.
Sở VH-TT&DL tiếp thu các ý kiến của các doanh nghiệp, học tập kinh nghiệm của các địa phương để tham mưu xây dựng chính sách phát triển du lịch phù hợp với điều kiện thực tế. Tích cực hỗ trợ, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành, du lịch trong quá trình hoạt động.
Các địa phương phát triển, đa dạng hóa các loại hình, sản phẩm du lịch nhằm phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh của du lịch Quảng Ngãi. Trong đó, nghiên cứu phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa- lịch sử, chú trọng đến việc phát triển các sản phẩm du lịch đặc trưng.
Đại diện Sở VH-TT&DL và Sở NN&MT ký kết chương trình hợp tác.
Lãnh đạo Sở VH-TT&DL bàn giao 2 mô hình du lịch cộng đồng cho đại diện TP.Quảng Ngãi và huyện Bình Sơn.
Tại hội nghị, Sở VH-TT&DL và Sở NN&MT ký kết Chương trình phối hợp trong phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn hiệu quả và bền vững giai đoạn 2024 - 2030 trên địa bàn tỉnh. Sở VH-TT&DL bàn giao 2 mô hình du lịch cộng đồng nông nghiệp, nông thôn cho UBND TP.Quảng Ngãi và UBND huyện Bình Sơn gồm: Mô hình du lịch cộng đồng, phát triển điểm đến tại rừng dừa nước xã Tịnh Khê; mô hình quảng bá du lịch cộng đồng, gắn với di chỉ Văn hóa Sa Huỳnh tại xã Bình Châu.
Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Trần Hoàng Tuấn và Giám đốc Sở VH-TT&DL Nguyễn Tiến Dũng trao quyết định của UBND tỉnh công nhận Khu du lịch cấp tỉnh đối với Khu du lịch sinh thái Suối Chí.
Dịp này, UBND tỉnh công bố quyết định công nhận Khu du lịch sinh thái Suối Chí ở xã Hành Tín Đông (Nghĩa Hành) là Khu du lịch cấp tỉnh.
Tin, ảnh: THANH PHƯƠNG - KIM NGÂN
33 dự án đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp đang gặp vướng mắc
Toàn tỉnh có 33/58 dự án đầu tư thuộc lĩnh vực sản xuất nông nghiệp đang hoạt động nhưng gặp khó khăn, vướng mắc cần được hỗ trợ, tháo gỡ. Đó là thông tin của Sở Nông nghiệp và Môi trường tại Hội nghị về giải quyết những kiến nghị, khó khăn, vướng mắc khi đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nông - lâm nghiệp được tổ chức vào chiều 16/4.
Quang cảnh Hội nghị.
Hội nghị được tổ chức dưới sự chủ trì của đồng chí Hoàng Quốc Khánh, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh.
Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Môi trường, toàn tỉnh hiện có 83 dự án đầu tư vào lĩnh vực nông - lâm nghiệp nhận được chấp thuận chủ trương đầu tư, trong số đó có 58 dự án đã đi vào hoạt động, nhưng có tới 33 dự án (chiếm 57%) đang gặp khó khăn, cần được hỗ trợ, tháo gỡ hoặc phải dừng hoạt động.
Lãnh đạo Văn phòng UBND tỉnh phát biểu.
Qua rà soát, 27 dự án trong số này đã được UBND tỉnh đưa vào danh mục theo dõi, đôn đốc các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 của tỉnh.
Lãnh đạo Sở Tài chính tham gia ý kiến.
Vướng mắc của các dự án, doanh nghiệp đầu tư liên quan đến việc hoàn thiện các thủ tục về đất đai; giải phóng mặt bằng; hạ tầng giao thông kết nối; các khó khăn nội tại của doanh nghiệp như năng lực tài chính yếu; chưa hoàn thiện các thủ tục về đầu tư, xây dựng; khó khăn do không tìm kiếm được nguồn nguyên liệu; thị trường tiêu thụ sản phẩm...
Một trang trại chăn nuôi tại xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên sớm bỏ hoang do không thành công khi lựa chọn vật nuôi.
Tại hội nghị, đại biểu các sở, ngành, đơn vị của tỉnh đã đề xuất một số giải pháp, hướng tháo gỡ khó khăn cho các dự án, doanh nghiệp, đồng thời đề nghị sự phối hợp tích cực, nêu cao trách nhiệm của một số ngành chuyên môn, các địa phương.
Đồng chí Hoàng Quốc Khánh, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh.
Phát biểu tại hội nghị, đồng chí Hoàng Quốc Khánh, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh đề nghị Sở Nông nghiệp và Môi trường, Sở Tài chính, Văn phòng UBND tỉnh và các đơn vị liên quan cần phối hợp chặt chẽ, tích cực hơn nữa trong xây dựng, thẩm định báo cáo, phân loại, đánh giá, phân tích rõ những khó khăn, vướng mắc cụ thể của từng dự án, từng nhà đầu tư cụ thể. Qua đó chủ động phối hợp giải quyết và giải quyết dứt điểm những khó khăn; những trường hợp vượt quá thẩm quyền cần báo cáo kịp thời với cấp giải quyết, đề xuất giải pháp với tinh thần hỗ trợ tối đa cho doanh nghiệp với phương châm “Doanh nghiệp phát tài, Lào Cai phát triển”; tập trung gỡ vướng ngay từ cơ sở để đảm bảo tăng trưởng kinh tế của tỉnh trên 10% năm 2025.
Cao Cường
Đề xuất chấm dứt hoạt động toàn bộ dự án Vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao FAM Quảng Trị
Sau 4 lần Công ty TNHH Sản xuất và Kinh doanh Xuất nhập khẩu nông sản FAM Quảng Trị xin gia hạn thực hiện dự án Vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao FAM Quảng Trị (Dự án FAM Quảng Trị) nhưng đến nay đã quá thời hạn quy định mà nhà đầu tư không có văn bản phản hồi, không thực hiện các nội dung đã cam kết và được cơ quan nhà nước yêu cầu. Tính đến nay, dự án chậm tiến độ 72 tháng so với tiến độ phê duyệt lần đầu và 54 tháng so với tiến độ phê duyệt điều chỉnh lần 1. Ngày 15/4/2025, Sở Tài chính đã có văn bản trình UBND tỉnh Quảng Trị đề xuất chấm dứt hoạt động toàn bộ dự án này.
Dự án FAM Quảng Trị được phê duyệt Quyết định chủ trương đầu tư vào tháng 6/2018, Quyết định điều chỉnh chủ trương đầu tư tháng 6/2019. Dự án thực hiện trên diện tích khoảng 200 ha tại Tiểu khu 764 và 765 thuộc xã Cam Tuyền (huyện Cam Lộ) với tổng vốn đầu tư 371 tỉ đồng, trong thời hạn 50 năm.
Sau khi được chấp thuận chủ trương đầu tư, nhà đầu tư đã lập quy hoạch xây dựng dự án và được UBND tỉnh phê duyệt. Tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng (GPMB) hơn 14,1 tỉ đồng/diện tích 198 ha. Trong đó, nhà đầu tư đã chuyển tiền bồi thường GPMB 2 đợt với hơn 5,2 tỉ đồng. UBND huyện Cam Lộ đã chỉ đạo hội đồng GPMB chi trả cho các đối tượng ảnh hưởng với số tiền hơn 4,9 tỉ đồng, tương ứng gần 60ha/198 ha toàn dự án. Quý II/2019, nhà đầu tư tổ chức san gạt thực bì, sau đó ngừng thi công cho đến nay.
UBND huyện Cam Lộ đã nhiều lần đôn đốc, yêu cầu nhà đầu tư kịp thời chuyển hết kinh phí bồi thường, hỗ trợ GPMB diện tích còn lại để chi trả dứt điểm cho các đối tượng bị ảnh hưởng, khoanh vùng ranh giới và triển khai thực hiện để tránh tình trạng người dân lấn chiếm đất đai, nhưng vẫn không được giải quyết.
Hiện nay, một số hộ dân tại xã Cam Tuyền đã đưa cây keo ra trồng trên vùng đất này, mặc dù chính quyền, các đoàn thể địa phương đã nhiều lần tuyên truyền, vận động, lập biên bản, cưỡng chế, nhưng tình trạng này vẫn chưa chấm dứt, gây khó khăn cho công tác quản lý đất đai cũng như an ninh trật tự trên địa bàn.
Nhằm giải quyết dứt điểm các vấn đề tồn đọng của dự án, quản lý và sử dụng có hiệu quả quỹ đất, Sở Tài chính đề xuất UBND tỉnh chấm dứt hoạt động toàn bộ dự án. Giao UBND huyện Cam Lộ quản lý, có phương án sử dụng phù hợp, hiệu quả đối với khu vực đã được bồi thường, GPMB với diện tích 60 ha.
Tích cực thu hút các nhà đầu tư khác đến nghiên cứu, đề xuất thực hiện dự án. Tiếp tục liên hệ với Công ty TNHH Sản xuất và Kinh doanh Xuất nhập khẩu nông sản FAM Quảng Trị để thực hiện hoàn trả số tiền chưa giải ngân hết.
Bảo Bình
Thị xã Duyên Hải: Thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững và bảo vệ môi trường
Với vị trí chiến lược ven biển và tiềm năng kinh tế nông nghiệp, thị xã Duyên Hải đang từng bước khẳng định vai trò là trung tâm phát triển nông - lâm - thủy sản của tỉnh Trà Vinh. Trong quý I/2025, Phòng Nông nghiệp và Môi trường thị xã đã triển khai nhiều nhiệm vụ quan trọng, đạt được những kết quả khả quan trong công tác quản lý đất đai, phát triển sản xuất, bảo vệ môi trường và xây dựng nông thôn mới.
Lãnh đạo thị xã Duyên Hải và đoàn đại biểu huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng tham quan mô hình ứng dụng chuyển đổi số trong nuôi tôm công nghệ cao của Công ty Cổ phần SALICORNIA Ngón Biển tại Phường 2, thị xã Duyên Hải.
Công tác quản lý đất đai tiếp tục là một nhiệm vụ trọng tâm nhằm đảm bảo sử dụng tài nguyên hợp lý và phát triển kinh tế bền vững. Trong quý I, Phòng Nông nghiệp và Môi trường đã chỉnh sửa, hoàn thiện hồ sơ kế hoạch sử dụng đất năm 2025, trình UBND tỉnh phê duyệt. Đồng thời, công tác kiểm kê đất đai và lập bản đồ hiện trạng đất tiếp tục được thực hiện, dù còn gặp một số khó khăn do phần mềm kiểm kê chưa hoàn thiện.
Bên cạnh đó, công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cũng được đẩy mạnh với việc triển khai ba công trình, dự án trên địa bàn. Đáng chú ý, thị xã đã tiến hành tổng hợp báo cáo định giá đất phục vụ đấu giá quyền sử dụng đất tại xã Trường Long Hòa, đồng thời trình phê duyệt giá đất cụ thể cho các thửa đất quan trọng nhằm tạo điều kiện phát triển hạ tầng đô thị.
Là địa phương có thế mạnh về sản xuất nông nghiệp, thị xã Duyên Hải tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng sản phẩm. Trong quý I, tổng diện tích gieo trồng cây màu, cây công nghiệp ngắn ngày và cây hàng năm đạt 1.112ha, tăng 321,9ha so với cùng kỳ năm trước. Đặc biệt, các loại cây trồng chủ lực như dưa hấu, hành tím và rau màu phát triển tốt, đóng góp đáng kể vào sản lượng nông sản toàn thị xã.
Bên cạnh đó, mô hình trồng màu trong nhà lưới và sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP tiếp tục được triển khai, góp phần nâng cao giá trị nông sản và đảm bảo an toàn thực phẩm. Hiện tại, thị xã có 36 sản phẩm đạt chuẩn OCOP, trong đó nổi bật là các sản phẩm như bột nưa Hoàng Lan, mắm ba khía Tường Anh và hành tím Ba Động.
Nuôi trồng thủy sản tiếp tục là ngành kinh tế mũi nhọn của Duyên Hải với tổng diện tích thả nuôi tôm sú, tôm thẻ đạt hơn 990ha trong 03 tháng đầu năm. Sản lượng thu hoạch đạt 8.801 tấn, tăng đáng kể so với cùng kỳ. Đáng chú ý, mô hình nuôi tôm thẻ thâm canh mật độ cao đã có sự phát triển mạnh với hơn 812 hộ tham gia, góp phần nâng cao sản lượng và chất lượng tôm xuất khẩu.
Tuy nhiên, lĩnh vực thủy sản vẫn đối mặt với những khó khăn như dịch bệnh, môi trường nước biến đổi phức tạp. Trong quý I, có 105 hộ nuôi tôm bị thiệt hại với tổng diện tích 27,6ha. Để khắc phục, Phòng Nông nghiệp và Môi trường đã phối hợp với các địa phương giám sát chặt chẽ chất lượng nước, hướng dẫn người dân xử lý dịch bệnh kịp thời, đồng thời cấp phát hóa chất khử trùng để hạn chế thiệt hại.
Ngoài ra, nghề nuôi nghêu, cua biển cũng phát triển tốt. Trong ba tháng đầu năm, hơn 83 tấn nghêu giống đã được thả nuôi, sản lượng thu hoạch đạt 337,5 tấn. Đối với cua biển, diện tích nuôi đạt 345ha, sản lượng thu hoạch đạt 566 tấn, góp phần tạo nguồn thu nhập ổn định cho người dân.
Công tác bảo vệ môi trường được triển khai quyết liệt với nhiều hoạt động thiết thực. Trong quý I, hơn 22,8 tấn rác thải đã được thu gom xử lý, đồng thời thị xã tổ chức các phong trào "Ngày thứ bảy xanh - sạch - đẹp", phát quang hơn 183km vỉa hè và trồng mới hơn 10.200 cây xanh.
Bên cạnh đó, thị xã cũng tập trung xử lý các vấn đề môi trường đô thị như kiểm tra, nhắc nhở các trường hợp lấn chiếm lòng lề đường, đảm bảo trật tự xây dựng. Trong lĩnh vực tài nguyên nước, công tác kiểm soát chất lượng nước thải công nghiệp được thực hiện nghiêm ngặt, đảm bảo không gây ô nhiễm nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
Chương trình xây dựng nông thôn mới tiếp tục được triển khai mạnh mẽ. Đến nay, Duyên Hải có 04 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao gồm Long Toàn, Dân Thành, Trường Long Hòa và Long Hữu. Đồng thời, 15 ấp đã đạt chuẩn ấp nông thôn mới kiểu mẫu, tạo tiền đề quan trọng để nâng cao chất lượng đời sống người dân nông thôn.
Trong thời gian tới, thị xã tiếp tục tập trung nâng cao các tiêu chí nông thôn mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế hợp tác với 15 hợp tác xã và 140 tổ hợp tác hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Đặc biệt, các chương trình hỗ trợ mô hình sản xuất, liên kết chuỗi giá trị sẽ tiếp tục được đẩy mạnh nhằm giúp người dân nâng cao thu nhập và phát triển bền vững.
Quý II/2025, thị xã Duyên Hải đặt ra nhiều nhiệm vụ trọng tâm nhằm tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Công tác quản lý đất đai sẽ tiếp tục được chấn chỉnh, hạn chế hồ sơ trễ hạn, đảm bảo công khai minh bạch trong quy hoạch sử dụng đất. Ngành nông nghiệp sẽ tiếp tục hỗ trợ nông dân mở rộng mô hình sản xuất hiệu quả, đặc biệt là phát triển theo hướng công nghệ cao, an toàn sinh học.
Bên cạnh đó, công tác bảo vệ môi trường sẽ được tăng cường với các giải pháp kiểm soát chất lượng nước, giảm thiểu ô nhiễm rác thải và thúc đẩy các dự án sử dụng năng lượng tái tạo. Chương trình nông thôn mới sẽ tập trung vào việc nâng chất các tiêu chí đã đạt, đảm bảo phát triển bền vững và nâng cao chất lượng đời sống của người dân.
Với những kết quả đã đạt được cùng định hướng rõ ràng trong thời gian tới, thị xã Duyên Hải tiếp tục khẳng định vị thế là một địa phương phát triển mạnh về nông nghiệp, thủy sản và bảo vệ môi trường, góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển bền vững.
Bài, ảnh: ĐỨC HUY
Hải Dương ưu tiên phát triển nông nghiệp tuần hoàn hướng tới nền nông nghiệp xanh
Ngành nông nghiệp tỉnh Hải Dương đang hướng đến mục tiêu phát triển nhanh, toàn diện, bền vững. Để hiện thực hóa mục tiêu này, tỉnh ưu tiên phát triển nông nghiệp tuần hoàn góp phần tạo ra các sản phẩm nông sản xanh, an toàn, thân thiện với môi trường.
Nhìn lại bức tranh tổng thể ngành nông nghiệp của tỉnh Hải Dương những năm gần đây cho thấy có nhiều bứt phá nổi bật. Tỉnh đang khai thác hiệu quả tiềm năng lợi thế để phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp tuần hoàn. Đây cũng là hướng mở đưa ngành nông nghiệp Hải Dương phát triển bền vững.
Thay đổi thói quen sản xuất
Thời gian gần đây, thay vì thói quen sử dụng phân bón và các chất hóa học phục vụ sản xuất để cho sản phẩm nông nghiệp phát triển siêu tốc, một số nông dân bắt đầu có thói quen phát triển nông nghiệp tuần hoàn, sử dụng phụ phẩm của nông nghiệp, rác thải hữu cơ để làm phân bón, đầu vào cho sản xuất nông nghiệp bền vững, sản phẩm chất lượng, được người tiêu dùng chuộng mua...
Hải Dương đang khai thác hiệu quả tiềm năng lợi thế để phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp tuần hoàn. Ảnh minh họa
Trang trại của anh Thắng ở xã Dân Chủ, huyện Tứ Kỳ (Hải Dương) đi theo hướng phát triển nông nghiệp tuần hoàn từ những ngày bắt tay vào sản xuất nông nghiệp. Theo chia sẻ của anh Thắng, từ nhỏ anh đã biết bố mẹ luôn tận dụng "cơm thừa, canh cặn" để nuôi lợn, nuôi gà và sử dụng chất thải làm phân bón. Đến nay trang trại của anh Thắng có 12 ha trồng cây, cỏ và nuôi bò, lợn, cá, vịt, gà… theo phương pháp tuần hoàn khép kín. Chất thải của vật nuôi được thu gom đưa ra bên ngoài, xử lý bằng giun Ấn Độ, sau đó bón cho cỏ, cây trồng. Khi cỏ, cây, giun Ấn Độ đến kỳ thu hoạch được sử dụng làm thức ăn cho bò, gà, vịt…
Hiện nay, nhiều nông dân có vùng sản xuất nông nghiệp tập trung cần phải sử dụng kinh phí để mua các loại phân bón, chi phí sản xuất nông nghiệp cao đều ưu tiên các phương án sử dụng phụ phẩm trong sản xuất nông nghiệp, các loại phân bón hữu cơ tự ủ sau đó còn thiếu mới mua các loại phân bón trên thị trường...
Theo bà Lương Thị Kiểm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trưởng tỉnh Hải Dương, thời gian qua, Hải Dương đã áp dụng nhiều mô hình, giải pháp hướng tới sản xuất nông nghiệp theo tiêu chí tuần hoàn bền vững. Luôn khuyến khích nông dân áp dụng các công nghệ hiện đại như tưới nhỏ giọt, nhà màng, nhà kính và các hệ thống tự động hóa để giảm thiểu sử dụng tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải và tăng năng suất cây trồng giúp tiết kiệm nước, phân bón và hạn chế các tác động tiêu cực đến môi trường. Đồng thời, Hải Dương tập trung phát triển nông nghiệp hữu cơ, tận dụng các phụ phẩm nông nghiệp để làm phân bón; không sử dụng thuốc trừ sâu, phân bón hóa học nhằm cải thiện chất lượng đất và tạo ra các sản phẩm nông sản an toàn, thân thiện với môi trường.
Nhân rộng mô hình phát triển nông nghiệp tuần hoàn
Hải Dương có điều kiện sinh thái đa dạng, diện tích chủ yếu là vùng đồng bằng với hệ thống sông ngòi dày đặc tạo nên các vùng đất bãi. Hải Dương nằm trong tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh với hệ thống giao thông thuận lợi. Đây chính là những điều kiện rất tốt để phát triển chăn nuôi trong hệ thống kinh tế tuần hoàn.
Dù có nhiều tiềm năng song việc phát triển nông nghiệp tuần hoàn hiện nay gặp một số khó khăn. Các mô hình kinh tế tuần hoàn được áp dụng trong nông nghiệp chưa đầy đủ, còn tự phát. Hiện chưa có hướng dẫn, tiêu chuẩn cụ thể, các quy định liên quan đến nông nghiệp tuần hoàn nằm rải rác ở các luật, nghị định khác nhau, một số vấn đề về tiêu chí, tiêu chuẩn, quy chuẩn, hướng dẫn liên quan đến thu gom, vận chuyển và tái sử dụng điều kiện cấp vốn còn bỏ ngỏ nên khó khăn trong triển khai.
Theo bà Kiểm, để phát triển kinh tế nông nghiệp tuần hoàn, cần thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, đồng thời đề xuất chính sách đặc thù khuyến khích phát triển kinh tế tuần hoàn cho cả hộ nông dân và doanh nghiệp. Đẩy mạnh chuyển giao kỹ thuật, xây dựng và triển khai các dự án, mô hình trình diễn nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao, an toàn sinh học, sử dụng phế phụ phẩm sau thu hoạch. Thúc đẩy liên kết, hợp tác trong nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, đồng thời tích cực tuyên truyền, giới thiệu và nhân rộng các mô hình hay, hiệu quả.
Kinh tế nông nghiệp tuần hoàn mang lại nhiều lợi ích, song cần hơn nữa sự vào cuộc của các cấp, ngành trong việc đưa ra mô hình, định hướng, hỗ trợ người dân. Có như vậy mới thu hút được nhiều nông dân đi theo hướng sản xuất này, từ đó tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn, đồng thời bảo đảm an toàn cho người sản xuất và tiêu dùng.
Sông Hồng
Trang trại tuần hoàn không rác thải
Trong bối cảnh môi trường đang đối mặt với nhiều vấn đề nan giải, nông nghiệp bền vững trở thành xu hướng tất yếu. Tại Thanh Hóa, mô hình trang trại tuần hoàn không rác thải đang dần minh chứng hiệu quả không chỉ trong việc bảo vệ môi trường mà còn nâng cao năng suất và thu nhập cho người dân. Những mô hình này mang lại cơ hội phát triển nông nghiệp sạch, giảm thiểu ô nhiễm và đặc biệt là hướng đến một nền nông nghiệp xanh, bền vững hơn.
Mô hình trang trại tuần hoàn không rác thải tại xã Hoằng Đạo (Hoằng Hóa).
Tại xã Minh Sơn (Triệu Sơn), trang trại của anh Nguyễn Văn Hùng với diện tích hơn 5ha không chỉ đơn thuần là nơi sản xuất nông sản, mà còn là một mô hình của sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Mỗi bước trong quy trình sản xuất đều được tối ưu hóa, từ việc tận dụng tối đa phụ phẩm nông nghiệp cho đến việc xử lý chất thải, tất cả đều góp phần vào việc bảo vệ môi trường và gia tăng giá trị sản phẩm. Anh Hùng chia sẻ: “Trước đây, phụ phẩm nông nghiệp thường bị bỏ đi hoặc đốt, nhưng giờ đây, tôi đã học cách tận dụng mọi thứ. Rơm rạ giờ là đệm lót sinh học cho chăn nuôi, phân từ gia cầm, gia súc được xử lý và quay lại làm phân bón cho cây trồng. Trang trại gần như không còn rác thải hữu cơ, giúp giảm chi phí và làm cho cây trồng khỏe mạnh hơn”. Đặc biệt, việc ứng dụng công nghệ khí sinh học (biogas) đã giúp anh xử lý chất thải chăn nuôi, tạo ra năng lượng sạch phục vụ sinh hoạt và sản xuất, từ đó giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.
Huyện Hoằng Hóa cũng có nhiều mô hình chăn nuôi kết hợp trồng trọt tuần hoàn, nơi nông dân không chỉ làm giàu mà còn tái thiết sự hài hòa với thiên nhiên. Tại đây, nhiều trang trại đã xây dựng những hệ sinh thái khép kín, trong đó cây trồng và vật nuôi được quy hoạch thông minh để hỗ trợ lẫn nhau, tối ưu hóa mọi nguồn lực. Nổi bật trong số đó là trang trại của bà Lê Thị Mai, xã Hoằng Đạo với diện tích 3,5ha, nơi mọi quy trình sản xuất đều vận hành tuần hoàn. Thay vì phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu bên ngoài, bà Mai trồng trực tiếp cây thức ăn cho vật nuôi ngay trong khuôn viên trang trại, đồng thời xử lý toàn bộ chất thải để tái sử dụng làm phân bón, tạo nên một chuỗi khép kín từ đồng ruộng tới bữa ăn.
Bà Mai chia sẻ: “Trước kia, chi phí cho phân bón và thức ăn chăn nuôi luôn chiếm hơn một nửa tổng chi phí sản xuất, lúc nào cũng canh cánh nỗi lo giá đầu vào tăng cao. Từ khi chuyển sang mô hình tuần hoàn, tôi tiết kiệm được gần 40% chi phí. Nhưng điều tôi quý nhất là môi trường xung quanh được cải thiện rõ rệt, chất lượng sản phẩm cũng sạch hơn, an toàn hơn. Khách hàng tin tưởng và quay lại ngày càng nhiều".
Theo thống kê của Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa, đến hết quý I/2025, toàn tỉnh đã có hơn 1.200 trang trại áp dụng mô hình tuần hoàn, tăng 25% so với năm 2023. Diện tích canh tác theo hướng không rác thải đạt hơn 6.500ha, với sản lượng nông sản hữu cơ đạt trên 15.000 tấn/năm. Các mô hình này không chỉ nâng cao hiệu quả kinh tế mà còn giúp giảm phát thải khí nhà kính ước tính khoảng 30%, đồng thời cải thiện đáng kể chất lượng đất và nguồn nước tại địa phương.
Ông Lê Ngọc Thông, Phó Chủ tịch Hội Làm vườn và Trang trại tỉnh Thanh Hóa nhận định: “Các mô hình trang trại tuần hoàn đã và đang chứng minh tính ưu việt về cả kinh tế lẫn môi trường. Quan trọng hơn, đây là hướng đi phù hợp với định hướng phát triển nông nghiệp bền vững của tỉnh Thanh Hóa. Chúng tôi đang phối hợp với các cơ quan chức năng để nhân rộng các mô hình này, phấn đấu đến năm 2030 ít nhất 70% trang trại trong tỉnh áp dụng mô hình tuần hoàn không rác thải".
Không chỉ dừng lại ở việc mở rộng diện tích, tỉnh Thanh Hóa còn đẩy mạnh công tác tập huấn kỹ thuật, hỗ trợ tài chính và kết nối thị trường cho nông dân. Năm 2024, các đơn vị trong tỉnh đã tổ chức 15 lớp tập huấn với hơn 750 lượt nông dân tham gia, đồng thời giải ngân hơn 20 tỷ đồng hỗ trợ xây dựng hạ tầng xử lý chất thải tại các trang trại. Các mô hình trang trại tuần hoàn không rác thải đang mở ra hướng đi mới đầy triển vọng, không chỉ giúp người nông dân giảm bớt áp lực chi phí và tăng thu nhập, mô hình này còn góp phần bảo vệ môi trường, xây dựng hệ sinh thái nông nghiệp xanh - sạch - bền vững.
Bài và ảnh: Chi Phạm
Hợp tác xã nông nghiệp bắt nhịp công nghệ số
Thời gian qua, công nghệ số đã được nhiều hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn tỉnh ứng dụng nhằm góp phần thay đổi phương thức sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Không chỉ vậy, công nghệ số cũng tham gia vào quá trình phát triển thị trường thông qua việc bán hàng trên các sàn thương mại điện tử, mạng xã hội của các hợp tác xã, từ đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường, hạn chế chi phí từ các bước trung gian. Đồng thời tạo cơ hội để các hợp tác xã tham gia sâu vào các hoạt động kinh tế trong bối cảnh đất nước đang tích cực xây dựng nền kinh tế số.
Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Nhân Lý thực hiện mô hình cánh đồng công nghệ trong sản xuất lúa.
Thay đổi phương thức sản xuất
Việc đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp tại Vĩnh Phúc đã và đang mang lại nhiều kết quả tích cực, với sự hình thành của hàng loạt hợp tác xã, mô hình sản xuất điểm, làm giàu cho nông dân.
Hợp tác xã Nấm Tam Đảo (thị trấn Hợp Châu, huyện Tam Đảo), ngoài việc mạnh dạn đầu tư hệ thống kho lạnh bảo quản sản phẩm sau thu hoạch, hệ thống phòng nhân giống, cấy mô, dây chuyền máy đóng bịch, nồi hơi hấp thanh trùng vào sản xuất, đăng ký nhãn hiệu hàng hóa độc quyền, mã vạch truy xuất nguồn gốc và chế biến đa dạng các sản phẩm từ đông trùng hạ thảo, hợp tác xã còn linh hoạt, sáng tạo trong tìm kiếm thị trường thông qua mạng xã hội và các sàn thương mại điện tử giúp đầu ra sản phẩm ổn định. Hiện, hợp tác xã cung cấp ra thị trường 350 tấn nấm các loại/năm, lợi nhuận đạt hàng trăm triệu đồng.
Là hợp tác xã đang quản lý và tổ chức sản xuất, canh tác với diện tích trên 150 ha đất nông nghiệp của 3 thôn Lý Hải, Lý Nhân và Dương Cốc thuộc xã Phú Xuân (Bình Xuyên), với 6 tổ sản xuất gồm 635 hộ, tập trung sản xuất, kinh doanh các mặt hàng nông sản chủ lực như lúa, ngô nếp, ngô ngọt, rau các loại ... việc ứng dụng máy móc, thiết bị hiện đại trong sản xuất đã được Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Nhân Lý triển khai thực hiện từ nhiều năm qua, và đến nay, hợp tác xã đang là một trong các đơn vị đi đầu trong phát triển nông nghiệp thông minh gắn với an toàn sinh thái trên địa bàn tỉnh.
Chia sẻ với truyền thông, bà Lê Thị Hương, Chủ tịch Hội đồng quản trị Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Nhân Lý cho biết: Từ năm 2015 đến nay, hợp tác xã duy trì 130 ha lúa sản xuất theo hướng hữu cơ, xây dựng thành công thương hiệu gạo an toàn sản xuất theo hướng hữu cơ với sản lượng cung cấp ra thị trường hàng năm trên 50 tấn gạo, đã được cấp thương hiệu sản phẩm gạo OCOP 3 sao năm 2020. Hợp tác xã cũng xây dựng thành công 6 ha sản xuất rau có chứng nhận an toàn theo hướng VietGAP. Ngoài ra, hợp tác xã còn kết nối các hộ nông dân trong vùng vệ tinh sản xuất theo hướng dẫn của hợp tác xã và toàn bộ sản phẩm sản xuất theo hướng hữu cơ sẽ được đơn vị thu mua với giá cao hơn thị trường 15-40%.
Hợp tác xã Nấm Tam Đảo, Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Nhân Lý chỉ là 2 trong rất nhiều mô hình hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh thời gian qua, từ đó không chỉ giúp các đơn vị tối ưu hóa hoạt động sản xuất, kinh doanh mà còn mang đến sự hài lòng cho khách hàng, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.
Nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường
Hiện, trên địa bàn tỉnh có 260 HTX nông nghiệp hoạt động hiệu quả trong 26 chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp an toàn. Nhiều sản phẩm của các HTX đã trở thành sản phẩm mũi nhọn, phát triển thành sản phẩm OCOP đặc trưng của mỗi địa phương.
Tuy nhiên, quy mô một số chuỗi liên kết vẫn nhỏ lẻ, khó cạnh tranh được với các doanh nghiệp hoạt động cùng lĩnh vực. Để nâng cao tính cạnh tranh cho ngành hàng chủ lực, trong thời gian qua, rất nhiều hợp tác xã đã chủ động thích ứng với công nghệ số, tận dụng các trang mạng xã hội như Zalo, Facebook, xây dựng website bán hàng, tham gia các sàn giao dịch thương mại điện tử, tiếp cận với nhiều đối tượng khách hàng, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Sẵn tiền đề là mô hình sản xuất rau, quả an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP, mọi thông tin về quy trình sản xuất, chăm sóc, thu hoạch đều được cập nhật vào sổ ghi chép nhật ký đồng ruộng, có thể dễ dàng truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Từ khi dịch Covid-19 bùng phát, ngoài các kênh bán hàng truyền thống, Ban Giám đốc Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp kinh doanh hàng nông sản An Hòa đã nhanh chóng thích ứng với công nghệ số để mở rộng thị trường, gia tăng cơ hội phát triển bền vững.
Ông Đỗ Văn Dũng, Giám đốc hợp tác xã chia sẻ: "Hợp tác xã đã chủ động xây dựng website riêng, thông qua các trang mạng xã hội Zalo, Facebook, các sàn thương mại điện tử như Voso.vn, Sendo.vn để quảng bá sản phẩm, tìm kiếm thị trường tiêu thụ. Nhanh chóng tiếp cận phương thức bán hàng mới này đã giúp chúng tôi liên kết sản xuất, tiêu thụ với một số hợp tác xã tại các tỉnh, thành phố lân cận và có thêm thị trường tiêu thụ mới là hệ thống các siêu thị, cửa hàng thực phẩm sạch, bếp ăn doanh nghiệp".
Thực tế cho thấy, việc ứng dụng công nghệ số để tiêu thụ nông sản của tỉnh đã và đang dần được khẳng định là hướng đi đúng, phù hợp với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ hiện đại.
Nhiều hợp tác xã đã ứng dụng chuyển đổi số tạo ra những sản phẩm và dịch vụ mới, triển khai các hoạt động chuyển đổi mô hình bán hàng, tiếp thị, quản trị và vận hành.
Đến nay, toàn tỉnh có gần 300 mặt hàng nông sản, sản phẩm OCOP 3 sao trở lên của các nông hộ, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp được đăng tải lên sàn giao dịch thương mại điện tử. Đây là cách giúp khách hàng nhanh chóng cập nhật thông tin sản phẩm, dễ dàng so sánh giá cả với các sản phẩm cùng loại của đơn vị khác, mang lại nhiều thuận lợi, tránh bị mua đắt hay mua phải nông sản không rõ nguồn gốc.
Đây là cơ hội để người nông dân và các hợp tác xã tiếp tục phát huy thế mạnh sản phẩm của mình. Từ đó góp phần khuyến khích bà con nông dân tích cực duy trì giá trị các sản phẩm nông nghiệp, nông sản truyền thống; chủ động sản xuất sản phẩm gắn với thế mạnh địa phương và chắp cánh cho nông sản vươn xa.
Bài, ảnh: Thiệu Vũ
Tăng trưởng nông nghiệp quý I/2025 cao nhất 4 năm, xuất khẩu nông sản bứt phá
Bộ Nông nghiệp và Môi trường thông tin, trong quý I/2025, ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng ấn tượng 3,74% - cao nhất trong vòng 4 năm trở lại đây. Động lực chính đến từ sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và chế biến xuất khẩu.
Tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành quý I đạt 15,72 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ năm 2024. Nhiều mặt hàng chủ lực ghi nhận mức tăng vượt kỳ vọng như: cà phê đạt 2,88 tỷ USD (tăng 49,5%), tôm 943 triệu USD (tăng 37,8%), gỗ và sản phẩm gỗ 3,95 tỷ USD (tăng 11,6%).
Giá trị xuất khẩu nông, lâm nghiệp và thủy sản đến các châu lục và thị trường lớn đều tăng mạnh và rất mạnh. Trong đó, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản tiếp tục là ba thị trường xuất khẩu lớn nhất.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã chủ động triển khai nhiều giải pháp ứng phó với biến động thị trường, như xây dựng kế hoạch hành động tăng trưởng. Đồng thời, Bộ cũng tích cực rà soát, đề xuất sửa đổi các văn bản pháp luật để phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hai cấp.
Với những bước đi bài bản và quyết liệt, năm 2025 ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản đặt mục tiêu tăng trưởng toàn ngành đạt 4,0% trở lên; tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 65 tỷ USD.