Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 17 tháng 5 năm 2024

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 17 tháng 5 năm 2024

 

Vụ măng cụt 2024, sản lượng và giá đều giảm

 

Nguồn tin: Báo Kiên Giang

Theo thông tin từ các nhà vườn trồng măng cụt trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, năm nay măng cụt cho trái trễ, năng suất giảm từ 20-30%, giá cũng giảm bình quân 10.000 đồng/kg so cùng kỳ năm 2023.

 

 

Thành viên Hợp tác xã nông dân làm vườn Chín Ghì, xã Ngọc Hòa (Giồng Riềng) thu hoạch măng cụt.

Cuối tháng 4-2024, giá bán lẻ măng cụt chín tại vườn 90.000 đồng/kg (loại 8-9 trái/kg). Đến ngày 14-5, giá măng cụt chín giảm còn 40.000-50.000 đồng/kg.

Theo các nhà vườn trồng măng cụt tại các huyện Gò Quao, Giồng Riềng, giá măng cụt sẽ còn giảm khi vào vụ thu hoạch rộ.

Ông Lê Văn Việt, ngụ ấp Chín Ghì, xã Ngọc Hòa, huyện Giồng Riềng, cho biết năm nay thời tiết nắng nóng khiến măng cụt cho trái muộn và sản lượng cũng giảm khoảng 20-30% so năm ngoái. Hiện măng cụt chín tại vườn bán giá từ 40.000-45.000 đồng/kg, giảm khoảng 10.000 đồng/kg so cùng kỳ năm ngoái. Với 1,3ha trồng măng cụt, ông Việt dự kiến đạt sản lượng 10 tấn.

Năm nay măng cụt xanh không còn được săn lùng như năm ngoái, song tại một số vườn sinh thái, trên mạng xã hội, nhiều tài khoản cá nhân vẫn rao bán măng cụt sống với giá từ 90.000-100.000 đồng/kg loại còn nguyên vỏ. Loại măng cụt ruột xanh gọt sẵn, giá 350.000-400.000 đồng/kg, giảm khoảng 200.000 đồng/kg so cùng kỳ năm ngoái.

Tin và ảnh: ĐẶNG LINH

 

Liên kết phát triển bền vững ngành hàng sầu riêng

 

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Thị trường tiêu thụ trái sầu riêng được mở rộng, nhất là khi được xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc, nhiều nông dân ở nước ta đã có được nguồn thu nhập rất tốt từ cây sầu riêng. Theo đó, sầu riêng cũng đang trở thành loại cây được nhiều người ưu tiên chọn trồng, dẫn đến diện tích trồng sầu riêng đang tăng mạnh tại nhiều địa phương. Điều này rất dễ tạo ra rủi ro trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, nhất là khi mối liên kết giữa nông dân và các bên có liên quan còn chưa chặt chẽ.

Sầu riêng cho hiệu quả kinh tế cao

Trong hơn 2 năm qua, đầu ra trái sầu riêng có nhiều thuận lợi và giá trái sầu riêng ở mức khá cao, giúp người trồng đạt được mức lợi nhuận rất hấp dẫn. Đặc biệt, trong mùa nghịch tại ĐBSCL (khoảng tháng 11 đến tháng 3), giá sầu riêng có nhiều thời điểm đạt mức giá trên dưới 200.000 đồng/kg. Cụ thể, hồi tháng 3-2024, sầu riêng Monthong loại 1 có giá lên đến 210.000-215.000 đồng/kg, loại 2 có giá 190.000-195.000 đồng/kg, loại 3 ở mức 100.000 đồng/kg. Còn sầu riêng Ri 6 loại 1 có giá 140.000-145.000 đồng/kg, loại 2 giá 125.000-130.000 đồng/kg, loại 3 ở mức 70.000 đồng/kg. Với giá bán như vậy, nhiều nông dân trồng sầu riêng xử lý ra trái nghịch vụ có thể thu được lợi nhuận 100-250 triệu đồng/công, thậm chí cao hơn nếu sầu riêng đạt năng suất cao.

 

 

Sầu riêng Ri 6 được trồng tại huyện Phong Điền, TP Cần Thơ.

Những năm gần đây, sầu riêng thuận mùa cũng bán được mức giá khá tốt so với trước nhờ thị trường tiêu thụ được mở rộng, đặc biệt từ tháng 9-2022, sầu riêng nước ta đã xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc - thị trường có dân số rất đông và có nhu cầu tiêu thụ sầu riêng rất lớn. Theo nhiều nông dân trồng sầu riêng trên địa bàn TP Cần Thơ, nếu năng suất sầu riêng đạt từ 2 tấn/công trở lên và giá bán trong mùa thuận duy trì ở mức giá từ 50.000-80.000 đồng/kg trở lên như trong những tuần vừa qua, nông dân có thể đạt lợi nhuận từ 40-100 triệu đồng/công trở lên. Ông Nguyễn Văn Tùng ở ấp Trường Trung B, xã Tân Thới, huyện Phong Điền, TP Cần Thơ, cho biết: "Giá bán sầu riêng thuận mùa không cao như mùa nghịch nhưng nhờ chi phí đầu tư thấp hơn và năng suất trái đạt cao hơn nên nông dân vẫn thu được mức lợi nhuận khá cao. Thời gian qua, nhiều vườn sầu riêng cho trái thuận mùa tại huyện Phong Điền có thể đạt năng suất trái lên đến 2-3 tấn/công, thậm chí cao hơn".

Cần liên kết chặt chẽ

Giá cả và đầu ra trái sầu riêng đang có nhiều thuận lợi và tiềm năng phát triển của ngành hàng sầu riêng được nhiều người đánh giá còn rất lớn. Tuy nhiên, việc người dân tại nhiều địa phương trong cả nước đã và đang tiếp tục mở rộng diện tích trồng sầu riêng, nhiều nông dân trồng sầu riêng ở Cần Thơ không khỏi lo lắng về giá cả đầu ra của trái sầu riêng trong tương lai. Lo lắng này là hoàn toàn có cơ sở bởi thời gian qua việc tăng và giảm giá sầu riêng phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố cung - cầu theo mùa vụ, cũng như còn phụ thuộc nhiều vào đầu ra xuất khẩu tại một số thị trường chủ lực, nhất là Trung Quốc. Mối liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp và các bên có liên quan tại nhiều nơi còn chưa tốt, từ đó chưa tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa các khâu sản xuất, bảo quản, chế biến và tiêu thụ để điều tiết cung - cầu một cách phù hợp vào từng thời điểm trong năm.

Theo ông Nguyễn Văn Thọ, nông dân trồng sầu riêng ở xã Trường Long, huyện Phong Điền, thời gian qua việc tiêu thụ sầu riêng của nhiều nông dân còn phụ thuộc vào thương lái, trong khi giữa nông dân và thương lái chưa ký được các hợp đồng chặt chẽ trong tiêu thụ sản phẩm mà chủ yếu thực hiện theo "hợp đồng miệng" và đặt một ít tiền cọc để làm tin. Điều này dễ dẫn đến tình trạng không mong muốn có thể ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của ngành hàng sầu riêng, nhất là việc "bẻ kèo" hay tranh mua, tranh bán không lành mạnh. Do vậy, rất cần doanh nghiệp đẩy mạnh tham gia liên kết với nông dân và với các hợp tác xã để hình thành các chuỗi liên kết bền chặt gắn giữa sản xuất với tiêu thụ. Mặt khác, cần sự phối hợp tốt giữa các bộ, ngành và địa phương trong tổ chức sản xuất và mở rộng thị trường xuất khẩu sang nhiều quốc gia.

Trên thực tế, ngành chức năng tại TP Cần Thơ cùng nhiều địa phương vùng ĐBSCL và các bộ, ngành Trung ương cũng đã và đang tích cực quan tâm khuyến khích, hỗ trợ nông dân tăng cường liên kết với nhau và với các doanh nghiệp để phát triển sản xuất và tiêu thụ trái sầu riêng bền vững. Khuyến cáo nông dân thận trọng trong mở rộng diện tích trồng sầu riêng nhằm hạn chế rủi ro. Kêu gọi nông dân cùng các thương lái, doanh nghiệp và các bên có liên quan phải kịp thời chuẩn hóa các khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, đóng gói sản phẩm... để đáp ứng các tiêu chuẩn và yêu cầu của các thị trường xuất khẩu, cũng như phải chung tay xây dựng, gìn giữ uy tín chất lượng của sầu riêng Việt Nam nhằm đảm bảo tốt đầu ra sản phẩm.

Ông Trần Thái Nghiêm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) TP Cần Thơ, cho biết: "Cùng với việc khuyến cáo nông dân thận trọng trong mở rộng diện tích sầu riêng, ngành Nông nghiệp thành phố cũng tập trung triển khai các chỉ thị và chỉ đạo của Bộ NN&PTNT về việc phát triển bền vững sản xuất cây sầu riêng. Tích cực kết nối, phối hợp các địa phương trong mời gọi các đơn vị, doanh nghiệp tham gia liên kết, bao tiêu sản phẩm cho nông dân và mở rộng thị trường tiêu thụ. Khuyến cáo các địa phương quan tâm theo dõi các hợp đồng liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp với nông dân và với các hợp tác xã để kịp thời xử lý, tháo gỡ khó khăn nếu có phát sinh". Cũng theo ông Nghiêm, để sầu riêng và các loại cây ăn trái phát triển bền vững, từ nhiều năm qua TP Cần Thơ cũng đã khuyến cáo bà con trồng cây ăn trái tùy loại theo các vùng có lợi thế và có điều kiện sản xuất, thổ nhưỡng phù hợp, không trồng ở những vùng điều kiện thích nghi không đảm bảo. Trồng theo hướng tập trung, đảm bảo điều kiện cấp mã số vùng trồng. Hỗ trợ và thúc đẩy nông dân liên kết với nhau và với các doanh nghiệp trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm để ổn định đầu ra.

Theo ông Lê Thanh Tùng, Phó cục Trưởng Cục trồng trọt thuộc Bộ NN&PTNT, chúng ta cần phải nghĩ đến việc sản xuất và bán trái sầu riêng lâu dài, bán trong nhiều năm, nhiều lần và bán được hiệu quả ngày càng tốt hơn. Nông dân và các bên có liên quan cần quan tâm sản xuất kinh doanh có trách nhiệm, phải "chắt chiu" cho sản phẩm và tránh các hiện tượng làm ăn theo kiểu "chụp giật" nhất thời. Thời gian qua, Cục Trồng trọt cũng đã khuyến cáo nông dân tại các địa phương khi muốn trồng sầu riêng hay một loại cây trồng gì mới, thì yếu tố đầu tiên là phải xem xét có thích hợp với đất đai, điều kiện đầu tư hay không và thích hợp với thị trường chúng ta đang có hay không...

Bài, ảnh: KHÁNH TRUNG

 

Khóm Cầu Đúc tăng gần 2.000 đồng/trái

 

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Những ngày gần đây, nông dân trồng khóm trên địa bàn tỉnh Hậu Giang vui mừng vì giá bán khóm đang tăng trở lại. Cụ thể, hiện giá bán được thương lái đến tận rẫy thu mua dao động từ 10.000-11.000 đồng/trái loại I (loại có trọng lượng từ 1kg trở lên), khóm loại II thì 2 trái kể 1. Mức giá này đang tăng gần 2.000 đồng/trái so với thời điểm cách đây khoảng 1 tháng và tương đương với giá khóm cùng kỳ.

 

 

Nông dân trồng khóm trên địa bàn tỉnh đang bước vào mùa thu hoạch.

Ông Bùi Văn Toàn, người dân trồng khóm ở ấp 7, xã Vĩnh Viễn A, huyện Long Mỹ, cho biết: “Gia đình trồng được 5 công khóm, đợt này thu hoạch được khoảng 500kg, do nắng nóng làm trái khóm bị nám, hư hại nhiều nên không lời nhiều, còn ai có năng suất cao hơn thì lợi nhuận đạt khoảng 2-3 triệu đồng/công”.

Theo ngành nông nghiệp tỉnh, vụ khóm năm 2024, nông dân trên địa bàn tỉnh trồng khoảng 3.170ha, tập trung nhiều ở thành phố Vị Thanh và huyện Long Mỹ. Ước năng suất thu được là hơn 16.500 trái/ha.

Tin, ảnh: MAI THANH

 

Cây khóm trên đất Thủ Thừa

 

Nguồn tin: Báo Long An

Cây khóm dễ trồng, nhẹ công chăm sóc, vốn đầu tư thấp lại ít sâu, bệnh. Đặc biệt, cây khóm chịu phèn, mặn rất tốt nên phù hợp trồng ở vùng “rốn phèn”. Huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An là một trong những địa phương có diện tích trồng khóm lớn nhất tỉnh, với gần 350ha, chủ yếu tập trung ở xã Tân Long.

Khóm là đặc sản nổi tiếng của tỉnh và là một trong những sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp tỉnh. Theo số liệu thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện toàn tỉnh có hơn 1.000ha khóm. Trong đó, diện tích đang cho trái gần 900ha, sản lượng đạt hơn 22.828 tấn/năm. Tập trung nhiều ở các huyện: Thạnh Hóa, Bến Lức, Thủ Thừa.

Theo nhiều nông dân, khóm được trồng ở những vùng đất có độ phèn, mặn càng cao thì trái khóm càng nặng ký và càng ngon, ngọt. Chính vì đặc điểm này, cây khóm đã góp phần nâng cao đời sống cho người dân vùng “rốn phèn” và làm thay đổi diện mạo vùng quê nghèo khó năm nào.

Giống khóm được nhiều nông dân chọn trồng là giống Queen (Nữ Hoàng). Điểm đặc biệt tạo nên thương hiệu khóm Long An là nhờ vị ngọt thanh, thịt khóm màu vàng đậm, ít xơ, nhiều nước, ăn giòn, ngọt, ít rát lưỡi. Để có được đặc điểm này, nông dân trồng khóm không chỉ áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà còn biết cách khai thác tốt thổ nhưỡng của vùng đất nhiễm phèn.

Thông thường vào đầu mùa mưa, nông dân bắt đầu xuống giống khóm. Xuống giống thời điểm này, nông dân không cần tốn quá nhiều công chăm sóc, bởi không phải tưới nước nhiều, giảm được hao hụt cây giống, khóm phát triển tốt. Nếu trồng bằng chồi thân thì khoảng 8-10 tháng, nông dân sẽ xử lý ra hoa, còn nếu trồng bằng chồi cuống thì 12 tháng mới xử lý ra hoa. Để trồng được loại cây này, nông dân ươm chồi trước 2-3 tháng. Cây con cao bằng gang tay có thể mang đi trồng. Bình quân nông dân trồng khoảng 35.000 cây/ha, khoảng cách giữa các cây từ 40-50cm.

Ông Phạm Văn Tỵ (xã Tân Long, huyện Thủ Thừa) chia sẻ: “Hiện nay, đa phần nông dân địa phương đều trồng khóm theo phương pháp lưu gốc nên sau khoảng 16 tháng thì khóm mới bắt đầu cho thu hoạch. Phương pháp này mặc dù lâu cho thu hoạch hơn so với trồng bằng chồi thân hay chồi cuống nhưng lại giúp cho nông dân có thể chủ động trong khâu xử lý ra trái, tránh trường hợp khóm cho thu hoạch cùng lúc với số lượng lớn sẽ bị thương lái ép giá. Trung bình 2 tháng, nông dân sẽ xử lý ra trái 1 lần”.

 

 

Nông dân huyện Thủ Thừa thu hoạch khóm

Nhận thấy cây khóm phát triển tốt trên vùng “rốn phèn”, năm 2017, Hợp tác xã (HTX) Khóm Thủ Thừa (xã Tân Long, huyện Thủ Thừa) được thành lập, có 10 thành viên tham gia, diện tích sản xuất hơn 50ha. Tuy nhiên, hiện nay, điều HTX quan tâm nhất là chưa tìm được đầu ra ổn định cho trái khóm, bởi đa số nông dân vẫn bán khóm tươi qua thương lái, chưa có sự liên kết với các doanh nghiệp, chưa có sản phẩm sau chế biến.

Theo Giám đốc HTX Khóm Thủ Thừa - Nguyễn Thành Trung, năm đầu tiên thu hoạch, khóm cho sản lượng khoảng 25 tấn/ha, năm thứ 2 khoảng 20 tấn/ha, năm thứ 3 khoảng 15 tấn/ha. Khóm trái khi thu hoạch được phân làm 3 loại dựa vào trọng lượng, trong đó loại I phải đạt từ 1,2kg/trái trở lên. Chi phí trồng 1ha khóm năm đầu tiên dao động từ 80-100 triệu đồng; năm thứ 2, thứ 3, mỗi năm khoảng 20 triệu đồng. Sau khi trừ tất cả chi phí, nông dân thu lợi nhuận bình quân 100 triệu đồng/ha/năm.

“Định hướng thời gian tới của HTX là chuẩn hóa chất lượng trái khóm để xuất khẩu, bởi nếu chỉ phụ thuộc vào thị trường trong nước thì nông dân rất dễ lâm vào tình trạng “được mùa, rớt giá”. Tuy nhiên, để đưa trái khóm “xuất ngoại” rất cần sự hỗ trợ của các cấp, các ngành liên quan trong việc hỗ trợ kỹ thuật, xây dựng mã số vùng trồng và kết nối tiêu thụ” - ông Nguyễn Thành Trung chia sẻ.

Từ khi “bén duyên” trên địa bàn huyện Thủ Thừa, cây khóm trở thành một trong các loại cây chủ lực của địa phương, giúp nhiều nông dân nâng cao thu nhập./.

Bùi Tùng

 

Giá tiêu, cà phê tăng

 

Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu

Ngày 13/5, giá tiêu tăng 2 ngàn đồng/kg, đưa giá tiêu của Bà Rịa - Vũng Tàu lên mức 103 ngàn đồng/kg, cao nhất trong các vùng trồng tiêu trọng điểm. Trong khi đó, các tỉnh khác như: Gia Lai, Bình Phước, Đồng Nai giá tiêu ở mức 102 ngàn đồng/kg, tăng 1 ngàn đồng/kg...

Theo nông dân trồng tiêu trên địa bàn tỉnh, thời điểm này, giá tiêu tăng hơn 40% so với cùng kỳ năm ngoái nên dù sản lượng giảm nhưng người dân vẫn có lãi. Các chuyên gia cũng cho biết, thời gian tới giá tiêu có thể tăng vì nguồn cung hạn chế do diện tích trồng tiêu bị thu hẹp. Toàn tỉnh hiện chỉ còn khoảng 10.552ha hồ tiêu, sản lượng 19.900 tấn, giảm gần 1.000ha, kéo năng suất giảm gần 2.000 tấn.

Trong khi đó, giá cà phê cũng tăng 1.500 đồng/kg, đưa cà phê trở lại trên mốc 100 ngàn đồng/kg.

Giá cà phê tăng cao đã tạo động lực để bà con trồng cà phê trên địa bàn tỉnh tái canh, phát triển cây cà phê.

ĐÔNG HIẾU

 

Nông dân thu lợi từ trồng mắc ca xen cà phê

 

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Thời gian qua, nhiều hộ nông dân trên địa bàn xã Ea Hiao (huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk) đã triển khai trồng cây mắc ca xen trong vườn cà phê mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Ông Lê Quang Hưng, Phó Chủ tịch UBND xã Ea Hiao cho biết, xã Ea Hiao có 7.929 ha đất sản xuất nông nghiệp, trong đó khoảng 65% diện tích là đất bazan màu mỡ, rất thuận lợi để phát triển nông nghiệp nói chung và các loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao nói riêng, trong đó có cây mắc ca. Hiện nay, toàn xã có hơn 200 hộ trồng cây mắc ca, với tổng diện tích 320 ha, trong đó có 51,5 ha trồng thuần và 268,5 ha trồng xen canh trong vườn cà phê và một số cây ăn trái khác.

Trồng mắc ca xen trong vườn cà phê mang lại lợi ích kép. Cây mắc ca chắn gió, tạo bóng nên cà phê ở tầng dưới ổn định, không bị ảnh hưởng nhiều bởi gió mạnh; đồng thời còn có tác dụng giữ ổn định nguồn nước ngầm trong đất, giúp đất không bị xói mòn, rửa trôi. Cây mắc ca ít tốn công chăm sóc và phân bón như các loại cây ăn quả hiện có. Quả mắc ca có giá trị kinh tế cao, mang lại nguồn thu nhập khá. Với giá bán dao động từ 180.000 - 220.000 đồng/kg hạt mắc ca sấy khô, mỗi năm người trồng có thể thu lợi trên 200 triệu đồng/ha canh tác.

 

 

Vườn mắc ca trồng xen canh cà phê của gia đình anh Vũ Văn Dần.

Gia đình ông Dương Văn Minh (ở thôn 7b) trồng xen khoảng 5.500 cây mắc ca trong vườn cà phê. Ông Minh cho biết, cây mắc ca phát triển tương đối ổn định và vườn mắc ca của ông bắt đầu cho thu hoạch từ năm 2021. Mỗi cây cho thu khoảng 4 kg hạt khô. Sản phẩm được gia đình ông sấy khô, đóng gói gửi đi các tỉnh thành với giá bán dao động từ 170.000 - 250.000 đồng/kg, mang lại nguồn thu nhập đáng kể.

Hay như hộ anh Vũ Văn Dần trồng 150 cây mắc ca xen trong rẫy cà phê từ năm 2012; đến năm 2016 thì thu bói được 9 tạ quả tươi, anh bán được hơn 70 triệu đồng. Từ năm 2017 đến nay, sản lượng vườn mắc ca của anh tăng dần, mỗi cây cho thu 17 – 20 kg quả. Niên vụ 2023 vừa qua, anh Dần thu được 2,7 tấn quả tươi. Để nâng cao giá trị, chất lượng hạt mắc ca, gia đình anh đã đầu tư 60 triệu đồng mua máy tách vỏ và lò sấy mini, chế biến thành sản phẩm hoàn chỉnh chứ không bán tươi nữa. Mắc ca thành phẩm được anh bán với giá cao hơn hẳn, từ 180.000 - 250.000 đồng/kg; hiện mỗi năm gia đình anh thu lợi gần 300 triệu đồng từ cây mắc ca, sau khi trừ các chi phí đầu tư.

Không chỉ gia đình anh Minh và anh Dần, từ năm 2012 đến nay, nhiều nông hộ ở các thôn 7a, thôn 7b, thôn 5b… cũng đưa mắc ca trồng xen trong vườn cây cà phê và cây ăn quả, cho thu nhập cao từ loại cây trồng này. Hộ trồng nhiều có hơn nghìn cây, ít cũng cả trăm cây, năng suất trung bình đạt từ 1,5 - 2,3 tấn quả/ha.

Hoài Nam

 

Xây dựng nhãn hiệu cộng đồng cho hạt ‘Mắc ca Lâm Đồng’

 

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Sau gần 20 năm bén rễ và phát triển trên đất Lâm Đồng, cây mắc ca đang từng bước khẳng định tiềm năng, thế mạnh, trở thành nông sản đặc trưng của địa phương. Việc xây dựng nhãn hiệu chứng nhận “Mắc ca Lâm Đồng” nhằm đưa hạt mắc ca vươn ra thế giới.

 

 

Các chuyên gia đánh giá cảm quan để tìm ra đặc trưng của hạt mắc ca Lâm Đồng phục vụ xây dựng nhãn hiệu cộng đồng

Cây mắc ca (tên khoa học là Macadamia) là cây lâm nghiệp đa tác dụng, thường xanh, có nguồn gốc từ châu Úc, được trồng nhiều ở các nước Nam Mỹ, Nam Phi và Đông Á. Hạt mắc ca giàu dinh dưỡng được xếp nhóm hạt ngon nhất thế giới.

Cây mắc ca bắt đầu được trồng ở Lâm Đồng vào năm 2006, đến nay, diện tích trồng mắc ca toàn tỉnh lên khoảng 5.200 ha, chủ yếu tại các huyện Di Linh, Lâm Hà, Đức Trọng, Bảo Lâm, Đam Rông...; trong đó, hơn 2000 ha đã cho thu hoạch. Với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp, nhiều cây đạt năng suất 30 kg hạt/cây/năm. Sản lượng quả khô trong năm 2021 đạt gần 2.400 tấn. Lâm Đồng hiện đang đứng đầu khu vực Tây Nguyên cũng như cả nước về diện tích trồng và sản lượng sản xuất sản phẩm mắc ca.

Toàn tỉnh hiện có 32 cơ sở, doanh nghiệp thu mua, sơ chế, chế biến mắc ca. Thành phẩm chế biến chủ yếu là mắc ca sấy nứt và nhân hạt đạt khoảng gần 900 tấn đang được tiêu thụ rộng rãi ở các hệ thống siêu thị, sân bay, cửa hàng tiện lợi trong nước và xuất khẩu. Các cơ sở đang từng bước đi vào chế biến sâu; bên cạnh quả khô sấy nứt, nhân hạt sấy khô, thực hiện đa dạng hóa sản phẩm như bột mắc ca, mỹ phẩm từ tinh dầu mắc ca… để nâng cao giá trị hạt mắc ca.

Có thể thấy, sau gần 20 năm bén rễ và phát triển trên đất Lâm Đồng, cây mắc ca đang từng bước khẳng định tiềm năng, thế mạnh, trở thành nông sản đặc trưng của địa phương, đồng thời góp phần tăng độ che phủ đất, bảo vệ môi trường. Cây mắc ca ngày càng phát triển theo chiều sâu, hướng tới 15.000 ha mắc ca vào năm 2045 với 62 cơ sở, doanh nghiệp chế biến; công suất tiêu thụ nguyên liệu ước khoảng 4.538 tấn quả/năm; khối lượng sản phẩm chế biến là 1.566 tấn,... theo kế hoạch của tỉnh.

Tuy nhiên, việc sản xuất, sơ chế, chế biến và tiêu thụ mắc ca trên địa bàn tỉnh hiện nay đều gắn với thương hiệu của các công ty, cơ sở, hợp tác xã chế biến mắc ca nhỏ lẻ như: Hạt mắc ca Tây Nguyên, Mắc ca Lâm Hà, Mắc ca Di Linh, Hạt mắc ca Việt,... mà chưa có một nhãn hiệu chung nào cho sản phẩm mắc ca Lâm Đồng.

Cùng với sự phát triển, việc xây dựng nhãn hiệu chứng nhận “Mắc ca Lâm Đồng” cho sản phẩm hạt mắc ca của tỉnh sẽ là nền móng vững chắc để giúp nông dân yên tâm, mạnh dạn đầu tư sản xuất; giúp cơ sở kinh doanh thương mại và tiêu thụ sản phẩm tự tin quảng bá, giới thiệu, đầu tư xây dựng và mở rộng thị trường. Nhãn hiệu “Mắc ca Lâm Đồng” sẽ như một cam kết với người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm cũng như một cam kết về việc phát triển nông - lâm nghiệp bền vững, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Với yêu cầu thực tiễn đặt ra, Sở Khoa học và Công nghệ Lâm Đồng đã triển khai nhiệm vụ “Tạo lập, quản lý và phát triển nhãn hiệu chứng nhận “Mắc ca Lâm Đồng” cho sản phẩm mắc ca của tỉnh Lâm Đồng”. Đăng ký bảo hộ, quản lý và quảng bá nhãn hiệu chứng nhận “Mắc ca Lâm Đồng” nhằm xây dựng một thương hiệu mạnh cho sản phẩm mắc ca, quản lý tốt hơn về chất lượng của sản phẩm, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao hiệu quả kinh tế và thu nhập cho các tổ chức, cá nhân trồng, chế biến, kinh doanh mắc ca, góp phần chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong ngành Nông nghiệp và khai thác các thế mạnh của địa phương.

Theo đó, trong 2 năm (8/2023 - 8/2025), Sở phối hợp cùng Công ty Sở hữu công nghiệp INVESTIP sẽ tiến hành thực hiện nghiên cứu điều tra, khảo sát thực trạng sản xuất, chế biến và kinh doanh sản phẩm mắc ca trên địa bàn tỉnh; đăng ký nhãn hiệu chứng nhận “Mắc ca Lâm Đồng”; xây dựng mô hình quản lý và hệ thống các công cụ quản lý và kiểm soát chất lượng sản phẩm được bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận “Mắc ca Lâm Đồng”; xây dựng hệ thống các công cụ quảng bá, phát triển thương hiệu cho sản phẩm mang nhãn hiệu chứng nhận “Mắc ca Lâm Đồng”; áp dụng triển khai thí điểm 3 mô hình liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm mang nhãn hiệu chứng nhận “Mắc ca Lâm Đồng” theo chuỗi giá trị và truy xuất nguồn gốc.

Việc xây dựng và phát triển nhãn hiệu cộng đồng “Mắc ca Lâm Đồng” cho sản phẩm mắc ca sẽ là nền móng vững chắc để giúp nông dân yên tâm, mạnh dạn đầu tư sản xuất, giúp cơ sở kinh doanh thương mại và tiêu thụ sản phẩm tự tin quảng bá, giới thiệu, đầu tư xây dựng và mở rộng thị trường. Nhãn hiệu chứng nhận “Mắc ca Lâm Đồng” sẽ như một cam kết với người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm cũng như một cam kết về việc phát triển nông - lâm nghiệp bền vững, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Đồng thời, góp phần xây dựng thêm cho tỉnh Lâm Đồng một thương hiệu mạnh trên thị trường, tiến tới mở rộng thị trường xuất khẩu, đưa “Mắc ca Lâm Đồng” vươn xa ra thế giới.

QUỲNH UYỂN

 

Trồng lúa giảm phát thải: Nâng cao giá trị, thu nhập cho nông dân

 

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Từ vụ lúa Hè thu năm 2024 này, có 5 tỉnh, thành ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) tiến hành thí điểm mô hình sản xuất sạch, giảm phát thải nhằm bán tín chỉ carbon. Đây là lần đầu tiên cùng với bán lúa gạo phục vụ xuất khẩu thì nông dân còn có thể bán “không khí” để thu về tiền thật.

 

 

Sản xuất lúa phát thải thấp ở HTX Tân Long. Ảnh: H.THU

Phấn khởi nhưng còn băn khoăn

Đưa chúng tôi đi thăm cánh đồng lúa Hè thu rộng 2,6ha của gia đình đang phát triển xanh tốt, ông Nguyễn Quang Hưng, thành viên Hợp tác xã (HTX) Dịch vụ nông nghiệp Thuận Tiến, xã Thạnh An, huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ, cho hay: “Vụ Đông xuân vừa rồi trên diện tích này nhờ được mùa được giá lúa nên gia đình tôi thu lãi khoảng 120 triệu đồng. Lợi nhuận dù có cao hơn các vụ trước nhưng chưa bền vững. Do đó, mới đây khi HTX được cấp trên chọn để “phát pháo” cho Đề án phát triển bền vững 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao gắn phát thải thấp ở ĐBSCL thì hầu hết các thành viên nhiệt tình tham gia, quyết tâm đổi mới phương pháp canh tác để bảo vệ môi trường, giảm phát thải. Đặc biệt của sản xuất lúa lần này là nông dân chờ bán tín chỉ carbon”.

Theo ông Nguyễn Cao Khải, Giám đốc HTX Dịch vụ nông nghiệp Thuận Tiến, được Bộ NN&PTNT, cùng UBND thành phố Cần Thơ chọn cánh đồng 50ha để thử nghiệm mô hình canh tác giảm phát thải. Tuy là lần đầu tiên thực hiện, nhưng về cơ bản các xã viên của HTX đã từng canh tác lúa theo hướng sạch, áp dụng 3 giảm 3 tăng, 1 phải 5 giảm khá thành công nên việc tiếp thu thêm kiến thức mới sẽ thuận lợi. Vấn đề băn khoăn khi nông dân chưa hiểu tín chỉ carbon là gì, làm sao tạo ra, rồi cách đo đạc, mua bán tín chỉ như thế nào… bởi việc này còn quá xa lạ.

Cùng niềm vui trên, ông Mai Thanh Liêm, Giám đốc HTX Dịch vụ nông nghiệp Phú Thọ, ở xã An Long, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp, cho hay là cuối tháng 4-2024 hơn 352ha đất của HTX đã xuống giống lúa Hè thu. Mới đây, đoàn công tác của Bộ NN&PTNT, cùng UBND tỉnh Đồng Tháp trực tiếp khảo sát và chọn ra 50ha để thí điểm mô hình sản xuất giảm phát thải, bán tín chỉ carbon ngay trong vụ này. Đa phần xã viên mừng, bởi khi tham gia đề án sẽ được tiếp cận kỹ thuật sản xuất lúa hiện đại, liên kết với doanh nghiệp để đảm bảo đầu ra; đồng thời giảm sử dụng phân thuốc hóa học sẽ bảo vệ sức khỏe cho người sản xuất và người tiêu dùng… Riêng phần bán tín chỉ carbon thì nông dân chưa rõ, nhưng vẫn kỳ vọng từ tín hiệu mới này.

Ông Nguyễn Văn Thích, Giám đốc HTX Tân Long, ở xã Vĩnh Tường, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang, cho biết vụ Hè thu này HTX đã phối hợp với một công ty làm 5ha lúa theo hướng giảm phát thải. Mỗi tấn carbon được công ty trả 20USD. Nếu làm theo quy trình ngập khô xen kẽ thì đầu vào sẽ giảm, năng suất sẽ tăng từ 15-20%, vì có kỹ sư tính toán làm sao phân bón không bị dư thừa, bốc hơi, giúp cây lúa hấp thụ chất dinh dưỡng tốt từ phân; kiểm soát được nguồn phân bón để nông dân tiết kiệm chi phí đầu vào. Làm theo mô hình này nông dân sẽ có những cái được như: được thêm tiền từ bán tín chỉ carbon, được tăng năng suất, tăng giá trị hạt lúa làm ra. Chính sách này rất hay, vì cũng diện tích đó, trước đây chỉ thu được khoảng 50 triệu đồng/ha, nếu làm theo hướng phát thải này thì nâng lên thêm từ 20-50%. Tuy nhiên, diện tích thực hiện ở HTX cũng chưa nhiều, do đây là cách làm mới, nông dân cũng còn lo lắng.

Bộ NN&PTNT cho rằng, do lần đầu tiên nông dân ĐBSCL tiếp cận với mô hình sản xuất lúa phát thải thấp, có bán tín chỉ carbon nên có người chưa rõ và còn nhiều trăn trở là chuyện hiển nhiên.

Thay đổi tập quán sản xuất

Theo Bộ NN&PTNT, vụ Hè thu 2024 này chọn 5 địa phương (Cần Thơ, Đồng Tháp, Kiên Giang, Trà Vinh và Sóc Trăng) mỗi nơi khoảng 50ha để thí điểm mô hình sản xuất lúa phát thải thấp. Nông dân gieo cấy giống xác nhận, áp dụng quản lý nước ngập khô xen kẽ, bón phân chuyên biệt, sạ hàng bằng máy kết hợp vùi phân, giảm số lần bón phân chỉ còn 2 lần/vụ; áp dụng IPM quản lý bảo vệ thực vật; áp dụng máy gặt đập liên hợp vào thu hoạch, thu gom rơm rạ khỏi đồng để làm nấm rơm và phân bón từ rơm, kết hợp bón phân hữu cơ cho lúa…

Ông Trần Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT, cho hay: “Thông qua mô hình thí điểm để tập huấn cho nông dân trong vùng hiểu về quy trình sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp. Từ đó, nông dân về tuyên truyền cho các HTX triển khai áp dụng theo đúng Đề án 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao trong thời gian tới; ngoài ra còn là cơ sở quan trọng để đánh giá hiệu quả, xem xét hệ số giảm phát thải để nhân rộng phương thức canh tác…”.

Theo bà Joanna Kane Potaka, Phó Tổng giám đốc IRRI, thông qua mô hình điểm này, nông dân có thể học hỏi được từ các chuyên gia, nhà khoa học và các tổ chức về kỹ thuật canh tác lúa giảm phát thải. Đồng thời, từ thực tế này, phía IRRI cũng sẽ học hỏi được những kinh nghiệm của nông dân, doanh nghiệp, đối tác… nhằm giúp IRRI đóng góp tốt hơn cho đề án 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao được thành công.

Lãnh đạo UBND thành phố Cần Thơ cam kết sẽ nỗ lực thực hiện thắng lợi đề án nhằm góp phần nâng cao thu nhập cho nông dân và hướng đến phát triển bền vững ngành hàng lúa gạo. “Hiện tại, Cần Thơ có 38.000ha lúa sản xuất trong dự án chuyển đổi nông nghiệp bền vững tại Việt Nam (VnSAT), với 32.000 hộ dân tham gia. Vì vậy, chúng tôi đang phát huy hiệu quả của dự án này nhằm đến năm 2025 Cần Thơ có vùng chuyên canh lúa chất lượng cao rộng 38.000ha, đến năm 2030 sẽ đạt 50.000ha theo kế hoạch đề ra”, ông Nguyễn Ngọc Hè, Phó Chủ tịch UBND thành phố Cần Thơ, nêu quyết tâm.

Theo ông Lê Thanh Tùng, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, hiện các địa phương đang tích cực tham gia là rất đáng mừng; tuy nhiên để mô hình thành công thì phải thay đổi tập quán sản xuất cũ của nông dân, tổ chức lại nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Cần thấy rằng, lâu nay ở ĐBSCL có nhiều cách canh tác khác nhau, theo từng vùng sinh thái; tuy nhiên để phát huy hiệu quả đề án 1 triệu héc-ta lúa thì 3 yếu tố “chất lượng cao, phát thải thấp và tăng trưởng xanh” phải được thực hiện xuyên suốt. Vì vậy, quy trình canh tác cần tổ chức lại một cách phù hợp. Ví dụ như thiết kế lại đồng ruộng bằng phẳng để tưới ngập khô xen kẽ, quản lý tốt nguồn nước; áp dụng sạ hàng hoặc sạ cụm để quản lý cỏ dại, kết hợp vùi phân vào trong đất nhằm phát huy cây mạ phát triển, giảm phát thải nhà kính… Đây là những cái khó, nhưng phải làm cho bằng được, phải cố gắng thực hiện bằng nhiều giải pháp nhằm hướng tới nền sản xuất xanh, giảm phát thải, giúp nông dân có thể “đa thu nhập” từ nhiều sản phẩm như lúa gạo, nấm rơm, tín chỉ carbon…

Theo các nhà chuyên môn, giá tín chỉ carbon ở các quốc gia dao động rất lớn, có quốc gia chỉ 1 USD cho 1 tấn carbon, tuy nhiên cũng có quốc gia bán giá 100-140 USD cho 1 tấn carbon. Việt Nam vừa chuyển nhượng giá 5 USD/tấn carbon rừng; dự kiến đề án 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao sẽ bán giá 10 USD/tấn carbon…

TS Phạm Văn Đại, Giảng viên cao cấp Trường chính sách công và quản lý Fulbright, cho rằng: “Giá tín chỉ carbon có thể lên đến 200-300 USD/tín chỉ và điều này chỉ đạt được khi chất lượng tín chỉ carbon được xác thực, bản chất của dự án cũng như chi phí bỏ ra để thực hiện”. Có thể nói, giá của mỗi tín chỉ carbon được quyết định tùy theo thị trường và tùy theo hình thức hình thành tín chỉ carbon. Hiện thị trường carbon có hai loại là tự nguyện và bắt buộc. Ở thị trường tự nguyện, các doanh nghiệp, các chủ thể tự nguyện thực hiện giảm phát thải khí nhà kính và mua tín chỉ carbon để đạt được mục tiêu này. Còn thị trường carbon bắt buộc, các cơ sở phải thực hiện giảm phát thải khí nhà kính, thể hiện ở lượng hạn ngạch phát thải mà cơ quan quản lý phân bổ cho mỗi cơ sở; các cơ sở được phép mua bán trao đổi lượng hạn ngạch này trên thị trường.

Bà Carolyn Turk, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam cho biết, đồng hành với Bộ NN&PTNT xây dựng Đề án 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp vùng ĐBSCL. WB sẽ hỗ trợ nông dân cải thiện đời sống và hỗ trợ đề án thông qua các cơ chế để Việt Nam tham gia thị trường carbon tự nguyện.

Về cơ bản, nông dân vừa có nguồn thu từ lúa gạo và còn có cơ hội bán tín chỉ carbon thông qua sản xuất xanh, giảm phát thải. Phía WB ước tính vùng chuyên canh lúa chất lượng cao 1 triệu héc-ta này khi hình thành có thể giảm 10 triệu tấn carbon. WB cam kết mua tín chỉ carbon mức 10 USD/tấn CO2; trung bình 1ha lúa có thể thu về 100 USD từ việc bán tín chỉ carbon. Như vậy, 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao có thể thu về khoảng 100 triệu USD/năm…

H.TÂN - H.THU

 

Phục hồi cây trồng sau nhiễm mặn

 

Nguồn tin:  Báo Vĩnh Long

Trước phản ánh của người dân xã Bình Hòa Phước (huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long) về tình trạng vườn cây ngày càng suy yếu, cháy lá, thậm chí chết cây, ngành chức năng đã đến khảo sát, ghi nhận, đánh giá nguyên nhân, đồng thời tập huấn nông dân cách phục hồi cây trồng.

Cây trồng suy kiệt

Tháng 4 vừa qua, người dân 2 ấp Bình Hòa 1 và Phước Định 1 (xã Bình Hòa Phước, huyện Long Hồ) phản ánh với UBND huyện về tình trạng cây bị cháy lá, suy kiệt, thậm chí chết cây. Có vườn không thể phục hồi. Người dân nghi nguyên nhân do cây bị ngộ độc muối từ nguồn nước tưới lấy từ kênh rạch.

Có 4 công chôm chôm mới trồng đang chết dần, ông Nguyễn Văn Minh (xã Bình Hòa Phước) cho hay: “Lúc trong Tết, tôi thấy vườn cây 20 năm tuổi đã bị cháy lá, suy kiệt nên tôi đốn và trồng cây con lại, tuy nhiên, hiện cây vẫn suy. Giờ đợi mùa mưa đến, tôi sẽ nhổ bỏ cây con và tiếp tục trồng lại”.

Không chỉ riêng vườn của ông Minh, theo khảo sát chính quyền địa phương, chỉ riêng khu vực ấp Bình Hòa 1 (xã Bình Hòa Phước) có hơn 13ha vườn cây ăn trái chủ yếu là chôm chôm và sầu riêng đang bị thiệt hại. Nhiều vườn hiện chết khô, một số khác nông dân đang đốn bỏ. Chú Nguyễn Văn Nhàn (xã Bình Hòa Phước) cũng cho hay: “Trước mắt tôi thấy vườn sầu riêng của tôi đã bị thiệt hại khoảng 80%. Còn vú sữa thì năm trước thu hoạch được 1 tấn, năm nay không hái được trái nào”.

Theo nhiều nông dân, tình trạng cây suy kiệt, thất mùa đã xảy ra nhiều năm nay, tuy nhiên đến nay xuất hiện ngày càng nhiều vườn cây không thể phục hồi. Dù chưa được xác định chính thức về nguyên nhân gây nên tình trạng cây bị suy kiệt dần, nhưng nhiều nông dân có kinh nghiệm nghi rằng có thể do ngộ độc muối khi sử dụng nguồn nước bị nhiễm mặn để tưới.

Ông Phạm Minh Phú- Phó Chủ tịch UBND xã Bình Hòa Phước, cho biết: Sau khi nhận được đơn phản ánh của người dân về độ mặn ở sông Cầu Mương, xã đã phân công cán bộ cũng như trực tiếp đi đo độ mặn của tuyến sông này. Theo đó, độ mặn đo được dao động từ 0,24-0,4‰. Nếu độ mặn từ 0,3‰, tưới lâu ngày thì có thể dẫn đến chết cây. Còn đối với cây chôm chôm độ mặn 0,3-0,4‰ thì cũng làm ảnh hưởng, cây cháy lá, khô đọt dẫn đến vườn cây suy yếu”.

Kênh, rạch, mương vườn có mặn

Theo ông Hồ Thế Nhu- Trưởng Phòng Nông nghiệp-PTNT huyện Long Hồ, ngay sau khi nhận được thông tin phản ánh, ngày 19-20/4, Phòng Nông nghiệp-PTNT phối hợp với Chi cục Trồng trọt-BVTV cùng với UBND huyện, UBND xã khảo sát hiện trạng vườn cây ăn trái của những hộ dân ấp Bình Hòa 1 và ấp Phước Định 1.

Kết quả khảo sát ở 40 hộ trồng cây chôm chôm, sầu riêng và mai vàng có trên 13,7ha bị cháy lá và rụng lá. Trong đó: có trên 2.200 cây chôm chôm từ 3-30 năm tuổi; 860 cây sầu riêng từ 3-30 năm tuổi; 142 cây mai vàng từ 3-80 năm tuổi; 40 cây vú sữa hoàng kim từ 3-5 năm tuổi.

Qua khảo sát, đa số diện tích trồng cây chôm chôm, sầu riêng ở khu vực này đều có tỷ lệ bị cháy lá từ 10-80% số cây trên một vườn, có một số cây chôm chôm, sầu riêng bị chết nhánh. UBND xã đã có biên bản thống kê số hộ, diện tích, loại cây, tuổi cây bị ảnh hưởng.

Đến ngày 7/5, đoàn công tác tiếp tục khảo sát hiện trạng cây trồng trong mùa nắng các xã cù lao tại 3 khu vực gồm bến phà Đình Khao (ấp Phước Định 1, xã Bình Hòa Phước), khu vực cặp sông Cái Muối (ấp Phú An 2, ấp Bình Hòa 2, xã Bình Hòa Phước), khu vực vành đai ấp Phú Thạnh 4 (xã Đồng Phú).

Kết quả khảo sát hiện trạng vườn cây ăn trái của 15 hộ dân tại các khu vực trên: đa số các vườn cây sầu riêng, chôm chôm, mai vàng đều có dấu hiệu suy kiệt hơn so với năm trước.

Hiện trạng trên cây sầu riêng bị cháy lá từ 5-70% và đọt non bị rụng lá; chôm chôm bị cháy lá 20-80%; mai vàng có dấu hiệu lá nhỏ dúm lại từ 5-20%. Ngoài ra, có vườn cây chôm chôm, sầu riêng và mai vàng vẫn tươi tốt và phát triển bình thường.

Độ mặn đo được tại các điểm dao động từ 0,2-0,3‰. Riêng với khu vực vành đai của hộ có nuôi lươn thì độ mặn có cao hơn ở 2 vị trí còn lại 0,05-0,13‰ (độ mặn trong mương vườn dao động từ 0,25- 0,38‰ và ngoài sông 0,28-0,33‰). Bên cạnh đó, kết quả kiểm tra 24 giếng khoan của 15 hộ nuôi lươn hầu hết bị nhiễm mặn với nồng độ từ 1,6-4,8‰.

 

 

Ngành chức năng tiến hành đo độ mặn trong mương vườn khu vực bị thiệt hại.

Theo đó, đoàn công tác đánh giá qua khảo sát, cây trồng trong khu vực gồm chôm chôm, sầu riêng, mai vàng, vú sữa hoàng kim bị cháy lá và rụng lá. Kết quả quan trắc phát hiện trên hệ thống kênh, rạch và trong mương vườn của nông dân có vườn cây bị cháy lá suy kiệt có độ mặn làm ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây. Bên cạnh, một số hộ có giếng khoan khai thác nước ngầm để nuôi lươn cũng chưa có giấy phép khai thác, số lượng khai thác của các hộ từ 30-200 m3/ngày đêm.

“Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng cháy lá cây trồng tại 2 ấp Phước Định 1 và Bình Hòa 1 (xã Bình Hòa Phước) như: kỹ thuật canh tác, cách chăm sóc, dịch bệnh, độ mặn, nắng nóng... Hướng tới, ngành chức năng, địa phương sẽ nghiên cứu tìm giải pháp để hài hòa lợi ích kinh tế giữa người trồng cây và nuôi lươn. Bên cạnh đó, khuyến cáo các hộ nuôi lươn không xả tràn”- ông Hồ Thế Nhu cho biết thêm.

Trước hiện trạng vườn cây ngày càng suy yếu, nông dân xã Bình Hòa Phước mong muốn chính quyền địa phương và ngành chức năng sớm có biện pháp hỗ trợ kịp thời.

Ông Võ Trung Sơn- Phó Chủ tịch UBND huyện Long Hồ, cho biết: “Trước mắt, UBND huyện Long Hồ tập trung thực hiện các giải pháp hỗ trợ nông dân chăm sóc, phục hồi cây trồng. Đồng thời, vận động nông dân trồng cây chủ động thực hiện phục hồi cây trồng sau khi nhiễm độ mặn. Chỉ đạo UBND xã cần cập nhật độ mặn thường xuyên để thông báo cho người dân biết. Bên cạnh đó, triển khai tập huấn cho các hộ nuôi lươn chuyển từ kỹ thuật nuôi nước ngầm sang nuôi nước mặt. Huyện cũng chỉ đạo các ngành chuyên môn thực hiện đóng các giếng khoan sai quy định”.

Bài, ảnh: THẢO LY

 

Ia H’Drai (Kon Tum): Chuyển đổi cơ cấu cây trồng hiệu quả

 

Nguồn tin:  Báo Kon Tum

Huyện Ia H’Drai (Kon Tum) hiện có trên 29.079ha cây trồng các loại. Thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng, trong những năm qua, Ban Thường vụ Huyện uỷ lãnh đạo nhân dân chuyển đổi các loại cây trồng kém hiệu quả sang trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao, góp phần giảm nghèo bền vững cho nhân dân.

Đến thăm gia đình anh Mai Văn Thu tại thôn 7, xã Ia Đal, chúng tôi thấy vườn chanh dây trĩu quả. Tâm sự với tôi, anh Thu kể: Thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng, gia đình tôi đã mạnh dạn chuyển đổi trên 4,6ha đất trồng mì có năng suất thấp sang trồng 1,6ha chanh dây, 1,7ha vú sữa hoàng kim, 1ha na và 0,3ha mít, dừa xiêm. Nhờ trồng, chăm sóc, bón phân, tưới nước đúng kỹ thuật, nên các loại cây trồng đều sinh trưởng, phát triển tốt, đem lại hiệu quả kinh tế cao.

“Chỉ tính trong hai năm trở lại đây, bình quân hàng năm tôi lãi ròng từ các loại trái cây nói trên 150 triệu đồng. Ngoài ra, tôi còn thuê đất của các hộ dân khác trồng từ 9-10 ha cây bí đỏ, thu từ 50-80 tấn trái bí, đem bán các thị trường lớn ở miền Nam, tôi lãi trên 200 triệu đồng/năm. Như vậy, việc thu từ các loại trái cây nói trên, tôi lãi ròng 350 triệu đồng/năm”- anh Thu khiêm tốn kể.

Ông Trần Việt Dũng- Chánh Văn phòng Huyện ủy Ia H’Drai cho biết: Thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 25/11/2021 của Tỉnh ủy về “Phát triển nông nghiệp hàng hóa đi vào chiều sâu, ứng dụng công nghệ cao gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, trong hơn 2 năm qua, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện tập trung lãnh đạo toàn dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, qua đó nâng cao năng suất, sản lượng, chất lượng, hiệu quả kinh tế cho người dân để vùng biên ngày càng khởi sắc.

Để phát triển kinh tế ổn định, UBND huyện đã quy hoạch 140,47ha đất trồng lúa, trong đó có 45,39ha lúa nước. Trong năm 2022, UBND huyện đã hỗ trợ 1.535kg lúa giống HT1 để gieo cấy 12,79ha đất trồng lúa ở xã Ia Tơi và hỗ trợ 2 máy cày phay bánh lồng (động cơ diesel D10) cho 2 xã Ia Dom, Ia Đal để thực hiện chính sách bảo vệ và phát triển đất trồng lúa trên địa bàn. Đồng thời, chỉ đạo cơ quan chuyên môn phối hợp UBND các xã thường xuyên tuyên truyền người dân trong công tác phòng, chống dịch bệnh và tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật về sản xuất trên cây trồng, trong đó có cây lúa nước.

Đến nay toàn huyện đã có trên 29.079ha cây trồng các loại. Trong đó, ngoài diện tích cây trồng (khoảng 26.592,2ha) của các doanh nghiệp, người dân trồng mới được 180ha cao su, 47,8ha cây ăn quả, 56,3ha cây dược liệu, 1.800ha mì, 228,6ha lúa và 174,1ha cây hàng năm khác. Ngoài ra, công tác trồng rừng được Huyện ủy chỉ đạo UBND huyện triển khai sớm từ nguồn vốn xã hội hóa. Đến nay, toàn huyện trồng được 386,3ha rừng tập trung, đạt 106,13% kế hoạch; trồng được 45.931 cây phân tán, đạt 115% kế hoạch, nâng độ che phủ rừng toàn huyện lên 87,1%, đạt kế hoạch đề ra.

 

 

Vườn cây ổi Đài Loan của anh Phạm Văn Tân trú tại thôn 1, xã Ia Dom, huyện Ia H’Drai. Ảnh: T.V.P

Tuy nhiên, việc chuyển đổi mục đích rừng sang mục đích khác ở huyện còn khó khăn. Nguyên nhân là do, hiện nay, phần lớn diện tích các điểm dân cư trên địa bàn các xã nằm trong phần diện tích được giao cho các công ty, doanh nghiệp thuê đất để thực hiện dự án trồng cao su là đất lâm nghiệp chưa được thu hồi, chuyển mục đích giao cho huyện để cấp chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định. Đồng thời, chưa được chính quyền cấp trên điều chỉnh ra khỏi “Quy hoạch quản lý bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Kon Tum giai đoạn 2011-2020”; “Quy hoạch Lâm nghiệp Quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050” chưa được phê duyệt; sự sai khác giữa hiện trạng người dân sinh sống với quy hoạch chi tiết xây dựng điểm các dân cư công nhân.

Vì vậy, để đảm bảo mục tiêu an ninh lương thực trên địa bàn huyện trong giai đoạn 2021-2025, Chánh Văn phòng Huyện ủy Trần Việt Dũng cho biết: Trong thời gian tới, huyện tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo tập trung khai hoang một số diện tích có khả năng sản xuất lúa nước 2 vụ tại các khe suối để ổn định đất sản xuất lúa cho người dân; chỉ đạo đảng ủy các xã tập trung rà soát, quy hoạch các diện tích đất trồng không hiệu quả, năng suất thấp, sang trồng các loại cây ăn quả có năng suất, chất lượng cao như cam, mít Thái, sầu riêng để đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân. Đồng thời, hỗ trợ giống cây trồng, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng thật tốt, để sản xuất hiệu quả.

Trần Văn Phúc

 

Chủ động chuyển đổi sản xuất để thích ứng với hạn, mặn

 

Nguồn tin:  Báo Hậu Giang

Tình hình hạn mặn diễn biến phức tạp và kéo dài dẫn đến thiếu nước sinh hoạt, cháy rừng, sụt lún, sạt lở đất... gây ra nhiều thiệt hại. Trong khó khăn đó đã có nhiều nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chủ động chuyển đổi sản xuất bằng các giải pháp thích ứng phù hợp, chung sống thuận thiên để phát triển bền vững.

Thu nhập cao trong mùa hạn mặn

Mặc dù giữa nắng trưa gay gắt nhưng vợ chồng anh Lê Thanh Tảo, ở xã Thuận An, thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long, vẫn tranh thủ hái 5 mương rau nhút để kịp giao cho thương lái đặt mua với giá 10.000 đồng/kg. Anh Tảo cho biết, thời điểm này nhiều nơi bị khô hạn, còn các vùng ven biển thì nước mặn tấn công gây khó cho sản xuất và sinh hoạt của người dân. Tuy nhiên, khu vực này nằm gần sông Hậu nên các hộ xung quanh chủ động liên kết xây dựng đê bao để trữ nước ngọt nhằm phục vụ trồng rau màu trong mùa hạn. Gia đình cũng có gần 5 công đất được áp dụng trồng rau nhút dưới mương, còn trên bờ thì trồng cải xà lách xoong.

Để rau nhút phát triển tốt, anh Tảo thả thêm nhiều bèo dưới mương nhằm tạo độ mát cho mặt ao, đồng thời thường xuyên theo dõi tình trạng chết dây, úng lá… để xử lý kịp thời tránh ảnh hưởng năng suất. “Chỉ sau gần 20 ngày trồng là bắt đầu thu hoạch kéo dài nhiều đợt. Do chi phí đầu tư không nhiều, vì vậy chỉ cần giá rau nhút 10.000 đồng/kg là nông dân sống khỏe; cũng có thời điểm rau nhút hút hàng tăng lên 15.000-20.000 đồng/kg; nhờ đó nông dân lợi nhuận 60-80 triệu đồng/ha, cao hơn lúa”, anh Tảo khoe.

Cùng với rau nhút, anh Tảo còn làm nhà lưới để trồng xà lách xoong trên bờ. Ưu điểm của xà lách xoong trồng 1 lần cho thu hoạch nhiều năm, với giá bán bình quân 20.000-30.000 đồng/kg vào mùa thuận (từ tháng 10 đến tháng 2 trong năm), còn mùa nghịch (từ tháng 3 đến tháng 9) giá khoảng 40.000 đồng/kg, thậm chí tới 50.000-60.000 đồng/kg. Xà lách xoong là loại rau màu cho thu nhập cao với lợi nhuận mỗi năm từ 100-300 triệu đồng/ha. Với việc áp dụng mô hình trên bờ trồng xà lách xoong, còn dưới mương trồng rau nhút kết hợp, giúp gia đình anh Tảo có nguồn thu ổn định trong mùa hạn mặn.

Tại huyện Bình Tân, vùng chuyên canh khoai lang xuất khẩu lớn nhất của tỉnh Vĩnh Long, nhiều nông dân đang chủ động nước tưới để sản xuất vào mùa hạn. Anh Lê Thái Hòa, ở xã Thành Lợi, huyện Bình Tân, hớn hở: “4 công khoai lang của gia đình nhờ chăm sóc tốt nên năng suất vụ này đạt 60 tạ/công (1 tạ 60kg). Thương lái vừa đến tận ruộng thu mua với giá khá cao là 830.000 đồng/tạ, giúp nông dân lãi đậm”.

Chỉ chúng tôi hơn 2 công dưa leo vừa thu hoạch, chị Lâm Thị Chín, ở xã Đông Bình, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ, bộc bạch: “Qua theo dõi thị trường thời gian qua thấy khi vào mùa hạn mặn thì dưa leo được giá cao và dễ tiêu thụ; vì vậy vụ này ruộng dưa leo của gia đình lúc tới ngày thu hoạch được thương lái đến tận ruộng thu mua từ 15.000-20.000 đồng/kg, lợi nhuận cao hơn lúa rất nhiều”.

Ở Hậu Giang, để thích ứng trong mùa hạn mặn này, nhiều nông dân chuyển từ đất lúa sang trồng màu cho hiệu quả kinh tế cao. Như gia đình ông Nguyễn Văn Lâm, ở xã Vĩnh Thuận Tây, huyện Vị Thủy, vụ này trồng 2 công dưa leo đang cho thu hoạch trái, trung bình bẻ hơn 200kg/ngày. Theo gia đình ông Lâm, trồng dưa leo mùa hạn này thì nặng công chăm sóc, phải tưới nước cho dưa phát triển, tuy nhiên bán được giá cao. Với giá dưa leo được thương lái vào tận nơi cân từ 7.000-8.000 đồng/kg như hiện nay thì cũng có lợi nhuận hơn 10 triệu đồng/công sau 2,5 tháng trồng và chăm sóc.

Theo Sở NN&PTNT tỉnh Hậu Giang, đến nay toàn tỉnh đã xuống giống được 18.625ha rau màu. Trong đó, cây rau đậu 16.946ha, cây bắp 1.335ha. Đã thu hoạch 13.627ha, chủ yếu cây rau đậu các loại, ước năng suất trung bình đạt 12,5 tấn/ha, sản lượng ước đạt 170.338 tấn, tăng 3,2% so cùng kỳ năm 2023. Diện tích còn lại đang giai đoạn sinh trưởng và phát triển tốt. Ngành nông nghiệp tỉnh đã chỉ đạo đơn vị chuyên môn thường xuyên kiểm tra độ mặn và thông báo tình hình xâm nhập mặn đến địa phương và Nhân dân để sử dụng nước phục vụ sản xuất có hiệu quả, hạn chế thiệt hại do xâm nhập mặn cũng như hạn hán gây ra.

Ở Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, thành phố Cần Thơ… nhiều nông dân trồng cây ăn trái cũng “sống khỏe” nhờ các giải pháp thích ứng phù hợp với hạn mặn. Anh Nguyễn Văn Chí, ở xã Ngũ Hiệp, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, nhìn nhận: “Cù lao Ngũ Hiệp có hơn 1.500ha sầu riêng, một loại cây cho hiệu quả kinh tế cao. Rút kinh nghiệm từ đợt hạn mặn dữ dội các năm 2016 và 2020 khiến nhiều vườn cây bị thiệt hại; vì vậy, ngoài việc ngành chức năng đầu tư hệ thống cống ngăn mặn thì nông dân nạo vét các con mương, đào thêm ao để trải bạt trữ nhiều nước ngọt trong vườn cây nhằm đảm bảo nước tưới suốt mùa khô. Nhờ vậy mà đến thời điểm này nhiều vườn sầu riêng vẫn trụ vững và phát triển bình thường; trong đó những nông dân chủ động cho trái sớm và bán vào tháng 3-2024 trúng giá cao từ 110.000-130.000 đồng/kg (giống Ri 6), thu lời đậm”.

 

 

Nông dân xã Thuận An (thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long) thu nhập cao trong mùa hạn nhờ áp dụng mô hình trồng rau nhút dưới mương, kết hợp trồng cải xà lách xoong trên bờ. Ảnh: H.TÂN

Tiếp tục chuyển đổi theo hướng “thuận thiên”

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), hạn mặn năm 2024 dù diễn ra gay gắt và kéo dài, gây thiếu nước ngọt một số vùng ven biển thuộc các tỉnh Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Cà Mau, Kiên Giang… đa phần là các khu vực không có nước ngầm và chưa được đầu tư hoàn chỉnh hệ thống cấp nước. Đối với sản xuất nông nghiệp thì hạn mặn tuy có gây ảnh hưởng nhưng mức độ thiệt hại rất thấp so với đợt hạn mặn năm 2016 và 2020. Nguyên nhân là do ngành nông nghiệp và chính quyền các địa phương trong vùng đã chủ động chuyển đổi sản xuất phù hợp, thích ứng, thuận với tự nhiên.

Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về “Phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu” đã yêu cầu cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo ba trọng tâm “thủy sản - cây ăn trái - lúa gạo”, gắn với các tiểu vùng sinh thái; trong đó coi thủy sản (nước ngọt, nước lợ, nước mặn) là sản phẩm chủ lực.

Sau hơn 6 năm thực hiện đã làm thay đổi tư duy về phát triển nông nghiệp toàn vùng theo hướng thuận thiên, dựa vào thế mạnh của tự nhiên. Theo Bộ NN&PTNT, đã có những mô hình nông nghiệp sinh thái, tích hợp đa tầng, đa giá trị, thuận thiên gần đây xuất hiện ở nhiều địa phương trong vùng như mô hình kinh tế dưới tán rừng, mô hình tôm - lúa ở Bán đảo Cà Mau, mô hình chuyển đổi từ độc canh cây lúa sang đa canh, xen canh giúp tăng thu nhập cho nông dân vùng Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên… hay mô hình sản xuất thích ứng với hạn mặn ở các tỉnh duyên hải, mô hình du lịch sinh thái, du lịch nông nghiệp, nông thôn đang tạo ra nhiều hiệu ứng tích cực.

Các nhà chuyên môn cho rằng, Nghị quyết 120 xem nước mặn, nước lợ, nước ngọt đều là tài nguyên (chứ không chỉ riêng nước ngọt), là tinh thần mới giúp các địa phương chủ động chuyển dịch các mô hình canh tác phù hợp, khai thác tốt nguồn tài nguyên của các hệ sinh thái ngọt, lợ, mặn; từ đó tránh việc can thiệp vào tự nhiên nhiều như trước…

Tiến sĩ Bùi Thanh Liêm, Trưởng phòng NN&PTNT huyện Chợ Lách (Bến Tre), chia sẻ: “Hiện nay hơn 8.500ha vườn cây ăn trái đặc sản của huyện như sầu riêng, chôm chôm, măng cụt… và 3.000ha hoa kiểng phát triển bình thường, dù bên ngoài là nước mặn tấn công. Được vậy, là nhờ chủ động các phương án ứng phó hạn mặn rất sớm, triển khai nhiều giải pháp kỹ thuật mới trong sản xuất để nông dân áp dụng; thường xuyên quan trắc độ mặn để thông báo kịp thời cho bà con phòng ngừa; đặc biệt là hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi và tích trữ nước ngọt bằng nhiều cách như trong mương vườn, ao, làm hồ trải bạt, xây bồn chứa…”.

Mới đây, trong chuyến kiểm tra về phát triển nông nghiệp ở Trà Vinh, ông Lê Minh Hoan, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT, đánh giá cao Trà Vinh là tỉnh ven biển nhưng đến nay không bị ảnh hưởng tiêu cực của hạn mặn; được vậy là do từ năm 2021 đến nay tỉnh này đã chủ động chuyển đổi hơn 8.000ha đất trồng lúa kém hiệu quả, nơi thiếu nước tưới, cùng hàng trăm héc-ta đất mía bị ảnh hưởng mặn, năng suất kém… sang nuôi thủy sản và trồng các loại cây khác ít cần nước tưới, phù hợp với điều kiện sinh thái mới, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.

Ông Lê Minh Hoan cũng tâm đắc với các HTX nông nghiệp ở Trà Vinh như HTX nông nghiệp Phú Mỹ Châu (huyện Châu Thành) quy tụ hơn 120 nông dân vào sản xuất lúa thông minh và áp dụng kinh tế tuần hoàn để tăng thu nhập; hay HTX nông nghiệp Long Hiệp (huyện Trà Cú) quy tụ 72 nông dân tham gia mô hình lúa - tôm bền vững… Ông Lê Minh Hoan nhấn mạnh, để nông nghiệp phát triển bền vững, thuận thiên và thích ứng với biến đổi khí hậu, với hạn mặn thì việc chuyển đổi sản xuất phù hợp là rất quan trọng; đồng thời cũng chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp. Do đó, quy tụ nông dân vào các HTX sẽ thuận lợi trong việc chuyển đổi, cũng như ứng dụng khoa học, công nghệ cao vào sản xuất; gắn liên kết giữa HTX với các doanh nghiệp tiêu thụ để ổn định đầu ra nông sản. Đây là hướng đi tất yếu của nền nông nghiệp hội nhập và phát triển thuận thiên…

Theo Bộ NN&PTNT, năm 2023 ở vùng ĐBSCL có khoảng 86.000ha đất lúa kém hiệu quả, khó khăn về nguồn nước ngọt, nơi thường bị ảnh hưởng hạn mặn… được chuyển đổi sang nuôi thủy sản, trồng cây ăn trái, trồng rau màu... Trước đó, giai đoạn từ năm 2019-2022, bình quân mỗi năm có hàng chục ngàn héc-ta đất lúa được chuyển đổi sản xuất. Ưu điểm của chuyển đổi là hệ số sử dụng đất được tăng lên từ 1,5-2,2 lần, tiết kiệm được nước tưới, thích ứng tốt với hạn mặn, nhờ đó hiệu quả kinh tế mang lại cao hơn. Điển hình như từ đất lúa chuyển sang trồng rau màu các loại thì nông dân đạt doanh thu bình quân khoảng 150-200 triệu đồng/ha; trồng cây ăn trái đạt doanh thu trên 600 triệu đồng/ha… lợi nhuận cao hơn trồng lúa rất nhiều và thích ứng phù hợp với hạn mặn. Vì vậy, tới đây việc chuyển đổi sản xuất sẽ tiếp tục thực hiện.

H.TÂN - H.THU

 

Khá lên từ nuôi chim bồ câu Thái

 

Nguồn tin: Báo Bình Định

Sau khi thử sức với nhiều mô hình nông nghiệp nhưng chưa đạt được hiện quả như mong muốn, qua tìm hiểu, anh Nguyễn Văn Tình (thôn Định Tam, xã Vĩnh Hảo, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định) nhận thấy bồ câu Thái dễ tiêu thụ, nhưng chưa được nhiều người tổ chức chăn nuôi theo quy mô lớn, anh Tình quyết định thử sức với mô hình nuôi chim bồ câu Thái sinh sản.

Anh Tình chia sẻ: Trang trại nuôi chim bồ câu, trước kia là trang trại nuôi heo thịt và heo sinh sản, do những năm gần đây giá heo hơi rớt mạnh, thua lỗ nhiều. Nhờ Hội Nông dân huyện cử tham gia tập huấn kỹ thuật, tìm hiểu qua các kênh thông tin đại chúng, thấy nuôi chim bồ câu tương đối đơn giản, hiệu quả kinh tế khá nên tôi mạnh dạn chuyển sang nuôi chim bồ câu Thái từ năm 2022. Giống chim này to khỏe, chất lượng cao.

 

 

Anh Nguyễn Văn Tình chăm sóc chim bồ câu. Ảnh: LÊ VĂN XINH

Để chuẩn bị cho việc khởi nghiệp nuôi chim bồ câu Thái, anh đến một tham quan mô hình nuôi chim bồ câu Thái tại TP Hồ Chí Minh. Được chủ trang trại hướng dẫn tư vấn cụ thể, anh đã mua 500 cặp chim bồ câu bố mẹ đem về nuôi, tuân thủ nghiêm ngặt quy trình nuôi, nhất là khâu kỹ thuật, phòng chống bệnh. Hiện anh đang có khoảng 2.500 con chim các loại, trong đó có khoảng 700 chim bố mẹ.

Về đầu ra cho việc bán chim thương phẩm, anh Tình chia sẻ: Tôi tìm đến các chợ đầu mối, các chợ bán lẻ để tìm bạn hàng. Sau nhiều thời gian, hiện tôi đã có đầu ra ổn định để cung cấp cho một nhà hàng ở TP Hồ Chí Minh. Cứ 3 ngày, gia đình tôi xuất bán một lứa khoảng 100 con; giá mỗi con chim ra ràng 75.000 đồng, cao hơn giá bán tại địa phương là 15.000 đồng/con. Trang trại hoạt động với số lượng xuất chuồng ổn định và tăng số lượng lên mỗi ngày. Trung bình mỗi tháng thu nhập 15 - 20 triệu đồng.

Về hướng phát triển, anh Tình cho hay: Tôi sẽ mở rộng thêm diện tích chăn nuôi, với số lượng 1.000 cặp chim bố mẹ, đồng thời vận động chia sẻ nhiều hộ cùng nhau nuôi, xây dựng thành chuỗi giá trị sản xuất, tạo đầu ra sản phẩm có giá trị cao hơn, đáp ứng nhu cầu thị trường tốt hơn.

LÊ VĂN XINH

 

Huyện Dầu Tiếng (Bình Dương): Chăn nuôi theo hình thức trang trại phát triển ổn định

 

Nguồn tin: Báo Bình Dương

Theo báo cáo của UBND huyện Dầu Tiếng (Bình Dương), đến nay toàn huyện có 253 trại chăn nuôi gia súc, gia cầm (124 trại gia cầm, 129 trại nuôi gia súc), duy trì sự ổn định so với cùng kỳ. Ước tổng đàn gia súc 215.770 con (tăng 3,9% so với cùng kỳ); đàn gia cầm 3,76 triệu con (tăng 2,7% so với cùng kỳ); diện tích nuôi trồng thủy sản khoảng 116.000m2. Trên địa bàn huyện có 11 hộ gia đình nuôi các loại động vật hoang dã với 1.674 con các loại (tăng 9% so với cùng kỳ).

Thời gian qua, huyện tập trung triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp kiểm soát, phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm, trong quý I-2024 không xảy ra dịch bệnh trên gia súc, gia cầm và thủy sản. Ngoài ra, lực lượng chức năng thường xuyên kiểm tra hoạt động kinh doanh, giết mổ, kiểm dịch, vận chuyển gia súc, gia cầm, sản phẩm động vật trên địa bàn.

TIẾN HẠNH

 

Tân Châu (Tây Ninh): Xây dựng vùng chăn nuôi an toàn dịch bệnh hướng đến xuất khẩu

 

Nguồn tin: Báo Tây Ninh

Hạt nhân trong việc xây dựng vùng chăn nuôi an toàn dịch bệnh đối với nhiều bệnh truyền nhiễm nguy hiểm chính là các cơ sở chăn nuôi.

Để ngành chăn nuôi phát triển bền vững, việc xây dựng các vùng chăn nuôi an toàn dịch bệnh, đáp ứng tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm, hướng tới mở rộng thị trường tiêu thụ và phục vụ xuất khẩu là hết sức cần thiết. Trong đó, hạt nhân trong việc xây dựng vùng chăn nuôi an toàn dịch bệnh đối với nhiều bệnh truyền nhiễm nguy hiểm chính là các cơ sở chăn nuôi.

Chủ động phòng bệnh

Nhiều năm gắn bó với nghề nuôi gà và chăn nuôi theo kiểu “gối đầu” nên chuồng trại của gia đình ông Nguyễn Văn Duy ở ấp Tân Lợi, xã Tân Phú, huyện Tân Châu (Tây Ninh) lúc nào cũng có hàng ngàn con gà. Vì vậy, việc phòng, chống dịch bệnh luôn được ông đặt lên hàng đầu và tuân thủ đúng quy trình. Ông Nguyễn Văn Duy cho biết, gia đình ông bắt đầu nuôi gà từ năm 2014, trải qua nhiều thăng trầm của nghề chăn nuôi, ông hiểu rõ, điều quan trọng nhất trong chăn nuôi chính là “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, nếu xảy ra dịch bệnh sẽ rất khó khống chế, thiệt hại vô cùng lớn.

Hiện tại, gia đình ông Duy đang có 3 trại nuôi gà theo kiểu bán công nghiệp, quy mô mỗi trại khoảng 3.000 con mỗi lứa. Nguồn con giống được ông lựa chọn nhập từ những trại lớn ở tỉnh Bình Phước, gà bố mẹ đã được tiêm vaccine đầy đủ, khả năng kháng bệnh của con giống cũng cao hơn. Gà con khi nhập về, ông cũng tiến hành tiêm ngừa đầy đủ các loại bệnh phổ biến, nhất là vaccine phòng bệnh cúm gia cầm. Bên cạnh đó, việc vệ sinh chuồng trại sạch sẽ là những biện pháp hàng đầu được gia đình ông thường xuyên thực hiện và mang lại nhiều hiệu quả trong phòng, chống dịch bệnh cho đàn gà.

“Điều quan trọng nhất trong nuôi gà là phải tiêm vaccine đầy đủ để tăng sức đề kháng cho vật nuôi. Đối với gà thịt, mình tuân thủ đúng quy trình, 3-7 ngày tuổi tiêm vaccine Lasota và Gumboro, 15 ngày tuổi tiêm vaccine lần 1 để phòng bệnh cúm gia cầm”- ông Duy chia sẻ.

Áp dụng các biện pháp an toàn sinh học

Chăn nuôi an toàn sinh học là việc thực hiện đồng bộ các biện pháp kỹ thuật, vệ sinh thú y nhằm ngăn ngừa và hạn chế sự lây nhiễm mầm bệnh xâm nhập từ bên ngoài và tiêu diệt mầm bệnh tồn tại bên trong cơ sở chăn nuôi; không để mầm bệnh lây lan giữa các khu vực chăn nuôi; đây là giải pháp tối ưu để phát triển chăn nuôi bền vững.

Nhờ làm tốt công tác phòng dịch mà những năm gần đây, huyện Tân Châu đã và đang thu hút nhiều dự án trang trại chăn nuôi gia cầm quy mô lớn. Các cơ sở chăn nuôi đã đầu tư chuồng trại rất hiện đại, khép kín, bảo đảm vệ sinh môi trường và phòng, chống dịch bệnh hiệu quả, vì vậy trong 2 năm qua trên địa bàn huyện không xuất hiện các ổ dịch trên đàn gia cầm.

Tại trang trại chăn nuôi gà của Công ty TNHH Sài Gòn Tây Ninh (ấp 5, xã Suối Dây, huyện Tân Châu) hiện đang nuôi khoảng 360.000 con gà theo hợp đồng gia công cho De Heus Việt Nam.

Ông Lý Văn Tâm- quản lý trang trại của Công ty TNHH Sài Gòn Tây Ninh cho biết, để đáp ứng yêu cầu của đối tác, ngoài việc tuân thủ quy trình tiêm vaccine ngừa các loại bệnh, công ty đã đầu tư, xây dựng hệ thống trang trại kiên cố, khép kín, hiện đại; tuân thủ những quy định chăn nuôi an toàn sinh học hết sức nghiêm ngặt, nhất là công tác tiêm phòng, vệ sinh chuồng trại được thực hiện thường xuyên; xây dựng hệ thống khử trùng các phương tiện và người ra vào trại.

Hình thành vùng chăn nuôi an toàn dịch bệnh

Theo Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh, đến nay, trên địa bàn tỉnh chỉ có huyện Dương Minh Châu được công nhận là vùng chăn nuôi an toàn dịch bệnh (ATDB) cúm gia cầm và bệnh Newcastle đối với gà. Theo kế hoạch, trong năm 2024, ngành Thú y tiếp tục triển khai xây dựng vùng chăn nuôi ATDB đối với bệnh cúm gia cầm và bệnh Newcastle trên gà tại huyện Tân Châu. Bên cạnh đó, mục tiêu đến cuối năm 2025, sẽ có thêm huyện Tân Biên được công nhận cơ sở chăn nuôi ATDB đối với bệnh cúm gia cầm và bệnh Newcastle.

Ông Dương Văn Phụng- Trưởng Trạm Chăn nuôi và Thú y huyện Tân Châu cho biết, tính đến hết quý I năm 2024, tổng đàn gia cầm của huyện khoảng 2.000.000 con. Trong đó, có 1.600.000 con (gà) tại 9 trang trại (chiếm khoảng 85% tổng đàn); 178.000 con (gà) tại 8 hộ chăn nuôi bán công nghiệp quy mô vừa và có 9 hộ chăn gia trại với tổng số khoảng 39.300 con (gồm gà, vịt, ngan) và 107.152 con được chăn nuôi nhỏ lẻ, nông hộ.

Từ năm 2023, ngành chăn nuôi huyện Tân Châu bắt đầu triển khai xây dựng cơ sở, vùng chăn nuôi ATDB đối với bệnh cúm gia cầm và bệnh Newcastle. Để được công nhận an toàn dịch bệnh, Trạm Chăn nuôi và Thú y huyện phối hợp với các địa phương triển khai các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học.

 

 

Trại của gia đình ông Nguyễn Văn Duy ở ấp Tân Lợi, xã Tân Phú, huyện Tân Châu.

Trong đó, khuyến khích người dân chuyển đổi từ chăn nuôi quy mô nhỏ lẻ sang quy mô trang trại, trang trại khép kín; áp dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp kỹ thuật trong chăn nuôi an toàn sinh học.

Bà Nguyễn Thị Hồng Loan- Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh cho biết, thời gian qua, Chi cục Chăn nuôi và Thú y đã phối hợp các địa phương, đơn vị liên quan triển khai hiệu quả các biện pháp thực hiện chăn nuôi an toàn sinh học, chủ động phòng, chống dịch bệnh cho vật nuôi. Nhờ vậy, tình hình dịch bệnh trên đàn vật nuôi cơ bản được kiểm soát khá tốt. Các bệnh dịch thông thường trên gia súc, gia cầm được phát hiện, xử lý kịp thời.

Tính đến cuối năm 2023, đàn gia cầm của tỉnh có khoảng 9 triệu con, sản lượng thịt đạt 49.000 tấn. Cơ cấu chăn nuôi tiếp tục chuyển dịch từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi quy mô trang trại tập trung hướng chăn nuôi an toàn sinh học. Tỉnh hiện có 107 trang trại chăn nuôi gia cầm (76 trang trại gà và 31 trang trại vịt) với tổng đàn 6,4 triệu con, tăng 40,8% số trang trại chăn nuôi gia cầm so với năm 2017. Trong đó, có 73 cơ sở chăn nuôi được cấp giấy chứng nhận VietGAHP; 1 vùng thuộc huyện Dương Minh Châu và 6 cơ sở cấp xã thuộc huyện Gò Dầu được chứng nhận an toàn dịch bệnh đối với bệnh cúm gia cầm và Newcastle trên gà; 74 cơ sở chăn nuôi khác được cấp giấy chứng nhận an toàn dịch bệnh.

Dự kiến đến năm 2025, tỉnh Tây Ninh sẽ hoàn thành xây dựng thêm vùng an toàn dịch bệnh (cúm gia cầm và Newcastle) trên gà tại 2 huyện Tân Biên và Tân Châu.

Nguyên An

 

Giá heo hơi tăng, nông dân vẫn thận trọng tái đàn

 

Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu

Giá heo hơi đang ở mức từ 60-63 ngàn đồng/kg, tăng so với năm 2023. Dù đã có lãi nhưng nông dân vẫn dè dặt khi tái đàn.

 

 

Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh khử khuẩn cho xe chở heo vào tỉnh.

Gia đình ông Nguyễn Thành Hải, xã Bình Trung, huyện Châu Đức (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) đang nuôi 60 heo nái và 400 heo thịt. Hơn 1 tháng nay heo hơi giá trở lại và đang ở mức 60-63 ngàn đồng/kg. “Với giá heo hơi như hiện nay, một con heo thịt xuất chuồng khoảng 100kg trừ chi phí còn lãi từ 700-800 ngàn đồng/con”, ông Hải cho hay.

Giá heo tăng, giá thức ăn chăn nuôi cũng được điều chỉnh giảm từ 300-400 đồng/kg vào những tháng đầu năm 2024. Đây được xem là cơ hội để người chăn nuôi heo trên địa bàn tỉnh tích lũy thêm lợi nhuận sau thời gian giá heo hơi liên tục xuống thấp. Tuy nhiên, thông tin từ các hộ chăn nuôi cho thấy, họ vẫn dè dặt và chưa vội tái đàn. Điều này không chỉ vì tâm lý e ngại, mà đó còn là kinh nghiệm của nhiều hộ chăn nuôi.

Bà Trần Thị Lý, xã Sơn Bình, huyện Châu Đức cho biết, hiện số heo nuôi mới chỉ đạt 50% so với trước đây, nhưng bà chưa dám tăng đàn vì còn lo giá heo hơi không ổn định và sợ gặp rủi ro dịch bệnh. Trong khi đó, lợi nhuận từ nuôi heo chưa thật sự hấp dẫn nên bà cũng như nhiều hộ nuôi heo khác trên địa bàn vẫn chưa dám tái đàn dù đã có sẵn chuồng trại.

Theo hệ thống quản lý thông tin dịch bệnh động vật Việt Nam, một số dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm vẫn còn diễn biến phức tạp tại các tỉnh, thành phố trên cả nước. Riêng tại Bà Rịa - Vũng Tàu, từ đầu năm 2024 đến nay đã ghi nhận 2 ổ dịch tả heo châu Phi với 69 con chết phải tiêu hủy.

Ông Bùi Quang Tuấn, Phó Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh cho biết, trước nguy cơ dịch bệnh trên gia súc, gia cầm vẫn còn phức tạp, người chăn nuôi cần thận trọng khi tái đàn. Bên cạnh đó, người nuôi cũng nên áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao hiệu quả, hạn chế dịch bệnh, đồng thời có kết nối các chuỗi chăn nuôi từ trang trại đến bàn ăn.

Bài, ảnh: SONG BÌNH - THỊNH ĐỨC MINH

 

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop