Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 17 tháng 6 năm 2024

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 17 tháng 6 năm 2024

 

Thái Bình: Nho sữa Hàn Quốc trên đất Tây Đô

 

Nguồn tin: Báo Thái Bình

Không phải đến Hàn Quốc xa xôi, ngay tại xã Tây Đô (Hưng Hà, Thái Bình) du khách có thể tham quan, chụp ảnh và trải nghiệm bên những chùm nho sai trĩu quả với hàng trăm gốc nho. Chỉ còn gần 2 tháng nữa các vườn nho ở Tây Đô sẽ cho thu hoạch lứa đầu tiên với giá bán 200.000 - 250.000 đồng/kg. Đây được xem là mô hình nông nghiệp công nghệ cao, mở ra triển vọng du lịch nông nghiệp trải nghiệm ngay tại các vùng quê, thúc đẩy phát triển kinh tế tại địa phương.

 

 

Trước kia, trên 1.200m2 đất chuyển đổi của gia đình ông Nguyễn Huy Xuân, thôn Nội Thôn chủ yếu trồng thanh long nhưng do không phù hợp với chất đất nên hiệu quả kinh tế không cao. Đầu năm 2023, sau nhiều lần tìm hiểu thông tin trên mạng, báo chí, ông đã mạnh dạn đầu tư hơn 200 triệu đồng chuyển đổi từ cây thanh long sang trồng gần 100 gốc nho sữa với quyết tâm “chinh phục” giống cây mới này.

Ông Nguyễn Huy Xuân cho biết: Loại nho này cho quả to, tròn, vỏ màu xanh mướt, khi chín có vị ngọt đậm, pha chút ngậy béo, thơm mùi sữa. Vài năm trở lại đây, nho sữa được bày bán khá nhiều tại các cửa hàng hoa quả nhập khẩu nên gia đình tôi đã quyết định nhân rộng giống nho mới này để phục vụ người tiêu dùng với giá cả hợp lý, thấp hơn so với giá nho nhập khẩu.

Theo ông Xuân, nho sữa Hàn Quốc còn được gọi là nho “quý tộc” vì giống nho này rất đắt và khó chăm sóc. Ngoài xây hệ thống nhà giàn, hệ thống tưới tự động thì việc cắt tỉa lá, cành cũng là yếu tố quyết định đến chất lượng quả. Hiện những gốc nho của ông Xuân chỉ còn gần 2 tháng nữa sẽ cho thu hoạch, trung bình mỗi chùm nho khi chín có trọng lượng từ 600 - 700g, giá bán 200.000 - 250.000 đồng/kg.

Ông Xuân cho biết thêm: Đến thời điểm này, tôi không phải lo lắng đầu ra cho sản phẩm bởi nhu cầu thị trường khá cao. Ngoài xuất cho các mối buôn, cửa hàng hoa quả sạch, tôi sẽ mở cửa đón khách tham quan, mua sản phẩm ngay tại vườn.

Cũng giống như ông Xuân, đầu năm 2022, ông Nguyễn Văn Phi, thôn Nội Thôn bước đầu thí điểm 1.400m2 diện tích đất ruộng trồng 600 gốc nho sữa Hàn Quốc và nho tím. Để cây nho phát triển tốt, ông Phi đã đầu tư hệ thống tưới nước tự động phun sương và nhỏ giọt kết nối với điện thoại di động qua phần mềm chuyên dùng để điều khiển từ xa. Đồng thời, bên trên ông làm mái vòm nilon trong suốt, bên dưới sử dụng bạt đen che toàn bộ phần gốc cây với chi phí ban đầu hơn 600 triệu đồng. Toàn bộ quá trình canh tác được kiểm soát chặt chẽ, hạn chế tối đa sử dụng thuốc trừ sâu và phân bón hóa học.

Ông Phi chia sẻ: Tôi tự tìm hiểu quy trình làm vườn, kỹ thuật trồng và chăm sóc cây để cây cho ra nhiều hoa và đậu quả trên các phương tiện thông tin đại chúng để áp dụng vào mô hình của mình... Để cây ra nhiều quả to, chùm đẹp và đều, khi nho ra quả non phải tỉa bớt quả, tạo hình cho chùm. Đây là vụ đầu tiên nho ra quả nhưng hứa hẹn một vụ nho giành thắng lợi.

Không chỉ trồng nho sữa, ông Phi còn kết hợp trồng gần 100 gốc nho tím. Để quảng bá cho sản phẩm, ông Phi tích cực ứng dụng công nghệ thông tin đưa hình ảnh vườn nho lên các trang mạng xã hội như: facebook, zalo... Hiện tại, gia đình ông đang kết nối với hệ thống các siêu thị tại Hà Nội và các cửa hàng hoa quả sạch để bao tiêu sản phẩm. Thời gian tới, gia đình ông Phi sẽ tiếp tục mở rộng thêm 3 sào ruộng để trồng nho sữa Hàn Quốc kết hợp với làm du dịch sinh thái nhằm thu hút khách tham quan, trải nghiệm ngay tại vườn.

Ông Nguyễn Xuân Oanh, Chủ tịch Hội Nông dân xã Tây Đô cho biết: Hội Nông dân xã đã đứng ra tín chấp với các ngân hàng tạo điều kiện cho các hội viên vay vốn có thêm kinh phí để mở rộng sản xuất. Qua đánh giá bước đầu cho thấy 2 giống nho có nhiều triển vọng để phát triển và nhân rộng mô hình nhằm đa dạng các loại cây trồng tại địa phương, hướng đến xây dựng mô hình du lịch sinh thái nông nghiệp ngay tại quê hương. Đồng thời là địa điểm hấp dẫn để bà con nông dân trên địa bàn huyện, xã đến tham quan, học hỏi để áp dụng sản xuất.

Lựa chọn các cây trồng có giá trị kinh tế cao, nâng cao thu nhập cho nông dân là chủ trương được huyện Hưng Hà quan tâm đầu tư, khuyến khích. Việc đưa vào gieo trồng giống nho sữa Hàn Quốc tại xã Tây Đô đang cho “kết quả kép” - đó là hướng đến nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, đồng thời thúc đẩy phát triển du lịch ngay trên đồng đất quê hương.

Thanh Thủy

 

Vĩnh Long: Vú sữa hoàng kim được giá

 

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

Nhà vườn tại huyện Bình Tân (Vĩnh Long) cho biết, hiện vú sữa Hoàng Kim đang được thương lái thu mua tại vườn với giá từ 35.000-40.000 đ/kg.

Vú sữa Hoàng Kim khi trái còn non có màu xanh, khi chín thì ngả màu vàng tươi. Cây được trồng bằng phương pháp ươm hạt, chiết và ghép; nếu trồng bằng hạt, sau 3 năm bắt đầu cho quả, còn nếu trồng từ chiết, ghép thì sau 2 năm vú sữa Hoàng Kim sẽ cho trái.

Không giống các loại vú sữa khác mỗi năm chỉ cho trái 1 vụ, vú sữa Hoàng Kim cho trái quanh năm, ít tốn công chăm sóc và sâu bệnh. Mỗi năm cho thu hoạch 3 đợt, mỗi đợt kéo dài gần 1 tháng, cây càng lớn sẽ cho năng suất càng cao, trung bình đối với cây 3 năm tuổi mỗi đợt cho từ 40-50 trái, tương đương từ 10-12kg.

Tại huyện Bình Tân, vú sữa Hoàng Kim được trồng nhiều tại xã Nguyễn Văn Thảnh. Địa phương này cũng đã thành lập được HTX Sản xuất dịch vụ Thanh Bình, chuyên sản xuất và cung cấp vú sữa Hoàng Kim. Sản phẩm cũng được UBND huyện Bình Tân công nhận đạt OCOP 3 sao vào cuối năm 2023.

TRUNG THÀNH

 

Bến Tre: Tín hiệu lạc quan thị trường cây giống Chợ Lách

 

Nguồn tin: Báo Đồng Khởi

Sau tình hình căng thẳng của biến đổi khí hậu (BĐKH) và hạn mặn gay gắt, thị trường tiêu thụ cây giống trên địa bàn huyện Chợ Lách diễn ra đầy biến động cũng như thay đổi đáng kể. Từ đó, người dân địa phương đã tập trung cao độ trong việc sản xuất và kinh doanh cây giống để đáp ứng tương thích chất lượng trên thị trường tiêu thụ.

 

 

Ông Trần Thanh Thanh đang tưới nước mít giống cam đào Thanh Thanh ruột đỏ.

Hút hàng và tăng giá

TS. Bùi Thanh Liêm - Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Chợ Lách cho biết: Năm 2024, người dân trên địa huyện sản xuất ước tính từ 35 - 37 triệu cây giống các loại. Hiện tại, thị trường tiêu thị sản phẩm cây giống rất sôi động, chủ lực là sầu riêng, mít. Thời gian qua, người dân địa phương đã triển khai tốt công tác ứng phó cùng hạn mặn nên không có thiệt hại nghiêm trọng trong sản xuất. Hướng tới, huyện tiếp tục tuyên truyền và hướng dẫn người dân chuyên sản xuất, kinh doanh cây giống về giải pháp ngặn mặn cũng như trữ ngọt, che nắng và kỹ thuật sản xuất thích ứng với BĐKH.

Ông Trần Thanh Thanh (Tư Thanh), 56 tuổi, chủ Doanh nghiệp tư nhân cây trồng và hoa kiểng Thanh Thanh (ấp Hưng Nhơn, xã Hòa Nghĩa) cho biết: “Hơn 30 năm, tôi gắn bó công việc sản xuất cây giống cung ứng cho thị trường tiêu thụ trong và ngoài tỉnh. Hiện tại, chi phí đầu tư về nguồn nhiên liệu ban đầu trong việc sản xuất cây giống tăng từ 10 - 20 ngàn đồng/cây cũng như việc ảnh hưởng của BĐKH nên giá bán các loại cây giống tăng từ 20 - 30% so với cùng kỳ”.

Theo ông Tư Thanh, trong thời điểm hiện tại, gia đình sản xuất 5 loại cây giống chủ lực như: mít ruột đỏ (Indo và cam đào Thanh Thanh), Thái ruột vàng, với sản lượng trung bình 100 ngàn cây/năm; sầu riêng, từ 5 - 6 ngàn cây/năm; ổi Ruby, hơn 10 ngàn cây/năm; tắc (hạnh), chanh bông tím và xoài Đài Loan đưa người khác gia công (từ 5 - 6 ngàn cây/năm, giá bán từ 25 - 30 ngàn đồng/cây). Dự đoán tình hình giá cây giống còn tăng mạnh trong 2 năm tới, bởi những khó khăn trong việc đầu tư sản xuất cây giống của nguời dân địa phương.

Hiện tại, ông Tư Thanh đang có vườn cây đầu dòng được Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh cấp chứng nhận cho hơn 40 loại cây trồng để sản xuất giống. Giá bán mít Thái từ 25 - 35 ngàn đồng/cây; mít Indo từ 25 - 60 ngàn đồng/cây; mít cam đào Thanh Thanh 60 ngàn đồng/cây, trước kia thì giá bán 70 ngàn đồng/cây. Sầu riêng từ 100 - 180 ngàn đồng/cây. Ổi Ruby hơn 20 ngàn đồng/cây. Hạnh từ 20 - 30 ngàn đồng/cây. Chanh bông tím hơn 20 ngàn đồng/cây. TP. Cần Thơ và các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long như: An Giang, Đồng Tháp, Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long là những thị trường tiêu thụ cây giống chủ yếu của gia đình ông Tư Thanh.

Tập trung sản xuất

Ông Đặng Văn Mi (Năm Mi), 46 tuổi, ngụ tại ấp Tân An, xã Long Thới, chủ chuỗi Cơ sở sản xuất cây giống Năm Mi chia sẻ: “Tôi gắn bó công việc sản xuất cây giống được 30 năm, có 4 cơ sở chuyên dụng trong sản xuất, kinh doanh cây giống tại xã Long Thới. Trung bình sản lượng sản xuất hơn 200 ngàn sản phẩm/năm như: chôm chôm, dừa, mít, sầu riêng và kinh doanh trên 1 ngàn cây giống nhập ngoại trong mỗi năm. Hiện tại, sầu riêng là cây giống chủ lực gia đình sản xuất (tầm 100 ngàn cây/năm và giá bán từ 90 - 150 ngàn đồng/cây). Sản lượng cây giống được thị trường tiêu thụ rất lớn so với cùng kỳ theo quy luật “cung không đủ cầu” do nguồn nguyên liệu ban đầu bị khan hiếm, ảnh hưởng của tình hình BĐKH và hạn mặn”.

Theo ông Năm Mi, giai đoạn hạn mặn 2023 - 2024, gia đình phải mua nguồn nước ngọt hơn 100 triệu đồng về tưới cho cây giống bên cạnh đã trang bị ao chứa nước ngọt (thể tích chứa 100 ngàn mét khối) để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Hiện tại, giá bán cây giống khá cao nhưng người dân luôn sản xuất rất ý thức cùng việc lấy mắt ghép thì vườn cây đầu dòng, góp phần nâng chất cho sản phẩm cây giống cung ứng cho thị trường tiêu thụ. Hướng tới, ông sẽ tìm kiếm những nơi đất không nhiễm mặn và lượng dinh dưỡng đất còn tự nhiên, đủ đầy như An Giang hay Đồng Tháp để thuê mướn triển khai giâm hay ươm cây phôi để mang về cơ sở tiến hành ghép để sản xuất cây giống hoàn chỉnh.

Hơn 2 năm trước, Cơ sở sản xuất cây giống Năm Mi chủ yếu cung ứng sản phẩm cây giống nội và ngoại nhập cho thị trường tiêu thụ tại Hà Nội. Khoảng 2 năm gần đây, ông cung ứng cho thị trường tiêu thụ tại các tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Năm nay, cơ sở vươn xa xuất khẩu cây giống sang thị trường ngoài nước như: Campuchia, Lào và Trung Quốc.

Theo người dân huyện Chợ Lách, việc sản xuất cây giống ngày càng gặp nhiều khó khăn. Năm nay, cây giống sầu riêng đã xuất hiện hiện tượng cháy lá gây ra khó khăn cho người dân chuyên sản xuất cây giống ở địa phương. Hiện nay, người dân chuyên sản xuất, kinh doanh cây giống phải nghiên cứu, nhân tạo những loại giống mới theo kiểu độc và lạ theo yêu cầu của thị trường tiêu thụ. Có quy trình sản xuất cụ thể, truy xuất nguồn gốc sản phẩm rõ ràng cũng như hạn sử dụng cho cây giống đã sản xuất.

Bài, ảnh: Lê Đệ

 

Tập trung khôi phục các vườn cây ăn trái sau hạn, mặn

 

Nguồn tin: Báo Long An

Tình trạng hạn, mặn kéo dài trong mùa khô 2023-2024 đã ảnh hưởng rất lớn đến diện tích cây ăn trái trên địa bàn tỉnh Long An. Nhiều diện tích đã bị suy kiệt, héo lá. Vì vậy, khi mưa xuống, nông dân khẩn trương xử lý và chăm sóc để vườn cây sớm phục hồi.

 

 

Nông dân cần bón thêm vôi để giúp cây chống chịu với phèn

Cắt cỏ trong vườn, xả phèn trong mương nước, rải vôi, bón phân hữu cơ kích thích ra rễ, phun thuốc phòng trừ dịch bệnh,... là các biện pháp được ông Nguyễn Minh Trường (xã Thạnh Hòa, huyện Bến Lức) thực hiện sau khi vườn chanh 1ha của ông đón được những cơn mưa đầu mùa. Nhờ tích cực chăm sóc nên những cây chanh bị ảnh hưởng nhẹ đã đâm chồi, xanh tươi trở lại. Tuy nhiên, trong vườn có vài chục gốc chanh khoảng 4-5 năm tuổi, sức chống chịu hạn chế, cây bị suy kiệt nhiều, khả năng phục hồi kém cần phải phá bỏ và trồng lại mới.

Ông Trường chia sẻ: “Ước tính chi phí phục hồi vườn cây và xử lý cho đợt trái mới, nuôi dưỡng đợt trái cũ lên đến 50 triệu đồng thay vì 30 triệu đồng như mọi năm. Mặc dù tốn kém gần gấp đôi nhưng sản lượng thu được của vườn chanh chỉ từ 20-30% so với vụ trước hạn, mặn”.

Anh Nguyễn Minh Tâm (xã Thạnh Hòa, huyện Bến Lức) cho biết: “Nhờ vườn chanh của tôi mới 2 năm tuổi, sức chống chịu còn cao, cộng với được tập trung chăm sóc kịp thời nên không bị ảnh hưởng nặng. Hiện 120 gốc chanh của gia đình tôi đã lấy lại sức sống và phát triển tốt”.

Thông tin từ Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện Bến Lức, thời điểm này, những trái chanh neo trên cây trong mùa khô hạn vừa qua đã phát triển trở lại và chuẩn bị cho thu hoạch. Tuy nhiên, năng suất và chất lượng giảm khoảng 20-40%. Giá chanh cũng đang ở mức thấp làm cho nông dân gặp nhiều khó khăn.

Toàn huyện có gần 1.500ha chanh có khả năng giảm năng suất do ảnh hưởng của hạn, mặn. Ngoài sự chủ động của người dân, các cơ quan chuyên môn cũng đẩy mạnh tuyên truyền đến hộ dân về kỹ thuật chăm sóc vườn cây sau hạn, mặn để giảm thiểu tối đa thiệt hại.

Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện Bến Lức - Nguyễn Văn Cơ khuyến cáo: “Khi xảy ra mưa to, nông dân không nên trữ nước ở trong các mương nước, phèn trong đất nhiều khả năng cao sẽ được phóng thích hòa lẫn vào nước trong các mương vườn. Đồng thời, tại những khu vực mà trước đây người dân sử dụng nước nhiễm mặn thấp để tưới thì lượng muối còn nằm ở trên tầng đất mặt nên khi mưa xuống, lượng muối đó sẽ theo nước mưa chảy xuống những kênh, mương, nông dân cần chủ động thoát lượng nước này ra. Ngoài ra, nông dân cũng cần bón vôi, phân hữu cơ để vừa cung cấp dinh dưỡng, vừa cải tạo đất”.

Sau thời gian dài chịu ảnh hưởng bất lợi từ hạn, mặn, nông dân hiện bắt tay khôi phục vườn cây ăn trái. Cùng với hy vọng về một mùa vụ mới, nông dân vẫn còn đó những nỗi lo về biến đổi khí hậu và biến động thị trường. Để nông dân an tâm sản xuất và thích ứng tốt hơn vào những mùa hạn, mặn tiếp theo, chính quyền địa phương và ngành chức năng cần có những giải pháp căn cơ, lâu dài, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng địa phương./.

Minh Tuệ

 

Nơi gieo trồng ‘rau tử tế’ cho sức khỏe cộng đồng

 

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Nằm giữa những cánh đồng rau xanh mướt tại thôn Hiệp Thuận, xã Ninh Gia, huyện Đức Trọng (tỉnh Lâm Đồng), vườn rau Phước Linh như một điểm sáng trong bức tranh nông nghiệp đầy sắc màu huyện Đức Trọng, nơi vun đắp cho "rau tử tế" - những sản phẩm hữu cơ an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng.

 

 

Anh Trần Phước Linh đang chăm sóc vườn rau

TỪ BỎ NGHỀ BUÔN RAU, DẤN THÂN VÀO HÀNH TRÌNH "RAU SẠCH"

Anh Trần Phước Linh, chủ nhân của vườn rau Phước Linh, vốn là kỹ sư công nghệ sinh học tốt nghiệp Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh. Ra trường năm 2006, anh Linh làm nhiều công việc khác nhau, từ nhân viên nhà nước; quản đốc công ty nông nghiệp tư nhân, rồi thương lái rau, củ với khoảng 30 công nhân, chuyển 5 đến 7 tấn rau mỗi ngày đi các chợ đầu mối Thủ Đức, Hóc Môn, Đà Nẵng... nhưng anh quyết định bỏ nghề buôn rau, thuê 5 ha đất để trồng rau thông thường. Và cũng chính trong quá trình làm việc, chứng kiến thực trạng "được mùa mất giá, được giá mất mùa" cùng những ảnh hưởng tiêu cực của việc sử dụng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật, anh nung nấu ý chí mang đến cho người tiêu dùng những sản phẩm rau an toàn, chất lượng.

Sau khi nghiên cứu thị trường, anh Linh đã bàn bạc với gia đình, quyết định sản xuất rau hữu cơ, cung cấp sản phẩm sạch đến người tiêu dùng. Thời gian đầu, sản phẩm rau hữu cơ làm ra, vợ chồng anh chỉ bán ở chợ xã Ninh Gia, mỗi ngày bán được khoảng 5 kg rau, với giá bán 20 -25 ngàn đồng/kg, bằng giá rau thông thường nhưng người dân vẫn không mua với lý do sản phẩm không đẹp bằng các quầy bên cạnh. Không nản lòng, anh Linh đã rao bán các sản phẩm trên mạng xã hội facebook và zalo. Đồng thời, mạnh dạn đăng ký giấy phép kinh doanh để có tư cách pháp nhân, thực hiện nghĩa vụ đóng thuế với Nhà nước và đăng ký sản xuất rau hữu cơ để được cấp giấy chứng nhận.

CHỨNG NHẬN HỮU CƠ VÀ NIỀM TIN CỦA KHÁCH HÀNG

Anh Linh đã mất một thời gian khá dài để cải tạo đất và thuê thêm những mảnh đất biệt lập, cách xa những vườn rau thông thường của bà con địa phương để không bị ảnh hưởng hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật tác động đến vườn của mình. Xung quanh vườn, anh trồng chuối để làm hàng rào, làm vật cản tác động từ bên ngoài đến vườn rau.

Nỗ lực của anh Linh được đền đáp xứng đáng khi vào năm 2023, vườn rau Phước Linh nhận được chứng nhận sản phẩm đạt tiêu chuẩn Việt Nam về nông nghiệp hữu cơ của Trung tâm Giám định và Chứng nhận hợp chuẩn hợp quy (VietCert Lâm Đồng).

Tiếng lành đồn xa, sản phẩm rau hữu cơ của vườn rau Phước Linh dần được người tiêu dùng tin tưởng. Khách hàng từ khắp các tỉnh, thành từ Đà Nẵng đến TP Hồ Chí Minh thường xuyên đặt mua sản phẩm qua mạng xã hội. Để đảm bảo chất lượng rau tươi ngon khi đến tay khách hàng, anh Linh đã xây dựng hệ thống vận chuyển chuyên nghiệp. Hàng ngày, khách hàng theo dõi các loại sản phẩm anh bán trên trang mạng xã hội để đặt mua. Anh phân công 3 nhân viên chuyên nhận tin nhắn, lên đơn; hơn 10 công nhân sản xuất và đóng gói sản phẩm để gửi xe khách, xe tải; khi hàng đến bến xe các tỉnh có xe ôm Grab nhận hàng, kịp thời giao đến tay người tiêu dùng; quá trình vận chuyển trong đêm chỉ từ 6 đến 10 tiếng đồng hồ nên khi đến tay người tiêu dùng sản phẩm còn tươi, đẹp, đảm bảo chất lượng.

Hiện, mỗi tháng gia đình anh cung cấp ra thị trường khoảng 5 - 9 tấn rau, giá bán trung bình từ 35 đến 50 ngàn đồng/kg, sau khi trừ chi phí thuê công nhân, mỗi tháng gia đình anh Linh thu lãi vài chục triệu đồng.

Với phương châm "Trung thực, đạo đức, dịch vụ tốt sẽ là chìa khóa dẫn đến thành công", vườn rau Phước Linh không chỉ mang đến sản phẩm chất lượng mà còn tạo dựng niềm tin với khách hàng bởi sự nhiệt tình, chu đáo trong phục vụ. Nhờ vậy, vườn rau Phước Linh đã tạo việc làm ổn định cho 20 công nhân với mức thu nhập từ 10 - 12 triệu đồng/người/tháng, góp phần cải thiện đời sống cho người lao động địa phương.

Vườn rau Phước Linh là minh chứng cho niềm đam mê, tâm huyết và trách nhiệm của những người nông dân trong hành trình mang đến cho cộng đồng những sản phẩm an toàn, góp phần bảo vệ sức khỏe và môi trường. Mô hình của gia đình anh Linh là nguồn cảm hứng cho những ai đang mong muốn phát triển nông nghiệp bền vững, hướng đến tương lai xanh cho chính bản thân và cho thế hệ mai sau.

NHẬT MINH

 

Làm giàu từ cây hồ tiêu

 

Nguồn tin: Báo Bình Định

Dám nghĩ, dám làm, chủ động nghiên cứu thị trường, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, anh Nguyễn Công Chương (SN 1994, ở thôn An Thường 1, xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định) đã vươn lên làm giàu ngay trên chính mảnh đất quê hương từ nghề trồng hồ tiêu.

Năm 2015, anh Chương tốt nghiệp khoa Cơ khí (Trường CĐ Công nghệ, ĐH Đà Nẵng), sau đó qua Indonesia làm nghề cơ khí, với mức lương trên 25 triệu đồng/tháng. Với khao khát muốn làm giàu trên mảnh đất quê hương, năm 2016, anh xin nghỉ việc về quê khởi nghiệp, được cha mẹ ủng hộ. Trên mảnh đất đồi gần 3 ha của gia đình, anh đầu tư gần 250 triệu đồng từ số tiền tiết kiệm để làm 300 trụ, san lấp mặt bằng gần 7.000 m2 đất, mua cây giống hồ tiêu ở Gia Lai về trồng thử nghiệm. Là “tay ngang”, chưa có kinh nghiệm trồng trọt nên những năm đầu anh gặp nhiều khó khăn, cây tiêu thường bị bệnh vàng lá, khảm và xoăn lá, năng suất thấp.

 

 

Anh Nguyễn Công Chương sử dụng máy tuốt hạt để phân loại tiêu. Ảnh: D.Đ

Anh Chương chịu khó học hỏi kinh nghiệm từ các mô hình trồng tiêu tại huyện Hoài Ân, TX Hoài Nhơn, chủ động áp dụng các tiến bộ KHKT vào quá trình trồng và chăm sóc cây, nên năng suất dần được tăng lên. Anh Chương lý giải: “Ngoài chọn được giống tốt còn phải biết làm đất, thoát nước; bởi cây hồ tiêu rất khó tính, “nắng quá không ưa, mưa không thích””.

Nhận thấy cây hồ tiêu có tiềm năng rất lớn, năm 2017, anh Chương mạnh dạn vay vốn từ Ngân hàng CSXH, mượn từ người thân, bạn bè để đầu tư trồng thêm 1.200 trụ tiêu, nâng tổng số lên 1.500 trụ. Đến nay, có gần 1.300 trụ đã cho thu hoạch, năng suất bình quân đạt 3 - 3,5 tấn/ha/mùa. Với giá tiêu gần 150 nghìn đồng/kg, sau khi trừ chi phí, bình quân mỗi năm anh thu lãi hơn 250 triệu đồng.

Bên cạnh việc trồng tiêu hiệu quả, anh Chương còn mở cơ sở cơ khí tại xã, tạo việc làm cho 2 lao động ở địa phương với mức thu nhập 4 - 6 triệu đồng/người/tháng. Cơ sở cho thu nhập trên 80 triệu đồng/năm.

Anh Chương chia sẻ: “Tháng 5.2024, sản phẩm Hạt tiêu đen Ân Thạnh của tôi được UBND huyện Hoài Ân công nhận đạt chuẩn OCOP 3 sao. Thời gian tới, tôi sẽ tập trung sản xuất thêm một số sản phẩm mới, như bột tiêu đen, bột tiêu xanh, nước sốt tiêu xanh, muối tiêu lá chanh... từng bước xây dựng sản phẩm đặc trưng, tiêu biểu, nâng cao giá trị nông sản của địa phương”.

DUY ĐĂNG

 

Giá tăng cao, hồ tiêu tái khẳng định vị thế

 

Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu

Với đà tăng giá như thời gian qua, hồ tiêu đang tái khẳng định vị thế là cây trồng chủ lực của Bà Rịa-Vũng Tàu.

 

 

Nông dân Châu Đức chăm sóc tiêu.

Đầu tư tăng năng suất, chất lượng

Vụ tiêu năm nay, ông Hoàng Văn Quân (ấp Phú Tài, xã Hòa Hiệp, huyện Xuyên Mộc) thu hoạch được 10 tấn tiêu, giảm 3 tấn so với năm ngoái, nhưng vẫn lãi khá vì giá tiêu tăng cao. Thời điểm cách đây khoảng 1 tháng, giá bán 100 ngàn đồng/kg, sau khi trừ chi phí, ông thu lãi 400-500 triệu đồng, mức lãi sau hơn 5 năm ông mới có được.

“Giá tiêu tăng từng ngày và đã lên mức 180 ngàn đồng/kg. Tôi tiếc là không còn tiêu để bán. Tuy nhiên, đây là động lực để tôi mạnh dạn đầu tư, chăm sóc cho vườn tiêu đạt kết quả những vụ tiếp theo”, ông Quân bày tỏ.

Kết thúc vụ tiêu với lợi nhuận khá cao, bà Nguyễn Thị Thùy Trang (ở xã Hòa Hiệp, huyện Xuyên Mộc) không mở rộng diện tích mà tập trung chăm sóc vườn tiêu hiện hữu rộng 4,3ha. Theo bà Trang, giá tiêu đang ở mức cao nhất trong vòng 7 năm trở lại đây giúp người trồng có nguồn thu nhập khá. "Đây cũng là lúc tôi đầu tư chăm sóc vườn để cây phát triển và đạt năng suất ở những vụ sau", bà Trang nói.

Theo ngành nông nghiệp, toàn tỉnh có hơn 10.500ha hồ tiêu, hầu hết là diện tích đang trong giai đoạn kinh doanh, tập trung chủ yếu tại các huyện Châu Đức, Xuyên Mộc.

Tình trạng ồ ạt trồng tiêu khi giá tăng cao không còn, thay vào đó, nông dân tập trung chăm sóc, cải tạo vườn cây tốt hơn. Một số hộ trồng mới trên diện tích cây chết, già cỗi và canh tác theo hướng hữu cơ để phát triển bền vững.

Phát triển cây hồ tiêu bền vững

Ông Lâm Ngọc Nhâm, Chủ tịch Hội Hồ tiêu tỉnh cho biết, tiêu là một trong các loại cây trồng chủ lực mang lại hiệu quả kinh tế cho nông dân trong tỉnh. Hạt tiêu Bà Rịa-Vũng Tàu đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH-CN) cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm hạt tiêu đen. Đây là động lực để tiêu của Bà Rịa-Vũng Tàu khẳng định vị thế ở thị trường trong và ngoài nước.

Vì vậy, để cây tiêu phát triển bền vững, không lâm vào cảnh chặt-trồng, trồng-chặt khi giá tiêu “nhảy múa” cần có hướng phát triển đúng và đảm bảo tính bền vững. Trước tiên phải quy hoạch và tập trung vào vùng trồng có lợi thế cho cây tiêu phát triển, giảm diện tích ở những nơi không phù hợp. Bên cạnh đó, tiêu không chỉ là cây gia vị còn là cây dược liệu, vì vậy cần nâng cao chất lượng, chuyển chế biến thô sang chế biến sâu.

“Hội Hồ tiêu tỉnh thường xuyên tuyên truyền, vận động nông dân khi trồng mới phải lựa chọn những loại giống phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng từng vùng; canh tác theo hướng hữu cơ, ứng dụng khoa học công nghệ trong canh tác để nâng cao giá trị hạt tiêu. Hội cũng tăng cường kết nối với các DN thu mua, cơ sở cung cấp phân bón liên kết với người dân xây dựng các mô hình trình diễn sản xuất hồ tiêu theo hướng hữu cơ, sạch, an toàn nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế”, ông Nhâm chia sẻ.

Hiện nay, ngành NN-PTNT tỉnh đang rà soát quy hoạch phát triển ngành nông nghiệp đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030, trong đó có ngành hồ tiêu. Đây được xem là cơ sở quan trọng trong chiến lược phát triển cây tiêu của tỉnh. Tỉnh cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các DN trực tiếp tham gia vào chuỗi liên kết sản xuất hồ tiêu. Đồng thời, giữ vững và phát triển “Nhãn hiệu chứng nhận và Chỉ dẫn địa lý hiệu hồ tiêu Bà Rịa-Vũng Tàu” đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp bản quyền; mở rộng tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm; từng bước hình thành vùng trồng tiêu theo hướng hữu cơ.

Bài, ảnh: SONG BÌNH

 

Thái Nguyên hướng tới phát triển nông nghiệp xanh

 

Nguồn tin:  Báo Chính Phủ

Tỉnh Thái Nguyên hướng tới đẩy mạnh thực hiện phát triển chăn nuôi theo hướng "tăng trưởng xanh", nhằm đảm bảo sự bền vững, hiệu quả trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp, góp phần quan trọng bảo vệ môi trường và gia tăng giá trị kinh tế trong chăn nuôi.

 

 

Mô hình chăn nuôi gà tại huyện Đông Hỷ, tỉnh Thái Nguyên - Ảnh: VGP/Nguyên Khải

Chăn nuôi phát triển theo hướng tích cực

Theo Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh Thái Nguyên, hiện nay tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh đang phát triển tích cực theo hướng chăn nuôi quy mô trang trại phát triển nhanh, thay thế dần chăn nuôi nhỏ lẻ ở các hộ gia đình. Với việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và tiến bộ kỹ thuật, xây dựng chuỗi liên kết giá trị trong chăn nuôi đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa, mang lại hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi.

Giá trị sản xuất chăn nuôi năm 2024 của tỉnh ước đạt 7.497 tỷ đồng; tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 222.850 tấn; sản lượng trứng gia cầm 465 triệu quả. Tổng đàn trâu, đàn bò 95.000 con; lợn 600.000 con, gia cầm 16 triệu con. Trong đó, đàn lợn ngoại, lợn lai năng suất, chất lượng đạt 76% tổng đàn; đàn gà lông màu có chất lượng đạt 87% tổng đàn. Quy mô chăn nuôi trang trại chiếm 46% tổng đàn; cơ sở chăn nuôi lợn gà an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm chiếm trên 65% so với tổng đàn.

Đến nay, tỉnh Thái Nguyên có 74 hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất chăn nuôi, 9 doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi, 30 doanh nghiệp, công ty liên doanh, liên kết chăn nuôi chuỗi thịt lợn, gà.

Thái Nguyên cũng đang duy trì hoạt động 20 chuỗi liên kết sản xuất-giết mổ, chế biến-tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi như: Chuỗi sản xuất chăn nuôi gắn với giết mổ của Công ty Vinatuco Việt Nam trong cung ứng con giống, thức ăn cho các trang trại chăn nuôi trên địa bàn tỉnh và thu mua lợn giết mổ, tiêu thụ sản phẩm; chuỗi sản xuất chăn nuôi gắn với giết mổ của Công ty TNHH Dũng Minh và Công ty TNHH Hương Nguyên Thịnh trong cung ứng thức ăn, thuốc thú y cho các trang trại chăn nuôi trên địa bàn tỉnh và thu mua lợn giết mổ, tiêu thụ sản phẩm…

Triển khai thực hiện Đề án xây dựng và quản lý hệ thống giết mổ gia súc, gia cầm, tỉnh đã xây dựng và duy trì kiểm soát giết mổ tại 9 cơ sở giết mổ để cung cấp sản phẩm thịt lợn, thịt gà cho các siêu thị, bếp ăn tập thể, chợ kinh doanh sản phẩm động vật; các địa phương đã xây dựng kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất để thu hút các doanh nghiệp đầu tư.

Hướng tới tăng trưởng xanh trong chăn nuôi, thú y

Thực hiện cơ cấu lại ngành chăn nuôi theo hướng tăng trưởng xanh; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất thể hiện bằng giá trị, lợi nhuận; nâng cao lợi thế cạnh tranh của các ngành hàng, Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh Thái Nguyên đã chủ động xây dựng kế hoạch và từng bước triển khai thực hiện hành động tăng trưởng xanh với những giải pháp phù hợp.

Trong đó, tỉnh tập trung đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm về tăng trưởng xanh trong hoạt động chăn nuôi, thú y, thủy sản của người sản xuất, kinh doanh, thay đổi hành vi của người tiêu dùng và sử dụng tài nguyên theo lối sống xanh, bền vững. Đa dạng hóa các phương thức truyền thông; trong đó nâng cao nhận thức và hiểu biết của các bên liên quan thông qua các cuộc đối thoại chính sách về tăng trưởng xanh, chuyển đổi hệ thống chăn nuôi tuần hoàn-carbon thấp.

Hướng tới phát triển sản xuất chăn nuôi, thủy sản xanh-sạch-an toàn-bền vững, về chăn nuôi, Thái Nguyên thực hiện chuyển đổi phương thức chăn nuôi quy mô nhỏ, phân tán sang chăn nuôi trang trại, hình thành vùng chăn nuôi trọng điểm gắn với bảo vệ môi trường, an toàn sinh học và ứng dụng công nghệ.

Tất cả các cơ sở chăn nuôi, cơ sở giết mổ, cơ sở chế biến sản phẩm chăn nuôi phải có giải pháp kiểm soát môi trường phù hợp, bảo đảm không gây ô nhiễm môi trường và sử dụng có hiệu quả nguồn chất thải cho nhu cầu trồng trọt, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi côn trùng, sản xuất năng lượng tái tạo...

Tỉnh Thái Nguyên cũng thực hiện xây dựng lối sống xanh, tiêu dùng bền vững, thúc đẩy tiêu dùng xanh, phát triển thị trường cho các sản phẩm chăn nuôi, thủy sản sản xuất theo hướng xanh dưới các hình thức hỗ trợ trực tiếp cho đầu tư và sản xuất, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, xúc tiến thương mại, hỗ trợ chi phí và thủ tục bảo hộ sở hữu trí tuệ, chi phí và thủ tục cấp chứng nhận, có chính sách trợ giá sản phẩm, chuyển từ xuất khẩu tiểu ngạch sang xuất khẩu chính ngạch.

Bên cạnh đó, thực hiện nghiêm truy xuất nguồn gốc sản phẩm thịt gia súc, gia cầm, thủy sản gắn với mã định danh trang trại và chỉ dẫn địa lý, xây dựng vùng nguyên liệu xanh.

Xây dựng, tổ chức giới thiệu thương hiệu sản phẩm của các mô hình chăn nuôi theo hướng sản xuất an toàn, hữu cơ, tuần hoàn, ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số, truy xuất nguồn gốc gắn với du lịch sinh thái, an toàn, thân thiện với môi trường, tôn vinh sản phẩm "xanh" gắn với văn hóa ẩm thực Việt Nam.

Thời gian tới, Thái Nguyên phát triển chuỗi giá trị sản phẩm chăn nuôi xanh-carbon thấp cho các sản phẩm chăn nuôi chủ lực; triển khai dán nhãn, công nhận chăn nuôi an toàn dịch bệnh, an toàn sinh học, tuần hoàn, hữu cơ sinh thái cho các cơ sở chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, sản phẩm OCOP xanh.

Ngoài ra, tăng cường chuyển đổi số và đổi mới công nghệ để sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường. Thúc đẩy chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo, tiếp cận áp dụng công nghệ mới xanh, sạch, hiện đại để sử dụng hiệu quả tài nguyên từ phế, phụ phẩm, xử lý chất thải, ô nhiễm môi trường, giảm phát thải khí nhà kính trong sản xuất chăn nuôi, chế biến, kinh doanh, tiêu dùng sản phẩm chăn nuôi, thủy sản. Đồng thời, phát triển phần mềm hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý chăn nuôi trên địa bàn.

Thiện Tâm

 

Khánh Hòa: Nghiệp đoàn cơ sở nuôi trồng rong nho Ninh Hải: Góp phần chuẩn hóa nghề làm rong nho

 

Nguồn tin:  Báo Khánh Hòa

Làng biển Ninh Hải (thị xã Ninh Hòa, Khánh Hòa) từ lâu được mệnh danh là thủ phủ rong nho của tỉnh. Các hoạt động trồng, thu hái, chế biến rong nho nơi đây đã trở thành một nghề, thu hút hàng trăm lao động ở địa phương. Công đoàn ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh cũng vừa thành lập Nghiệp đoàn cơ sở nuôi trồng rong nho Ninh Hải, góp phần nâng tầm một nghề đầy triển vọng ở xứ biển Ninh Hòa.

Thủ phủ rong nho

Những năm gần đây, nhắc đến sản vật Khánh Hòa, ngoài trầm hương, yến sào, rong nho cũng đã bắt đầu được nhiều người biết đến. Loại rau xanh bổ dưỡng, mát lành này có thủ phủ ở phường Ninh Hải (thị xã Ninh Hòa). Khi cây rong nho đã bén rễ, sinh sôi xanh mướt các ao đìa, những nghề đi kèm cùng hình thành và phát triển. Ông Cao Văn Thơm (Tổ dân phố Đông Hà) chuyên đi vớt rong nho chia sẻ, mỗi ngày, thợ hái rong nho làm việc từ khoảng 7 giờ sáng đến 2 giờ chiều. Người vớt rong được trả công 10.000 đồng/kg rong. Đối với những đìa rong tươi tốt, mỗi buổi một người có thể vớt được cả trăm ký. Qua quan sát của chúng tôi, các thợ vớt rong thường hình thành tổ đội, mỗi tổ khoảng 10 người. Họ có các dụng cụ chuyên dụng như: Áo lặn, kính lặn, ống thở để có thể dầm mình dưới nước hàng giờ liên tục. Vùng rong nho Ninh Hải có hàng trăm người làm nghề hái rong như vậy.

 

 

Chế biến rong nho tại DT Group - một đơn vị có nguồn nguyên liệu tại Ninh Hải.

Còn theo ông Nguyễn Thành Minh - Giám đốc Công ty TNHH Rong nho Xuân Quang ở phường Ninh Hải, nhà ông có 5 sào đìa trồng rong nho, cứ khoảng 15 ngày lại thu hoạch rong một lần. Rong nho thường được trồng từ tháng 2 đến tháng 8 trong năm, thời gian còn lại chủ yếu rơi vào thời điểm mưa bão nhiều, độ mặn của nước và ánh nắng mặt trời không đảm bảo để rong phát triển. Với 5 sào rong nho, mỗi lần ông thu được từ 2 tạ đến 1 tấn rong tùy vào mức độ thu tỉa, nhu cầu của thị trường. Rong sau khi hái về được nuôi lại và làm sạch, sau đó bán tươi, tách nước hoặc chế biến ra nhiều sản phẩm như: Snack, rang phồng, thạch rong nho…

Bà Huỳnh Thị Thảo - Phó Chủ tịch UBND phường Ninh Hải cho biết, khoảng 15 năm qua, trên địa bàn phường, nhiều hộ nuôi ốc, tôm, làm muối đã cải tạo ao đìa, chuyển sang trồng rong nho. Đến nay, toàn phường có khoảng 30ha rong nho, chủ yếu ở Tổ dân phố 3 - 4 Đông Hà, sản lượng bình quân hàng năm gần 500 tấn, hình thành nên một nghề với đầy đủ các khâu từ trồng, thu hái, chế biến và kinh doanh rong nho, thu hút hàng trăm lao động và hàng chục doanh nghiệp.

Thành lập nghiệp đoàn cơ sở nuôi trồng rong nho

Qua khảo sát, tại phường Ninh Hải đã hình thành nên các đội thu vớt rong nho với khoảng 320 người, chưa kể hàng trăm công nhân, lao động làm việc trong các cơ sở chế biến rong nho. Sau một thời gian vận động, cuối tháng 5 vừa qua, Công đoàn ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh đã tổ chức lễ ra mắt Nghiệp đoàn cơ sở nuôi trồng rong nho Ninh Hải. Ông Phạm Huy Trường - Chủ tịch Công đoàn ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh cho biết, nghiệp đoàn ra đời trước hết nhằm chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cho các đoàn viên theo quy định pháp luật; đồng thời, từng bước chuẩn hóa đội ngũ lao động này. Công đoàn ngành sẽ hỗ trợ nghiệp đoàn tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong thực hành sản xuất, các quy định liên quan đến an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ môi trường, an toàn lao động...; giúp đỡ thành viên trong nghiệp đoàn thống nhất quy trình, kỹ thuật sản xuất, tạo ra chuỗi hàng hóa có uy tín, đảm bảo chất lượng, giúp thu hút đầu tư, tìm đối tác và đầu ra cho sản phẩm.

Cũng theo lãnh đạo Công đoàn ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, trong quy hoạch phát triển thủy sản của tỉnh có ngành nghề trồng rong nho. Hiện nay, Tổ chức Quốc tế về bảo tồn thiên nhiên (WWF) đang triển khai dự án chuỗi rong biển bền vững - Dự án GEF từ năm 2022 - 2026. Khánh Hòa là một trong những địa phương được lựa chọn để triển khai dự án. Cụ thể, tại Khánh Hòa, dự án tập trung tạo điều kiện môi trường để phát triển ngành sản xuất rong biển; phát triển chuỗi giá trị (triển khai mô hình trồng rong nho, xây dựng chuỗi liên kết rong nho, hỗ trợ cho vay vốn ưu đãi,..); xây dựng thí điểm mô hình nuôi trồng thủy sản bền vững có kết hợp trồng rong tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng tại địa phương. Việc hình thành nghiệp đoàn, trong đó có các hộ trồng, thu hái, chế biến và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực rong nho tại Ninh Hải sẽ tạo nên mối liên kết, hợp tác, thống nhất, từng bước giải quyết được những khó khăn về đầu ra sản phẩm, công đoạn bảo quản rong sau khi thu hoạch, hạn chế của người trồng rong trong nắm bắt thông tin thị trường… Đồng thời, từng bước chuẩn hóa, nâng cao hơn nữa tính chuyên nghiệp, hiện đại của nghề làm rong nho.

HỒNG ĐĂNG

 

Bình Thuận: Bàn giao giống lợn cỏ địa phương cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số xã Phan Sơn, huyện Bắc Bình

 

Nguồn tin: Báo Bình Thuận

Ngày 12/6/2024, Phân viện Chăn nuôi Nam Bộ phối hợp với Trung tâm Khuyến nông tỉnh tổ chức bàn giao giống lợn cỏ địa phương cho người dân tại xã Phan Sơn, huyện Bắc Bình (Bình Thuận).

Theo ông Ngô Thái Sơn - Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Khuyến nông tỉnh, trong thời gian qua Phân viện Chăn nuôi Nam Bộ đã phối hợp với Trung tâm Khuyến nông tỉnh Bình Thuận thực hiện Đề tài “Khai thác và phát triển nguồn gen lợn cỏ Bình Thuận tại một số tỉnh Nam Trung Bộ”, trong đó có mô hình xây dựng đàn sản xuất lợn cỏ Bình Thuận. Để triển khai thực hiện mô hình này, trong tháng 5/2024 Phân viện Chăn nuôi Nam Bộ phối hợp với Trung tâm Khuyến nông tỉnh đã tiến hành bàn giao 22 con lợn cỏ Bình Thuận cho bà con đồng bào dân tộc thiểu số tại xã Đông Giang, huyện Hàm Thuận Bắc.

Đợt này, Phân viện Chăn nuôi Nam Bộ và Trung tâm Khuyến nông tỉnh tiếp tục bàn giao 22 con lợn cỏ Bình Thuận cho hộ gia đình ông K’ Đa và Mang Khánh, thôn Tà Moon, xã Phan Sơn, huyện Bắc Bình. Mô hình sẽ góp phần giúp đồng bào dân tộc thiểu số xã Phan Sơn, huyện Bắc Bình tiếp cận được các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, đồng thời tạo điều kiện cho các hộ chăn nuôi tiếp cận với kỹ thuật nuôi tiên tiến, các phương pháp phòng chống dịch bệnh; từ đó, các hộ đồng bào dân tộc thiểu số có thể nhân rộng đàn lợn bản địa, phát triển kinh tế và vươn lên thoát nghèo.

 

 

Ông Ngô Thái Sơn cũng cho biết, mô hình xây dựng đàn sản xuất lợn cỏ Bình Thuận nhằm nhân rộng giống lợn cỏ Bình Thuận bị thoái hóa đã được Phân viện Chăn nuôi Nam Bộ chọn lọc lại nguồn gen lợn cỏ phát triển trên nền điều kiện bản địa; từ đó, tạo ra chất lượng thịt tốt nhất, thơm ngon góp phần phát triển sinh kế bền vững gắn với định hướng phát triển du lịch trong thời gian tới tại địa phương. Việc bàn giao giống lợn cỏ Bình Thuận cho người dân tại xã Phan Sơn, huyện Bắc Bình không chỉ mang tính hỗ trợ cho bà con đồng bào dân tộc thiểu số, mà còn thể hiện mối quan hệ kết nghĩa giữa Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với xã Phan Sơn theo tinh thần chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kết nghĩa với các xã thuần và thôn xen ghép đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh.

Nhận được lợn giống bản địa về nuôi, gia đình ông K’ Đa và Mang Khánh, thôn Tà Moon, xã Phan Sơn, huyện Bắc Bình rất vui mừng và cảm ơn Đảng, Nhà nước đã quan tâm đến bà con đồng bào dân tộc thiểu số; các hộ hứa sẽ chăm sóc đàn lợn giống thật tốt.

Nguyễn Phương

 

Thu nhập khá từ nuôi gà thịt

 

Nguồn tin: Báo Bình Định

Ông Nguyễn Văn Đen ở xã Phước Sơn, huyện Tuy Phước (tỉnh Bình Định) được biết đến là nông dân điển hình về phát triển kinh tế nông nghiệp. Với tinh thần cầu tiến, chăm chỉ học hỏi và áp dụng những tiến bộ KHKT, gia đình ông đã đạt được những thành công trong phát triển chăn nuôi gà.

Xuất thân là một thợ hồ, cuộc sống gặp nhiều khó khăn khi kinh tế gia đình chỉ dựa vào việc trồng trọt và chăn nuôi nhỏ lẻ. Năm 2003, ông Đen quyết định chuyển hướng sang phát triển chăn nuôi gà. Ông kể: “Ban đầu, việc nuôi gà không mấy suôn sẻ khi đàn gà 300 con gặp dịch bệnh, chết hàng loạt. Số vốn dành dụm tiêu tan, tôi chỉ biết nhìn đàn gà mà khóc. Kể từ đó tôi bắt đầu theo học các lớp nghề chăn nuôi do Hội Nông dân xã mở. Ngày làm thợ hồ, tối về tranh thủ thời gian đi học”.

Theo ông, chọn giống gà cũng là một yếu tố quan trọng nên ông chọn giống gà Minh Dư một giống gà địa phương có chất lượng thịt ngon, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Gà của công ty được nuôi khép kín, tiêm phòng đầy đủ, có trọng lượng khá đồng đều, khi xuất bán giá trị cao hơn.

 

 

Ông Nguyễn Văn Đen chăm sóc đàn gà. Ảnh: M.MIÊN

Trước tình hình giá thức ăn công nghiệp tăng cao, để tiết kiệm chi phí đầu tư, nâng cao hiệu quả chăn nuôi, ông đầu tư máy chế biến cám viên cho gà. Loại cám viên tự chế tận dụng được nguồn thực phẩm sẵn có tại địa phương như cám, gạo, bắp, đậu đỗ các loại và một số thực phẩm có chất kháng sinh giúp tăng sức đề kháng hạn chế dịch bệnh…, tiết kiệm khoảng 50% chi phí thức ăn so với dùng hoàn toàn cám công nghiệp.

Hiện gia trại đang nuôi 3.000 con gà các lứa, mỗi năm xuất bán trên 10.000 con gà thịt. Bên cạnh chăn nuôi gà, gia đình ông còn đầu tư vào sản xuất lúa nước và chăn nuôi heo sinh sản theo hướng gia trại, đảm bảo vệ sinh môi trường. Từ năm 2021 đến nay, gia đình ông Đen đã đạt lợi nhuận từ 360 - 500 triệu đồng/năm. Không chỉ tạo ra thu nhập ổn định cho gia đình mà còn góp phần tạo việc làm cho 3 lao động địa phương với mức lương ổn định 4 - 4,5 triệu đồng/người/tháng và hướng dẫn cho 15 hộ dân khác biết cách thức làm ăn hiệu quả.

Bà Nguyễn Thị Mỹ Nhung, Chủ tịch Hội Nông dân xã Phước Sơn, nhận xét: Ông Nguyễn Văn Đen là một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào nông dân sản xuất kinh doanh giỏi tại xã Phước Sơn. Không chỉ thành công trong sản xuất kinh doanh, ông và gia đình còn tích cực đóng góp cho phong trào và công tác xã hội địa phương. Ông cũng tích cực chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm chăn nuôi, giúp nhiều hộ gia đình cùng phát triển kinh tế.

MỘC MIÊN

 

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop