Chiều 17/4, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận tổ chức hội thảo “Chuyển đổi số cho tỉnh Bình Thuận - Vấn đề và giải pháp” nhằm phát triển các mô hình chuyển đổi số hướng tới kết hợp giữa các công nghệ thông tin và truyền thông với các lĩnh vực khác như nông nghiệp, y tế, giáo dục, giao thông, văn hóa và du lịch để tạo ra một cộng đồng thông minh và bền vững.
Tại hội thảo, các chuyên gia chia sẻ một số nội dung về kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước, nền tảng của chính phủ số; kinh nghiệm quốc tế trong khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Mô hình “xã thông minh” trong thúc đẩy chuyển đổi số nông thôn hướng đến xây dựng nông thôn hiện đại. Nâng cao kỹ năng chuyển đổi số cho doanh nghiệp và người dân tỉnh Bình Thuận; truy xuất nguồn gốc nâng cao giá trị nông sản. Giải pháp tài chính đầu tư thông minh giúp tổ chức, doanh nghiệp chuyển đổi số nhanh và bền vững.
Bên cạnh đó, các chuyên gia kiến nghị Bình Thuận đầu tư hạ tầng số và đào tạo (2025-2027); ban hành chính sách khuyến khích như ưu đãi thuế cho doanh nghiệp tham gia thương mại điện tử, hỗ trợ internet miễn phí cho khu vực nông thôn…
Hội thảo “Chuyển đổi số cho tỉnh Bình Thuận - Vấn đề và giải pháp”
Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Bích Lan, Viện trưởng Viện Sáng tạo và Chuyển đổi số, mô hình xã thông minh là một trong những xu hướng phát triển trong chuyển đổi số nông thôn, đặc biệt là trong các khu vực có điều kiện địa lý, kinh tế và văn hóa khác nhau.
Mô hình này gồm sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông để quản lý, giám sát và tối ưu hóa các hoạt động sản xuất, kinh doanh và quản lý; tập trung vào phát triển các ngành nghề truyền thống và sản phẩm địa phương để tạo ra giá trị gia tăng và phát triển kinh tế địa phương; cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân thông qua việc cung cấp các dịch vụ công cộng như y tế, giáo dục và văn hóa; xây dựng hệ thống giao thông thông minh để kết nối làng với các khu vực lân cận và thị trường.
Các chuyên gia tham gia hội thảo chuyển đổi số
Với phương châm “Bộ máy tinh gọn, dữ liệu kết nối, quản trị thông minh”, ông Đỗ Hữu Huy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận đề nghị, các sở, ban, ngành và địa phương nghiên cứu, tham khảo các nội dung tại hội thảo để hoàn thiện, đề xuất mô hình xã thông minh phù hợp với đề án sắp xếp lại tổ chức đơn vị hành chính các cấp theo Nghị quyết số 60-NQ/TW, ngày 12/4/2025 Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, trọng tâm phải bảo đảm hạ tầng số để đáp ứng yêu cầu “quản trị thông minh”.
Theo Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận, các đơn vị nghiên cứu tham mưu triển khai các nhiệm vụ có tác động, hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số như kịp thời triển khai các chính sách ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư cho chuyển đổi số để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, quản trị doanh nghiệp…
Các đơn vị nghiên cứu các giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển cơ sở dữ liệu chuyên ngành nhằm tăng cường hiệu quả quản lý, ra quyết định dựa trên dữ liệu, đồng thời minh bạch hóa và phục vụ người dân, doanh nghiệp tốt hơn để góp phần đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, xây dựng chính quyền số.
Yên Bái tạo nền tảng vững chắc phát triển nông nghiệp, nông thôn
Trong hành trình đổi mới và phát triển đất nước, nông dân không chỉ là lực lượng sản xuất chủ lực mà còn là trung tâm, chủ thể trong công cuộc xây dựng nông thôn mới, phát triển nông nghiệp xanh, tuần hoàn và bền vững. Những năm gần đây, Hội Nông dân (HND) tỉnh đã không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khẳng định vai trò là người bạn đồng hành tin cậy của hội viên nông dân (HVND).
Lãnh đạo Hội Nông dân tỉnh thăm mô hình trồng dâu nuôi tằm ở huyện Trấn Yên.
Tính đến năm 2024, tỉnh Yên Bái có hơn 118.000 HVND, sinh hoạt tại hơn 1.290 chi hội. Các cấp HND đã chủ động kiện toàn bộ máy, đổi mới cách thức sinh hoạt theo hướng linh hoạt, thiết thực và sát với nhu cầu của hội viên. Chỉ trong năm 2024, HND tỉnh đã kết nạp mới 1.848 hội viên, thành lập thêm 131 tổ hội nông dân nghề nghiệp, 31 chi hội nông dân nghề nghiệp, 9 câu lạc bộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi, góp phần tập hợp đông đảo nông dân vào tổ chức Hội, thúc đẩy phong trào nông dân từ cơ sở.
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách pháp luật được chú trọng. Toàn tỉnh đã tổ chức 1.006 buổi tuyên truyền với sự tham gia của trên 118.700 lượt HVND, giúp nâng cao nhận thức chính trị, kiến thức pháp luật, ý thức chấp hành quy định của Nhà nước trong HVND.
Đồng hành cùng hội viên trong phát triển kinh tế, các cấp HND đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm khơi thông nguồn vốn, nâng cao trình độ sản xuất, xây dựng mô hình kinh tế hiệu quả và từng bước hình thành chuỗi liên kết sản xuất - tiêu thụ nông sản bền vững.
Năm 2024, thông qua Quỹ Hỗ trợ nông dân, HND tỉnh đã giải ngân hơn 6.350 tỷ đồng, triển khai 12 dự án kinh tế tại cơ sở, giúp hàng trăm lượt hội viên được vay vốn ưu đãi. Các dự án tập trung vào các lĩnh vực có thế mạnh như: trồng dược liệu, chăn nuôi đại gia súc, nuôi ong lấy mật, trồng tre măng Bát Độ, phát triển vùng nguyên liệu quế hữu cơ gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm.
Cùng đó, Hội đã ký kết và thực hiện hiệu quả chương trình ủy thác vốn vay với các ngân hàng, đặc biệt là Ngân hàng Chính sách xã hội và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Tính đến hết năm 2024, tổng dư nợ với Ngân hàng Chính sách xã hội do Hội quản lý đạt trên 1.440 tỷ đồng, thông qua 622 tổ vay vốn với hơn 23.000 hộ HVND được thụ hưởng; tổng dư nợ với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đạt trên 1.089 tỷ đồng cho trên 9.000 hộ HVND vay vốn. Nhiều tổ vay vốn hoạt động hiệu quả đã góp phần không nhỏ giúp HVND có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, tạo việc làm và nâng cao thu nhập.
Đi đôi với hỗ trợ nông dân vay vốn, công tác đào tạo, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cũng đã được các cấp HND triển khai rộng khắp. Năm 2024, HND tỉnh và huyện đã tổ chức 15 lớp tập huấn, chuyển giao kỹ thuật trồng, chăm sóc cây trồng, vật nuôi, xử lý phụ phẩm nông nghiệp, hướng dẫn sản xuất theo hướng hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn. Hội cũng phối hợp với các ngành, doanh nghiệp tổ chức nhiều hội thảo, tọa đàm về xây dựng thương hiệu, phát triển sản phẩm OCOP, xúc tiến thương mại cho nông sản địa phương.
Anh Lường Văn Vĩnh ở thôn Lừu 2, xã Hát Lừu, huyện Trạm Tấu chia sẻ: "Hàng năm, tôi được các cấp HND cho tham gia các lớp tập huấn chăn nuôi, trồng trọt đồng thời được hỗ trợ vay 50 triệu đồng để đầu tư phát triển chăn nuôi lợn nái và lợn thương phẩm. Nhờ đó, kinh tế gia đình tôi đã có nhiều thay đổi. Trung bình mỗi năm, gia đình tôi xuất bán 3 lứa lợn thương phẩm, thu về được gần 100 triệu đồng tiền lãi. Nhờ đó, gia đình đã có điều kiện xây dựng lại nhà ở khang trang và chăm lo cho con cái học hành”.
Hiện nay, nhiều mô hình kinh tế do HVND làm chủ ngày càng phát huy hiệu quả, đóng vai trò không nhỏ trong việc đẩy nạnh phong trào sản xuất kinh doanh giỏi. Những mô hình này không chỉ mang lại giá trị thu nhập từ 150 - 500 triệu đồng/năm/hộ mà còn tạo việc làm ổn định cho hàng trăm lao động nông thôn.
Cùng với đó, HND tỉnh còn tích cực hỗ trợ hội viên xây dựng thương hiệu nông sản, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm. Đến nay, toàn tỉnh có gần 100 sản phẩm OCOP do HVND làm chủ, trong đó có nhiều sản phẩm đạt từ 3 - 4 sao như: mật ong Văn Chấn, măng Bát Độ Trấn Yên, quế hữu cơ Văn Yên, gạo nếp Tú Lệ, cá đặc sản Thác Bà…
Không dừng lại ở đó, các cấp HND còn tích cực tham gia xây dựng mô hình tổ hợp tác, hợp tác xã. Đến nay, toàn tỉnh đã có trên 500 tổ hợp tác và trên 700 hợp tác xã có HVND tham gia, tạo tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế tập thể, thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm nông nghiệp địa phương.
Cùng đó, Hội còn triển khai hiệu quả phong trào "Nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” gắn với thực hiện các tiêu chí như: đường giao thông nông thôn, nhà văn hóa, vệ sinh môi trường, cảnh quan sáng - xanh - sạch - đẹp. Năm 2024, HVND toàn tỉnh đã đóng góp trên 100.000 ngày công, hiến trên 68.000 m2 đất cùng hàng chục tỷ đồng để xây dựng các công trình dân sinh. Hàng trăm tuyến đường nông dân tự quản được chỉnh trang, trồng hoa, lắp điện chiếu sáng góp phần thay đổi diện mạo nông thôn.
Phong trào "Nông dân tham gia bảo vệ môi trường, xây dựng cảnh quan nông thôn sáng - xanh - sạch - đẹp” cũng được triển khai sâu rộng. Các cấp Hội đã thành lập được trên 600 mô hình bảo vệ môi trường, duy trì hàng trăm đoạn đường nông dân tự quản, tổ chức hàng nghìn buổi tổng dọn vệ sinh, thu gom xử lý rác thải. Ngoài ra, các HVND còn tích cực tham gia các hoạt động bảo vệ an ninh trật tự, hòa giải cơ sở và giữ gìn thuần phong mỹ tục tại địa phương. Hội đã và đang duy trì thực hiện hiệu quả 221 mô hình tự quản về an ninh trật tự, góp phần xây dựng địa bàn trong sạch, bình yên.
Trong bối cảnh kinh tế nông nghiệp đang chuyển mình theo hướng công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn và ứng dụng chuyển đổi số, vai trò của HND càng được đặt ra một cách rõ nét. Từ thực tiễn phong trào, HND tỉnh xác định trong giai đoạn 2025 - 2030 sẽ tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm như: khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa phương để xây dựng các mô hình nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; đồng hành cùng hội viên trong chuyển đổi số nông nghiệp, sản xuất xanh và bảo vệ môi trường; đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh; tăng cường vai trò phản biện xã hội, đại diện tiếng nói, quyền lợi chính đáng của nông dân…
Với sự tận tâm, chủ động và sáng tạo, HND tỉnh đang từng bước khẳng định vai trò nòng cốt, là chỗ dựa vững chắc của nông dân trong quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao và nông thôn mới kiểu mẫu. Những kết quả đạt được không chỉ là con số mà là sự gắn kết, là niềm tin, động lực để mỗi HVND và HND tỉnh tự tin vươn lên, góp phần xây dựng tỉnh Yên Bái ngày càng giàu đẹp, văn minh và phát triển bền vững.
Phát huy vai trò nòng cốt trong các phong trào thi đua, trong đó trọng tâm là Phong trào "Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững”, đến nay, Hội đã thu hút được nhiều hội viên tham gia. Năm 2024, toàn tỉnh có trên 72.000 hộ HVND đăng ký danh hiệu sản xuất kinh doanh giỏi, qua bình xét có 39.066 hộ đạt danh hiệu sản xuất kinh doanh giỏi, bằng 53,8% số hộ đăng ký. Nhiều mô hình kinh tế tiêu biểu đạt doanh thu từ 300 triệu đồng đến 2 tỷ đồng mỗi năm, đặc biệt là các mô hình gắn với sản xuất theo chuỗi, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
'Hạt nhân' giúp nông dân Kiên Giang vượt lên trên những cánh đồng số
Nhờ ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ và số hóa các quy trình sản xuất, nhiều mô hình nông nghiệp hiện đại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang được hình thành, mang lại hiệu quả rõ rệt, tạo việc làm ổn định và nâng cao đời sống cho người dân.
Là tỉnh có diện tích đất nông nghiệp lớn, với hơn 700.000 ha đất sản xuất nông nghiệp, trong đó chủ yếu là trồng lúa và nuôi trồng thủy sản, Kiên Giang nhận thức rõ tầm quan trọng của ứng dụng khoa học công nghệ trong việc phát triển bền vững ngành nông nghiệp.
“Bay” trên cánh đồng lớn
Bắt đầu từ năm 2022, tỉnh đã triển khai nhiều chương trình, đề án trọng điểm nhằm ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, thúc đẩy phát triển các mô hình cánh đồng lớn, nông nghiệp thông minh và liên kết chuỗi giá trị.
Chỉ trong vòng 3 năm qua, tỉnh đã xây dựng và vận hành hơn 50 mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ cao tại các huyện Giồng Riềng, Tân Hiệp, Hòn Đất và Gò Quao. Trong đó, nhiều mô hình chuyển đổi số trong sản xuất lúa gạo đã mang lại kết quả tích cực, giúp nông dân giảm chi phí, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm.
Nông dân, HTX ở Kiên Giang đang đẩy mạnh khoa học công nghệ vào sản xuất.
Một trong những điểm sáng của Kiên Giang là việc phát triển các mô hình “cánh đồng lớn” gắn với số hóa và quản lý thông minh. Điển hình như tại huyện Giồng Riềng, HTX Nông nghiệp Tân Lập đã phối hợp cùng doanh nghiệp và viện nghiên cứu triển khai mô hình “Cánh đồng thông minh 4.0”, ứng dụng thiết bị bay không người lái (drone) để phun thuốc, giám sát sâu bệnh qua cảm biến và phân tích dữ liệu từ vệ tinh.
Anh Nguyễn Văn Hiếu, đại diện HTX Tân Lập cho biết: “Trước đây, nông dân địa phương làm ruộng hoàn toàn thủ công, chi phí thuê nhân công và lượng thuốc bảo vệ thực vật rất cao. Giờ đây, với việc dùng drone và hệ thống giám sát từ xa, chúng tôi giảm được 30% chi phí và tăng gần 20% năng suất”.
Không chỉ giúp tối ưu sản xuất, mô hình sản xuất của HTX còn tạo việc làm ổn định cho hơn 50 lao động địa phương, chủ yếu là thanh niên được đào tạo để vận hành hệ thống công nghệ mới. Đây là minh chứng rõ nét cho việc chuyển đổi số không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế mà còn góp phần giải quyết bài toán lao động nông thôn.
“Hạt nhân” trên cánh đồng số hóa
Bên cạnh HTX Tân Lập, nhiều HTX trên địa bàn Kiên Giang cũng nổi bật với cách làm sáng tạo, linh hoạt trong ứng dụng công nghệ vào sản xuất, mang lại giá trị kép về kinh tế, tạo việc làm và đảm bảo an toàn sinh thái.
Điển hình như tại huyện Hòn Đất, HTX Nông nghiệp Thạnh Đông đã triển khai hệ thống tưới tiêu tự động bằng điện thoại thông minh, tích hợp cảm biến đo độ ẩm đất và điều khiển từ xa. Mô hình của HTX đặc biệt phát huy hiệu quả trong điều kiện thời tiết thất thường, giúp cây trồng sinh trưởng ổn định và tiết kiệm nguồn nước.
Chị Lê Thị Mai, thành viên HTX Thạnh Đông chia sẻ: “Trước đây, mỗi ngày tôi phải đi hơn 3 km để kiểm tra ruộng và tưới tiêu. Giờ chỉ cần mở điện thoại là có thể theo dõi và điều chỉnh từ nhà. Công việc nhẹ hơn, hiệu quả cũng cao hơn rất nhiều”.
Sản xuất thông minh giúp nông dân, HTX ở Kiên Giang đảm bảo giá trị kinh tế, an toàn sinh thái.
Một ví dụ khác tại huyện Tân Hiệp, HTX Dịch vụ Nông nghiệp Phú Cường đã triển khai thành công phần mềm truy xuất nguồn gốc lúa gạo qua mã QR. Sản phẩm lúa sạch của HTX không chỉ tiêu thụ tốt trong nước mà còn mở ra cơ hội xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc.
“Người tiêu dùng giờ rất quan tâm đến chất lượng và xuất xứ. Việc ứng dụng công nghệ giúp chúng tôi khẳng định thương hiệu và nâng giá trị sản phẩm lên rõ rệt”, đại diện HTX Phú Cường nhận định.
Dễ nhận thấy, trong những năm gần đây, kinh tế hợp tác, mà nòng cốt là HTX ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và nâng cao thu nhập cho người dân tại Kiên Giang.
Đặc biệt, sự đồng hành tích cực của Liên minh HTX Việt Nam, Liên minh HTX tỉnh Kiên Giang, thông qua nhiều chương trình hỗ trợ thiết thực đang tạo bước đột phá cho nhiều HTX, tổ hợp tác trên địa bàn tỉnh vươn lên.
Một trong những điểm nhấn nổi bật là chương trình hỗ trợ xây dựng mô hình HTX kiểu mới gắn với chuỗi giá trị. Liên minh HTX Việt Nam đã phối hợp với Liên minh HTX tỉnh Kiên Giang triển khai các mô hình thí điểm trong lĩnh vực trồng lúa, nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi.
Theo thống kê, đến cuối năm 2024, toàn tỉnh Kiên Giang có hơn 120 HTX nông nghiệp hoạt động hiệu quả, trong đó gần 40 HTX đã ứng dụng các giải pháp công nghệ số ở nhiều mức độ khác nhau. Năng suất lúa trung bình toàn tỉnh đạt trên 6,1 tấn/ha, tăng 7% so với năm 2021. Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên trong các HTX công nghệ cao tăng 25%, góp phần ổn định sinh kế và giữ chân lao động trẻ ở lại nông thôn.
Nhờ đó, nhiều HTX đã được tiếp cận nguồn vốn, khoa học kỹ thuật và thị trường tiêu thụ ổn định. Điển hình như HTX Nông nghiệp Hòa Phát (huyện Giồng Riềng) đã được hỗ trợ máy móc canh tác hiện đại và xây dựng liên kết với doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm, giúp tăng lợi nhuận cho thành viên thêm 20–30% so với trước.
Liên kết tạo chuỗi giá trị
Ngoài ra, chương trình hỗ trợ đào tạo, tập huấn cán bộ quản lý HTX cũng được chú trọng. Hàng trăm lượt cán bộ, thành viên HTX tại Kiên Giang đã được tham gia các lớp tập huấn về quản trị, kế toán, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả. Việc nâng cao năng lực quản lý giúp các HTX hoạt động chuyên nghiệp hơn, từ đó tạo niềm tin cho nông dân khi tham gia vào mô hình kinh tế hợp tác.
Không chỉ hỗ trợ về mặt kỹ thuật và quản trị, Liên minh HTX Việt Nam còn tích cực kết nối tiêu thụ sản phẩm thông qua hệ thống các trung tâm giới thiệu sản phẩm HTX, sàn thương mại điện tử và các hội chợ trong và ngoài tỉnh. Nhờ đó, sản phẩm nông sản của Kiên Giang như gạo sạch, cá thát lát, khô cá sặc, trái cây... đã từng bước xây dựng được thương hiệu và mở rộng thị trường.
Trong bối cảnh chuyển đổi số và tái cơ cấu ngành nông nghiệp đang được đẩy mạnh, vai trò của HTX ngày càng quan trọng. Những chương trình hỗ trợ từ Liên minh HTX Việt Nam không chỉ mang tính chất “trợ lực” trước mắt mà còn tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững lâu dài của khu vực kinh tế hợp tác tại Kiên Giang.
Cùng với sự lớn mạnh của các HTX, Kiên Giang còn đẩy mạnh chuyển đổi số trong toàn bộ chuỗi giá trị nông nghiệp. Từ khâu giống, canh tác, thu hoạch đến chế biến và tiêu thụ đều được số hóa thông qua các phần mềm quản lý trang trại, hệ thống truy xuất, sàn giao dịch nông sản trực tuyến...
Tỉnh cũng đã ký kết hợp tác với nhiều tập đoàn công nghệ lớn như VNPT, Viettel và FPT nhằm xây dựng nền tảng cơ sở dữ liệu nông nghiệp và hệ sinh thái số cho từng địa phương. Hệ thống này cho phép quản lý sản xuất theo thời gian thực, dự báo thị trường và cung cấp thông tin kỹ thuật kịp thời cho nông dân.
Hệ sinh thái nông nghiệp số VNPT Green: Tối ưu hóa sản xuất
Với mục tiêu quản lý quá trình sản xuất nông nghiệp, gắn kết giữa nhà sản xuất với người tiêu dùng…, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã triển khai chương trình VNPT Green - Hệ sinh thái nông nghiệp số toàn trình tại Thái Nguyên, trong đó có huyện Phú Lương, nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững.
Trên ứng dụng VNPT Green, người dân có thể theo dõi quy trình sản xuất chè từ gieo trồng, chăm sóc đến thu hoạch theo tiêu chuẩn an toàn. Trong ảnh: Người dân xã Tức Tranh (Phú Lương) thu hái chè.
VNPT Green là hệ sinh thái nông nghiệp số toàn trình, ra mắt thị trường vào cuối năm 2024, tại 15 tỉnh, thành, nhằm giúp các hộ dân sản xuất nông sản theo tiêu chuẩn và tham gia vào chuỗi giá trị bền vững. Qua đó, giúp nông dân tối ưu quy trình canh tác, kiểm soát chất lượng sản phẩm, kết nối thị trường hiệu quả.
Tại huyện Phú Lương, Trung tâm nông nghiệp số (Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam) đã phối hợp với VNPT Phú Lương tổ chức tập huấn, hướng dẫn các nông hộ cài đặt ứng dụng VNPT Green trên điện thoại thông minh. Từ thiết bị này, người dân có thể theo dõi mọi quy trình từ gieo trồng, chăm sóc đến thu hoạch theo tiêu chuẩn an toàn.
Ngoài ra, ứng dụng tích hợp hướng dẫn trực quan, tự động nhắc nhở và ghi chép điện tử toàn bộ quá trình sản xuất, đảm bảo đáp ứng yêu cầu truy xuất nguồn gốc sản phẩm theo chuẩn quốc tế. Mở ra cơ hội cho nông sản Việt vào các thị trường khó tính như Mỹ, châu Âu…
Để sản xuất chè theo quy trình VietGAP, hướng hữu cơ, trước đây Hợp tác xã chè Hoan Xuyến (xã Vô Tranh) thường yêu cầu các thành viên ghi chép cẩn thận ngày bón phân, phun thuốc bảo vệ thực vật… vào một cuốn sổ. Tuy nhiên, không phải ai cũng nhớ để thực hiện.
Bà Tống Thị Xuyến, Giám đốc Hợp tác xã thông tin: Từ ngày triển khai ứng dụng VNPT Green (đầu năm 2025), tôi cũng như các thành viên hợp tác xã thấy thuận tiện hơn rất nhiều. Toàn bộ quá trình chăm sóc chè chúng tôi đều quản lý trên ứng dụng.
Hệ thống tự động thông báo ngày bón phân, làm cỏ…, đồng thời nhắc nhở các thành viên hoàn thành công việc. Cũng trên ứng dụng này, khách hàng có thể truy xuất nguồn gốc sản phẩm (vị trí của nương chè, chỉ dẫn đến tận nơi, xem được quy trình sản xuất…) và gọi điện đặt hàng. - bà Tống Thị Xuyến
Các thành viên Hợp tác xã chè Hoan Xuyến, xã Vô Tranh (Phú Lương) tìm hiểu và hướng dẫn nhau cách sử dụng ứng dụng VNPT Green.
Còn tại Làng nghề chè xóm Phú Nam 1, xã Phú Đô, nhiều hộ dân cũng đã cài đặt và sử dụng hiệu quả ứng dụng VNPT Green vào quá trình sản xuất. Bà Nguyễn Thị Hoàng, nói: Tôi thấy đây là ứng dụng rất thiết thực. Chỉ với chiếc điện thoại thông minh, tôi có thể tích hợp thông tin mọi lúc, mọi nơi mà không cần phải dùng bút và sổ ghi chép như trước đây. Mới đầu thực hiện, các thao tác trên điện thoại còn chưa thuần thục, nhưng chúng tôi sẽ hỗ trợ nhau để phát huy được hết hiệu quả của ứng dụng trong thời gian tới.
Sau 3 tháng triển khai trực tiếp Hệ sinh thái nông nghiệp số toàn trình VNPT Green đến từng hộ dân, đến nay trên địa bàn huyện Phú Lương đã có 232 tài khoản được hỗ trợ cài đặt. Những tài khoản được cài đặt chủ yếu là các hộ sản xuất chè ở 4 xã Vô Tranh, Tức Tranh, Phú Đô và Yên Lạc.
Bà Đỗ Thị Thanh Hải, Trưởng đại diện VNPT Phú Lương thông tin: Mặc dù chương trình triển khai chưa lâu, nhưng chúng tôi nhận thấy, người dân đã hiểu về vai trò, lợi ích và tích cực sử dụng ứng dụng. Thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp tục phối hợp với Trung tâm nông nghiệp số, trực tiếp hỗ trợ nông dân nâng cao nhận thức, ứng dụng chuyển đổi số vào sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trong chăm sóc chè trên ứng dụng VNPT Green; thiết lập hệ thống Hotline để kịp thời xử lý khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện và sử dụng ứng dụng VNPT Green một cách hiệu quả.
Phú Lương là địa phương có đến 4.100ha chè. Việc quản lý từ quá trình chăm sóc, thu hái đến đưa sản phẩm ra thị trường trên ứng dụng VNPT Green sẽ góp phần giúp chè Phú Lương ngày càng vươn xa, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Từ đó, nâng cao giá trị sản phẩm trà, cải thiện đời sống và thu nhập cho người dân.
Lãng phí đất đai vì dự án nông nghiệp công nghệ cao 6 năm chưa triển khai
Được kỳ vọng sẽ tạo một dự án sản xuất nông nghiệp có quy mô, chất lượng cao và hiện đại nhằm phát triển kinh tế của địa phương, tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, sau hơn 6 năm triển khai, Dự án Vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao FAM - Quảng Trị (gọi tắt Dự án FAM Quảng Trị) tại huyện Cam Lộ vẫn 'đắp chiếu'. Thực trạng này đã làm lãng phí nguồn lực đất đai, gây bức xúc trong Nhân dân.
6 năm triển khai nhưng chỉ mới phong hóa mặt bằng
Dự án FAM Quảng Trị được UBND tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư vào tháng 6/2018, điều chỉnh chủ trương đầu tư lần 1 sau đó một năm để thực hiện. Trên diện tích khoảng 200 ha tại Tiểu khu 764 và 765 thuộc xã Cam Tuyền, huyện Cam Lộ, chủ đầu tư dự án là Công ty TNHH Sản xuất và Kinh doanh xuất nhập khẩu nông sản FAM Quảng Trị thuộc Tập đoàn FLC có kế hoạch đầu tư số vốn khoảng 371 tỉ đồng để xây dựng dự án. Với mục tiêu hình thành vùng sản xuất nông nghiệp với quy mô lớn có ứng dụng công nghệ cao, tự động hóa, cơ giới hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; bảo quản, sơ chế, chế biến các sản phẩm từ nông nghiệp theo công nghệ mới.
Một góc 60 ha Dự án FAM Quảng Trị đã được GPMB nhưng doanh nghiệp chưa triển khai nên người dân tận dụng để trồng cây keo tràm -Ảnh: LÊ TRƯỜNG
Sau khi được chấp thuận chủ trương đầu tư, doanh nghiệp đã phối hợp với chính quyền địa phương thực hiện thủ tục chuyển mục đích sử dụng rừng, trồng rừng thay thế, tạm ứng hơn 5,2 tỉ đồng để giải phóng mặt bằng (GPMB) được khoảng 60 ha. Theo cam kết, Công ty TNHH Sản xuất và Kinh doanh xuất nhập khẩu nông sản FAM Quảng Trị sẽ đưa dự án vào hoạt động, sản xuất từ tháng 4/2019, điều chỉnh lần 1 thành tháng 10/2020. Tuy nhiên, sau đó doanh nghiệp chỉ tổ chức san gạt thực bì, phong hóa đối với diện tích đã GPMB rồi ngừng thi công cho đến nay.
Theo lãnh đạo UBND huyện Cam Lộ, tính đến nay, dự án đã chậm tiến độ hơn 6 năm so với phê duyệt lần đầu và 4,5 năm so với thời hạn điều chỉnh lần 1. Mặc dù địa phương nhiều lần đôn đốc, yêu cầu nhà đầu tư hoàn thành việc bổ sung kinh phí để hỗ trợ GPMB diện tích còn lại nhằm chi trả dứt điểm cho các gia đình bị ảnh hưởng để khoanh vùng dự án nhưng phía doanh nghiệp không thực hiện.
Chính vì vậy, một số hộ dân tại xã Cam Tuyền đã tận dụng trồng cây keo tràm trên vùng đất dự án để tránh lãng phí việc sử dụng đất. Điều này gây ra nhiều khó khăn cho công tác quản lý đất đai cũng như đảm bảo an ninh trật tự tại địa bàn dự án. Mặc dù chính quyền, các đoàn thể địa phương đã nhiều lần tuyên truyền, vận động, lập biên bản, cưỡng chế, nhưng đến nay tình trạng này vẫn chưa chấm dứt.
Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Cam Tuyền Nguyễn Anh Tuân cho biết, hiện có khoảng 50 hộ dân đã trồng cây keo tràm trên diện tích 60 ha đất đã GPMB thuộc dự án và diện tích keo tràm này cũng được vài năm tuổi. Vì thấy đất dự án bỏ hoang năm này sang năm khác, trong lúc người dân thiếu đất sản xuất nên cứ vào ban đêm, người dân lén lút vào trồng cây keo tràm.
Tuy vậy, với mong muốn không để đất đai bỏ không gây lãng phí, người dân mới tận dụng trồng cây keo, nếu dự án tiếp tục triển khai, bà con sẵn sàng trả lại đất. Chính quyền địa phương đã nhiều lần kiến nghị có phương án xử lý đối với Dự án FAM Quảng Trị này, bởi lẽ, nếu không thể triển khai thì cần thu hồi, giao đất cho địa phương để quản lý, cấp cho người dân canh tác.
Đề xuất chấm dứt dự án để tránh lãng phí đất đai
Theo thông tin từ Sở Tài chính, Dự án FAM Quảng Trị hiện còn nhiều thủ tục liên quan sau khi được chấp thuận chủ trương đầu tư chưa thực hiện. Đơn cử như thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế cơ sở, thiết kế bản vẽ thi công, công tác phòng cháy chữa cháy, cấp phép xây dựng...
Mặc dù nhà đầu tư đánh giá đây là một dự án khả thi và mong muốn được tiếp tục thực hiện với những cam kết về phương án, kế hoạch phối hợp với các đối tác chiến lược có kinh nghiệm, năng lực; đồng thời, nhiều lần viện dẫn các lý do và tiếp tục đề nghị gia hạn các thời điểm báo cáo phương án triển khai thực hiện nhưng thực tế doanh nghiệp chưa thực sự tích cực, chủ động và thiếu quyết tâm trong triển khai dự án.
Cụ thể là chưa chứng minh được trường hợp áp dụng để tiếp tục được gia hạn tiến độ thực hiện đầu tư theo quy định; chưa có nội dung đề xuất về tiến độ thi công, thời gian dự án đưa vào hoạt động; chưa hoàn thành nộp tiền ký quỹ bảo đảm thực hiện dự án; không có các văn bản phản hồi và không thực hiện các nội dung đã cam kết được cơ quan nhà nước yêu cầu; chây ì, trì hoãn, nhiều lần cam kết và kéo dài thời gian báo cáo với chính quyền địa phương. Trong khi đó, quy mô sử dụng đất dự kiến của dự án tương đối lớn với khoảng 200 ha, nhiều hạng mục đầu tư cần phải có thời gian để thi công xây dựng và hoàn thành.
Cây keo tràm được người dân xã Cam Tuyền tận dụng trồng lên diện tích đất Dự án FAM Quảng Trị được khoảng vài năm tuổi - Ảnh: Lê Trường
Trên cơ sở đó, mới đây, vào ngày 15/4, Sở Tài chính có văn bản gửi UBND tỉnh đề xuất phương án xử lý đối với Dự án FAM Quảng Trị nhằm giải quyết dứt điểm các vấn đề tồn đọng của dự án này góp phần quản lý và sử dụng có hiệu quả quỹ đất, đảm bảo an ninh trật tự tại khu vực dự kiến thực hiện dự án.
Cụ thể, Sở Tài chính đề nghị xem xét, đồng ý chủ trương chấm dứt hoạt động toàn bộ Dự án Vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao FAM - Quảng Trị. Qua đó, để đơn vị có cơ sở thực hiện thủ tục chấm dứt hoạt động dự án theo quy định.
Ngoài ra, kiến nghị giao UBND huyện Cam Lộ quản lý, có phương án sử dụng phù hợp, hiệu quả đối với 60 ha đất đã được GPMB; tích cực thu hút các nhà đầu tư khác để nghiên cứu, đề xuất thực hiện dự án triển vọng. Song song với đó, địa phương tiếp tục liên hệ với Công ty TNHH Sản xuất và Kinh doanh xuất nhập khẩu nông sản FAM Quảng Trị để hoàn trả số tiền hơn 351 triệu đồng chưa giải ngân trong GPMB.
Phó Giám đốc Sở Tài chính Lê Thị Thương cho biết: Dự án FAM Quảng Trị là một trong nhiều dự án trọng điểm của tỉnh, được Ban Thường vụ Tỉnh ủy cho ý kiến thống nhất chủ trương thực hiện. Quá trình triển khai, các sở, ngành và chính quyền huyện Cam Lộ cũng như người dân khu vực bị ảnh hưởng đã đồng thuận, tích cực hỗ trợ nhà đầu tư các bước để nhanh chóng hoàn thành dự án.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do khách quan và chủ quan khiến chủ đầu tư quá chậm trễ thực hiện dự án. Đây là điều đáng tiếc, dù vậy, chúng tôi sẽ xem xét, đối chiếu các quy định một cách thấu đáo về tính khả thi, năng lực của nhà đầu tư. Từ đó, đề xuất phương án tối ưu nhằm tạo điều kiện cho các dự án khác, đảm bảo tiến trình phát triển KT-XH của tỉnh, không để lãng phí nguồn lực đất đai, mất lòng tin trong Nhân dân.
Đất nông nghiệp sử dụng sai mục đích xử lý thế nào?
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, đối với trường hợp sử dụng đất nông nghiệp sai mục đích sau ngày 1/7/2014 thì phải áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất và buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm.
Theo phản ánh của người dân, ngày 10/12/2024, cơ quan chức năng lập biên bản vi phạm đối với bà Lê Thị N. về hành vi chuyển 103,8 m2 đất nông nghiệp không phải là đất trồng lúa, không phải là đất lâm nghiệp sang đất ở mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
Hành vi của bà N. không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nên đề xuất mức phạt đối với hành vi vi phạm là 25 triệu đồng theo quy định. Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định tại Nghị định số 123 ngày 4/10/2024 của Chính phủ là buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 139 Luật Đất đai.
Tuy nhiên khi ra quyết định về biện pháp khắc phục hậu quả thì quy định tại khoản 3 Điều 139 Luật Đất đai 2024 lại được hiểu theo nhiều hướng.
Trường hợp sử dụng đất nông nghiệp sai mục đích sau ngày 1/7/2014 thì phải áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất. Ảnh minh họa.
Trường hợp 1: Hiểu là hành vi hộ gia đình, cá nhân tự ý chuyển đổi mục đích trước ngày 1/7/2014 đến thời điểm hiện nay mới phát hiện hộ gia đình, cá nhân tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Năm 2024 mới lập biên bản vi phạm hành chính và ra quyết định xử phạt và cho người vi phạm thực hiện nghĩa vụ tài chính để chuyển đổi mục đích sử dụng đất nếu phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hiện nay tại địa phương năm 2024.
Trường hợp 2: Hiểu là hành vi hộ gia đình, cá nhân tự ý chuyển đổi mục đích sau ngày 11/7/2014 đến thời điểm hiện nay mới phát hiện hộ gia đình, cá nhân tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Năm 2024 mới lập biên bản vi phạm hành chính và ra quyết định xử phạt, buộc người vi phạm khôi phục lại tình trạng ban đầu.
Trường hợp 3: Hiểu là hành vi tự ý chuyển đổi dù trước hoặc sau ngày 1/7/2014 đối với hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất trước ngày 1/7/2014. Năm 2024 mới lập biên bản vi phạm hành chính và ra quyết định xử phạt, thì cho người vi phạm thực hiện nghĩa vụ tài chính để chuyển đổi mục đích sử dụng đất nếu phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hiện nay tại địa phương năm 2024.
Do đó, người dân thắc mắc Điều 139 Luật Đất đai nên hiểu theo trường hợp nào nêu trên?
Về vấn đề này, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, tại khoản 4 Điều 10 Nghị định 123 ngày 4/10/2024 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai đã quy định biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi sử dụng đất nông nghiệp không phải là đất trồng lúa, không phải là đất lâm nghiệp sang đất phi nông nghiệp mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép
Cụ thể, biện pháp khắc phục hậu quả: buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 139 Luật Đất đai; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm.
Trong khi đó, tại khoản 3 Điều 139 Luật Đất đai đã quy định trường hợp hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất do lấn đất, chiếm đất không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này và trường hợp sử dụng đất không đúng mục đích đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất thì xử lý như sau:
Trường hợp người đang sử dụng đất ổn định, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất cấp huyện hoặc quy hoạch chung hoặc quy hoạch phân khu hoặc quy hoạch xây dựng hoặc quy hoạch nông thôn thì được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật;
Trường hợp không thuộc quy định tại điểm a khoản này thì người đang sử dụng đất được tạm thời sử dụng cho đến khi Nhà nước thu hồi đất, nhưng phải giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất và phải kê khai đăng ký đất đai theo quy định.
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, căn cứ quy định nêu trên thì biện pháp khắc phục hậu quả đối với trường hợp sử dụng đất nông nghiệp không phải là đất trồng lúa, không phải là đất lâm nghiệp sang đất phi nông nghiệp mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép trước ngày trước ngày 1/7/2014 thì không áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất nhưng phải áp dụng biện pháp buộc nộp số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm.
“Đối với trường hợp vi phạm sau ngày 1/7/2014 thì phải áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất và buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm”, Bộ Nông nghiệp và Môi trường thông tin.
Mở ra cơ hội giúp Hà Nội hiện thực hóa các mục tiêu phát triển nông nghiệp bền vững
Với các cơ chế, chính sách đặc thù, Luật Thủ đô 2024 đã tạo ra cơ hội giúp Hà Nội tháo gỡ nhiều vướng mắc về khai thác quỹ đất nông thôn, thu hút nhà đầu tư chiến lược. Là tiền đề giúp Hà Nội chủ động hiện thực hóa các mục tiêu phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn.
Luật Thủ đô 2024
Mô hình trồng dưa lưới giống Nhật Bản ứng dụng công nghệ cao tại quận Hà Đông. Ảnh: Ánh Ngọc
Kinh tế nông thôn còn nhiều bất cập
Hà Nội hiện có diện tích đất nông nghiệp lớn với 196.626 ha vào năm 2023, bao gồm cả đất sản xuất nông nghiệp, đất trồng lúa, cây lâu năm và diện tích nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, diện tích đất nông nghiệp đang có xu hướng giảm dần, trong khi tăng trưởng nông nghiệp chủ yếu nhờ chuyển dịch cơ cấu và tăng giá trị gia tăng thay vì tăng diện tích.
Bên cạnh đó, ngành Nông nghiệp còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức về biến đổi khí hậu, biến động thị trường. Mặt khác, diện tích sản xuất ngày càng bị thu hẹp do tốc độ đô thị hóa nhanh cũng ảnh hưởng đến phát triển sản xuất nông nghiệp của Hà Nội.
Trong hơn 10 năm thực hiện Luật Thủ đô 2012, bên cạnh những điểm sáng, những mặt tích cực trên tất cả các lĩnh vực thì hiệu quả sản xuất nông nghiệp của Hà Nội vẫn còn thấp, chưa theo kịp với yêu cầu, xu thế hiện nay. Mặc dù, nhưng năm qua, các chương trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội đã đạt được những kết quả nổi bật nhưng kinh tế nông thôn vẫn còn nhiều bất cập.
Trong đó, mô hình kinh tế hợp tác, hợp tác xã quy mô nhỏ, năng lực tiếp thu tiến bộ kỹ thuật công nghệ mới còn thấp; chưa thu hút được nhiều nguồn lực xã hội cho việc phát triển hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế, xã hội của nông thôn.
Công tác quản lý xây dựng, đất đai, vệ sinh môi trường, thu gom xử lý chất thải rắn, nước thải khu vực nông thôn còn hạn chế. Chất lượng đào tạo nghề, nhất là đào tạo lao động nông thôn chưa theo kịp yêu cầu của thị trường lao động. Tỷ lệ giảm nghèo nhanh nhưng chưa thực sự bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao. Chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị chậm cải thiện.
Bộ Tư pháp cho rằng, một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do Luật Thủ đô năm 2012 còn thiếu quy định về phát triển nông nghiệp, nông thôn Thủ đô, làm ảnh hưởng lớn đến tính thống nhất, đồng bộ, toàn diện của hệ thống chính sách về Thủ đô. Luật chưa có “cây gậy pháp lý” để mở đường cho việc đổi mới và phát triển các mô hình tổ chức kinh tế nông thôn, đặc biệt là các mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị; phát triển nông nghiệp sinh thái.
Quy định nhiều chính sách đặc thù để Hà Nội phát triển nông nghiệp, nông thôn
Luật Thủ đô 2024 quy định nhiều chính sách đặc thù để phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân của Thủ đô. Cụ thể: Luật giao quyền cho Hội đồng Nhân dân (HĐND) TP quy định phạm vi, đối tượng, nội dung, mức hỗ trợ cao hơn mức quy định hoặc chưa được quy định trong văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên.
Tại khoản 2 Điều 32: HĐND TP quy định phạm vi, đối tượng, nội dung, mức hỗ trợ cao hơn mức quy định hoặc chưa được quy định trong văn bản của cơ quan Nhà nước cấp đối với các lĩnh vực gồm: giống, chuyển giao công nghệ trong sản xuất giống; công nghệ bảo quản, chế biến sản phẩm nông nghiệp; ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp; phát triển nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp kết hợp du lịch, giáo dục trải nghiệm; hoạt động bảo vệ môi trường trong sản xuất, sơ chế, chế biến nông sản; phát triển các chuỗi liên kết, chuỗi giá trị, thị trường tiêu thụ sản phẩm; phát triển kinh tế tập thể, làng nghề, làng có nghề và các hoạt động đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Trồng hoa lan công nghệ cao tại huyện Mê Linh. Ảnh: Phạm Hùng
Còn tại khoản 1 Điều 32, Luật phân quyền mạnh mẽ cho TP quy định các biện pháp đặc thù về sử dụng đất nông nghiệp. Trong đó, sử dụng đất kết hợp đa mục đích trong vùng sản xuất nông nghiệp tập trung: Trong vùng sản xuất nông nghiệp tập trung được bố trí đất nông nghiệp sử dụng vào việc xây dựng công trình phục vụ trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp, chế biến, bảo quản, trưng bày, giới thiệu sản phẩm, giáo dục trải nghiệm, du lịch sinh thái.
Luật giao HĐND TP quy định điều kiện, trình tự, thủ tục cấp phép xây dựng, loại công trình và tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp được sử dụng để xây dựng công trình trên đất nông nghiệp phục vụ trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp, chế biến, bảo quản, trưng bày, giới thiệu sản phẩm, cảnh quan du lịch, giáo dục trải nghiệm tại các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung (điểm b khoản 3 Điều 32); UBND TP có thẩm quyền quyết định cấp phép xây dựng các công trình để phục vụ trực tiếp việc sản xuất nông nghiệp tại vùng sản xuất nông nghiệp tập trung (khoản 4 Điều 32).
Sử dụng, khai thác quỹ đất nông nghiệp ở bãi sông, bãi nổi ở tuyến sông có đê: Luật giao HĐND TP quy định hình thức sử dụng, khai thác quỹ đất nông nghiệp tại bãi sông, bãi nổi ở tuyến sông có đê để sản xuất nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp kết hợp du lịch, giáo dục trải nghiệm bảo đảm nguyên tắc việc xây dựng trên đất nông nghiệp tại bãi sông, bãi nổi ở tuyến sông có đê phải phù hợp với quy hoạch phòng, chống lũ của tuyến sông có đê, quy hoạch đê điều, quy hoạch xây dựng, quy hoạch khác có liên quan (điểm a khoản 3 Điều 32); UBND TP quyết định cho phép sử dụng quỹ đất nông nghiệp tại bãi sông, bãi nổi ở tuyến sông có đê (khoản 4 Điều 32).
Về áp dụng ưu đãi đầu tư: áp dụng các ưu đãi về miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước, về thuế suất và miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các dự án sử dụng công nghệ cao, tiên tiến trong lĩnh vực môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, xử lý chất thải, nước thải; dự án xây dựng khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, dự án phát triển làng nghề truyền thống (khoản 1, 2 Điều 43).
Về thu hút nhà đầu tư chiến lược: thu hút nhà đầu tư chiến lược vào lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, phát triển khu công nghệ cao bao gồm cả khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn TP (điểm a, b khoản 1 Điều 42). Nhà đầu tư chiến lược có các quyền, quyền lợi và nghĩa vụ quy định tại Điều 42 và được hưởng các ưu đãi quy định tại khoản 5 Điều 43.
Mở ra hành lang pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội
Theo tiến sĩ Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ NN&PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Luật Thủ đô 2024, đã mở ra hành lang pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội. Song, để thực sự mang lại hiệu quả, cần có các quy định chi tiết và cụ thể hơn nhằm tháo gỡ những tồn tại kéo dài, thúc đẩy các xu hướng mới trong phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Luật Thủ đô 2024 đã cho phép TP chủ động ban hành các chính sách phát triển ứng dụng công nghệ cao, thậm chí vượt trội hơn chính sách chung của cả nước. Tuy nhiên, cần có những quy định rõ ràng để đảm bảo việc áp dụng công nghệ cao và công nghệ số đem lại hiệu quả kinh tế và xã hội một cách rộng rãi và bền vững.
Bên cạnh đó, việc phát triển nông nghiệp đô thị cũng là một xu hướng quan trọng mà Hà Nội cần thúc đẩy. Nông nghiệp đô thị không chỉ góp phần cung cấp lương thực cho các khu vực đông dân mà còn có vai trò trong việc tạo việc làm và cải thiện thu nhập cho cư dân đô thị.
Hiện tại, các tiêu chí xây dựng nông thôn mới của Hà Nội chưa phân biệt rõ ràng giữa các khu vực, dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng thực tiễn tại từng địa phương. Luật Thủ đô 2024 có thể là cơ sở pháp lý để TP điều chỉnh lại bộ tiêu chí này, nhằm phản ánh đúng xu hướng phát triển của từng vùng, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người dân.
Một trong những vấn đề được quan tâm đặc biệt là công tác phòng chống thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu. Để phát triển kinh tế và đảm bảo an toàn cho người dân, Luật Thủ đô đã cho phép xây dựng các tuyến đê mới, sử dụng một phần diện tích đất ngoài đê sông Hồng để xây dựng công trình công cộng và dân sinh.
Luật Thủ đô 2024 đã tạo ra cơ hội quan trọng cho Hà Nội trong việc phát triển bền vững, song để phát huy hiệu quả các quy định của luật, TP cần nhanh chóng cụ thể hóa các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ số và nông nghiệp đô thị.
Theo Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Thị Lan, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam, để thực hiện mô hình nông nghiệp bền vững, TP Hà Nội cần chú trọng đến yếu tố con người, có những giải pháp hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp. Cùng với đó, đẩy mạnh triển khai các chương trình, đề án đào tạo nghề, chuyển đổi nghề cho lao động nông thôn theo nhu cầu từng đối tượng, hình thành và phát triển đội ngũ “công nhân nông nghiệp”, đồng thời hỗ trợ hình thành các trung tâm quốc gia, trung tâm vùng về đào tạo và thực hành nghề chất lượng cao trên địa bàn Thủ đô.
Không thể có nền nông nghiệp thịnh vượng nếu tài nguyên tiếp tục bị đe dọa, đất suy thoái, khí hậu tiếp tục nóng lên
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhấn mạnh cách mạng Xanh 4.0 không chỉ giúp tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, mà còn giảm tiêu hao tài nguyên, cắt giảm phát thải và tăng khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu, và qua đó tạo tiền đề nâng cao sinh kế của người nông dân, tăng cường phúc lợi cho người tiêu dùng...
Phiên thảo luận cấp Bộ trưởng “Bắt nhịp Cách mạng Xanh 4.0: Hành trình chuyển đổi hệ thống lương thực- thực phẩm cho kỷ nguyên bền vững”. (Ảnh: Tùng Đinh).
Ngày 17/4, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy chủ trì phiên thảo luận cấp Bộ trưởng “Bắt nhịp Cách mạng Xanh 4.0: Hành trình chuyển đổi hệ thống lương thực- thực phẩm cho kỷ nguyên bền vững” trong khuôn khổ Hội nghị P4G.
Chủ đề phiên thảo luận nhấn mạnh vai trò sống còn của đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ số, công nghệ xanh và hợp tác đa bên, hợp tác công- tư trong kiến tạo tương lai bền vững, công bằng cho nhân loại.
KHÔNG THỂ GIẢI QUYẾT KHỦNG HOẢNG KHÍ HẬU BẰNG CÁCH TẠO RA KHỦNG HOẢNG LƯƠNG THỰC
Theo Bộ trưởng Đỗ Đức Duy, chúng ta đang đứng trước những thách thức: biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, đa dạng sinh học suy giảm nhanh chóng, chuỗi cung ứng lương thực toàn cầu đứt gãy do biến động địa chính trị và sự nổi lên của chủ nghĩa bảo hộ, an ninh lương thực bị đe dọa, và khoảng cách phát triển giữa các quốc gia ngày càng gia tăng. Trong bối cảnh đó, những nhóm dễ bị tổn thương nhất là nông dân nghèo, người tiêu dùng thu nhập thấp, thiên nhiên mong manh đang gánh chịu hậu quả nặng nề nhất.
"Chúng ta không thể giải quyết khủng hoảng khí hậu bằng cách tạo ra khủng hoảng lương thực. Chúng ta không thể bảo vệ môi trường nếu bỏ quên những người nông dân sản xuất quy mô nhỏ. Chúng ta không thể đòi hỏi những quốc gia có thu nhập thấp gìn giữ tài nguyên môi trường bền vững, nếu thế giới không chia sẻ công bằng trách nhiệm và lợi ích”, Bộ trưởng nói.
Trong bối cảnh đó, "Cách mạng Xanh 4.0" không đơn thuần là một lựa chọn, mà là một yêu cầu tất yếu, một mệnh lệnh hành động. Đây là cuộc cách mạng kỳ vọng đổi mới toàn diện hệ thống lương thực thông qua ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, công nghệ sinh học và các giải pháp đổi mới sáng tạo.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy: "Không thể có một nền nông nghiệp thịnh vượng nếu nguồn tài nguyên thiên nhiên tiếp tục bị đe dọa, nếu đất tiếp tục suy thoái, khí hậu tiếp tục nóng lên".
Tại Việt Nam, nông nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm an ninh lương thực, ổn định xã hội và sinh kế cho trên 60% dân số; đóng góp 12% GDP quốc gia.
Từ một quốc gia xuất phát điểm thấp, từng phải đối mặt với đói nghèo và khủng hoảng lương thực, Việt Nam đã vươn lên trong nhóm các nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới, đưa các sản phẩm nông sản có mặt ở gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, với nguồn tài nguyên hạn hẹp, ước tính chỉ khoảng 10,3 triệu ha đất có thể sử dụng trong nông nghiệp, ngành nông nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức.
"Không thể có một nền nông nghiệp thịnh vượng nếu nguồn tài nguyên thiên nhiên tiếp tục bị đe dọa, nếu đất tiếp tục suy thoái, khí hậu tiếp tục nóng lên", Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhấn mạnh.
Để giải quyết những thách thức đó, Việt Nam đang từng bước thực hiện chuyển đổi nông nghiệp theo hướng xanh, thông minh và bền vững, trong đó xác định đổi mới sáng tạo, tập trung vào nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, chuyển đổi số là cốt lõi để tạo ra đột phá cho ngành nông nghiệp.
Việt Nam đã ban hành Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Kế hoạch hành động quốc gia chuyển đổi Hệ thống lương thực thực phẩm minh bạch, trách nhiệm, bền vững đến năm 2030; Đề án phát triển khoa học và ứng dụng, chuyển giao công nghệ thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp đến năm 2030 và một số Đề án như phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030…
Điều này đã thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong phát triển một nền nông nghiệp hiện đại, bền vững, có trách nhiệm với thiên nhiên và con người.
HỢP TÁC, THÚC ĐẨY CHUYỂN ĐỔI NÔNG NGHIỆP XANH, THÔNG MINH, ĐẢM BẢO AN NINH LƯƠNG THỰC
Tuy nhiên, theo Bộ trưởng, không một quốc gia nào có thể đơn độc đi đến thành công trong hành trình chuyển đổi hệ thống lương thực. Đây là nỗ lực đòi hỏi sự chung tay hành động giữa các quốc gia, tổ chức quốc tế, doanh nghiệp, nhà khoa học và người nông dân.
Vì vậy chỉ có hợp tác đa phương thực chất, trên nền tảng công bằng và tôn trọng lẫn nhau, mới giúp vượt qua những thách thức to lớn của an ninh lương thực, đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu, phát triển công bằng và bền vững cho mỗi quốc gia và trên quy mô toàn cầu.
Bộ trưởng đề nghị các đối tác chia sẻ chính sách thúc đẩy ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo trong sản xuất nông nghiệp nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên, nâng cao năng suất, chất lượng và đặc biệt là giảm phát thải. Đây là hướng đi tất yếu để ngành nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu, đồng thời đóng góp vào mục tiêu phát thải ròng bằng “0” mà nhiều quốc gia đang hướng tới.
Cùng với đó là vai trò của các cơ quan quản lý, các tổ chức quốc tế và khu vực tư nhân trong chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tài chính, kỹ thuật và nâng cao năng lực cho người làm nông nghiệp. Sự phối hợp chặt chẽ, toàn diện giữa các bên là điều kiện tiên quyết để bảo đảm hiệu quả và tính bền vững của các chương trình chuyển đổi.
Bộ trưởng cũng nhấn mạnh việc chia sẻ những kinh nghiệm, mô hình và thực tiễn tốt từ các quốc gia trong phát triển nông nghiệp xanh, tuần hoàn, bảo đảm an ninh lương thực và sinh kế cho người dân. Những kinh nghiệm quý sẽ góp phần làm giàu thêm tư duy và hành động chung.
Tại phiên thảo luận, ông Donal Brown, Phó Chủ tịch Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế (IFAD), cho rằng chủ đề “Bắt nhịp Cách mạng Xanh 4.0” không chỉ là lời kêu gọi đổi mới, mà còn là lời hiệu triệu hành động, thể hiện tầm nhìn và năng lực lãnh đạo của Chính phủ trước những thách thức chưa từng có.
Theo ông Donal Brown, sản xuất nhiều hơn với ít tài nguyên hơn đang là bài toán cho nhiều quốc gia, trong đó, công nghệ là lời giải tối ưu nhất. Ứng dụng công nghệ sinh học có thể phát triển các giống cây trồng có khả năng chống chịu tốt hơn với biến đổi khí hậu. Những hệ thống quản lý nước và đất thông minh không chỉ giúp giảm thiểu tổn thất mà còn bảo vệ các hệ sinh thái. Ngoài ra, các chính sách cần bao trùm, để những nông dân sản xuất quy mô nhỏ không bị bỏ lại phía sau trên hành trình chuyển đổi.
Phó Chủ tịch Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế nhấn mạnh cần những chính sách đầu tư mạnh mẽ vào nghiên cứu và phát triển; cần cơ chế khuyến khích áp dụng các công nghệ xanh, giảm phát thải, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên. Đặc biệt, cần đưa tính bền vững trở thành trọng tâm trong mọi quyết định sản xuất nông nghiệp.
IFAD cam kết đồng hành cùng các chính phủ và các tổ chức đối tác để chuyển giao công nghệ, tri thức đến các vùng nông thôn, bảo đảm những sáng kiến đổi mới sẽ thực sự đến tay cộng đồng đang cần chúng nhất.
Đồng chủ trì phiên thảo luận, TS. Girma Amente, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Ethiopia, đã chia sẻ kinh nghiệm vượt đói nghèo, từ quốc gia có nguy cơ mất an ninh lương thực trở thành nhà sản xuất lúa mì lớn nhất châu Phi.
Theo Bộ trưởng, Hội nghị P4G tạo ra không gian để thế giới chuyển đổi hệ thống lương thực thực phẩm và cùng nhau xây dựng tương lai bền vững. “Chúng ta cần có trách nhiệm nhân rộng công nghệ, kỹ thuật; chia sẻ các hoạt động đổi mới cũng như kinh nghiệm thúc đẩy quá trình chuyển đổi bền vững”.
Sự đột phá khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo có thể đẩy nhanh quá trình chuyển đổi hệ thống lương thực thực phẩm với tốc độ và quy mô theo nhu cầu của từng quốc gia.
Đối với thực phẩm, Ethiopia đã khởi động sáng kiến “Bounty of the Basket” tập trung vào các loại protein có nguồn gốc từ động vật, tập trung vào sữa, gia cầm, cá, mật ong và các sản phẩm thịt. “Sự đột phá trong sáng kiến là giải pháp biogas để giảm phát thải khí nhà kính trong chăn nuôi. Nhờ đó, chúng tôi không đánh đổi môi trường lấy sản lượng”, Bộ trưởng Ethiopia chia sẻ.
Các mục tiêu khí hậu của Ethiopia tập trung vào giảm phát thải, bảo tồn trữ lượng carbon rừng và thực hành nông nghiệp thông minh thích ứng với khí hậu…
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, suy giảm tài nguyên, và nhu cầu lương thực ngày càng tăng, chuyển đổi hệ thống lương thực theo hướng xanh, số và bền vững không còn là lựa chọn, mà là con đường tất yếu. Theo PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường, các chính sách quốc gia đang từng bước hoàn thiện để thúc đẩy ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp. Việt Nam đã ban hành Chiến lược tăng trưởng xanh, Chiến lược chuyển đổi số nông nghiệp, và các chương trình thúc đẩy nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp carbon thấp…
Cùng với đó, các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức quốc tế đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi xanh, chuyển đổi số hệ sinh thái nông nghiệp bền vững. TS.Thọ cho rằng cần hợp tác đa phương, chia sẻ tri thức, tài chính, công nghệ để cùng nhau vượt qua các rào cản về chi phí, năng lực và tiếp cận thị trường. Các tổ chức như FAO, IFAD, UNDP, ADB, GCF... đã và đang đồng hành cùng Việt Nam trong chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực cho nông dân, thúc đẩy mô hình hợp tác công- tư trong nông nghiệp bền vững.
Từ thực tiễn tại các địa phương trong nước và nhiều quốc gia đã chứng kiến nhiều mô hình nông nghiệp xanh thành công. “Thành công trong chuyển đổi xanh, chuyển đổi số cho thấy khi người nông dân được trao công cụ, kiến thức và niềm tin, họ là lực lượng tiên phong cho cuộc cách mạng nông nghiệp xanh”, TS.Thọ nhấn mạnh.
Cách mạng xanh 4.0 không là lựa chọn mà là tất yếu
Nếu thế giới không chia sẻ trách nhiệm và lợi ích một cách công bằng thì sẽ không thể đòi hỏi các quốc gia có thu nhập thấp gìn giữ tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững.
Việt Nam, từ thiếu lương thực đến quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu
Sáng 17/4, phát biểu tại phiên thảo luận về nội dung “Bắt nhịp cách mạng xanh 4.0: Hành trình chuyển đổi hệ thống lương thực cho kỷ nguyên bền vững” trong khuôn khổ Diễn đàn P4G, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam Đỗ Đức Duy khẳng định: “Nếu thế giới không chia sẻ trách nhiệm và lợi ích một cách công bằng, thì sẽ không thể đòi hỏi các quốc gia có thu nhập thấp gìn giữ tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững”.
Theo Bộ trưởng Đỗ Đức Duy, cách mạng xanh 4.0 là sự kết hợp của các công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, công nghệ sinh học và số hóa trong sản xuất nông nghiệp. Mục tiêu của cuộc cách mạng này không chỉ là tăng năng suất mà còn là giảm phát thải, sử dụng hiệu quả tài nguyên và đảm bảo sinh kế cho người dân.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhấn mạnh, Việt Nam là một minh chứng cho sự chuyển mình mạnh mẽ. Từ một quốc gia từng phải đối mặt với đói nghèo và thiếu lương thực, nay Việt Nam đã vươn lên thành một trong những quốc gia xuất khẩu nông sản lớn nhất thế giới, hiện diện tại hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang đối mặt với những thách thức lớn khi chỉ có khoảng 13 triệu ha đất nông nghiệp có thể sử dụng. Sự suy thoái đất, biến đổi khí hậu và áp lực dân số khiến việc phát triển nông nghiệp xanh, thông minh và bền vững trở nên cấp thiết.
Chính phủ Việt Nam đã triển khai hàng loạt chính sách trọng điểm như:
- Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững đến 2030, tầm nhìn 2050
- Kế hoạch hành động quốc gia chuyển đổi hệ thống lương thực thực phẩm minh bạch, trách nhiệm, bền vững
- Đề án phát triển khoa học và chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp
- Đề án phát triển bền vững 1 triệu hecta lúa chất lượng cao và phát thải thấp tại Đồng bằng sông Cửu Long
- Từ công nghệ đến chính sách – Từ nông dân đến doanh nghiệp
Từ công nghệ đến chính sách
Từ góc nhìn của ông Lawrence Sai, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Thủy sản Nam Phi, thế giới đang chịu ảnh hưởng nặng nề từ hiện tượng El Ninõ, đe dọa trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và an ninh lương thực tại nhiều quốc gia, trong đó có Nam Phi.
Theo ông Lawrence Sai, việc phụ thuộc quá mức vào tài nguyên thiên nhiên đã khiến hệ thống lương thực toàn cầu trở nên mong manh. Chuyển đổi mô hình nông nghiệp - thông qua ứng dụng công nghệ, giống cây chịu hạn, tái chế nước thải và quản lý tài nguyên hiệu quả - là những giải pháp then chốt.
“Ngành nông nghiệp không chỉ là nạn nhân của biến đổi khí hậu mà còn là tác nhân gây phát thải lớn, chiếm khoảng 22% khí thải nhà kính toàn cầu. Với khoảng 690 triệu người sống dưới mức nghèo khổ và hơn 83 triệu người đối mặt với rủi ro an ninh lương thực do El Ninõ, do vậy, việc chuyển đổi sang mô hình nông nghiệp bền vững là bắt buộc. Công nghệ chỉ có ý nghĩa khi nó giúp cải thiện đời sống người dân, đặc biệt là nông dân quy mô nhỏ”, ông Sai nói.
Các đại biểu quốc tế đều thống nhất rằng, chuyển đổi hệ thống lương thực đòi hỏi sự tham gia của toàn bộ chuỗi giá trị. Từ nhà hoạch định chính sách, nhà khoa học, doanh nghiệp, nhà đầu tư, cho đến người nông dân - tất cả cần cùng hành động.
Theo Phó Chủ tịch Quỹ quốc tế về phát triển nông nghiệp (IFAD) Donald Brown, công nghệ không chỉ là công cụ mà còn là yếu tố thay đổi cuộc chơi. Ông đề cập các sáng kiến như nông nghiệp chính xác, nền tảng kỹ thuật số, biotechnology và quản lý tài nguyên thông minh như nước và đất, nhằm tối ưu hóa năng suất, giảm thiểu chất thải và duy trì tính bền vững trong sản xuất nông nghiệp.
Khuyến nghị về chính sách, Phó Chủ tịch IFAD cho rằng, cần có sự hợp tác toàn diện giữa các bên công - tư - nông dân để xây dựng một hệ thống lương thực bền vững.
Từ nông dân đến doanh nghiệp
Chia sẻ kinh nghiệm từ Việt Nam, Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ Nguyễn Thị Ngọc Điệp giới thiệu về sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), đặc biệt là trong việc chuyển đổi từ phương thức canh tác truyền thống sang mô hình nông nghiệp xanh, sử dụng công nghệ cao và thích ứng với biến đổi khí hậu.
“Dự án VnSAT (Chuyển đổi nông nghiệp bền vững) đã giúp nông dân giảm lượng giống, sử dụng phân bón sinh thái, và quản lý dịch hại theo phương pháp IPM (Quản lý dịch hại tổng hợp). Các giải pháp này đã giúp tăng năng suất, giảm chi phí sản xuất, và giảm ô nhiễm môi trường. Cần Thơ cũng tham gia vào dự án 1 triệu ha lúa xanh, với việc triển khai mô hình canh tác lúa chất lượng cao và phát thải thấp. Các mô hình thí điểm có hiệu quả trong việc giảm giồ́ng, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật. Rơm rạ cũng được tận dụng trong việc trồng nấm và sản xuất phân bón hữu cơ, giảm thiểu tác động xấu đến môi trường”, bà Ngọc cho biết.
Về các giải pháp trong tương lai, TP Cần Thơ sẽ tiếp tục đẩy mạnh các giải pháp như chuyển đổi số, liên kết chuỗi giá trị, và ứng dụng khoa học công nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất. Cùng với đó là nâng cao năng lực hợp tác xã để tạo nền tảng vững mạnh cho việc ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ.
Đánh giá về chuyển đổi sang nông nghiệp xanh tại Việt Nam, Đại sứ Đan Mạch tại Việt Nam Nicolai Rix nhấn mạnh, việc Việt Nam đã thành lập Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cho thấy Chính phủ đang hướng tới một chiến lược phát triển nông nghiệp toàn diện, kết hợp giữa bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
“Đan Mạch có hơn 90% nông dân sử dụng công nghệ nông nghiệp chính xác như máy móc điều khiển GPS và AI trong việc quản lý dinh dưỡng cây trồng, giảm phát thải khí nhà kính và tăng năng suất. Sự hợp tác lâu dài giữa Đan Mạch và Việt Nam trong việc thúc đẩy nông nghiệp bền vững, bao gồm việc giảm phát thải, sản xuất chăn nuôi ít phát thải và mô hình nông nghiệp tuần hoàn. Đan Mạch cam kết tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong việc phát triển các dự án nông nghiệp xanh thông qua các hợp tác chiến lược và đầu tư vào đổi mới công nghệ”, Đại sứ khẳng định.
Đại sứ Đan Mạch Nicolai Rix cũng nhận định, cách mạng xanh 4.0 không chỉ là sự tiến bộ công nghệ mà là một cam kết tập thể để bảo vệ hành tinh và đảm bảo lương thực cho các thế hệ tương lai
Bắt nhịp Cách mạng xanh 4.0 trong chuyển đổi hệ thống lương thực: Ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay
Ngày 17/4, trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn Đối tác tăng trưởng xanh và mục tiêu toàn cầu (P4G) lần thứ tư tại Hà Nội đã diễn ra phiên thảo luận cấp Bộ trưởng với chủ đề 'Bắt nhịp Cách mạng xanh 4.0: Hành trình chuyển đổi hệ thống lương thực cho kỷ nguyên bền vững'.
Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam Đỗ Đức Duy phát biểu tại phiên thảo luận. (Ảnh: Thu Hà)
Tham dự phiên thảo luận có Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam Đỗ Đức Duy, Bộ trưởng Nông nghiệp Ethiopia Girma Amente, Thứ trưởng Môi trường, Lâm nghiệp và Thủy sản Nam Phi Narend Singh, Chủ tịch và Giám đốc điều hành Viện Tài nguyên thế giới Ani Dasgupta, Phó Chủ tịch Quỹ Phát triển Nông nghiệp quốc tế (IFAD) Donal Brown cùng sự tham dự của đại diện các tổ chức quốc tế và khu vực, các viện nghiên cứu và cộng đồng doanh nghiệp của các nước, cùng lãnh đạo các bộ, ngành địa phương Việt Nam.
Cách mạng xanh 4.0 là yêu cầu tất yếu, mệnh lệnh hành động
Phát biểu tại sự kiện, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy cho rằng, Cách mạng xanh 4.0 không đơn thuần là một lựa chọn mà là một yêu cầu tất yếu, một mệnh lệnh hành động. "Đây là cuộc cách mạng mang theo kỳ vọng đổi mới toàn diện hệ thống lương thực thông qua ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, công nghệ sinh học và các giải pháp đổi mới sáng tạo", Bộ trưởng nhấn mạnh.
Cách mạng xanh 4.0 không chỉ giúp tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, mà còn giảm tiêu hao tài nguyên, cắt giảm phát thải và tăng khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu, qua đó tạo tiền đề nâng cao sinh kế của người nông dân, tăng cường phúc lợi cho người tiêu dùng.
Đối với Việt Nam, từ một quốc gia xuất phát điểm thấp, từng phải đối mặt với đói nghèo và khủng hoảng lương thực song ngày nay đã vươn lên trong nhóm các nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới, đưa các sản phẩm nông sản có mặt ở gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Tuy nhiên, nền nông nghiệp Việt Nam hiện nay đang phải đối mặt nhiều thách thức, với chỉ khoảng 10,3 triệu hecta đất có thể sử dụng trong nông nghiệp, trong khi khí hậu tiếp tục nóng lên.
Toàn cảnh phiên thảo luận. (Ảnh: Thu Hà)
Theo Bộ trưởng, để giải quyết những thách thức đó, Việt Nam đang từng bước thực hiện quá trình chuyển đổi nông nghiệp theo hướng xanh, thông minh và bền vững, trong đó, xác định đổi mới sáng tạo, tập trung thực chất vào nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, chuyển đổi số là cốt lõi tạo ra đột phá cho ngành nông nghiệp.
Tuy nhiên, không một quốc gia nào có thể đơn độc đi đến thành công trong hành trình chuyển đổi hệ thống lương thực mà đòi hỏi sự chung tay hành động giữa các quốc gia, tổ chức quốc tế, doanh nghiệp, nhà khoa học và người nông dân. Đặc biệt, trong bối cảnh trật tự thương mại toàn cầu đang có nguy cơ phân mảnh, khi những hàng rào thuế quan và chủ nghĩa bảo hộ đang nổi lên.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy khẳng định, Việt Nam tin tưởng chỉ có hợp tác đa phương thực chất, trên nền tảng công bằng và tôn trọng lẫn nhau, mới giúp chúng ta cùng vượt qua những thách thức to lớn của an ninh lương thực, đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu, phát triển công bằng và bền vững cho mỗi quốc gia và trên quy mô toàn cầu.
Tại phiên thảo luận, các đại biểu tập trung vào 3 nội dung chính, gồm các chính sách thúc đẩy ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo trong sản xuất nông nghiệp; vai trò của các cơ quan quản lý, các tổ chức quốc tế và khu vực tư nhân trong việc chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tài chính, kỹ thuật và nâng cao năng lực cho người làm nông nghiệp; và chia sẻ những kinh nghiệm, mô hình và thực tiễn tốt từ các quốc gia trong phát triển nông nghiệp xanh, tuần hoàn, đồng thời bảo đảm an ninh lương thực và sinh kế cho người dân.
Công nghệ là quan trọng
Bộ trưởng Nông nghiệp Ethiopia Girma Amente chia sẻ về giải pháp tổng thể để bảo đảm an ninh lương thực, hướng tới giải quyết được các thách thức trong hệ thống cung ứng. (Ảnh: Thu Hà)
Đồng tình với Bộ trưởng Đào Đức Duy, Bộ trưởng Nông nghiệp Ethiopia Girma Amente nhấn mạnh, thế giới đang đối mặt thách thức an ninh lương thực nghiêm trọng, những cũng đang có cơ hội để thay đổi hệ thống lương thực theo hướng thực bền vững hơn và Hội nghị thượng đỉnh P4G lần thứ tư sẽ cung cấp nền tảng để chia sẻ các giải pháp thúc đẩy điều này.
Đề cập kinh nghiệm từ Ethiopia, theo Bộ trưởng Amente cho biết, quốc gia của ông đã có giải pháp tổng thể để bảo đảm an ninh lương thực, hướng tới giải quyết được các thách thức trong hệ thống cung ứng. Khoảng 80% sáng kiến quốc gia của Ethiopia tương đồng với các nước, tích hợp với các sáng kiến về khí hậu có sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc.
Bên cạnh đó, ứng dụng công nghệ là điều quan trọng giúp tăng năng suất trong nông nghiệp. "Sử dụng nông nghiệp thông minh, thân thiện với khí hậu sẽ giúp tăng cường năng suất ở đồng bằng, hỗ trợ khu vực trung nguyên, cao nguyên", ông nói.
Ngoài ra, cần có các biện pháp nâng cao năng lực cho người dân địa phương, mở rộng cơ khí hóa nông nghiệp, hỗ trợ và ưu đãi thuế quan. Cần xây dựng các chương trình dịch vụ để cung cấp đào tạo kỹ năng cho lao động nông nghiệp, xây dựng mục tiêu khí hậu nhắm tới giảm phát thải carbon, xây dựng nông nghiệp thông minh thân thiện với khí hậu.
Thứ trưởng Môi trường, Lâm nghiệp và Thủy sản Nam Phi Narend Singh (ngoài cùng bên trái) tại phiên thảo luận. (Ảnh: Thu Hà)
Chia sẻ kinh nghiệm từ Nam Phi, Thứ trưởng Môi trường, Lâm nghiệp và Thủy sản Narend Singh, cho biết, một số công ty khởi nghiệp ở nước này đã đưa ra sáng kiến về áp dụng công nghệ để thu thập dữ liệu, giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước đưa ra các điều luật hợ lý, hay sử dụng năng lượng Mặt trời và tái tạo để bảo vệ nông nghiệp.
Ông Singh lưu ý, trong một thế giới đang phân mảnh, đối mặt nhiều vấn đề địa chính trị, kinh tế, nhiều quốc gia đang bị bỏ lại phía sau vì biến đổi khí hậu, trong đó, các ngành nông lâm nghiệp đang chịu ảnh hưởng nặng nề đòi hỏi phải có những lựa chọn sáng suốt để bảo đảm môi trường bền vững
Thứ trưởng Nam Phi đề xuất một số giải pháp như áp dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo, sử dụng nước bền vững, bảo vệ sức khỏe đất và tìm ra biện pháp bảo đảm bền vững đất, cùng với đó, giúp đỡ, hỗ trợ các hộ dân nhỏ tiếp cận các kiến thức về bảo vệ nguồn đất, nước,
"Cần bảo đảm cơ hội cả hai bên cùng thắng để thay đổi được nền nông nghiệp và có các tác động tích cực với môi trường", ông nói.
Trong khi đó, Chủ tịch và Giám đốc điều hành Viện Tài nguyên thế giới Ani Dasgupta cho rằng, cần ứng dụng những bằng chứng khoa học như những phương án trồng lúa gạo năng suất cao, phát thải thấp mà Việt Nam đang thử nghiệm không chỉ vào quy trình sản xuất mà còn quy trình lưu trữ để tránh lãng phí. Tuy nhiên, để ứng dụng được những kết quả khoa học vào thực tiễn cần phải có sự hợp tác liên ngành, liên bộ cũng như khối doanh nghiệp, tư nhân.
Đổi mới sáng tạo 'chạm' đúng điểm đến
Phó Chủ tịch Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế (IFAD) Donal Brown (ngoài cùng bên trái) trao đổi bên lề phiên thảo luận. (Ảnh: Thu Hà)
Theo đại diện IFAD, Phó Chủ tịch Donal Brown, đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp chỉ có thể hiệu quả khi đến đúng điểm, trong đó, các hộ nông dân nhỏ cũng cần phải tiếp cận được với các công nghệ mới này. Bộ Nông nghiệp cần biến những ý tưởng thành hành động, có các chính sách để giúp người nông dân, người nghèo, dân tộc thỉeu số không bị bỏ lại phía sau.
"Các chính sách này đảm bảo ngành nông nghiệp không chỉ có sản lượng tốt mà còn bền vững", ông Brown nhấn mạnh.
Lưu ý Cách mạng Xanh 4.0 không chỉ là câu chuyện về đổi mới sáng tạo – mà còn là hành trình trao quyền cho người dân, bảo vệ hành tinh và không để ai bị bỏ lại phía sau, Phó Chủ tịch IFAD kêu gọi cộng đồng quốc tế cùng cam kết thúc đẩy đổi mới sáng tạo để chuyển đổi hệ thống lương thực, bảo đảm rằng công nghệ sẽ là cầu nối – chứ không phải rào cản.
Phó Chủ tịch Brown nõi rõ: "Chúng ta hãy cùng cam kết xây dựng những chính sách táo bạo hỗ trợ nông dân và phát triển bền vững, kiến tạo một hệ sinh thái nơi nông nghiệp có thể phát triển mạnh mẽ. Hãy cùng cam kết củng cố quan hệ đối tác để triển khai giải pháp trên quy mô lớn, vun đắp tinh thần hợp tác vượt qua mọi ranh giới".
Quan chức IFAD nhấn mạnh, thành công của Cách mạng xanh 4.0 sẽ phụ thuộc vào cam kết tập thể đối với sự toàn diện và phát triển bền vững.
Tại phiên thảo luận, các đại biểu đã lắng nghe các diễn giả đến từ các chính quyền địa phương, tổ chức quốc tế, doanh nghiệp, quỹ đầu tư… Từ đó, đề xuất các giải pháp thúc đẩy ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo trong sản xuất nông nghiệp nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên, nâng cao năng suất, chất lượng và đặc biệt là giảm phát thải.
Bài toán toàn cầu
Phát biểu kết luận phiên thảo luận, Bộ trưởng Đào Đức Duy bày tỏ ấn tượng đặc biệt với những phát biểu tâm huyết và cụ thể của các đại biểu về sáng kiến chính sách lồng ghép đổi mới sáng tạo vào chương trình nông nghiệp vì người nông dân; bảo đảm công lý khí hậu và công lý lương thực; nguồn lực và cơ chế tài chính hỗ trợ nông dân sản xuất quy mô nhỏ và cộng đồng dễ bị tổn thương; vai trò của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo...
Phiên thảo luận cho thấy một thực tế rằng, chuyển đổi hệ thống lương thực, thực phẩm không còn là câu chuyện của từng quốc gia, mà là bài toán toàn cầu; không chỉ là việc của ngành nông nghiệp, mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống – từ chính phủ, doanh nghiệp, tổ chức quốc tế, đến từng người nông dân.
Bộ trưởng Đào Đức Duy và Bộ trưởng Nông nghiệp Ethiopia Girma Amente bên lề phiên thảo luận. (Ảnh: Thu Hà)
Qua phiên thảo luận, các đại biểu đã gợi mở nhiều giải pháp cụ thể có thể hành động ngay. Một là, tăng cường đầu tư cho chuyển đổi số và công nghệ xanh trong nông nghiệp, gắn với mục tiêu giảm phát thải, nâng cao năng suất và minh bạch chuỗi cung ứng.
Hai là, phát triển hệ thống tài chính xanh và thị trường Carbon công bằng, hiệu quả và dễ tiếp cận cho nông dân và doanh nghiệp quy mô nhỏ.
Ba là, tăng cường năng lực địa phương – từ chia sẻ dữ liệu mở, đào tạo kỹ năng số, đến chính sách hỗ trợ phù hợp với đặc thù vùng và đối tượng yếu thế.
Bốn là, phát triển các mô hình hợp tác công – tư – cộng đồng (PPCP: Public-Private-Community Partnership), tận dụng thế mạnh của từng bên để chia sẻ rủi ro, đồng hành trong hành động.
Cuối cùng, hợp tác đa phương thực chất là con đường duy nhất để cùng nhau vượt qua các khủng hoảng lương thực, khí hậu, sinh kế và môi trường.
Về phía Việt Nam, Bộ trưởng tái khẳng định cam kết tiếp tục là một đối tác hành động tích cực và trách nhiệm cùng các quốc gia, tổ chức quốc tế và doanh nghiệp trong hành trình chuyển đổi hệ thống lương thực toàn cầu theo hướng minh bạch, trách nhiệm và bền vững.
Trích câu hát "Ngày mai đang bắt đầu từ ngày hôm nay" trong bài hát Hát về cây lúa hôm nay của Việt Nam, Bộ trưởng Đào Đức Duy kêu gọi: "Chúng ta hãy cùng biến những cam kết hôm nay thành hành động cụ thể ngày mai, vì một tương lai nơi mọi người dân – từ vùng cao Ethiopia đến đồng bằng Nam Phi, từ đồng ruộng Cần Thơ - Việt Nam đến trang trại hữu cơ Ireland – đều được hưởng lợi từ hệ thống thực phẩm công bằng, thông minh và xanh".
Xem thêm các bài viết về Hội nghị thượng đỉnh P4G Việt Nam 2025 trên TG&VN tại đây.
Việt Nam đăng cai Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn Đối tác vì tăng trưởng xanh và mục tiêu toàn cầu (P4G) lần thứ tư năm 2025, diễn ra từ ngày 14-17/4.
Đây là cơ chế hợp tác đa phương do Đan Mạch khởi xướng từ năm 2017 và có sự tham gia của 8 nước thành viên khác là Việt Nam, Hàn Quốc, Ethiopia, Kenya, Colombia, Hà Lan, Indonesia, Nam Phi và 5 tổ chức đối tác là Viện Tài nguyên thế giới (WRI), Viện Tăng trưởng xanh toàn cầu (GGGI), mạng lưới C40 (C40 cities), Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) và Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC).
P4G đã trải qua 3 kỳ Hội nghị thượng đỉnh do Đan Mạch, Hàn Quốc và Colombia tổ chức, nhằm thúc đẩy hợp tác đối tác công-tư và tạo ra một liên minh các nhà lãnh đạo chính trị thực hiện Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu và các mục tiêu phát triển bền vững 2030.
Việc đăng cai tổ chức Hội nghị thượng đỉnh năm nay được xem là cơ hội để Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng quảng bá du lịch xanh, tăng cường quan hệ với các đối tác, tranh thủ nguồn lực cho phát triển kinh tế-xã hội, ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững của đất nước.
Đề nghị IFAD hỗ trợ Việt Nam thực hiện dự án 1 triệu héc-ta lúa phát thải thấp
Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị Quỹ Quốc tế về Phát triển nông nghiệp (IFAD) cùng các đối tác khác hỗ trợ Việt Nam thực hiện thành công dự án trồng 1 triệu héc-ta lúa phát thải thấp, thúc đẩy phát triển thị trường các-bon.
Ngày 17/4, tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã tiếp ông Donal Brown, Phó Chủ tịch IFAD nhân dịp tham dự Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn Đối tác vì Tăng trưởng xanh và mục tiêu toàn cầu 2030 (P4G) lần thứ 4.
Thủ tướng Chính phủ đánh giá cao vai trò của IFAD và sự hợp tác hiệu quả của IFAD thời gian qua đối với công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp.
Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp Phó Chủ tịch IFAD Donal Brown ngày 17/4. Ảnh: VGP
Thủ tướng nhấn mạnh, Việt Nam đặc biệt quan tâm đến phát triển nền nông nghiệp xanh, bền vững. Thủ tướng đề nghị IFAD tăng cường cho vay vốn ưu đãi và thúc đẩy viện trợ không hoàn lại đối với các dự án ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp, thúc đẩy nông nghiệp phát thải thấp, hỗ trợ người nông dân cơ giới hóa sản xuất, đầu tư vào dây chuyền sản xuất nông nghiệp hữu cơ, tăng năng suất lao động và giá trị các sản phẩm nông nghiệp ra thị trường trong nước và xuất khẩu.
Đặc biệt, Thủ tướng đề nghị IFAD cùng với các đối tác khác hỗ trợ Việt Nam thực hiện thành công dự án trồng 1 triệu héc-ta lúa phát thải thấp, thúc đẩy phát triển thị trường các-bon, hỗ trợ người nông dân ở các địa phương vùng sâu vùng xa.
Phó Chủ tịch IFAD khẳng định IFAD luôn là một người bạn tốt của Việt Nam và bày tỏ ấn tượng về những kết quả Việt Nam đạt được trong phát triển kinh tế, xã hội.
Ông hoan nghênh việc Việt Nam đang tiến hành những bước đi mạnh mẽ nhằm tinh giản bộ máy, cải cách hành chính, qua đó tạo điều kiện cho hoạt động của các đối tác quốc tế ở Việt Nam.
Phó Chủ tịch IFAD đồng thời đánh giá cao chính sách phát triển xã hội của Việt Nam, nhất là nỗ lực hỗ trợ người dân tộc thiểu số và bảo đảm bình đẳng giới. Ông hoan nghênh sự hợp tác hiệu quả giữa IFAD và Việt Nam, cho rằng những ưu tiên của IFAD hoàn toàn phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.
Ông khẳng định sẽ tiếp tục hợp tác chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương của Việt Nam trong chia sẻ thông tin, kinh nghiệm ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp, thúc đẩy hợp tác Nam - Nam và đối tác công - tư.
Ngoài việc cho vay vốn, Phó Chủ tịch IFAD khẳng định IFAD sẽ tiếp tục thúc đẩy các thể chế tài chính, đối tác quốc tế cung cấp viện trợ không hoàn lại trong lĩnh vực nông nghiệp bền vững, hỗ trợ người nông dân, xây dựng năng lực cảnh báo sớm, ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh.
IFAD, thành lập năm 1977 với trụ trở tại Rome (Ý), là tổ chức chuyên môn thuộc Liên Hợp Quốc, đóng vai trò là một định chế tài chính quốc tế cho vay vốn trong lĩnh vực nông nghiệp, hỗ trợ nông dân, bảo đảm an ninh lương thực. Việt Nam trở thành thành viên của IFAD từ năm 1977.
Chuyên gia Liên hợp quốc: Việt Nam có thế mạnh về nông nghiệp giá trị cao
Ông Maximo Torero, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) cho rằng Việt Nam có thế mạnh nông nghiệp giá trị cao, hướng đến phát triển bền vững.
Trả lời phóng viên bên lề Hội nghị thượng đỉnh Đối tác vì Tăng trưởng xanh và Mục tiêu toàn cầu 2030 (P4G) Việt Nam 2025, ông Máximo Torero, Kinh tế trưởng, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp quốc (FAO) nhận định về những tiến bộ đáng kể và vai trò tiên phong của Việt Nam trong các nỗ lực chuyển đổi xanh và chống biến đổi khí hậu, kiến tạo nông nghiệp bền vững trong khu vực.
- Ông bình luận thế nào về vai trò của Việt Nam trong việc thúc đẩy các sáng kiến tại Hội nghị P4G lần này? Một nước nông nghiệp như Việt Nam có thể đối mặt với những thách thức nào?
Việt Nam là một quốc gia đạt được nhiều tiến bộ đáng kể trong những năm gần đây. Hiện nay, Việt Nam đang tài trợ cho sáng kiến P4G và hướng đến việc chuyển đổi hệ thống nông nghiệp–thực phẩm theo hướng có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu. Điều này rất quan trọng bởi vì các hiện tượng khí hậu cực đoan sẽ xảy ra ngày càng thường xuyên và nghiêm trọng hơn. Do đó, các quốc gia cần phải tăng cường khả năng chống chịu với những thay đổi này, bao gồm: nhiệt độ khắc nghiệt, thiếu hoặc thừa nước, biến đổi khí hậu, di cư của loài vật và con người, cũng như sự tiến hóa của sâu bệnh.
Việt Nam cần chuẩn bị cho những thách thức đó. Điều đáng ghi nhận là ngoài yếu tố thích ứng, chúng tôi cũng đánh giá cao nỗ lực chuyển đổi bền vững theo thời gian mà Việt Nam đang thực hiện trong khuôn khổ P4G. Mục tiêu là đảm bảo khả năng sản xuất thực phẩm ổn định lâu dài – cho hôm nay và cả ngày mai.
Tôi đã đến Việt Nam cách đây khoảng 20 năm và nhận thấy sự chuyển mình mạnh mẽ. Việt Nam có tiềm năng lớn để tiếp tục hướng đi này, nhưng tất nhiên, cũng tồn tại không ít thách thức.
Ngành nông–lương thực đóng vai trò quan trọng không chỉ vì đảm bảo quyền được ăn, mà còn tạo điều kiện cho một chế độ ăn lành mạnh, giúp giảm thiểu các bệnh không lây nhiễm. Tuy nhiên, hệ thống này cũng để lại nhiều tác động ngoại vi như phát thải khí nhà kính (chiếm khoảng 1/3 tổng lượng phát thải toàn cầu), sử dụng tài nguyên đất, nước và ảnh hưởng tới đa dạng sinh học.
Điều cần thiết là phải sản xuất theo cách bền vững để giảm thiểu những tác động đó. Điều này không miễn phí – nó cần đầu tư, nhưng lợi ích mang lại là lâu dài: thực phẩm tốt cho mọi người, không chỉ cho hôm nay mà cả tương lai. Việt Nam đang đi đúng hướng khi đầu tư cho mục tiêu bền vững này.
Ông Máximo Torero, Kinh tế trưởng, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO). (Ảnh: Kiều Anh)
- FAO có những hợp tác như thế nào với Việt Nam để thúc đẩy các mục tiêu?
Trong khuôn khổ hợp tác giữa FAO và Việt Nam, chúng tôi đang tập trung vào bốn lĩnh vực chính: sản xuất tốt hơn, dinh dưỡng tốt hơn, môi trường tốt hơn và cuộc sống tốt hơn – được tích hợp trong chiến lược đến năm 2030 của FAO. Các yếu tố thúc đẩy gồm: khoa học, đổi mới, dữ liệu và thể chế.
Hiện tại, FAO đang hợp tác với Việt Nam thông qua Quỹ Khí hậu Xanh và các sáng kiến khác để đưa khoa học vào thực tiễn, tối ưu hóa sản xuất và hỗ trợ nông dân nhỏ thoát nghèo. Chúng tôi cũng đang cùng Việt Nam tiến hành sáng kiến Hand-in-Hand, một phương pháp tiếp cận lãnh thổ giúp gia tăng hiệu quả sản xuất và lợi ích cho người nông dân.
Chúng tôi đang cố gắng đạt đồng thời hai mục tiêu: chấm dứt nạn đói (SDG 2) và tuân thủ cam kết giới hạn nhiệt độ toàn cầu không quá 1,5°C theo Thỏa thuận Paris. Cả hai mục tiêu này đều đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ và hành động cụ thể.
Việt Nam không có một mô hình nông nghiệp duy nhất – thay vào đó là nhiều mô hình tùy thuộc vào bối cảnh và thách thức cụ thể. Việt Nam có thế mạnh về nông nghiệp giá trị cao, hệ thống tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, và có thể mở rộng quy mô sản xuất thông qua các mô hình hợp tác.
Phiên thảo luận cấp cao tại P4G 2025. (Ảnh: KT)
- Ông có nhận định gì về chủ đề hội nghị P4G năm nay và các sáng kiến công nghệ được đưa ra? Các công nghệ như trí tuệ nhân tạo có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu nông nghiệp bền vững của Việt Nam như thế nào?
Chủ đề của hội nghị thượng đỉnh P4G năm nay – “Chuyển đổi xanh bền vững, lấy con người làm trung tâm” – là rất phù hợp. Đây chính là cách tiếp cận cần thiết để cân bằng giữa hiệu quả, công bằng và tính bền vững.
Khuyến nghị của tôi với Việt Nam và các quốc gia P4G khác là: hãy tiếp tục đẩy mạnh việc đưa khoa học, bằng chứng và dữ liệu vào hành động. Để tăng khả năng chống chịu với khí hậu, các nước cần đầu tư vào hệ thống cảnh báo sớm, công nghệ giống cây trồng chịu hạn, chịu lũ và chống sâu bệnh.
Tại các hội nghị khí hậu như COP29, vấn đề tài chính khí hậu cần thay đổi. Hiện chỉ có khoảng 3–4% nguồn lực được phân bổ cho nông nghiệp–thực phẩm, trong khi đây là lĩnh vực thiết yếu và có thể cải thiện rất nhiều. Con số đó nên tăng lên 30–40%.
Về khởi nghiệp và công nghệ, tôi đánh giá cao các sáng kiến đổi mới được trưng bày tại triển lãm. Tuy nhiên, để mở rộng quy mô và tác động, các sáng kiến này cần được hỗ trợ tài chính và kỹ thuật. Trí tuệ nhân tạo (AI) là một công cụ tiềm năng lớn nếu được áp dụng đúng cách – chẳng hạn như các ứng dụng nhận diện bệnh cây, cung cấp khuyến nông bằng ngôn ngữ bản địa.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đề phòng nguy cơ "bị cô lập" kỹ thuật số. Các nông dân nhỏ có thể không tiếp cận được công nghệ nếu không có đầu tư công vào hàng hóa công cộng – đây là trách nhiệm của các chính phủ và cũng là mục tiêu mà FAO đang theo đuổi.
Với các quốc gia phát triển, họ có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy mô hình kinh tế xanh toàn diện. Họ cần hỗ trợ tài chính, kỹ thuật và tạo điều kiện để các quốc gia thu nhập thấp có thể chuyển đổi bền vững. Khí hậu là hàng hóa công cộng toàn cầu – và tất cả chúng ta đều phải có trách nhiệm.
5 giải pháp gợi mở để phát triển lương thực bền vững
Phát triển hệ thống tài chính xanh, tăng cường năng lực số, hợp tác đa phương..., là những giải pháp được nêu ra tại phiên thảo luận nông nghiệp trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh P4G, nhằm hướng tới hệ thống lương thực bền vững.
Trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh P4G, sáng 17/4 diễn ra phiên thảo luận nông nghiệp với chủ đề “Bắt nhịp Cách mạng Xanh 4.0: Hành trình chuyển đổi hệ thống lương thực cho kỷ nguyên bền vững”.
Chung tay hành động để chuyển đổi xanh
Tại phiên thảo luận, theo Thứ trưởng Môi trường, Lâm nghiệp và Thủy sản Nam Phi Narend Singh, ngành nông nghiệp, lâm nghiệp trên thế giới đang chịu ảnh hưởng nặng nề bởi khí thải nhà kính với khoảng 70% lượng nước đang bị thất thoát và nguồn đất nông nghiệp bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, các quốc gia cần chung tay bảo vệ hệ thống lương thực, nông nghiệp cũng như đảm bảo nguồn thủy sản bền vững, quan tâm đến sức khỏe đất đai.
Cùng quan điểm, Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam Đỗ Đức Duy khẳng định, không một quốc gia nào có thể đơn độc đi đến thành công trong hành trình chuyển đổi hệ thống lương thực. Điều này đòi hỏi sự chung tay hành động giữa các quốc gia, tổ chức quốc tế, doanh nghiệp, nhà khoa học và người nông dân.
“Việt Nam tin rằng, chỉ có hợp tác đa phương thực chất, trên nền tảng công bằng và tôn trọng lẫn nhau, mới giúp chúng ta cùng vượt qua những thách thức to lớn của an ninh lương thực, đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu, phát triển công bằng và bền vững cho mỗi quốc gia và trên quy mô toàn cầu”, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhận định.
Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy nhấn mạnh, không một quốc gia nào có thể đơn độc đi đến thành công trong hành trình chuyển đổi hệ thống lương thực. Ảnh: Lê Hồng Nhung - Mekong ASEAN
Chia sẻ về bối cảnh lương thực tại Việt Nam, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy cho biết, nông nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm an ninh lương thực, ổn định xã hội và sinh kế cho trên 60% dân số; đóng góp 12% GDP quốc gia (số liệu năm 2024).
Với nguồn tài nguyên hạn hẹp, Việt Nam ước tính chỉ có khoảng 10,3 triệu ha đất có thể sử dụng trong nông nghiệp, và ngành nông nghiệp cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn như biến đổi khí hậu…
Để giải quyết những thách thức trên, người đứng đầu ngành nông nghiệp cho biết, Việt Nam đang từng bước thực hiện quá trình chuyển đổi nông nghiệp theo hướng xanh, thông minh và bền vững. Cụ thể, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Kế hoạch hành động quốc gia chuyển đổi Hệ thống lương thực thực phẩm minh bạch, trách nhiệm, bền vững ở Việt Nam đến năm 2030.
Việt Nam cũng ban hành Đề án phát triển khoa học và ứng dụng, chuyển giao công nghệ thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp đến năm 2030 và Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030.
Trong khi đó, chia sẻ về những kinh nghiệm trong hành trình chuyển đổi hệ thống lương thực bền vững, Bộ trưởng Nông nghiệp Ethiopia Girma Amente cho biết, Ethiopia chịu ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu, đặc biệt đối với các ngành nghề quan trọng như nông nghiệp. Tuy nhiên, nhờ sử dụng nông nghiệp thông minh, thân thiện khí hậu cùng với nỗ lực tăng cường năng suất ở khu vực đồng bằng, hỗ trợ vùng trung nguyên và cao nguyên, quốc gia này trong 5 năm qua đã có thể đảm bảo năng suất lúa mạch cũng như trở thành nhà sản xuất hàng đầu về lương thực ở khu vực châu Phi.
Ethiopia đã xây dựng các giải pháp tổng thể, có lộ trình đảm bảo an ninh lương thực, ứng dụng công nghệ nhằm tăng năng suất, sử dụng AI trong việc giám sát cây trồng giúp ngành nông nghiệp nước này ứng phó với biến đổi khí hậu.
Ethiopia cũng đang mở rộng cơ khí hóa cho nông nghiệp như các chương trình hỗ trợ nông nghiệp, các ưu đãi, thuế quan khi xuất khẩu nông sản, ứng dụng máy móc nhiều hơn. Các trung tâm dịch vụ nông nghiệp được xây dựng để cung cấp chương trình đào tạo kỹ năng cho doanh nghiệp, người nông dân. Nước này cũng có sáng kiến về protein động vật, song hành với đó là việc thực hiện các giải pháp như tăng cường sản xuất sữa, gia cầm, gia súc để đẩy nhanh tiến triển tự chủ về mặt lương thực cho các hộ gia đình tại Ethiopia.
Phiên thảo luận nông nghiệp diễn ra sáng ngày 17/4 có sự tham gia của nhiều lãnh đạo, chuyên gia quốc tế. Ảnh: Lê Hồng Nhung - Mekong ASEAN
5 giải pháp được gợi mở
Theo Bộ trưởng Đỗ Đức Duy, các ý kiến tại phiên thảo luận đã gợi mở nhiều giải pháp cụ thể cho việc chuyển đổi hệ thống lương thực bền vững.
Theo đó, thứ nhất các quốc gia gia tăng đầu tư chuyển đổi số, công nghệ xanh trong nông nghiệp gắn với mục tiêu giảm phát thải, nâng cao năng suất và chuỗi cung ứng.
Thứ hai, các bên phát triển hệ thống tài chính xanh và thị trường carbon công bằng, hiệu quả và dễ tiếp cận cho nông dân và doanh nghiệp quy mô nhỏ.
Thứ ba, tăng cường năng lực địa phương, từ chia sẻ dữ liệu, đào tạo kỹ năng số đến chính sách hỗ trợ phù hợp với đặc thù của từng vùng và đối tượng yếu thế.
Thứ tư, các bên phát triển mô hình hợp tác công - tư - cộng đồng (Public - Private - Community Partnership), tận dụng thế mạnh từng bên để chia sẻ rủi ro trong từng hành động.
Thứ năm, hợp tác đa phương được xác định là con đường duy nhất để cùng nhau vượt qua khủng hoảng lương thực, thách thức về khí hậu và cũng như bảo đảm sinh kế, bảo vệ môi trường.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy khẳng định, Việt Nam cam kết là đối tác hành động tích cực và trách nhiệm, cùng các quốc gia và tổ chức quốc tế trong hành trình chuyển đổi hệ thống lượng thực theo hướng minh bạch, bền vững. “Chúng ta hãy biến cam kết hôm nay thành hành động ngày mai, vì một tương lai - nơi người dân từ vùng cao Ethiopia đến đồng bằng Nam Phi, từ đồng ruộng Cần Thơ đến trang trại hữu cơ Ailen đều hưởng lợi từ hệ thống thực phẩm minh bạch, trách nhiệm, công bằng và thông minh,” Bộ trưởng NN&MT Đỗ Đức Duy nhấn mạnh.
Hội nghị Thượng đỉnh Đối tác vì Tăng trưởng Xanh và Mục tiêu toàn cầu 2030 (P4G) Việt Nam năm 2025 lấy chủ đề "Chuyển đổi xanh bền vững, lấy con người làm trung tâm". Hội nghị P4G năm nay thu hút hơn 1.000 đại biểu đến từ 46 quốc gia, tổ chức quốc tế tham dự, trong đó có Thủ tướng Lào, Thủ tướng Ethiopia, Phó Thủ tướng Campuchia và Phó Tổng thư ký Liên Hợp Quốc; nhiều Bộ trưởng các nước, lãnh đạo các tổ chức quốc tế, giới học giả, chuyên gia, doanh nghiệp trên thế giới.
Huyện Thuận Châu hỗ trợ người dân sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững
Những năm qua, huyện Thuận Châu (Sơn La) đã hỗ trợ, hướng dẫn người dân phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, góp phần tốt vào công tác giảm nghèo.
Người dân xã Bản Lầm đang kiểm tra quá trình phát của cây cà phê.
Sát cánh cùng người dân phát triển kinh tế
Từ đầu năm 2024 đến nay, mặc dù thời tiết xấu làm ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất, nhưng huyện Thuận Châu (Sơn La) đã chỉ đạo kịp thời các đơn vị, phòng ban chuyên môn bám sát cơ sở hỗ trợ nông dân.
Huyện triển khai hiệu quả các dự án, chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn, góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững, tạo nguồn thu nhập ổn định cho người dân.
Huyện Thuận Châu có 29 xã, thị trấn; thu nhập của người dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, những năm qua huyện luôn quan tâm phát triển nông nghiệp theo hướng chuyên canh gắn với các tiêu chuẩn, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất theo chuỗi giá trị.
Đến nay, huyện đã dần hình thành một số vùng chuyên canh, như: Vùng chè tập trung ở các xã Chiềng Pha, Phổng Lái, Mường É, Phổng Lập; cây cà phê tại các xã Nậm Lầu, Bản Lầm, Chiềng Bôm, Phổng Lái, Chiềng Pha; trồng xoài tại xã Mường Khiêng, Bó Mười, Liệp Tè; chăn nuôi gia súc, trồng cây dược liệu, sơn tra ở các xã vùng cao.
Ông Huỳnh Minh Tuấn, Chủ tịch UBND huyện Thuận Châu cho biết, năm 2024, người dân trên địa bàn huyện chăm sóc 3.911ha cây ăn quả các loại, sản lượng quả đạt 11.186 tấn; 1.377ha chè, trong đó có 1.297ha cho thu hoạch, sản lượng chè búp đạt 11.520 tấn; 6.658ha cây cà phê, trong đó 5.327ha cho thu hoạch, sản lượng quả đạt 6.850 tấn.
Huyện có 1.659ha cây cao su, sản lượng 2.700 tấn mủ; 600ha cây trồng sản xuất theo hướng hữu cơ; 72ha cây trồng ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm, tưới ẩm; 25 cơ sở trồng trọt được cấp giấy chứng nhận VietGAP, với 658ha; 10 mã số vùng trồng các loại cây ăn quả.
Theo ông Tuấn, để nâng cao giá trị sản phẩm, huyện thường xuyên chỉ đạo các cơ quan chuyên môn tuyên truyền, vận động người dân liên kết thành lập các HTX, nhất là HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.
Đến nay, trên địa bàn huyện có 60 HTX, với 1.087 thành viên. Các HTX đã liên kết chặt chẽ trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông sản, tạo việc làm, thu nhập cho lao động. Doanh thu bình quân đạt hơn 1 tỷ đồng/HTX/năm; thu nhập bình quân của thành viên HTX 45 triệu đồng/năm.
Người dân xã Phổng Lăng, huyện Thuận Châu nhận bò giống để phát triển kinh tế.
Trồng cây ăn quả và chăn nuôi cho thu nhập cao
Anh Quàng Văn Hiên, Giám đốc HTX bản Ban Xa, xã Liệp Tè, huyện Thuận Châu, cho hay, hàng năm, xuất bán khoảng 24 - 25 tấn cá thương phẩm các loại, thu nhập gần 2 tỷ đồng. Ngoài nuôi cá, HTX còn trồng cây ăn quả trên đất dốc.
"Vụ xoài năm ngoái (2024), chúng tôi đã thu hơn 75 tấn quả xoài và 25 ha nhãn thì đã cho quả lứa bói đầu tiên. Riêng năm nay, ước tính sản lượng cây ăn quả sẽ cho sản lượng lớn hơn, vì thời tiết năm nay rất ủng hộ”, ông Hiên nói.
Theo báo cáo phát triển kinh tế của UBND huyện Thuận Châu, trong lĩnh vực chăn nuôi mặc dù bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh nhưng tổng đàn vẫn tăng so với cùng kỳ năm trước.
Tháng 4/2024, tại xã Bản Lầm, Mường É xuất hiện dịch tả lợn châu Phi và bệnh lở mồm long móng; 17 con bò, lợn bị chết, tổng trọng lượng trên 1.800kg.
Huyện tổ chức tiêm 47.750 liều vaccine lở mồm long móng; cấp 1.250 lít hóa chất phun khử trùng khu vực chuồng trại, chăn nuôi. Đến nay, toàn huyện có 7.500 con trâu, 48.520 con bò; 74.000 con lợn, thịt hơi xuất chuồng ước đạt 8.900 tấn; 761.000 con gia cầm…
Ông Quàng Văn Xiến, Chủ tịch UBND xã Phổng Lăng cho biết, xã được hỗ trợ gần 200 con bò giống từ nguồn vốn của Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025 và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025.
Đến nay, toàn xã có gần 29.000 con gia súc, gia cầm; trồng gần 40ha cỏ voi phục vụ chăn nuôi.
Nhiều mô hình sản xuất được hỗ trợ triển khai, như: Cây thanh long, mít ruột đỏ tại bản Còng, Thái Cóng, Lăng Nọi, với diện tích 1,5ha... Năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo của xã giảm còn 18,13%.
Người dân đang trao đổi với đoàn công tác của xã Chiềng Pha về chăm sóc cây chè.
Ông Huỳnh Minh Tuấn, Chủ tịch UBND huyện Thuận Châu thông tin, năm 2025 này, huyện đã đề ra chỉ tiêu duy trì ổn định 31 chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn được cơ quan có thẩm quyền xác nhận; xây dựng mới thêm 1 chuỗi nâng toàn huyện có 32 chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn.
Chăm sóc 1.377ha cây chè, sản lượng búp chè tươi đạt 11.500 tấn; 6.658ha cây cà phê, sản lượng cà phê nhân trên 5.000 tấn; 3.316ha cây ăn quả... xây dựng mới thêm 1 chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn được cơ quan có thẩm quyền xác nhận; tổng đàn trâu duy trì ở mức 7.550 con; đàn bò 50.000 con; lợn lên 75.000 con, đàn gia cầm có 770.000 con; sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 9.000 tấn; sản lượng khai thác thủy sản đạt 1.100 tấn…
Huyện tiếp tục thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; khuyến khích, thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; tăng cường liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp thông qua xây dựng các chuỗi liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị; quan tâm đầu tư xây dựng kiên cố hóa hệ thống mương nội đồng, hồ chứa, phai đập, các công trình bị ảnh hưởng sau mưa lũ để đảm bảo đủ nước tưới phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân…
Đòn bẩy làm giàu ở vùng quê xứ Nghệ
Với quyết tâm 'bứt phá từ nội lực', những năm qua, huyện Đô Lương (Nghệ An) đã không ngừng đổi mới trong phát triển nông nghiệp, từng bước chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên và nhu cầu thị trường.
Đặc biệt, trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, hàng loạt mô hình HTX, tổ hợp tác hoạt động hiệu quả đã hình thành, trở thành nhân tố nòng cốt trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho người dân vùng nông thôn huyện Đô Lương.
Cách làm thực tiễn
Từng được biết đến là vùng thuần nông với cơ cấu sản xuất truyền thống, dựa nhiều vào cây lúa và chăn nuôi nhỏ lẻ, Đô Lương đã đối mặt với không ít khó khăn trong việc xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế bền vững.
Tuy nhiên, trong vòng một thập kỷ trở lại đây, ngành nông nghiệp huyện Đô Lương đã có những bước chuyển mình rõ rệt, đặc biệt là từ sau khi xác định rõ định hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi là một trong những nhiệm vụ đột phá.
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng giúp người dân Đô Lương tăng hiệu quả sản xuất (Ảnh: BNA).
Để định hướng lại ngành nông nghiệp theo hướng hàng hóa, tạo đột phá, huyện đã tập trung rà soát lại quỹ đất, khí hậu, thổ nhưỡng để quy hoạch vùng sản xuất phù hợp, đồng thời mạnh dạn đưa giống mới, kỹ thuật mới vào canh tác, mở rộng liên kết với doanh nghiệp và thúc đẩy vai trò của các HTX.
Theo thống kê, toàn huyện hiện có trên 60 HTX nông nghiệp đang hoạt động, trong đó khoảng 20 HTX có quy mô sản xuất lớn, liên kết theo chuỗi giá trị, áp dụng cơ giới hóa và chuyển đổi số trong quản lý sản xuất – tiêu thụ.
Hiệu quả của các HTX, tổ hợp tác không chỉ tạo việc làm thường xuyên cho hàng trăm lao động tại chỗ mà còn mở ra hướng làm ăn hiệu quả, bền vững cho hàng nghìn hộ dân địa phương.
Một trong những mô hình tiêu biểu trong phát triển sản xuất, mang lại hiệu quả kinh tế vượt trội ở Đô Lương là HTX chăn nuôi tổng hợp Phong Thịnh (xã Đông Sơn).
Được thành lập từ năm 2018 với chỉ 7 thành viên, đến nay HTX đã có hơn 40 thành viên, phát triển trang trại chăn nuôi bò, lợn theo hướng an toàn sinh học, kết hợp sản xuất thức ăn chăn nuôi tại chỗ và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi. Mỗi năm, HTX cung cấp ra thị trường hơn 300 tấn thịt các loại, tạo việc làm cho 50 lao động địa phương với thu nhập bình quân 6 – 8 triệu đồng/tháng.
Gây dựng thương hiệu
Không chỉ trong chăn nuôi, lĩnh vực trồng trọt ở Đô Lương cũng ghi nhận nhiều điểm sáng. Tại xã Lưu Sơn, HTX Nông nghiệp công nghệ cao Lưu Sơn đã và đang phát triển mô hình trồng dưa lưới, rau quả trong nhà màng trên diện tích gần 3 ha.
Nhờ đầu tư bài bản, quy trình sản xuất khép kín và truy xuất nguồn gốc, sản phẩm của HTX không chỉ được tiêu thụ mạnh ở TP Vinh, Hà Nội mà còn xuất khẩu sang Lào, Thái Lan…
Bà Nguyễn Thị Hồng, thành viên HTX, chia sẻ: “Trước đây, tôi chỉ làm ruộng, thu nhập bấp bênh. Từ khi tham gia HTX, được tập huấn kỹ thuật, làm theo quy trình, thu nhập ổn định hơn rất nhiều. Có vụ tôi thu về gần 100 triệu đồng từ trồng dưa lưới”.
Tại xã Bài Sơn, mô hình của HTX sản xuất, kinh doanh và dịch vụ nông nghiệp Hùng Mạnh được xem là một trong những điểm sáng về sự sáng tạo trong cách làm nông nghiệp gắn với du lịch nông thôn.
Tận dụng lợi thế về thổ nhưỡng và khí hậu phù hợp với cây ăn quả, HTX đã mạnh dạn đầu tư gần 15 ha trồng các loại cây lâu năm như cam Xã Đoài, bưởi da xanh, quýt đường, theo hướng hữu cơ và đạt tiêu chuẩn VietGAP.
Sản xuất theo hướng hiện đại là xu hướng trong quá trình chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp ở Đô Lương (Ảnh: BNA).
Không dừng lại ở sản xuất nông nghiệp thuần túy, từ năm 2022, HTX Hùng Mạnh đã tiên phong kết hợp mô hình “vườn – trải nghiệm – tiêu thụ tại chỗ”, tạo ra một không gian nông trại mở, thu hút du khách khắp nơi đến tham quan, thu hái trái cây tận vườn và tìm hiểu quy trình sản xuất sạch.
Mỗi mùa thu hoạch, HTX đón hàng nghìn lượt khách, đặc biệt là học sinh các trường học trong huyện và các đoàn khách từ TP Vinh, Hà Tĩnh, Thanh Hóa...
Ngoài ra, HTX còn đầu tư hệ thống nhà sơ chế, kho lạnh và khu trưng bày sản phẩm OCOP tại chỗ để phục vụ khách tham quan và tiêu thụ trực tiếp. Cam Xã Đoài, bưởi da xanh của HTX hiện đã có mặt tại các chuỗi cửa hàng nông sản sạch tại Nghệ An, Hà Nội, và đang đàm phán để mở rộng kênh phân phối trong miền Nam.
Nhờ đầu tư bài bản, HTX mang lại hiệu quả kinh tế cao, tạo việc làm ổn định cho hơn 30 lao động thường xuyên, phần lớn là phụ nữ và người lớn tuổi tại địa phương, với mức thu nhập bình quân từ 5 – 7 triệu đồng/tháng. Vào mùa cao điểm, HTX còn huy động thêm hàng chục lao động thời vụ phục vụ khâu chăm sóc, thu hái và đón tiếp khách du lịch.
“Trước đây tôi chỉ làm ruộng lẻ tẻ, thu nhập không đáng bao nhiêu. Từ khi vào làm cùng HTX, công việc ổn định, thu nhập khá hơn, lại được tiếp xúc với kỹ thuật mới, với khách du lịch nên mở mang thêm nhiều thứ”, chị Nguyễn Thị Mai, thành viên liên kết của HTX Hùng Mạnh chia sẻ.
Giảm nghèo bền vững
Có thể thấy, một trong những thành công nhất trong quá trình chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp ở Đô Lương là sự phát triển, hoạt động hiệu quả của các HTX, tổ hợp tác. Trong thời gian qua, Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Nghệ An đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế hợp tác trên địa bàn huyện.
Cụ thể, Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh đã đẩy mạnh hỗ trợ xây dựng mô hình HTX ứng dụng công nghệ cao. Như trường hợp HTX rau củ quả sạch Duy Tân tại xã Tân Sơn, là một mô hình tiêu biểu được hỗ trợ xây dựng.
HTX Duy Tân ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất rau củ quả, như trồng rau thủy canh, tưới nhỏ giọt, và sử dụng lò đốt than sinh học BIOCHAR để sản xuất phân hữu cơ. Liên minh HTX tỉnh đã phối hợp hỗ trợ tập huấn kỹ thuật, cung cấp thiết bị và tổ chức quảng bá sản phẩm cho HTX.
Liên minh HTX Việt Nam cũng phối hợp với Liên minh HTX tỉnh Nghệ An tổ chức các diễn đàn xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu nhằm hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm cho các HTX. Các hoạt động này giúp các HTX tại Đô Lương mở rộng thị trường tiêu thụ và tăng cường liên kết sản xuất.
Ngoài ra, Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh tỉnh Nghệ An đã tổ chức các lớp tập huấn về ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong quản lý điều hành và hoạt động xúc tiến thương mại cho các HTX. Điều này nhằm nâng cao năng lực quản lý và khả năng cạnh tranh của các HTX trên địa bàn.
Sự phát triển của các HTX cùng thành công trong quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi không chỉ nâng cao giá trị sản xuất mà còn trực tiếp góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo ở Đô Lương.
Theo báo cáo của UBND huyện Đô Lương, đến cuối năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều toàn huyện giảm còn 1,95%, thấp hơn mức bình quân của tỉnh Nghệ An. Nhiều hộ gia đình thoát nghèo nhờ tham gia các mô hình kinh tế tập thể, được tiếp cận vốn, kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm.
Đặc biệt, các chương trình hỗ trợ của Nhà nước như Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Chương trình OCOP… cũng được địa phương lồng ghép hiệu quả với các dự án sản xuất. HTX sản xuất và tiêu thụ nông sản sạch Đức Tài (xã Tràng Sơn) là một điển hình khi tận dụng hỗ trợ của Chương trình OCOP để xây dựng nhà sơ chế, nâng cấp bao bì và đạt chứng nhận sản phẩm OCOP 3 sao cho hai mặt hàng: gạo thơm Tràng Sơn và trà dược liệu.
Để tiếp tục phát huy kết quả đạt được, huyện Đô Lương xác định thời gian tới sẽ tập trung vào một số giải pháp trọng tâm: quy hoạch lại vùng sản xuất theo hướng tập trung, chuyên canh; phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới; tăng cường ứng dụng chuyển đổi số, liên kết với doanh nghiệp và phát triển sản phẩm OCOP.
Bên cạnh đó, huyện cũng chú trọng đào tạo nghề, nâng cao trình độ cho lao động nông thôn; khuyến khích khởi nghiệp sáng tạo trong lĩnh vực nông nghiệp; hỗ trợ xây dựng thương hiệu và xúc tiến thương mại cho sản phẩm chủ lực.
Trồng khoai tây FL2215 cho thu nhập 200 - 207 triệu đồng/ha
Việc triển khai mô hình liên kết sản xuất giống khoai tây FL2215 chuyên phục vụ chế biến đang mở ra hướng đi hiệu quả và bền vững cho nông nghiệp hàng hóa tại các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, đặc biệt là Thanh Hóa và Hà Nam. Với sự vào cuộc đồng bộ của các doanh nghiệp, chính quyền địa phương và người nông dân, mô hình này đang chứng minh tiềm năng lớn trong việc hình thành chuỗi giá trị khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm.
Sáng ngày 17/4, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Thanh Hóa phối hợp với Công ty CP Logistics Viettrans và Công ty TNHH Thực phẩm PepsiCo Việt Nam tổ chức hội thảo đầu bờ nhằm đánh giá mô hình trồng khoai tây FL2215 tại huyện Nông Cống. Đây là giống khoai tây do PepsiCo nhập khẩu và độc quyền phân phối tại Việt Nam, phục vụ trực tiếp cho chế biến snack khoai tây.
Các đại biểu tham quan mô hình trồng khoai tây FL2215 tại xã Tượng Sơn (Nông Cống)
Trong vụ đông 2024-2025, Công ty cổ phần Logistics Viettrans đã liên kết với nông dân tại các huyện Nga Sơn, Hoằng Hóa, Quảng Xương và Nông Cống để canh tác 47 ha khoai tây FL2215. Riêng tại xã Tượng Sơn (Nông Cống), hộ anh Trương Văn Mạnh đã triển khai mô hình sản xuất trên quy mô lớn với 20 ha. Nhờ được chuyển giao đầy đủ kỹ thuật từ khâu trồng, chăm sóc đến thu hoạch, mô hình cho năng suất trung bình đạt 23 tấn/ha. Với giá thu mua tại ruộng 7.500 đồng/kg, nông dân thu lãi 50 - 60 triệu đồng/ha.
Đây là mô hình sản xuất quy mô lớn, đồng bộ hóa cơ giới trong các khâu nhằm tiết giảm chi phí lao động và tăng hiệu quả sản xuất. Khoai tây FL2215 được đánh giá cao bởi nhiều ưu điểm: khả năng sinh trưởng mạnh, kháng sâu bệnh tốt, đặc biệt là các bệnh phổ biến như nấm rệp, héo xanh và sương mai. Đặc tính nhiều tầng củ và độ đồng đều cao của giống cũng góp phần đảm bảo chất lượng nguyên liệu phục vụ chế biến công nghiệp.
Không chỉ tại Thanh Hóa, mô hình tương tự cũng đang được triển khai hiệu quả tại tỉnh Hà Nam. Theo đánh giá vừa qua tại Hội nghị do Sở NN&PTNT Hà Nam tổ chức, mô hình sản xuất giống khoai tây FL2215 đã bước đầu cho thấy tính khả thi trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng và liên kết sản xuất hàng hóa gắn với tiêu thụ ổn định.
Giống và công nghệ đã thay đổi tập quán canh tác của nông dân, quyết định năng suất cao, giúp nông dân làm giàu - Ảnh: AD
Tại xã Nguyên Lý (huyện Lý Nhân) và phường Thi Sơn (thị xã Kim Bảng), diện tích trồng khoai tây FL2215 đạt tổng cộng 5 ha. Kết quả sản xuất khả quan với năng suất trung bình từ 24 - 25 tấn/ha, giá trị thu về đạt khoảng 200 - 207 triệu đồng/ha. Sau khi trừ chi phí, nông dân đạt lãi ròng từ 53 - 63 triệu đồng/ha. Đây là con số rất tích cực, nhất là trong bối cảnh nhiều loại cây trồng truyền thống đang gặp khó về đầu ra.
Đặc biệt, toàn bộ sản lượng đạt tiêu chuẩn được Công ty CP Logistics Viettrans thu mua theo hợp đồng để cung cấp cho PepsiCo, giúp nông dân yên tâm sản xuất mà không lo rủi ro về thị trường. Trong quá trình thực hiện mô hình, doanh nghiệp cũng đóng vai trò hướng dẫn kỹ thuật, cung ứng vật tư đầu vào, tạo thành chuỗi liên kết chặt chẽ giữa "4 nhà": nhà nước - nhà nông - nhà khoa học - doanh nghiệp.
Những thành công bước đầu đã tạo động lực để các địa phương nhân rộng mô hình trong các vụ đông tiếp theo. Vụ đông năm 2025-2026, Công ty CP Logistics Viettrans dự kiến mở rộng diện tích lên 200 ha tại các huyện Thanh Hóa, hướng tới hình thành vùng nguyên liệu quy mô lớn, phục vụ ổn định cho chế biến sâu.
Mô hình liên kết sản xuất khoai tây FL2215 cho thấy hiệu quả kinh tế rõ rệt, tính bền vững cao và phù hợp với mục tiêu phát triển nông nghiệp hiện đại. Không chỉ giúp nâng cao thu nhập cho người dân, mô hình còn góp phần thúc đẩy quá trình cơ giới hóa, áp dụng công nghệ trong canh tác, tạo điều kiện để ngành nông nghiệp phát triển theo hướng hàng hóa và hội nhập.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và yêu cầu ngày càng cao về chất lượng nông sản, mô hình liên kết sản xuất khoai tây FL2215 là một minh chứng rõ ràng cho hiệu quả của hợp tác công - tư trong nông nghiệp. Đây cũng là hướng đi cần được tiếp tục thúc đẩy, nhằm tạo dựng những chuỗi giá trị bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông sản Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế.
Để sinh vật cảnh thành ngành kinh tế mũi nhọn
Nghề sinh vật cảnh tại TP.Quảng Ngãi đang phát triển phù hợp xu hướng bền vững của nông nghiệp đô thị. Song, để sinh vật cảnh trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, người dân cần trợ lực từ phía chính quyền.
Hiệu quả kinh tế
Với niềm đam mê sinh vật cảnh, thời gian qua, ông Trần Triệu Vũ (47 tuổi), ở phường Nguyễn Nghiêm (TP.Quảng Ngãi) dày công sưu tầm nhiều cây cảnh nghệ thuật có giá trị cao. Trong đó, có nhiều cây cảnh cổ thụ, với tuổi đời hàng trăm năm tuổi.
Vườn cây cảnh có giá trị kinh tế cao của ông Trần Triệu Vũ, ở phường Nguyễn Nghiêm (TP.Quảng Ngãi).
Tròn 5 năm “bén duyên” với nghề sản xuất, kinh doanh cây cảnh nghệ thuật, ông Vũ cho biết, bình quân mỗi năm, sinh vật cảnh mang lại cho tôi doanh thu khoảng 2 tỷ đồng. Trong đó, mỗi cây cảnh bán ra có mức giá từ 200 triệu đồng trở lên. “Chọn kinh doanh cây cảnh có phân khúc giá cao nên chi phí chăm sóc cây hằng năm cũng rất lớn. Bình quân mỗi năm, tôi giải quyết việc làm thường xuyên cho 4 lao động. Trong đó, thù lao cho những nghệ nhân cắt tỉa cây cảnh khoảng 1 triệu đồng/ngày. Để quảng bá sản phẩm, mỗi năm tôi tham gia khoảng 10 triển lãm sinh vật cảnh trong và ngoài tỉnh. Nghề này là thế, phải chịu đầu tư và dồn vào đó tất cả đam mê, tâm huyết thì mới gặt được thành quả”, ông Vũ bộc bạch.
Gắn bó với nghề sản xuất và kinh doanh cây cảnh nghệ thuật tròn 24 năm, ông Huỳnh Thái Thuận, ở phường Nghĩa Chánh (TP.Quảng Ngãi) không chỉ sản xuất, kinh doanh cây cảnh nghệ thuật có giá trị kinh tế cao, mà còn sở hữu các vườn ươm nuôi, trưng bày hơn 500 loại hoa, cây xanh đô thị, cây cảnh trang trí trong nhà, ngoài trời ở phân khúc giá bình dân, với tổng diện tích lên đến 15 nghìn mét vuông. “Tôi vừa chủ động khâu sản xuất, vừa có cửa hàng trưng bày, kinh doanh cây cảnh. Nhờ đó, sản phẩm tôi làm ra đến trực tiếp với người tiêu dùng, không qua khâu trung gian. Thu nhập mang lại từ nghề này không chỉ giúp tôi lo được cho gia đình mình mà còn tạo việc làm ổn định cho 10 lao động”, ông Thuận cho hay.
Nghệ nhân Nguyễn Phương Uyên luôn tạo được dấu ấn nhờ các tác phẩm cây cảnh nghệ thuật trồng trong các chậu gốm có hình dáng đặc biệt. Ảnh: NVCC
Tận dụng những đồ gốm tưởng chừng bỏ đi để tạo ra nhiều chậu trồng cây cảnh đầy tính nghệ thuật, nghệ nhân Nguyễn Phương Uyên (54 tuổi), ở phường Trần Phú (TP.Quảng Ngãi) được giới sinh vật cảnh Quảng Ngãi mệnh danh là “phù thủy” của những mảnh gốm vỡ. Những tác phẩm của nghệ nhân tài năng này khi mang đi “trình làng” tại các triển lãm sinh vật cảnh luôn thu hút sự quan tâm của người yêu thích sinh vật cảnh.
Nói về ưu điểm của nghề sinh vật cảnh, ông Nguyễn Phương Uyên cho rằng, nghề sinh vật cảnh là nghề khá phù hợp với đặc trưng của phố thị - nơi mà diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp. Như vườn cây cảnh của tôi, chỉ với diện tích sân thượng khoảng 100m2, song tôi vẫn có thể tận dụng để sản xuất, kinh doanh cây cảnh nghệ thuật.
Phát triển bền vững nghề sinh vật cảnh
Những năm gần đây, hoạt động sản xuất, kinh doanh sinh vật cảnh trên địa bàn TP.Quảng Ngãi đang dần chuyển hướng từ phát triển riêng lẻ từng nhà vườn sang gắn kết theo tổ, nhóm, câu lạc bộ, chi hội nghề nghiệp.
Thành viên Câu lạc bộ Cây cảnh nghệ thuật Thiên Bút (TP.Quảng Ngãi) chia sẻ kinh nghiệm chăm sóc cây cảnh.
Thành lập vào tháng 8/2024, Câu lạc bộ Cây cảnh nghệ thuật Thiên Bút (TP.Quảng Ngãi) trở thành nơi để chủ các nhà vườn cây cảnh nghệ thuật giao lưu, học hỏi kinh nghiệm và hỗ trợ nhau trong sản xuất, kinh doanh. Chưa đầy 1 năm kể từ khi thành lập, câu lạc bộ từ 40 thành viên đến nay đã phát triển lên 62 thành viên. Thành viên tham gia câu lạc bộ phần lớn đều là chủ các nhà vườn lớn, với giá trị thương mại của mỗi vườn từ 500 triệu đồng đến hàng chục tỷ đồng.
“Chúng tôi chia sẻ với nhau từ kinh nghiệm chăm sóc cây cảnh đến nguồn nguyên liệu đầu vào. Qua đó, hỗ trợ nhau phát triển theo hướng ngày càng ổn định, bền vững hơn”, ông Lê Quang Nghĩa, ở phường Lê Hồng Phong (TP.Quảng Ngãi), thành viên Câu lạc bộ Cây cảnh nghệ thuật Thiên Bút, chia sẻ.
Tương tự, Câu lạc bộ Sinh vật cảnh xã Tịnh Long (TP.Quảng Ngãi) cũng trở thành nơi gắn kết các nhà vườn, nghệ nhân sinh vật cảnh. Suốt 5 năm qua, câu lạc bộ đã phối hợp với các đơn vị, chủ nhà vườn, nghệ nhân tổ chức triển lãm, trưng bày cây cảnh nghệ thuật. Qua đó, tạo cơ hội cho chủ các nhà vườn giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm và quảng bá sản phẩm.
Triển lãm cây cảnh nghệ thuật (tháng 2/2025), do Câu lạc bộ Sinh vật cảnh xã Tịnh Long (TP.Quảng Ngãi) tổ chức.
Theo nhiều chủ nhà vườn trên địa bàn TP.Quảng Ngãi, thời gian qua, nhu cầu sinh vật cảnh trên địa bàn ngày càng tăng cao. Dư địa phát triển của nghề còn nhiều. Để đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường, nhiều cơ sở kinh doanh sinh vật cảnh, nhất là kinh doanh cây cảnh phải nhập nguyên liệu từ ngoài tỉnh, vì nguồn nguyên liệu tại địa phương chưa đáp ứng được nhu cầu.
“Sở hữu vườn ươm, nhưng cơ sở sản xuất, kinh doanh của tôi chỉ đáp ứng được 10% nhu cầu thị trường, còn lại tôi phải nhập nguyên liệu từ các tỉnh, thành phố khác. Trong khi đó, nhiều loại cây trang trí công trình khá dễ trồng, như cây chuỗi ngọc, cây hoa trang, cây cau, dù nhu cầu thị trường khá lớn, nhưng Quảng Ngãi không đủ nguồn cung. Trong khi đó, tỉnh Quảng Ngãi nói chung và TP.Quảng Ngãi nói riêng, không thiếu những nông dân cần cù, có sẵn đất vườn để trồng những loại cây này. Vì vậy, trong thời gian tới, nếu chính quyền địa phương định hướng, phát triển mạnh mẽ hơn nữa nghề sinh vật cảnh thì người sản xuất, kinh doanh sinh vật cảnh chúng tôi sẽ chủ động được nguồn nguyên liệu ngay tại địa phương, giảm được chi phí vận chuyển từ nơi khác đến”, chủ một cơ sở kinh doanh sinh vật cảnh tại TP.Quảng Ngãi phân tích.
Phó Chủ tịch UBND TP.Quảng Ngãi Nguyễn Lâm cho biết, theo rà soát của Hội Sinh vật cảnh tỉnh, toàn tỉnh có hơn 600 nhà vườn, trang trại sinh vật cảnh, trong đó có khoảng 120 nhà vườn sinh vật cảnh quy mô lớn. Thành phố Quảng Ngãi là địa phương quy tụ nhiều nhất các nhà vườn sinh vật cảnh lớn của tỉnh, với hơn 60 nhà vườn. Sinh vật cảnh trên địa bàn thành phố ngày càng phát triển theo chiều sâu, mang lại thu nhập cao và tạo việc làm ổn định cho nhiều lao động tại địa phương. Đây cũng là ngành kinh tế phù hợp với nền nông nghiệp đô thị và sẽ được địa phương quan tâm, thúc đẩy phát triển trong thời gian tới.