Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam: Ngành nông nghiệp Việt Nam đang tích cực hợp tác để đẩy nhanh quá trình cơ giới hóa, mang lại lợi thế cho ngành
Theo Thứ trưởng, về cơ giới hóa, Việt Nam phấn đấu trở thành một trong những cường quốc nông nghiệp trên thế giới, trong đó tập trung triển khai Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Vì vậy, Việt Nam mong muốn tìm kiếm các thiết bị máy phù hợp với sản xuất nông nghiệp và công tác kiểm định máy nông nghiệp, tăng cường năng lực cho chuyên gia, nông dân trong nước về máy nông nghiệp.
Nhấn mạnh việc tăng cường giao lưu, hợp tác với các tổ chức, doanh nghiệp quốc tế, trong đó có doanh nghiệp của Đức sẽ mang lại hiệu quả to lớn cho phát triển ngành nông nghiệp trong nước theo hướng hiện đại, cũng như thúc đẩy sự phát triển chung của ngành nông nghiệp hai quốc gia, Thứ trưởng cũng đề nghị Hiệp hội tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tìm hiểu mô hình chuyển đổi và ứng dụng công nghệ của Đức trong nông nghiệp.
Về khả năng xây dựng trung tâm dịch vụ cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp, Hiệp hội phối hợp triển khai các mô hình trình diễn ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp và tổ chức các khóa đào tạo, hội thảo chuyên đề về công nghệ nông nghiệp tiên tiến, cơ giới hóa, và nông nghiệp bền vững.
Cơ giới hóa đang góp phần mang lại giá trị cao hơn cho ngành nông nghiệp. Ảnh: N.Lộc
Ngoài ra, Bộ đề xuất DLG hỗ trợ trang thiết bị, chuyển giao công nghệ và phối hợp đào tạo nguồn nhân lực, góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nông nghiệp trong khu vực trọng điểm này.
Hai bên có thể xem xét ký kết Bản ghi nhớ (MOU) hợp tác về cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp, nội dung chính gồm: đẩy mạnh ứng dụng cơ giới hóa đồng bộ trong nông nghiệp, nâng cao năng lực và đào tạo nghề trong cơ giới hóa; logistics và chuyển đổi số trong nông nghiệp.
Phát biểu tại buổi làm việc, Giám đốc điều hành DLG châu Á - Thái Bình Dương Katharina Staske nhấn mạnh lợi thế và những kết quả Việt Nam đạt được với sản xuất lúa; đồng thời mong muốn Việt Nam tham gia vào nhóm làm việc của các nước Đông Nam Á về trồng lúa, nhằm thúc đẩy chia sẻ kinh nghiệm và phối hợp nghiên cứu trong khu vực. Đồng thời, khuyến khích tăng cường sự tham gia của lực lượng nông dân trẻ trong quá trình chuyển đổi nông nghiệp bền vững.
Đồng ý với đề xuất trên, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhấn mạnh rằng các diễn đàn đổi mới sáng tạo sắp tới được tổ chức tại Việt Nam và Đức sẽ là cơ hội để tăng cường sự giao lưu, trao đổi; đồng thời tạo động lực để các thành phần doanh nghiệp, người trẻ tham gia góp phần phát triển nền nông nghiệp hiện đại của Việt Nam.
Triển lãm Agritechnica Asia là hội chợ thương mại nông nghiệp do DLG phối hợp tổ chức, với sự tham gia của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia tại TP. Hồ Chí Minh tháng 3/2025, quy tụ hơn 200 đơn vị từ 25 quốc gia và hàng nghìn chuyên gia từ khắp chuỗi giá trị nông nghiệp. Ngoài việc giới thiệu các thiết bị cơ giới, công nghệ hiện đại hỗ trợ hiệu quả cho ngành nông nghiệp, Triển lãm còn có các hoạt động trao đổi tập trung vào việc giải quyết những thách thức chính mà nông dân Việt phải đối mặt, như nâng cao năng suất, ứng dụng các phương pháp bền vững và tiếp cận các công nghệ tiên tiến...
7 điểm mới trong Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp năm 2025
Với những thay đổi và cải tiến đáng kể trong quy trình thực hiện, Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp 2025 trên phạm vi cả nước (từ 1/7 đến hết ngày 30/7/2025) có nhiều điểm mới so với các kỳ tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp trước.
Các ý tưởng, dự án khoa học, khởi nghiệp có khả năng cạnh tranh cao
HNN.VN - Đó là đánh giá của Ban Tổ chức vòng chung kết cuộc thi 'Ý tưởng sáng tạo khoa học và khởi nghiệp nông nghiệp lần thứ VI - năm 2025', do Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế tổ chức chiều 18/5.
Các nhóm thuyết trình ý tưởng, dự án
Theo Ban Tổ chức, cuộc thi thu hút 21 ý tưởng, dự án (DA) với sự tham gia của hơn 100 sinh viên và 15 học sinh đến từ 9 trường THPT trên địa bàn TP. Huế.
Các ý tưởng, DA có hàm lượng khoa học, có khả năng cạnh tranh cao, tập trung sâu vào các lĩnh vực có tính cấp thiết, ứng dụng cao và đang được quan tâm hiện nay, như: chế phẩm sinh học, công nghệ nano, nông nghiệp tuần hoàn (tận dụng phế phụ phẩm, cỏ dại…), giảm thiểu hóa chất và kháng sinh trong sản xuất, chăn nuôi… Năm nay xuất hiện thêm những lĩnh vực mới, điển hình như vật liệu mới thân thiện môi trường.
Đây là lần đầu tiên cuộc thi mở rộng đối tượng tham gia đến học sinh THPT, góp phần kết nối giáo dục phổ thông và đại học. Bên cạnh đó, có gần 10 doanh nghiệp đồng hành và cam kết hỗ trợ phát triển các DA sau cuộc thi. Bên cạnh phần thưởng, các nhóm đạt giải cao sẽ được ký hợp đồng triển khai DA sản xuất thử nghiệm với kinh phí đầu tư từ 20 đến 50 triệu đồng/DA.
Sau phần thuyết trình của các nhóm ý tưởng, dự án (DA), Ban Tổ chức đã quyết định trao giải Nhất cho DA “Ứng dụng bê tông xanh từ phế phụ phẩm nông nghiệp hướng đến Netzero”; giải Nhì thuộc về DA “Sản xuất kem Nano Đồng Curcumin đặc trị bệnh chân móng trên bò sữa”; hai giải Ba thuộc về DA “Sản xuất chế phẩm dược liệu thay thế kháng sinh trong chăn nuôi” và DA “Chế tạo chấm lượng tử Carbon từ phế phụ phẩm làm phân bón lá ứng dụng trong trồng trọt”.
Sinh viên và học sinh TP Huế thi tài khởi nghiệp nông nghiệp
Chiều 18/5, Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế tổ chức chung kết Cuộc thi ý tưởng sáng tạo khoa học và khởi nghiệp nông nghiệp lần thứ VI.
Các đội thi trình bày ý tưởng khởi nghiệp nông nghiệp tại vòng chung kết diễn ra chiều 18/5.
Đây là hoạt động thường niên của nhà trường nhằm phát hiện, ươm tạo và thúc đẩy tinh thần đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp trong sinh viên.
Năm nay, cuộc thi thu hút 21 ý tưởng, với sự tham gia của hơn 100 sinh viên và 15 học sinh THPT đến từ 9 trường phổ thông trên địa bàn TP Huế. Các ý tưởng, dự án có hàm lượng khoa học và có khả năng cạnh tranh cao, tập trung sâu vào các lĩnh vực có tính cấp thiết, ứng dụng cao và đang được quan tâm hiện nay như: chế phẩm sinh học, công nghệ nano, nông nghiệp tuần hoàn (tận dụng phế phụ phẩm, cỏ dại…), giảm thiểu hóa chất, kháng sinh trong sản xuất, chăn nuôi… Đáng chú ý, năm nay xuất hiện thêm những lĩnh vực mới điển hình như vật liệu mới thân thiện môi trường.
Ban giám khảo làm việc tích cực tại cuộc thi.
Trao chứng nhận cho các đội thi học sinh THPT trên địa bàn TP Huế.
Trước vòng chung kết, các nhóm đã trải qua 2 vòng thi và một khóa tập huấn, đào tạo kỹ năng qua đó hoàn thiện và nâng cấp ý tưởng một cách rõ rệt. Nhiều dự án có sự “lột xác” ấn tượng so với vòng sơ khảo, thể hiện sự trưởng thành cả về nội dung và kỹ năng trình bày. Chất lượng các dự án được nâng cao nhờ vào sự hướng dẫn tận tâm của giảng viên và sự hỗ trợ tích cực từ các khoa chuyên môn.
Một điểm nhấn đặc biệt trong mùa giải năm nay là lần đầu tiên cuộc thi mở rộng đối tượng tham gia đến học sinh THPT, góp phần kết nối giữa giáo dục phổ thông và đại học. Bên cạnh đó, có gần 10 doanh nghiệp đồng hành và cam kết hỗ trợ phát triển các dự án sau cuộc thi.
Một đội thi trường THPT trình bày và bảo vệ ý tưởng.
Ngoài ra, giải thưởng của cuộc thi được nâng cao hơn so với các năm trước, cả về giá trị lẫn cơ hội phát triển dự án. Bên cạnh các phần thưởng tiền mặt, các nhóm đạt giải cao (Nhất, Nhì, Ba) sẽ được ký hợp đồng triển khai dự án sản xuất thử nghiệm, từ 20 đến 50 triệu đồng/dự án.
Nhận được nhiều câu hỏi khá hóc búa của ban giám khảo, các thành viên đội thi phải vất vả trả lời. (Ảnh: Đại Dương)
Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế là một trong những đơn vị có thành tích nổi bật trong hoạt động khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo. Nhà trường đã 3 lần tham gia Ngày hội khởi nghiệp quốc gia, trong đó gần đây nhất, nhóm sinh viên đã xuất sắc đạt Giải Ba toàn quốc. Nhà trường cũng đã đưa vào giảng dạy chính khóa học phần khởi nghiệp & đổi mới sáng tạo từ 3 năm nay. Không chỉ dừng lại ở sinh viên, trường còn đồng hành, hỗ trợ 2 nhóm học sinh THPT hoàn thiện ý tưởng và đạt giải tại cuộc thi quốc gia các năm 2024 và 2025.
Thuận Châu ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp
Phát huy tiềm năng, lợi thế về khí hậu và đất đai, huyện Thuận Châu tuyên truyền, vận động người dân chuyển đổi diện tích cây trồng kém hiệu quả sang phát triển cây ăn quả. Nhiều mô hình bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế cao, được nhân rộng tại các xã, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho nhân dân.
Gian hàng trưng bày thanh long tại Tuần văn hóa, thể thao và du lịch vùng cao huyện Thuận Châu.
Hiệu quả cây ăn quả trên đất dốc
Năm 2015, huyện Thuận Châu có 4.254 ha cây ăn quả các loại nhưng năng suất thấp, chất lượng quả không đáp ứng được các tiêu chuẩn xuất khẩu. Các sản phẩm quả chưa có thương hiệu, nhãn hiệu và doanh nghiệp liên kết bao tiêu sản phẩm, tiêu thụ nhỏ lẻ. Thực hiện Kết luận số 121-TB/TU ngày 30/11/2015 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về một số chủ trương trồng cây ăn quả trên đất dốc, Ban Thường vụ Huyện ủy Thuận Châu đã ban hành các văn bản về triển khai trồng cây ăn quả trên đất dốc và ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, phát triển cây ăn quả gắn với ứng dụng công nghệ cao chế biến và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp, phát triển du lịch.
Đồng chí Thào A Súa, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy, cho biết: Ban Thường vụ Huyện ủy đã phân công rõ nhiệm vụ, gắn với trách nhiệm của tập thể và người đứng đầu để thực hiện hiệu quả. Chỉ đạo UBND huyện thành lập tổ tư vấn; tổ thẩm định các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất thuộc chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Phối hợp tổ chức các đoàn tham quan, học tập kinh nghiệm về phát triển cây ăn quả tại các huyện trong tỉnh, như: Mộc Châu, Yên Châu, Mai Sơn, Bắc Yên, thành phố Sơn La. Tham gia đoàn công tác của tỉnh học tập kinh nghiệm tại các tỉnh: Tây Ninh, Nghệ An, Điện Biên, Thừa Thiên Huế.
Nông dân xã Chiềng Pha, huyện Thuận Châu kiểm tra diện tích thanh long ruột đỏ.
Thực hiện chủ trương trồng cây ăn quả trên đất dốc, từ 8 ha cây ăn quả năm 2015, đến nay, xã Chiềng Pha phát triển lên 130 ha cây ăn quả các loại. Ông Cà Văn Thuận, Phó Chủ tịch UBND xã, thông tin: Xã đã phối hợp với các cơ quan chuyên môn của huyện, các đơn vị cung cấp cây giống, tổ chức tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nhân dân. Chỉ đạo cán bộ khuyến nông về các bản hướng dẫn các hộ dân phương pháp trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh hại cây trồng. Đến nay, nhiều mô hình đã mang lại hiệu quả và được nhân rộng. Kinh tế phát triển năm 2023, xã về đích nông thôn mới; năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo của xã giảm chỉ còn 5,67%
Từ nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, gia đình ông Bùi Văn Chung, bản Hưng Nhân, xã Chiềng Pha được hỗ trợ 100 triệu đồng triển khai mô hình trồng thanh long ruột đỏ, quy mô 1,2 ha. Gia đình ông đầu tư thêm hơn 400 triệu đồng cải tạo đất và xây dựng hệ thống tưới ẩm tiết kiệm nước. Đến nay, gia đình có 1.500 trụ thanh long và 6.000 m2 trồng cây cam, bưởi; năm 2024 thu về gần 500 triệu đồng tiền bán các loại quả.
Ông Chung chia sẻ: Quá trình triển khai mô hình, được cán bộ khuyến nông giúp đỡ, hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc, phòng bệnh cho cây. Ngoài ra, tôi thường xuyên tìm hiểu trên sách, báo, internet, học hỏi một số mô hình trồng thanh long ở các huyện để áp dụng vào sản xuất. Tôi mong muốn, các cơ quan chức năng hỗ trợ liên kết đầu ra ổn định cho sản phẩm để gia đình yên tâm đầu tư phát triển.
Nông dân xã Phổng Lái, huyện Thuận Châu kiểm tra diện tích cây ăn quả.
Năm 2019, gần 2 ha cây chè bị chết do sương muối nên gia đình ông Nguyễn Bá Vụ, bản Đông Quan, xã Phổng Lái chuyển đổi sang trồng mận hậu và bưởi. Ông Vụ cho hay: Để cây sinh trưởng và phát triển, sau mỗi vụ thu hoạch, tôi đều chú trọng tỉa cành, tạo tán cho cây ăn quả; đầu tư phân bón, thường xuyên kiểm tra phát hiện sinh vật gây hại để phòng trừ. Từ vườn cây ăn quả, mỗi năm gia đình thu về trên 200 triệu đồng.
Việc phát triển cây ăn quả trên đất dốc đã mang lại hiệu quả kinh tế, môi trường. Sản xuất cây ăn quả cho thu nhập bình quân 100 triệu đồng/ha/năm; những diện tích được đầu tư thâm canh cao, sử dụng giống mới có thể thu nhập trên 200 triệu đồng/ha/năm. Việc phát triển cây ăn quả còn góp phần phủ xanh đất trống, đồi trọc, chống xói mòn, tạo cảnh quan gắn với du lịch sinh thái.
Xây dựng vùng sản xuất chuyên canh
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng bền vững, ngày 4/3/2021, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thuận Châu đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/HU về phát triển nông nghiệp theo hướng hữu cơ, ứng dụng công nghệ cao.
Nông dân xã Bon Phặng, huyện Thuận Châu thu hoạch quả vú sữa. Ảnh PV
Ông Hà Trung Thắng, Phó Chủ tịch UBND huyện Thuận Châu, thông tin: Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, huyện khuyến khích, thu hút các doanh nghiệp đầu tư; tăng cường liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp thông qua xây dựng các chuỗi liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm. Chỉ đạo mỗi xã lựa chọn ưu tiên phát triển một số loại nông sản chủ lực và nhóm nông sản mà địa phương có lợi thế để tạo ra vùng nông sản tập trung, quy mô hàng hóa lớn.
Đồng hành cùng người dân, huyện đã lồng ghép các nguồn vốn từ nhiều chương trình, dự án, như: Di dân tái định cư thủy điện Sơn La; Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản, thực phẩm an toàn; chính sách phát triển vùng nguyên liệu phục vụ cho nhà máy chế biến… để cải tạo, trồng mới diện tích cây ăn quả chất lượng cao.
Đến nay, huyện đã hình thành một số vùng phát triển cây ăn quả theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung theo lợi thế vùng: Vùng thấp phát triển các loại cây ăn quả nhiệt đới, như: Xoài, nhãn, chuối, bưởi; vùng cao phát triển một số loại cây, như: mận, sơn tra. Đến tháng 3/2025, toàn huyện có 6.333 ha cây ăn quả, trong đó có 2.432 ha cây sơn tra; 3.911 ha cây ăn quả, tăng 48% so với năm 2015, sản lượng quả các loại gần 12.000 tấn.
Nông dân xã Liệp Tè, huyện Thuận Châu chăm sóc xoài.
Toàn huyện có hơn 3.500 ha cây ăn quả được trồng bằng các giống chất lượng cao. Hình thành 11 chuỗi sản xuất giá trị gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, gồm xoài, cam, bơ, thanh long ruột đỏ, rau quả trái vụ. Có 25 cơ sở trồng trọt được cấp giấy chứng nhận VietGAP, với trên 400 ha; có 7 sản phẩm nông sản được cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu; 10 mã số vùng trồng cây ăn quả các loại, trong đó, 2 mã vùng trồng cây xoài, với 17 ha đạt tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu sang các thị trường Mỹ, EU, Úc, Nhật Bản... Giai đoạn 2021-2024, toàn huyện xuất khẩu hơn 200 tấn quả xoài và 405 tấn quả chuối sang thị trường Trung Quốc, 71 tấn thanh long ruột đỏ sang thị trường Nga và thị trường các nước.
Tăng cường liên kết, huyện tư vấn, hướng dẫn thành lập các HTX hoạt động lĩnh vực trồng cây ăn quả; tổ chức tập huấn, hướng dẫn trồng và chăm sóc cây ăn quả. Dự báo thị trường để chủ động hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm cho nông dân, tránh tình trạng “được mùa, mất giá”. Định kỳ tổ chức gặp mặt HTX, hộ sản xuất kinh doanh giỏi để nắm bắt, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho HTX trong quá trình hoạt động.
Thành viên HTX sơn tra Nặm Búa, xã Long Hẹ, huyện Thuận Châu trao đổi kỹ thuật chăm sóc cây sơn tra.
Anh Thào A Hồng, bản Nặm Búa, xã Long Hẹ đã liên kết với 121 hộ thành lập HTX sơn tra Nặm Búa, quy mô sản xuất hơn 200 ha cây sơn tra. Anh Thào A Hồng, Giám đốc HTX, chia sẻ: Vụ sơn tra năm 2024, HTX đã bán hơn 100 tấn quả tươi và chế biến 30 tấn quả tươi thành sơn tra khô. Từ trồng sơn tra, nhiều thành viên có thu nhập từ 50 -100 triệu đồng/năm. Hiện nay, HTX đang kết nối với doanh nghiệp trong và ngoài huyện tìm hướng sơ chế, sản xuất quả sơn tra thành các sản phẩm, như trà sơn tra, nước uống từ sơn tra, sơn tra sấy khô…
Khơi dậy tiềm năng đất đai, huyện Thuận Châu tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ cao vào sản xuất gắn với mở rộng và phát triển bền vững chuỗi giá trị nông sản, xây dựng thương hiệu sản phẩm, truy xuất nguồn gốc xuất xứ. Với các giải pháp đồng bộ, địa phương phấn đấu thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu thoát khỏi huyện nghèo, xây dựng quê hương ngày thêm đổi mới.
Mô hình trồng đậu bắp xanh vốn ít, năng suất cao
Thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, vụ màu năm 2025, nông dân xã Thuận Hòa, huyện Cầu Ngang đã đưa cây đậu bắp xanh vào sản xuất với diện tích 3,3ha và được Hội Nông dân xã liên kết với hợp tác xã nông nghiệp hữu cơ Ngũ Lạc bao tiêu sản phẩm, tạo mô hình sản xuất mới, mở ra hướng phát triển ổn định, cải thiện thu nhập cho người dân.
Nông dân Thạch Sơn (bên phải) thu hoạch đậu bắp.
Là xã thuần nông, kinh tế dựa vào sản xuất 02 vụ lúa - 01 vụ màu hoặc 02 vụ màu - 01 vụ lúa. Những năm gần đây, cây màu đem lại giá trị kinh tế cao gấp 03 - 05 lần so với trồng lúa, nên người dân trong xã tập trung sản xuất liên tục trên cùng diện tích với các loại cây trồng truyền thống như đậu phộng, ớt chỉ thiên,… từ đó, làm cho đất canh tác dần kém đi hiệu quả, năng suất không cao, giá bán phụ thuộc vào thị trường.
Trong năm 2025, Hội Nông dân xã liên kết với hợp tác xã nông nghiệp hữu cơ Ngũ Lạc hỗ trợ 10 hộ dân theo hình thức đầu tư ứng trước và bao tiêu toàn bộ sản phẩm khi thu hoạch với diện tích 3,3ha. Cùng với đó, Hội Nông dân tỉnh đầu tư vốn phát triển sản xuất từ Quỹ Hỗ trợ nông dân cho các hộ dân tham gia mô hình tổ hợp tác trồng đậu bắp xanh 300 triệu đồng.
Sau khi trồng thử nghiệm, cây đậu bắp xanh (đậu bắp Nhật) phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng của địa phương nên phát triển tốt. Cây đậu bắp xanh trồng 45 ngày cho thu hoạch, thời gian thu hoạch hơn 02 tháng, năng suất đậu bắp đạt khá cao, từ 10 - 12 tấn/ha. Đậu bắp thu hoạch được hợp tác xã nông nghiệp hữu cơ Ngũ Lạc thu mua với giá 8.200 đồng/kg.
Nông dân Thạch Sơn là một trong những hộ tiên phong trồng đậu bắp xanh ở ấp Sóc Chùa, xã Thuận Hòa cho biết: với 01ha đất, trồng 01 vụ lúa - 02 vụ màu đậu phộng và đậu bắp, lợi nhuận đạt từ 80 - 100 triệu đồng/vụ/ha. So với cây đậu phộng, đậu bắp ngắn ngày hơn, thời gian thu hoạch kéo dài hơn 02 tháng.
Những năm gần đây ông trồng thâm canh cây đậu bắp chủ yếu đậu bắp trắng, bán theo giá thị trường. Năm 2025, được Hội Nông dân liên kết với hợp tác xã nông nghiệp hữu cơ Ngũ Lạc bao tiêu sản phẩm đậu bắp xanh, nên ông chuyển sang trồng loại cây trồng này đạt hiệu quả cao. Với gần 0,2ha đậu bắp xanh hiện đang cho thu hoạch bình quân khoảng 40 - 45kg/ngày. Đậu bắp cho thu hoạch hơn 01 tháng, thu nhập 27 triệu đồng. Ngoài ra, ông còn thuê gần 0,3ha đất trồng đậu bắp đang cho trái chiến.
Theo ông Sơn, trồng đậu bắp xanh nhẹ công chăm sóc, vốn ít, với diện tích trên ông đầu tư khoảng 10 triệu đồng, hiện nay đã thu hồi vốn và đạt lợi nhuận cao. Từ thời điểm trồng cho đến thu hoạch khoảng 1,5 tháng, đậu bắp thu hoạch 03 đợt, đợt đầu tiên dao động từ 300 - 350kg/ngày/ha, đợt 02 thu hoạch từ 400 - 450kg/ngày/ha và đợt 03 thu hoạch bình quân khoảng từ 200 - 300kg/ngày/ha cho đến khi dứt điểm và giải quyết việc làm ổn định 03 lao động thu hoạch đậu bắp.
Cùng với đó, ông trồng 0,5ha lúa kết hợp với nuôi bò sinh sản, mỗi năm xuất bán 02 con bò, lấy công làm lời nên lợi nhuận bình quân 08 - 10 triệu đồng/con. Những lúc rãnh rỗi, ông đi khuân vác thêm thu nhập khoảng 500.000 đồng/ngày.
Bà Thạch Thị Thùy Trang, ngụ cùng ấp cho biết thêm: trước đây, với 01ha đất canh tác vào mùa khô bà trồng đậu phộng năng suất đạt 08 - 09 tấn/ha, giá bán bấp bênh, nên vụ màu năm nay được hợp tác xã nông nghiệp hữu cơ Ngũ Lạc liên kết bao tiêu sản phẩm đậu bắp nên trồng thử nghiệm 0,1ha đến nay đã thu hoạch được hơn 01 tháng với thu nhập 17 triệu đồng, lợi nhuận đạt 10 triệu đồng. Hiện đậu bắp đang cho thu hoạch trung bình 30 - 40kg/ngày và kéo dài hơn 01 tháng dứt điểm. Đậu bắp vụ này nhờ được giá, thời gian thu hoạch kéo dài nên lợi nhuận cao.
Đồng chí Trần Quốc Toàn, Chủ tịch Hội Nông dân xã Thuận Hòa cho biết: năm 2025, được Hội Nông dân tỉnh hỗ trợ 500 triệu đồng từ nguồn Quỹ Hỗ trợ nông dân đầu tư vốn cho hội viên nông dân tham gia tổ hợp tác trồng đậu bắp xanh và trồng ớt chỉ thiên với diện tích hơn 06ha, trong đó có 3,3ha đậu bắp xanh được hợp tác xã nông nghiệp hữu cơ Ngũ Lạc bao tiêu sản phẩm giúp nông dân ổn định đầu ra. Do đó, việc đẩy mạnh liên kết bao tiêu sản phẩm là giải pháp quan trọng thúc đẩy phát triển sản xuất, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, nâng cao giá trị hàng hóa.
Tuy diện tích liên kết sản xuất và bao tiêu sản phẩm của nông dân còn hạn chế, nhưng đã tạo nên tiền đề quan trọng trong xây dựng liên kết và có trách nhiệm. Liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản là hướng đi bền vững. Thời gian tới, xã tiếp tục liên kết với các doanh nghiệp, đồng thời vận động người dân tham gia mở rộng sản xuất tăng thu nhập, góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động nông thôn.
Nghị quyết 57 và việc thúc đẩy nền nông nghiệp xanh - hiện đại - bền vững
Để tiến tới một nền nông nghiệp xanh - hiện đại - bền vững, việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong nông nghiệp làm nền tảng cho sự phát triển lâu dài là yêu cầu bắt buộc.
Không phải đến Nghị quyết 57 mà ngay từ Hội nghị Trung ương 2 (khóa 8) năm 1996, Đảng đã ban hành nghị quyết về định hướng chiến lược phát triển khoa học - công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000. Trước đó, ngay từ khóa 4 (năm 1976), đảng đã ban hành những nghị quyết về khoa học - công nghệ. Tuy nhiên, việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW, ngày 22.12.2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được xem là sự đột phá mạnh mẽ, cũng giống như Nghị quyết 10 về nông nghiệp trước đây.
Thực ra, những nội dung mà Nghị quyết 57 đề cập rất rộng và bao quát mọi lĩnh vực, tuy nhiên chỉ riêng lĩnh vực nông nghiệp thì nghị quyết được xem là động lực để thúc đẩy một nền nông nghiệp xanh - hiện đại - bền vững.
Trước đây, ta vẫn thường nghe câu “Việt Nam rừng vàng biển bạc”, rồi càng về sau câu nói đó dần biến mất bởi sự khai thác quá mức có thể dẫn đến cạn kiệt. Tổ tiên đã để lại cho chúng ta một đất nước vô cùng giàu đẹp, vấn đề còn lại là thế hệ con cháu phải có trách nhiệm gìn giữ, khai thác, sử dụng hiệu quả nhất, và làm giàu thêm lên.
Mấy hôm nay đâu đâu cũng nghe bàn tán chuyện giải cứu cam sành, giải cứu sầu riêng. Vấn đề không phải chỉ là sản xuất không có kiểm soát, mạnh ai nấy làm mà còn là chất lượng sản phẩm. Một số lô hàng sầu riêng đã không đáp ứng tiêu chí của bạn hàng. Dù ở một quốc gia giàu và đẹp nhưng vẫn không khó để nhận ra rằng nông nghiệp Việt Nam hiện phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, từ ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, sản xuất theo kiểu truyền thống gây lãng phí nguồn nước, lạm dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu, chi phí đầu tư lớn, giá trị gia tăng thấp…
Hãy nhìn ra thế giới, có những quốc gia vốn không được thiên nhiên ưu đãi, như Israel, Singapore… song họ xây dựng được một nền nông nghiệp cực kỳ hiện đại. Chính khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo đã tạo nên những kỳ tích nông nghiệp. Nhìn ngay xung quanh, một nước gần Việt Nam là Thái Lan cũng có nền nông nghiệp là niềm mơ ước của chúng ta.
Rõ ràng nông nghiệp trên thế giới, nhất là những nước phát triển và đang phát triển, đang thay đổi từng giờ từng ngày. Sản xuất xanh, nông nghiệp tuần hoàn, chuyển đổi số trong nông nghiệp đang là xu thế không thể đảo ngược. Điều này buộc ta phải nhận ra, hiểu rằng nếu không nhanh chân sẽ lại trễ chuyến tàu.
Để tiến tới một nền nông nghiệp xanh - hiện đại - bền vững, việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong nông nghiệp làm nền tảng cho sự phát triển lâu dài là yêu cầu bắt buộc.
Trong những năm qua, nhất là từ khi Đảng ban hành nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, bộ mặt nông thôn Việt Nam đã ngày càng hiện đại, văn minh. Nhiều mô hình hay, cách làm sáng tạo trong nông nghiệp đã được áp dụng và mang lại hiệu quả rõ rệt. Chuyển đổi số những năm qua trong sản xuất nông nghiệp không những giúp gia tăng sản lượng, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí mà còn giúp sản phẩm hàng hóa làm ra đến tay người tiêu dùng nhanh chóng.
Thu hoạch lúa - Ảnh: Internet
Chẳng hạn, nếu như trước đây đi công tác ở những nơi xa, nhiều người sẽ tìm mua các đặc sản ở địa phương mang về làm quà cho người thân, thì nay không phải mất công lỉnh kỉnh vậy nữa, các đặc sản của nhiều địa phương đã được đem lên sàn giao dịch điện tử. Cũng vậy, chuyển đổi số trong nông nghiệp từ việc tưới tiêu tự động, sử dụng phân/thuốc đúng thời gian, đúng liều lượng không chỉ tiết kiệm chi phí mà còn góp phần bảo vệ môi trường, tạo ra các sản phẩm được kiểm soát, có xuất xứ nguồn gốc rõ ràng, giúp người tiêu dùng an tâm hơn khi lựa chọn sản phẩm…
Để đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp đột phá theo tinh thần Nghị quyết 57 chắc chắn còn rất nhiều việc phải làm. Muốn vậy, trước hết phải khơi thông những điểm nghẽn, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để phát triển nông nghiệp; chú trọng các đột phá phát triển phục vụ nông nghiệp như công nghệ sinh học, công nghệ gien; gắn sự nghiên cứu với thực tế đồng ruộng; phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ và chuyển đổi số; hoạch định chính sách, hướng dẫn người dân sản xuất, tiêu dùng, xuất khẩu…
Nghị quyết đã có, các nút thắt về cơ bản đã được chỉ ra và dần tháo gỡ, vấn đề còn lại là sự năng động và trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó có những nhà quản lý và người nông dân.
Huyện Cao Lãnh tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp nâng cao thu nhập cho người dân
Thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng trong sản xuất gắn với xây dựng nông thôn mới, huyện Cao Lãnh đã tổ chức thực hiện Đề án gắn với chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp trọng tâm, tập trung đẩy mạnh phát triển chuỗi ngành hàng chủ lực của huyện thành vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh theo hướng mở rộng diện tích, nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm, triển khai thực hiện nhiều mô hình có hiệu quả cao, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.
Mô hình trồng màu xen canh của ông Nguyễn Văn Mãnh (ngụ xã Phong Mỹ) góp phần ổn định nguồn thu nhập
CHUYỂN ĐỔI CÂY TRỒNG HIỆU QUẢ CAO
Trong tái cơ cấu nông nghiệp, huyện đã tập trung chuyển đổi từ cây trồng kém hiệu quả sang cây trồng cho lợi nhuận tốt, có khả năng cạnh tranh cao. Từ đầu năm 2021, nhận thấy được xu hướng phát triển, tiềm năng giá trị kinh tế cao và nhu cầu tiêu thụ của mặt hàng sầu riêng ngày càng tăng, người dân trên địa bàn huyện Cao Lãnh đã chuyển đổi các giống cây trồng có hiệu quả kinh tế thấp sang các giống cây sầu riêng. Đến cuối năm 2024, diện tích sầu riêng trên địa bàn huyện là 990ha, tăng 846ha so với năm 2021.
Tuy nhiên, để duy trì và khai thác hiệu quả giá trị cây sầu riêng mang lại, người dân cần xác định được thời điểm thu hoạch thích hợp để bán giá cao, tránh trường hợp “Được mùa, mất giá”. Nhận thấy nhu cầu của người dân, các ngành chức năng của huyện đã triển khai thực hiện mô hình chăm sóc và xử lý ra hoa nghịch vụ trên cây sầu riêng với diện tích 1ha tại xã Bình Hàng Trung nhằm hướng dẫn người dân áp dụng kỹ thuật điều khiển sự ra hoa vụ nghịch hay rải vụ.
Lợi nhuận năm đầu tiên nhà vườn thực hiện mô hình là 650 triệu đồng/ha và được bà con xung quanh đến tham quan học tập, tạo mối quan hệ đoàn kết trong sản xuất. Mô hình giúp nhà vườn tiết kiệm đáng kể chi phí sản xuất, công tác quản lý vườn trở nên dễ dàng hơn khi tất cả các cây ra hoa đồng loạt, đồng thời giúp giảm công lao động, chi phí phân bón và thuốc bảo vệ thực vật đều giảm đáng kể.
Bên cạnh đó, các ngành chức năng của huyện còn hỗ trợ và khuyến khích nông dân đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ trong phát triển sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh của ngành nông nghiệp. Điển hình như mô hình tưới thông minh - tưới tiết kiệm trên cây ăn trái: Hệ thống tưới nhỏ giọt và tưới phun mưa giúp tiết kiệm 50 - 70% lượng nước so với phương pháp truyền thống, giảm áp lực khai thác tài nguyên trong giai đoạn khô hạn và nhiễm mặn. Ngoài ra, mô hình còn góp phần tăng năng suất cây trồng, giảm chi phí lao động, năng lượng và phân bón nhờ việc cung cấp nước đúng thời điểm.
Quá trình áp dụng biện pháp tưới tiết kiệm, tưới thông minh còn hạn chế lãng phí nước, giảm xói mòn đất và bảo vệ độ phì nhiêu. Hệ thống tưới tự động sử dụng công nghệ cảm biến để đo độ ẩm, thời tiết và nhu cầu của cây, kết nối quản lý qua điện thoại thông minh, giúp cải tiến quá trình sản xuất. Đến nay, trên địa bàn huyện có 1.490ha trồng xoài, sầu riêng, chanh, ổi và rau màu áp dụng hệ thống tưới tiết kiệm. Kết quả cho thấy, năng suất xoài tăng 20 - 30%, trong khi đó, rau màu giảm đến 50% lượng nước tưới. Nhìn chung, đây là hướng phát triển bền vững, góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của huyện Cao Lãnh.
Nông dân Nguyễn Văn Mãnh ngụ xã Phong Mỹ là một trong những người tiên phong mạnh dạn chuyển đổi gần 3ha đất gò cao canh tác lúa kém hiệu quả sang trồng hoa màu theo hướng hữu cơ. Ông Nguyễn Văn Mãnh cho biết: “Trước khi quyết định chuyển đổi toàn bộ diện tích đất sang trồng hoa màu, tôi nghiên cứu, học hỏi nhiều mô hình khác nhau để bắt tay vào canh tác. Với diện tích gần 3ha, tôi trồng hoa màu xen canh theo mùa, theo thời tiết và theo thị trường, cung cấp ổn định nguồn hàng, phục vụ nhu cầu tiêu thụ của thương lái bán cho các chợ. Qua đó giúp gia đình tôi có nguồn thu nhập ổn định.
Không chỉ thay đổi cây trồng, ông Mãnh còn kết hợp nhiều biện pháp canh tác mới, đặc biệt là tuân thủ nghiêm ngặt thời gian cách ly để đảm bảo nông sản làm ra an toàn cho người tiêu dùng. “Ngoài việc sử dụng phân hữu cơ để giảm chi phí, tôi còn áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật khác như: sử dụng chế phẩm vi sinh, phân hữu cơ dạng nước, áp dụng mô hình tưới thông minh - tưới tiết kiệm, giúp giảm chi phí và quản lí dịch hại một cách hiệu quả” - ông Mãnh cho biết thêm.
Hay trường hợp của ông Dương Văn Thành ngụ xã Phong Mỹ, gần chục năm trước đây, ông Thành canh tác cam xoàn - loại cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao lúc bấy giờ. Tuy nhiên, khi cây cam bắt đầu suy giảm về năng suất và chất lượng, ông quyết định chuyển đổi sang trồng mận Tam Hoa - loại cây ăn trái còn khá mới mẻ với vùng đất này. Nhờ chịu khó học hỏi và áp dụng kỹ thuật canh tác tiên tiến, sau thời gian đầu thử nghiệm, 500 gốc mận Tam Hoa đã mang lại kết quả khả quan, thu hoạch khoảng 20 tấn trái mỗi năm. Sau 8 năm canh tác, vườn mận của gia đình ông Thành vẫn duy trì năng suất cao và chất lượng tốt, đảm bảo thu nhập ổn định.
Lãnh đạo huyện Cao Lãnh đến thăm mô hình trồng mận của ông Dương Văn Thành ở xã Phong Mỹ
ỨNG DỤNG TIẾN BỘ KHOA HỌC KỸ THUẬT
Nhằm giải quyết những khó khăn, hạn chế trong liên kết sản xuất, tiêu thụ lúa khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, huyện từng bước thay đổi thói quen, tập quán của người dân, tổ chức lại sản xuất và phát triển sản xuất theo hướng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, nâng cao giá trị và tăng thu nhập cho nông dân. Huyện duy trì liên kết và tiêu thụ một số ngành hàng chủ lực, qua đó có 20/25 Hợp tác xã nông nghiệp và các Tổ hợp tác tham gia liên kết sản xuất tiêu thụ lúa gần 88.700ha, với sản lượng hơn 576.000 tấn; sản lượng liên kết cây ăn trái gần 50.400 tấn, tổng giá trị tăng thêm hơn 164 tỷ đồng so với vùng sản xuất không thực hiện liên kết.
Bên cạnh đó, để khẳng định giá trị thương hiệu, khả năng cạnh tranh của nông sản trên thị trường, huyện tập trung xây dựng và phát triển nhãn hiệu nông sản; xây dựng mã vùng trồng gắn với truy xuất nguồn gốc, liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản, phát triển chuỗi sản xuất hàng hóa với giá trị gia tăng cao, xây dựng vùng nguyên liệu lớn, kiểu mẫu, đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu. Đồng thời phát triển các nhãn hiệu hàng hóa đã được cấp như: Xoài Cao Lãnh, Xoài Cát chu Cao Lãnh, Ổi Lê Cao Lãnh, Gạo sạch Cao Lãnh, Chanh Cao Lãnh, Cá Điêu Hồng Bình Thạnh, Tôm càng xanh Nhị Mỹ và chỉ dẫn địa lý “Cao Lãnh” trên sản phẩm xoài, chanh; xây dựng nhãn hiệu hàng hóa “Sầu Riêng Cao Lãnh” và các sản phẩm tiềm năng khác... Qua đó, nâng cao giá trị và chất lượng nông sản địa phương trên thị trường trong và ngoài nước.
Cùng với đó, hình thành và phát triển chuỗi ngành hàng chủ lực của huyện có mã số vùng trồng và nhà đóng gói liên kết lâu dài, hiệu quả, nâng cao giá trị, chất lượng và năng lực cạnh tranh của nông sản, mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước. Huyện xây dựng, cấp và quản lý mã số vùng trồng cho các loại cây trồng chính như: lúa, cây ăn trái tại vùng sản xuất tập trung, cấp mã số cơ sở đóng gói nông sản, truy xuất nguồn gốc nông sản nhằm phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu. Đến nay, toàn huyện có 7 cơ sở đóng gói đang hoạt động và 423 vùng trồng được cấp mã số, với diện tích gần 32.000ha, đạt 86% diện tích sản xuất nông nghiệp, góp phần liên kết, tiêu thụ các mặt hàng chủ lực của huyện, tạo đầu ra ổn định cho nông sản, tăng thu nhập cho người dân.
Theo ông Huỳnh Thanh Sơn - Phó Chủ tịch UBND huyện Cao Lãnh, xác định phát triển sản xuất gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm, góp phần cải thiện đời sống người dân trong xây dựng nông thôn mới, những năm qua, huyện đã triển khai thực hiện được nhiều mô hình có hiệu quả cao, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân. Trong thời gian tới, huyện tập trung ưu tiên thúc đẩy hỗ trợ phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị, nhất là sản xuất nông nghiệp sạch - an toàn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động và kinh tế nông thôn, góp phần quan trọng trong công tác giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho người dân trên địa bàn huyện.
Bàn phương án hợp nhất ngành Nông nghiệp và Môi trường 2 tỉnh Gia Lai và Bình Định
Chiều 17-5, tại TP. Pleiku, Sở Nông nghiệp và Môi trường Gia Lai và Sở Nông nghiệp và Môi trường Bình Định có buổi họp để thống nhất phương án hợp nhất theo chủ trương sáp nhập tỉnh Gia Lai và tỉnh Bình Định.
Đồng chủ trì buổi làm việc có các ông: Lưu Trung Nghĩa-Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Gia Lai; Cao Thanh Thương-Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Bình Định.
Tại cuộc họp thực hiện hợp nhất 2 Sở Nông nghiệp và Môi trường đều thống nhất với phương án sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hợp lý, hiệu lực, hiệu quả, đảm bảo yêu cầu hoạt động của cơ quan tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực gắn với việc hoàn thiện, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; cơ cấu lại tinh gọn và nâng cao chất lượng công chức, viên chức của sở đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Đáng chú ý, kết quả sắp xếp sau sáp nhập đã làm giảm mạnh đầu mối, tăng hiệu suất hoạt động của bộ máy. Cụ thể, tổng số đơn vị cấp phòng và đơn vị sự nghiệp trực thuộc sở sau hợp nhất là 53 đầu mối, giảm 19 đầu mối so với trước (tương đương 26,38%). Trong đó, các phòng chuyên môn giảm từ 15 xuống còn 5 phòng; các chi cục giảm từ 13 xuống còn 9 chi cục; các đơn vị sự nghiệp cũng được tổ chức lại hợp lý hơn, chỉ giữ lại 39 đơn vị (giảm 6 đơn vị), trong đó có 21 ban quản lý rừng phòng hộ và các trung tâm kỹ thuật, quan trắc, chuyển đổi số, nước sạch...
Lãnh đạo 2 Sở Nông nghiệp và Môi trường Gia Lai và Sở Nông nghiệp và Môi trường Bình Định ký kết sau cuộc họp. Ảnh: Lê Nam
Tổng biên chế công chức, viên chức, người lao động có mặt sau sắp xếp là 1.380 người, chưa tính số viên chức không giao biên chế và hợp đồng lao động từ các đơn vị sự nghiệp công lập; các ban quản lý rừng phòng hộ cấp huyện tại Bình Định. Về trụ sở làm việc, hai bên cũng đã thống nhất, trụ sở làm việc chính của Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Gia Lai (mới) đặt tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định; đồng thời đặt cơ sở 2 tại thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Ngoài ra, sau cuộc họp lãnh đạo 2 sở sẽ giao cho các đơn vị trực thuộc làm việc lại với nhau để thống nhất việc bố trí nhân sự tại cơ sở 1 và cơ sở 2 cho hợp lý, hiệu quả.
Điểm tựa kinh tế nông nghiệp của Việt Nam - Bài 1: Vùng đất lạc hậu hóa vựa lúa vàng
Năm 2025 đánh dấu tròn 50 năm ngày đất nước thống nhất. Nửa thế kỷ đã trôi qua, Việt Nam đã chứng kiến những đổi thay kỳ diệu trên khắp mọi miền Tổ quốc, trong đó có Đồng bằng sông Cửu Long - vùng đất 'chín rồng' trù phú.
Thu hoạch vụ lúa tại HTX nông nghiệp Hương Trang (huyện Mộc Hóa, Long An). Ảnh tư liệu: Bùi Giang/TTXVN
Nhìn lại chặng đường lịch sử, Đồng bằng sông Cửu Long từ vùng đất còn nhiều khó khăn, sản xuất manh mún, đối mặt với vấn đề an ninh lương thực sau chiến tranh, đã vươn mình mạnh mẽ, trở thành vựa lúa, vựa cây ăn trái và thủy sản lớn nhất cả nước. Vùng đất này không chỉ đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia mà còn đóng góp quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu nông sản, khẳng định vị thế là "Điểm tựa kinh tế nông nghiệp của cả nước".
Sự chuyển mình ngoạn mục này là kết quả tổng hòa của nhiều yếu tố: đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, sự đầu tư về hạ tầng, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ... và quan trọng nhất là ý chí, nghị lực phi thường, sự sáng tạo không ngừng nghỉ của hàng triệu người con Đồng bằng - những người nông dân đã ngày đêm bám đất, bám đồng.
Phóng viên Thông tấn xã Việt Nam thực hiện hai bài viết khắc họa hành trình vươn lên từ nghèo khó, làm giàu chính đáng ngay trên mảnh đất quê hương của những người nông dân tiêu biểu tại miền Tây – những chủ thể đã trực tiếp làm nên sự thay đổi trên đồng ruộng; đồng thời, nhìn nhận những thách thức hiện tại và tương lai, cùng những định hướng chiến lược như "Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030" để vùng đất này tiếp tục phát triển bền vững.
Qua đó, mang đến cho độc giả cái nhìn bao quát và tự hào về sức sống mãnh liệt của Đồng bằng sông Cửu Long – vùng đất anh hùng trong chiến tranh, giàu tiềm năng, luôn giữ vững vai trò là trụ đỡ của nền nông nghiệp Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Thu hoạch lúa tại huyện Vị Thủy (Hậu Giang). Ảnh tư liệu: Duy Khương/TTXVN
Bài 1: Vùng đất lạc hậu hóa vựa lúa vàng
Sự trù phú của Đồng bằng sông Cửu Long ngày nay được dựng xây từ mồ hôi và ý chí của hàng triệu người nông dân, những người đã kiên cường bám đất, bám đồng và không ngừng đổi mới tư duy sản xuất.
Đất Chín rồng "thay da đổi thịt" sau nửa thế kỷ
Vùng Đồng Tháp Mười thuộc tỉnh Long An từng là nơi hoang hóa, nhiễm phèn nặng sau giải phóng. Ông Nguyễn Văn Thơi là một trong những người tiên phong, rời Mộc Hóa đến xã Vĩnh Đại, huyện Tân Hưng. Vùng đất khi đó "hoang vu, lau sậy mọc um tùm, không điện, không nước sạch, xung quanh chỉ toàn rắn rết, muỗi…". Cuộc sống khai hoang là những tháng ngày quần quật "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời", cơm vắt, ngủ bờ. Nhiều người đã bỏ cuộc, nhưng ông Thơi kiên trì, từng bước tích lũy đất đai. Từ diện tích ban đầu, ông mở rộng lên 65 ha sản xuất lúa hiện nay, một phần nhờ mua thêm đất khi Nông trường Lúa Vàng giải thể vào năm 1985.
Ban đầu, năng suất lúa thấp do đất nhiễm phèn nặng và thiếu hạ tầng thủy lợi. Nhưng cùng với nỗ lực của người dân và sự đầu tư của Nhà nước vào hệ thống kênh mương thủy lợi, năng suất lúa dần tăng lên. Nhận thức "sức người có hạn, cần vận dụng máy móc", ông Thơi đi đầu cơ giới hóa.
Ông đầu tư gần 10 loại máy móc hiện đại trị giá hơn 6 tỷ đồng và xây dựng 2 trạm bơm điện phục vụ tưới tiêu cho 170ha, cả cho gia đình và dịch vụ cho bà con. Nhờ áp dụng đồng bộ cơ giới hóa và kỹ thuật tiên tiến, 65ha đất của ông sản xuất lúa chất lượng cao, 3 vụ/năm, đạt bình quân 6,5-7 tấn/ha/vụ. Từ một người khai hoang vất vả, ông Thơi nay thu nhập hàng tỷ đồng mỗi năm và tạo việc làm ổn định cho 7 lao động địa phương.
Long An đã đạt được những thành tựu ấn tượng. Những năm đầu sau giải phóng, 2/3 diện tích vùng Đồng Tháp Mười (186.000ha) là đất hoang hóa, dân cư thưa thớt, năng suất lúa thấp (9-10 tạ/ha/vụ), bình quân lương thực đầu người chưa đến 100kg/năm. Chủ trương khai phá Đồng Tháp Mười của Tỉnh ủy Long An từ Đại hội Đảng bộ lần thứ IV năm 1986 đã làm thay đổi hoàn toàn diện mạo vùng đất này. Giai đoạn 1979-1999, hơn 150.000 ha đất hoang hóa được khai thác hiệu quả, bố trí hơn 44.000 hộ dân kinh tế mới. Diện tích gieo sạ lúa tăng từ 62.000 ha lên 293.000 ha, sản lượng tăng từ 156.000 tấn lên gần 1,2 triệu tấn.
Đến năm 2024, diện tích gieo sạ lúa toàn vùng đạt gần 448.000ha, năng suất trên 60 tạ/ha, sản lượng trên 2,7 triệu tấn (gần 80% là lúa chất lượng cao). Vùng Đồng Tháp Mười Long An chiếm hơn 80% sản lượng lương thực tỉnh.
Bà Đinh Thị Phương Khanh, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Long An cho biết, từ năm 2016, Long An đẩy mạnh Chương trình Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, với gần 64.000ha lúa ứng dụng công nghệ cao, tăng năng suất 400kg/ha và lợi nhuận gần 5 triệu đồng/ha so với sản xuất truyền thống.
Tại Kiên Giang, tỉnh có diện tích trồng lúa lớn nhất Đồng bằng sông Cửu Long, sự chuyển mình của nông dân còn gắn liền với mô hình kinh tế tập thể. Ông Nguyễn Hồng Phương (62 tuổi), Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Nông dân Đường Gỗ Lộ, huyện Giồng Riềng, từng trải qua giai đoạn "quần quật quanh năm nhưng lợi nhuận từ cây lúa không được bao nhiêu", năng suất chỉ 100-120kg/công những thập kỷ trước.
Sự thay đổi bắt đầu rõ nét từ năm 2005, đặc biệt 10 năm gần đây, nhờ đầu tư hạ tầng thủy lợi, ứng dụng khoa học kỹ thuật, sản xuất cánh đồng lớn, lúa chất lượng cao, cơ giới hóa và bao tiêu đầu ra. Từ 1 ha trồng lúa ban đầu, ông Phương tích lũy lên 14 ha sản xuất 2 vụ/năm, đạt năng suất vụ Đông Xuân 10,5 tấn/ha, lợi nhuận 50 triệu đồng/ha. Tổng lợi nhuận từ 14 ha có thể lên tới 1,1 tỷ đồng/năm.
Ông Phương nhận ra giải pháp tối ưu để nông dân khá lên là phát triển kinh tế tập thể với nòng cốt là Hợp tác xã. Năm 2015, Hợp tác xã Đường Gỗ Lộ ra đời với 54 thành viên, 78 ha. Đến đầu năm 2025, Hợp tác xã có 162 thành viên, sản xuất trên 245 ha. Nông dân trong hợp tác xã sản xuất lúa chất lượng cao, lúa sạch (Đài thơm 8, ST 24, ST 25, DS1), áp dụng quy trình canh tác lúa thông minh, giảm lượng giống sạ từ 20kg/công xuống 10kg, tiết kiệm chi phí 3-4 triệu đồng/ha. Hợp tác xã cung cấp dịch vụ làm đất, bơm tát, vật tư nông nghiệp và liên kết tiêu thụ sản phẩm. Hợp tác xã còn đầu tư điện năng lượng mặt trời cho trạm bơm và có 50ha lúa đạt chuẩn VietGAP có mã số vùng trồng.
Ông Phương khẳng định, sự phát triển của hợp tác xã chứng minh hiệu quả của kinh tế tập thể, giúp nông dân giảm chi phí, tăng năng suất, ổn định đầu ra, làm giàu chính đáng.
Những câu chuyện của ông Thơi ở Long An hay ông Phương ở Kiên Giang là đại diện cho sự chuyển mình mạnh mẽ của hàng triệu nông dân Đồng bằng sông Cửu Long. Họ là những người con của đất, với ý chí, nghị lực, sự nhạy bén và khả năng thích ứng, đã biến vùng đất từng gồng mình sau chiến tranh thành vựa lúa trù phú, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước.
Cái nôi của những "hạt ngọc" làm thay đổi đồng bằng
Với bề dày lịch sử hơn 45 năm hoạt động, Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều đóng góp cho sản xuất lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt trong lĩnh vực giống và các giải pháp kỹ thuật canh tác lúa. Ảnh: Thu Hiền/TTXVN
Thành công của người nông dân Đồng bằng sông Cửu Long không thể tách rời vai trò quyết định của khoa học công nghệ, mà Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Longl à một biểu tượng hàng đầu.
Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long thành lập năm 1977, đã đóng góp rất lớn vào sự phát triển của ngành lúa gạo. Năm 1975, toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long chỉ sản xuất được khoảng 5 triệu tấn lúa, năng suất trung bình 2,5 - 3 tấn/ha, chủ yếu giống lúa mùa địa phương, canh tác 1-2 vụ/năm. Đến nay, năng suất bình quân là 6,2 tấn/ha và nhiều nơi có thể canh tác 3 vụ/năm. TS. Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long, khẳng định vai trò lớn của công tác chọn tạo giống lúa trong sự thay đổi này.
Ban đầu, Viện nhập nội các giống lúa cải tiến từ Viện Lúa Quốc tế IRRI như "Thần Nông 8". Dần dần, Viện xây dựng chương trình lai tạo riêng và chủ động hoàn toàn. Hiện nay, các giống lúa mang thương hiệu OM (Ô Môn) do Viện nhân giống chiếm trên 65-70% trong tổng số khoảng 3,8 triệu ha diện tích gieo trồng của Đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, ba giống lúa chủ lực là OM18, OM5451 và OM380 chiếm gần 50% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long. Riêng hai giống OM18 và OM5451 đã đóng góp tới 60-70% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam.
TS. Trần Ngọc Thạch chia sẻ về giống lúa OM18, được lai tạo bởi PGS. TS. Trần Thị Cúc Hòa, nguyên Trưởng bộ môn Công nghệ sinh học của Viện. Đây là giống ngắn ngày, năng suất cao, khả năng sử dụng phân đạm hiệu quả, gạo thơm nhẹ, ngon cơm. Đặc tính này khiến OM18 được thị trường trong nước và xuất khẩu ưa chuộng. Nông dân Phan Thiện Khanh ở Cần Thơ đánh giá các giống mới như OM18, OM5451 có chất lượng gạo tốt, được thương lái trả giá cao hơn, đồng thời năng suất và khả năng chống chịu sâu bệnh, đổ ngã tốt hơn giống truyền thống. Nhờ những giống lúa chất lượng cao do Viện nghiên cứu đã giúp nông dân tăng thu nhập, cải thiện đời sống và góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu.
Không chỉ về giống, khoa học còn đóng góp vào các quy trình canh tác. Các nhà khoa học của Viện Lúa như TS. Phạm Chí Tân, Cao Văn Phụng, Phạm Văn Dư, Dương Văn Chín đã góp phần xây dựng quy trình quản lý dinh dưỡng, nước, cỏ dại, sâu bệnh như "ba giảm, ba tăng", "một phải, năm giảm".
Đồng thời, sự phối hợp giữa khoa học, nông dân và doanh nghiệp là chìa khóa quan trọng. TS. Phạm Anh Cường, Trưởng phòng Nghiên cứu phát triển của Công ty CP Phân bón Bình Điền, khẳng định Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long là đơn vị nghiên cứu cơ bản rất tốt, hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp để khảo nghiệm phân bón mới và đưa vào sản xuất. Ông cũng cho biết Bình Điền đang hợp tác với Viện trong các chương trình giảm phát thải khí nhà kính và xử lý rơm rạ, đóng góp vào Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao.
Ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Nông nghiệp công nghệ cao Trung An, đánh giá Viện Lúa có vai trò rất lớn trong nghiên cứu giống, bởi giống lúa thường thoái hóa sau 5-7 năm và cần giống mới chống chịu sâu bệnh. Công ty Trung An đã hợp tác với Viện Lúa hơn 10 năm trong chuỗi giá trị, từ khâu gieo sạ đến chế biến. Viện Lúa cung cấp giống nguyên chủng và cử cán bộ theo sát cánh đồng nguyên liệu của Trung An để hướng dẫn canh tác. Ông Bình khẳng định: "Nếu không có những nghiên cứu của Viện Lúa thì Đồng bằng sông Cửu Long sẽ không có những giống lúa OM góp phần thay đổi ngành lúa gạo Việt Nam như ngày nay".
Hiện tại, Đồng bằng sông Cửu Long đối mặt với thách thức ngày càng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu (hạn mặn, nhiệt độ cao, thời tiết cực đoan), yêu cầu thị trường về sản xuất xanh, giảm phát thải và nhu cầu tăng thu nhập nông dân. TS. Trần Ngọc Thạch cho biết, giải pháp về giống vẫn là giải pháp dễ thực hiện và có tác động nhanh nhất. Viện đang tập trung lai tạo giống thích ứng biến đổi khí hậu (chịu mặn, chịu nhiệt, chịu hạn) và đa dạng phân khúc thị trường.
Đồng thời, Viện hướng tới nghiên cứu quy trình canh tác bền vững, giảm phát thải khí nhà kính (mê-tan) và khai thác phế phụ phẩm (rơm rạ) để tăng thu nhập cho nông dân và giảm ô nhiễm. Mặc dù còn hạn chế về trang thiết bị nghiên cứu cơ bản, Viện định hướng xây dựng các phòng thí nghiệm cơ bản ngang tầm khu vực để làm chủ công nghệ. TS. Thạch kỳ vọng Viện sẽ thu hút các nhà khoa học giỏi và mọi nghiên cứu phải mang lại lợi ích cho người nông dân, giúp họ thích nghi với biến đổi khí hậu và đáp ứng kỳ vọng xuất khẩu.
Nhìn lại chặng đường 50 năm qua, Đồng bằng sông Cửu Long đã trải qua một cuộc chuyển mình kỳ diệu, từ vùng đất khó khăn, thiếu thốn trở thành vựa lúa, vựa cây ăn trái, thủy sản hàng đầu quốc gia và thế giới. Đó là thành quả của sức lao động, ý chí quật cường của người nông dân; là minh chứng cho vai trò quyết định của khoa học công nghệ trong việc tạo ra những đột phá và là kết quả của đường lối, chính sách đúng đắn, kịp thời từ Đảng và Nhà nước.
Tuy vẫn còn đó những thách thức lớn, đặc biệt là tác động ngày càng phức tạp của biến đổi khí hậu và những vấn đề nội tại trong liên kết chuỗi giá trị, nhưng với nền tảng vững chắc đã xây dựng trong 50 năm qua, cùng với sự chung tay của Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và người nông dân, tin rằng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ tiếp tục phát huy lợi thế, vượt qua khó khăn, triển khai thành công những chiến lược mới.
Trong đó, Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao và phát thải thấp chính là một bước đi chiến lược quan trọng, được xây dựng trên nền tảng 50 năm phát triển và hướng tới tương lai, nhằm củng cố vững chắc hơn nữa vị thế "Điểm tựa kinh tế nông nghiệp" cho sự phát triển bền vững và thịnh vượng của Việt Nam.
Điểm tựa kinh tế nông nghiệp Việt Nam - Bài cuối: 'Hạt ngọc trời' vươn mình trong kỷ nguyên mới
Chặng đường 50 năm kể từ ngày đất nước thống nhất đã chứng kiến sự chuyển mình ngoạn mục của Đồng bằng sông Cửu Long.
Theo dõi sự phát triển của trà lúa trong mô hình tại xã Phước Trung (Gò Công Đông, Tiền Giang). Ảnh: Minh Trí/TTXVN
Từ một vùng đất còn nhiều khó khăn, đối mặt với nguy cơ thiếu đói sau chiến tranh, Đồng bằng sông Cửu Long đã vươn lên trở thành vựa lúa lớn nhất cả nước, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và đóng góp quan trọng vào xuất khẩu.
Giờ đây, đứng trước những thách thức mới từ biến đổi khí hậu, yêu cầu khắt khe của thị trường thế giới và mục tiêu phát triển bền vững, ngành nông nghiệp đang bước vào một giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ hơn nữa. Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 là minh chứng rõ nét cho tầm nhìn và khát vọng nâng tầm hạt gạo Việt Nam trong kỷ nguyên mới, tiếp nối và phát huy những thành tựu đã đạt được sau nửa thế kỷ.
Đề án 1 triệu ha - chiến lược đột phá ứng phó thách thức
Đồng bằng sông Cửu Long với lợi thế tự nhiên và kinh nghiệm sản xuất lúa lâu đời, đã đạt sản lượng lúa gạo khổng lồ - hơn 24 triệu tấn lúa vào năm 2024. Tuy nhiên, phương thức canh tác thâm canh truyền thống trong một thời gian dài đã bộc lộ nhiều hạn chế.
Theo ông Trần Thái Nghiêm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố Cần Thơ, tư duy sản xuất tập trung vào thâm canh tăng năng suất đã dẫn đến việc lạm dụng tài nguyên như: giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật. Một số khâu quan trọng như ghi chép nhật ký sản xuất, đảm bảo an toàn thực phẩm, hay hạn chế phát thải khí nhà kính chưa được chú trọng.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt với các hình thái thời tiết cực đoan như: hạn mặn, ngập lụt, và sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường quốc tế đòi hỏi sản phẩm phải xanh, sạch, truy xuất được nguồn gốc, việc tiếp tục sản xuất theo lối cũ là không bền vững. Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp ra đời như một giải pháp chiến lược, nhằm tái cơ cấu ngành hàng lúa gạo Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng hiện đại, hiệu quả và bền vững hơn.
Đề án đặt mục tiêu kép: vừa nâng cao chất lượng và giá trị hạt gạo, vừa giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, đặc biệt là giảm phát thải khí nhà kính – một yêu cầu ngày càng quan trọng của thị trường quốc tế, thậm chí mở ra cơ hội bán tín chỉ carbon. Quy mô 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại các tỉnh trọng điểm cho thấy quyết tâm và tầm nhìn dài hạn của Việt Nam đối với cây lúa. Đây là bước đi kế thừa những thành tựu về giống và quy trình canh tác đã được Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long và các đơn vị khoa học nghiên cứu, đồng thời đẩy mạnh ứng dụng trên diện rộng, có sự tham gia và liên kết chặt chẽ của 4 nhà: Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân.
Mặc dù, mới bắt đầu triển khai thí điểm ở một số địa phương như Cần Thơ, Kiên Giang, Đồng Tháp, An Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Đề án đã cho thấy những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ. Tại mô hình thí điểm ở Tiến Thuận (Cần Thơ), vụ Hè Thu 2024 trên 47,2 ha cho thấy năng suất đạt 64 tạ/ha, cao hơn ngoài mô hình 7 tạ/ha. Chi phí sản xuất trong mô hình cao hơn 5% nhưng lợi nhuận lại cao hơn 20%. Đặc biệt, lượng phát thải CO2 tương đương giảm đáng kể, từ 2 - 12 tấn/ha (tương đương 50-83%), chủ yếu nhờ thu gom rơm rạ và áp dụng tưới ngập khô xen kẽ (AWD).
Vụ Thu Đông 2024 tại Cần Thơ tiếp tục cho thấy kết quả tích cực: năng suất cao hơn 1,5 tạ/ha, chi phí thấp hơn 10,4% và lợi nhuận cao hơn 23,2% so với ngoài mô hình. Các hộ tham gia mô hình thí điểm giảm gần 50% lượng giống, 20% phân bón và giảm 2-3 lần phun thuốc hóa học, giúp giảm chi phí từ 4-6 triệu đồng/ha. Năng suất lúa tăng 7% và giá bán cao hơn lúa truyền thống 200 đồng/kg, mang lại lợi nhuận tăng thêm 3,5 - 7 triệu đồng/ha.
Tại Kiên Giang, Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp thanh niên Phú Hòa (huyện Tân Hiệp) thí điểm Đề án trên 50 ha qua 3 vụ. Kết quả cho thấy lượng giống giảm hơn 40kg/ha (gieo sạ 70kg/ha), phân bón giảm hơn 100kg/ha, lượng nước bơm vào ruộng cũng giảm nhiều nhờ kỹ thuật siết nước, giúp giảm chi phí đầu tư hơn 5 triệu đồng/ha và tăng lợi nhuận. Năng suất lúa trong mô hình tương đương ngoài mô hình, nhưng tỷ suất lợi nhuận đạt trên 60%. Lượng phát thải khí nhà kính ước tính giảm từ 7,4 tấn CO2 quy đổi/ha trở lên.
Ông Hồ Văn Hướng, thành viên Hợp tác xã Phú Hòa, bày tỏ sự phấn khởi khi mô hình giúp gia đình ông giảm 10 triệu đồng chi phí/vụ với 2ha đất, lợi nhuận tăng trên 60%. Ông và nhiều nông dân thấy ý nghĩa hơn là quy trình sản xuất mới thích ứng biến đổi khí hậu, nâng cao giá trị hạt lúa và góp phần bảo vệ môi trường, sức khỏe.
Ông Trần Thái Nghiêm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Cần Thơ nhận định, nếu Đề án được triển khai rộng rãi với quy trình đúng, minh bạch và truy xuất nguồn gốc gắn với thương hiệu, ngành hàng lúa gạo sẽ có "trang mới". Ông kỳ vọng Đề án sẽ mở ra "cánh cửa mới", giúp gạo Việt tiếp cận các thị trường khó tính, cao cấp hơn như châu Âu, Nhật Bản.
Nâng cao năng lực liên kết, giải quyết điểm nghẽn
Nông dân điểu khiển bơm tát nước qua app điện thoại thông minh. Ảnh: Văn Sĩ/TTXVN
Mặc dù có những tín hiệu tích cực ban đầu, việc triển khai Đề án 1 triệu ha trên quy mô lớn không tránh khỏi những khó khăn và thách thức. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thành Nam lưu ý cần cẩn trọng, không nôn nóng, không theo phong trào khi mở rộng Đề án.
Một trong những điểm nghẽn lớn nhất là vấn đề liên kết chuỗi giá trị lúa gạo. Theo khảo sát từ Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, mặc dù số lượng hợp tác xã ở các tỉnh khá lớn, tỷ lệ hợp tác xã có liên kết chuỗi giá trị không nhiều. Nhiều hợp đồng giữa doanh nghiệp và hợp tác xã thực chất chỉ là hợp đồng thu mua sản phẩm đơn thuần, khiến tỷ lệ diện tích, sản lượng lúa có liên kết tại Đồng bằng sông Cửu Long còn thấp.
Tình trạng liên kết chuỗi lúa gạo còn yếu và thiếu xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Thị trường nông sản không ổn định, doanh nghiệp thiếu vốn đầu tư ứng trước cho nông dân và xây dựng kho bãi, năng lực của hợp tác xã còn hạn chế, nông dân ngại thay đổi và đôi khi chưa tuân thủ hợp đồng. Vấn đề thiếu niềm tin giữa doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân vẫn tồn tại.
Ông Nguyễn Cao Khải, Giám đốc Hợp tác xã Tiến Thuận, cho rằng sản xuất manh mún, thiếu tập trung, kỹ thuật yếu dẫn đến nông sản không ổn định về số lượng và chất lượng, tiêu thụ khó khăn. Cả hợp tác xã và doanh nghiệp còn thiếu lòng tin, ngại tìm kiếm đối tác phù hợp, vẫn quen giao dịch qua thương lái. Bà Trần Thị Kim Thúy từ Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật thành phố Cần Thơ bổ sung, quy mô sản xuất nhỏ lẻ của nông hộ khó ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, cơ giới hóa đồng bộ, dẫn đến chất lượng không đều.
Chủ tịch HĐQT Công ty CP Nông nghiệp công nghệ cao Trung An - ông Phạm Thái Bình nhấn mạnh liên kết chuỗi là con đường duy nhất để phát triển ngành hàng lúa gạo. Tuy nhiên, hình thức liên kết phổ biến ở Đồng bằng sông Cửu Long chỉ là đặt cọc và thu mua khi vào vụ. Sự biến động giá cả thường dẫn đến mâu thuẫn, tình trạng "bẻ kèo" khi giá lúa sụt giảm. Ông Nguyễn Văn Huỳnh, Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp thanh niên Phú Hòa, cũng gặp tình trạng liên kết thiếu chặt chẽ, doanh nghiệp chậm trễ hoặc không đến thu mua khi giá lúa giảm hoặc thu hoạch rộ.
Để Đề án 1 triệu ha thành công, cần giải quyết dứt điểm các điểm nghẽn này. Thứ trưởng Trần Thanh Nam chỉ đạo các địa phương đảm bảo hạ tầng tưới tiêu khi mở rộng diện tích. Việc nâng cao năng lực cho hợp tác xã là rất cần thiết, đồng thời cần lực lượng khuyến nông đủ năng lực để hướng dẫn nông dân thực hiện đúng quy trình giảm phát thải.
Ông Nguyễn Văn Huỳnh, Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp thanh niên Phú Hòa đề xuất hợp tác xã cần được tiếp cận trực tiếp vốn ưu đãi để đầu tư máy móc phục vụ sản xuất, thu mua lúa cho nông dân khi thị trường biến động. Bên cạnh đó, ông Huỳnh cũng mong muốn hợp tác xã hoặc nông dân được vay vốn ưu đãi để chủ động sản xuất, còn doanh nghiệp tập trung cung ứng vật tư và bao tiêu đầu ra với giá sàn ổn định. Cần bố trí kho bãi cho hợp tác xã để dự trữ vật tư và thu mua lúa tạm trữ khi giá thấp.
Ông Lê Hữu Toàn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Kiên Giang chỉ ra một số khó khăn khác như sự "đụng hàng" giữa các tỉnh trong giai đoạn thu hoạch gây áp lực cho doanh nghiệp và hạn chế nguồn lực tài chính của tỉnh cho Đề án. Ông đề xuất Trung ương sớm triển khai toàn diện Đề án với 3 hợp phần (hỗ trợ hạ tầng, kỹ thuật, quản lý dự án), tính toán lại lịch thời vụ giữa các tỉnh để tránh "đụng hàng" và khuyến khích doanh nghiệp xây dựng cơ sở sơ chế, chế biến tại vùng nguyên liệu. Quan trọng là tăng cường sản xuất theo đơn đặt hàng và cung cấp thông tin thị trường kịp thời cho địa phương.
Mặc dù còn nhiều thách thức, những kết quả ban đầu từ các mô hình thí điểm cho thấy sự đồng thuận của hệ thống chính trị và người dân về sản xuất lúa giảm phát thải. Việc các địa phương tích cực nhân rộng mô hình và sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp là tín hiệu tích cực. Ông Trần Thái Nghiêm khẳng định Cần Thơ quyết tâm xem Đề án 1 triệu ha là cơ sở để phát triển bền vững ngành hàng lúa gạo theo hướng liên kết chặt chẽ giữa các tác nhân.
Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp không chỉ là một dự án nông nghiệp đơn thuần. Đây là bước đi chiến lược mang tính đột phá, tổng hòa những bài học từ 50 năm phát triển, ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất và giải quyết các điểm nghẽn về liên kết, hạ tầng để nâng tầm hạt gạo Việt Nam. Thành công của Đề án sẽ là minh chứng cho khả năng thích ứng và vươn lên của nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long trong kỷ nguyên mới, củng cố vững chắc hơn nữa vị thế "Điểm tựa kinh tế nông nghiệp của cả nước" không chỉ về sản lượng mà còn về chất lượng, giá trị và tính bền vững.
Nhìn lại chặng đường 50 năm kể từ ngày giải phóng, Đồng bằng sông Cửu Long đã trải qua một cuộc chuyển mình kỳ diệu, từ vùng đất còn nhiều khó khăn, thiếu thốn trở thành vựa lúa, vựa cây ăn trái, thủy sản hàng đầu quốc gia và thế giới. Hành trình ấy là bản anh hùng ca về sức lao động, ý chí quật cường của người nông dân; là minh chứng cho vai trò quyết định của khoa học công nghệ trong việc tạo ra những đột phá; và là kết quả của đường lối, chính sách đúng đắn, kịp thời từ Đảng và Nhà nước.
Những câu chuyện về nông dân làm giàu trên đất Long An, Kiên Giang, sự ra đời và đóng góp to lớn của Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long với những giống lúa "huyền thoại" hay chiến lược táo bạo mang tên Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp... tất cả đều khắc họa một Đồng bằng sông Cửu Long đầy sức sống, năng động và không ngừng đổi mới.
Tuy vẫn còn đó những thách thức, đặc biệt là tác động ngày càng phức tạp của biến đổi khí hậu và những vấn đề nội tại trong liên kết chuỗi giá trị, nhưng với nền tảng vững chắc đã xây dựng trong 50 năm qua, cùng với sự chung tay của Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và người nông dân, tin rằng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ tiếp tục phát huy lợi thế, vượt qua khó khăn, triển khai thành công Đề án 1 triệu ha và giữ vững vị thế là "Điểm tựa kinh tế nông nghiệp" vững chắc cho sự phát triển bền vững và thịnh vượng của Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Huyện Văn Giang xúc tiến thương mại và quảng bá sản phẩm nông nghiệp gắn với du lịch
Ngày 17/5, UBND huyện Văn Giang tổ chức hội nghị xúc tiến thương mại tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và quảng bá sản phẩm nông nghiệp gắn với du lịch của huyện Văn Giang năm 2025.Hiện nay, huyện Văn Giang có 5 làng nghề chuyên sản xuất hoa, cây cảnh; 29 sản phẩm OCOP đã được UBND tỉnh công nhận và 5 sản phẩm làng nghề được Cục Sở hữu trí tuệ cấp bằng bảo hộ nhãn hiệu tập thể.Bên cạnh đó, 3 năm trở lại đây, Văn Giang đã khai thác hiệu quả tiềm năng du lịch, trung bình mỗi năm, huyện đón khoảng 2 triệu lượt khách đến tham quan, trải nghiệm dịch vụ du lịch.
Các đại biểu tham quan gian hàng trưng bày, giới thiệu sản phẩm chủ lực của Văn Giang
Tại hội nghị, các đại biểu chia sẻ, thảo luận về công tác quản lý, khai thác và phát triển sản phẩm nông nghiệp của huyện; việc phát huy lợi thế cạnh tranh của sản phẩm mang nhãn hiệu cộng đồng; vai trò của hộ kinh doanh trong việc giữ gìn sản phẩm truyền thống; hoạt động thu mua và kinh doanh của tổ chức thương mại… Đồng thời đề xuất các giải pháp để nâng cao giá trị thương hiệu, bảo tồn giá trị làng nghề truyền thống gia tăng chuỗi giá trị sản xuất ngành nông nghiệp và dịch vụ du lịch trên địa bàn huyện.
Một trong những sản phẩm OCOP của huyện Văn Giang
Đây là một trong những hoạt động xúc tiến thương mại đầu tiên của huyện được tổ chức trong năm 2025, gồm các gian hàng trưng bày, giới thiệu sản phẩm nông nghiệp, các sản phẩm chủ lực của huyện Văn Giang, đặc biệt là các nhóm sản phẩm được chứng nhận OCOP 3 sao và 4 sao.
Hội nghị là diễn đàn để giao lưu, học hỏi và hợp tác kết nối chuỗi cung - cầu giữa các doanh nghiệp, các HTX, hướng tới phát triển du lịch sinh thái nhà vườn gắn với văn hóa tâm linh, nhằm góp phần đẩy mạnh quảng bá sản phẩm nông sản, tạo thêm thu nhập cho người dân.
Mở rộng hệ sinh thái cho sản phẩm hữu cơ
Những năm gần đây, các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đã có bước phát triển tích cực, diện tích canh tác hữu cơ cũng gia tăng, ngày càng nhiều doanh nghiệp quan tâm đầu tư và người tiêu dùng cũng chú trọng hướng đến các sản phẩm sạch bền vững. Vậy nhưng, giá trị xuất khẩu nông nghiệp hữu cơ mới chỉ chiếm 1,46% tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản.
Kim ngạch xuất khẩu còn khiêm tốn
Những năm gần đây diện tích canh tác hữu cơ tăng lên, đạt gần 175.000ha, chiếm 1,41% tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp, bước đầu hình thành các hợp tác xã (HTX), doanh nghiệp (DN) tiên phong đầu tư và định hướng thị trường rõ ràng. Vậy nhưng ở thời điểm hiện tại, giá trị xuất khẩu nông sản hữu cơ chỉ đạt khoảng 20.000 tỷ đồng, chiếm 1,46% tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản, một con số khiêm tốn so với lợi thế sẵn có. Nông nghiệp hữu cơ phát triển chưa đồng đều giữa các vùng miền, chuỗi giá trị liên kết còn thiếu, khâu kiểm soát chứng nhận chất lượng chưa thực sự đồng bộ.
Theo ông Trương Xuân Sinh - Trung tâm Kiểm nghiệm, kiểm chứng và dịch vụ chất lượng (RETAQ) thuộc Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Việt Nam có nhiều thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ do có điều kiện tự nhiên thuận lợi, nhiều sản phẩm nông sản có lợi thế cạnh tranh như lúa gạo, cà phê, hồ tiêu, điều, chè, trái cây nhiệt đới, thủy sản… Vậy nhưng sản xuất nông nghiệp hữu cơ vẫn còn gặp nhiều thách thức như: sản xuất nhỏ lẻ, manh mún; kỹ thuật và trình độ canh tác chưa đáp ứng yêu cầu; chi phí sản xuất cao trong khi đầu ra chưa ổn định, các chính sách hỗ trợ còn phân tán, thiếu đồng bộ và chưa đủ mạnh để khuyến khích DN đầu tư dài hạn. Ông Sinh chỉ ra một trường hợp thực tế, đó là một DN chè ở Sơn La triển khai mô hình hữu cơ với quy mô 3ha, đạt năng suất và chất lượng tốt, giá bán cao. Tuy nhiên, khi muốn mở rộng vùng nguyên liệu, DN này gặp khó vì địa phương chưa có quy hoạch sản xuất hữu cơ phù hợp. Từ thực tế đó, ông Sinh cho rằng đây là vấn đề cần có định hướng rõ ràng từ cấp quốc gia đến địa phương.
Quy hoạch vùng và thu hút doanh nghiệp FDI
Đánh giá về nông nghiệp hữu cơ, giới chuyên gia khẳng định, Việt Nam còn nhiều dư địa, tiềm năng cho phát triển hệ sinh thái, cũng như những sản phẩm nông nghiệp hữu cơ do có điều kiện tự nhiên thuận lợi; nhiều sản phẩm nông sản có lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, để có thể thu hút các DN lớn, DN FDI đầu tư vào lĩnh vực này cần có chiến lược tổng thể cấp quốc gia, với trọng tâm là quy hoạch vùng sản xuất hữu cơ phù hợp từng vùng sinh thái; hoàn thiện khung pháp lý, bộ tiêu chí thống nhất và minh bạch; tăng cường đầu tư cho nghiên cứu, chuyển giao công nghệ. Quan trọng nhất là phát triển chuỗi liên kết giữa nông dân với DN và thị trường.
Theo ông Trương Xuân Sinh, việc tổ chức sản xuất theo quy hoạch vùng với quy mô lớn và đồng bộ còn giúp giảm đáng kể chênh lệch giá giữa thực phẩm hữu cơ và phi hữu cơ. Bên cạnh đó, việc sản xuất nông nghiệp hữu cơ cũng cần gắn với xây dựng thương hiệu, gắn với chuyển đổi xanh, gắn với du lịch sinh thái… sẽ giúp nông nghiệp hữu cơ ổn định lâu dài và giảm thiểu chi phí. Ngoài ra cần nâng cao kiến thức về lĩnh vực này cho nhà sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng. Cùng với đó, nỗ lực xây dựng cộng đồng sản xuất, tiêu thụ, kênh phân phối...
Chia sẻ phương cách phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Đan Mạch - quốc gia đi đầu trong xu hướng nông nghiệp hữu cơ và phát triển bền vững các chuyên gia cho hay, một trong những yếu tố thành công then chốt là áp dụng tiêu chuẩn hữu cơ xuyên suốt trong toàn bộ chuỗi giá trị - từ nông trại đến bàn ăn. Sản phẩm chỉ được cấp nhãn hữu cơ khi đáp ứng đầy đủ các tiêu chí, đồng thời trải qua hệ thống kiểm soát chặt chẽ, bao gồm kiểm tra định kỳ, đột xuất từ cơ quan chức năng địa phương. Sự hợp tác chặt chẽ trong toàn bộ chuỗi giá trị và các bên liên quan đã đưa Đan Mạch trở thành quốc gia không chỉ thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ trong nước mà còn cung cấp cho người tiêu dùng trên toàn thế giới những thực phẩm được sản xuất theo cách hữu cơ.
Đắk Lắk xác định nâng cao chất lượng nông sản để phát triển nông nghiệp
Để nâng chất lượng và độ tin cậy về an toàn thực phẩm của Đắk Lắk, các chuyên gia cho rằng cần đẩy mạnh công tác truyền thông các địa chỉ sản xuất, xuất khẩu nông sản bảo đảm chất lượng, có trách nhiệm để thông tin rộng rãi trong nước và nước ngoài…
Nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế tỉnh Đắk Lắk, đóng góp 36,8% vào tổng sản phẩm, đóng góp 90% tổng kim ngạch xuất khẩu và tạo việc làm cho 70% lao động địa phương…
Đến nay, Đắk Lắk có hơn 610 cơ sở được cấp giấy Chứng nhận ATTP ở các lĩnh vực: Trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản. Toàn tỉnh đã xây dựng được 123 chuỗi liên kết do các cấp chính quyền thực hiện, 150 hợp tác xã nông nghiệp có liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp, có 5 tổ chức khoa học tham gia liên kết.
Tuy nhiên, công tác quản lý chất lượng nông sản và an toàn thực phẩm (ATTP) tại Đắk Lắk vẫn còn nhiều hạn chế như: Tỷ lệ có chứng nhận chất lượng và có truy xuất nguồn gốc còn thấp; nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh chưa tuân thủ đầy đủ quy định ATTP; việc kiểm tra, lấy mẫu tại các vùng sản xuất gặp khó khăn do người dân chưa hợp tác…
Đắk Lắk chú trọng các giải pháp tổ chức sản xuất, liên kết chuỗi giá trị sản phẩm để kiểm soát chặt chẽ chất lượng đầu vào và đầu ra của sản phẩm.
Đáng chú ý, vấn đề kiểm soát dư lượng chất bảo vệ thực vật, nhất là chất Cadimi và vàng O trên mặt hàng sầu riêng xuất khẩu, đang trở nên rất cấp bách.
Tại hội nghị “Tăng cường công tác quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm (ATTP); Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm nông, lâm, thủy sản trên địa bàn tỉnh” vừa diễn ra tại Đắk Lắk, các đại biểu đã tập trung thảo luận, đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý chất lượng, an toàn sản phẩm nông, lâm, thủy sản.
Trong đó, chú trọng các giải pháp tổ chức sản xuất, phát triển vùng sản xuất an toàn, xây dựng hệ sinh thái trong sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị sản phẩm để kiểm soát chặt chẽ chất lượng đầu vào và đầu ra…
Ông Nguyễn Hắc Hiển, Chi Cục trưởng Chi Cục trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Đắk Lắk cho rằng: “Tổ chức sản xuất thì chúng ta phải liên kết lại để có sản phẩm đồng nhất, có số lượng lớn, để có chất lượng và để có an toàn thực phẩm thì cần phải hình thành các tổ hợp tác và hợp tác xã. Liên kết khi đó mới ghi nhật ký nông hộ, xem lại bón phân gì, sử dụng thuốc nào, quy trình ra sao và tính được hiệu quả kinh tế là chúng ta phải làm được những việc đấy”.
Vấn đề kiểm soát dư lượng chất bảo vệ thực vật, nhất là chất Cadimi và vàng O trên mặt hàng sầu riêng xuất khẩu, đang trở nên rất cấp bách.
Để nâng chất lượng và độ tin cậy về an toàn thực phẩm của Đắk Lắk các đại biểu cho rằng cần đẩy mạnh công tác truyền thông các địa chỉ sản xuất, xuất khẩu nông sản bảo đảm chất lượng, có trách nhiệm để thông tin rộng rãi trong nước và nước ngoài…
Ông Nguyễn Văn Hà, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đắk Lắk nhấn mạnh, trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, nâng cao chất lượng nông sản, đáp ứng các tiêu chuẩn về ATTP là yêu cầu bắt buộc và tất yếu. Do đó, sau hội nghị, yêu cầu các ngành, đơn vị liên quan phối hợp đồng bộ để tháo gỡ những tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm tại địa phương hiện nay.
"Không còn con đường nào khác là nâng cao chất lượng là giải pháp căn cơ để phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân. Sau hội nghị này chúng tôi sẽ tiếp tục tham mưu UBND tỉnh tiếp tục triển khai các nội dung tăng cường quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm và một số giải pháp trọng tâm trong thời gian đến” - ông Hà cho biết thêm.
Thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển bền vững
Chiều 16/5, đồng chí Trần Phong, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì hội nghị đối thoại với nông dân quý I/2025 với chủ đề 'Thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển bền vững'. Tham gia chủ trì hội nghị có đồng chí Đoàn Ngọc Lâm, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh; Trần Tiến Sỹ, Tỉnh ủy viên, Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh. Tham dự có đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành, địa phương liên quan và cán bộ, hội viên nông dân, chủ trang trại nông nghiệp trong toàn tỉnh.
Quang cảnh hội nghị.
Đặt vấn đề tại hội nghị, đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh Trần Phong nhấn mạnh, đây là dịp để lãnh đạo tỉnh trực tiếp lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng, khó khăn, vướng mắc cũng như các đề xuất, sáng kiến từ chính những người trực tiếp sản xuất trên đồng ruộng, chuồng trại để thúc đẩy kinh tế trang trại tỉnh nhà phát triển mạnh mẽ hơn nữa, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Đồng chí Chủ tịch UBND khẳng định, lãnh đạo tỉnh cam kết tiếp thu nghiêm túc, chỉ đạo quyết liệt các sở, ngành liên quan để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ phát triển sản xuất một cách thiết thực và hiệu quả.
Các đại biểu tham dự hội nghị đối thoại.
Trên tinh thần xây dựng, để hội nghị đối thoại thực sự là diễn đàn của hội viên nông dân, đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh đề nghị các đại biểu là chủ trang trại tham gia đối thoại phát huy tinh thần thẳng thắn, cởi mở, tập trung thảo luận, trao đổi, nêu ý kiến ngắn gọn, rõ ràng, cụ thể để tìm ra hướng đi phù hợp, đưa kinh tế trang trại Quảng Bình phát triển bền vững trong thời gian tới. Đồng thời, đề nghị đại diện các sở, ban, ngành nghiêm túc lắng nghe, trả lời thẳng vào trọng tâm vấn đề, ngắn gọn, dễ hiểu, không qua loa, né tránh. Đặc biệt là những khó khăn của trang trại cần mạnh dạn đề xuất, tham mưu Chủ tịch UBND tỉnh giải pháp tháo gỡ, thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển.
Đại diện chủ trang trại đề xuất ý kiến tại hội nghị đối thoại.
Thời gian qua, ngành Nông nghiệp Quảng Bình đã có những chuyển biến tích cực. Nhiều mô hình sản xuất hiện đại, ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn đã hình thành. Các trang trại, hợp tác xã từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất, liên kết theo chuỗi giá trị, góp phần cải thiện thu nhập cho nông dân, xây dựng nông thôn mới và bảo đảm an sinh xã hội. Đến hết năm 2024, toàn tỉnh có 340 trang trại đạt tiêu chuẩn theo quy định, tổng giá trị thu từ hoạt động của trang trại đạt hơn 774 tỷ đồng, bình quân đạt 2,3 tỷ đồng/trang trại/năm…
Tại hội nghị, đại diện các chủ trang trại đã có 16 nhóm ý kiến, đề xuất liên quan đến các vấn đề, như: Tích tụ ruộng đất nâng cao sản lượng; sản xuất nông nghiệp hữu cơ và khẳng định thương hiệu; vấn đề rác thải trang trại; lãi suất...
Quang cảnh hội nghị đối thoại.
Đại diện các chủ trang trại cũng quan tâm đến chính sách hỗ trợ vốn, kỹ thuật công nghệ cao để mở rộng quy mô sản xuất; thương mại điện tử; bảo hiểm nông nghiệp…
Những ý kiến, kiến nghị, đề xuất của các đại biểu đã được đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh và lãnh đạo các sở, ban, ngành, địa phương giải đáp, chia sẻ rõ ràng, đi thẳng vào trọng tâm vấn đề, vừa bảo đảm quy định của pháp luật, vừa phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của người dân.
Phát biểu kết luận tại hội nghị, đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh Trần Phong đánh giá cao những ý kiến tâm huyết, xuất phát từ thực tiễn của hội viên nông dân, chủ trang trại, góp phần quan trọng giúp tỉnh có những quyết sách sát thực tiễn hơn trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành phát triển kinh tế trang trại nói riêng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nói chung.
Đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh cũng đánh giá cao tinh thần trách nhiệm của các sở ngành, địa phương đã trả lời, đối thoại, giải đáp, gợi mở, tháo gỡ vướng mắc những nội dung đúng trọng tâm, trọng điểm về những vấn đề người nông dân quan tâm.
Lãnh đạo các sở, ngành trả lời ý kiến thuộc lĩnh vực quản lý.
Tuy nhiên, qua đối thoại có một số điểm nghẽn, vướng mắc ảnh hưởng đến sự phát triển của trang trại, như: Nguồn lực hỗ trợ trang trại quá ít, chưa đủ mạnh; việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng ưu đãi; tích tụ ruộng đất để mở rộng quy mô sản xuất còn khó khăn…
Để thúc đẩy kinh tế trang trại ngày càng phát triển bền vững, khai thác tốt tiềm năng lợi thế của địa phương, đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu các sở, ngành, đơn vị tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp phát triển kinh tế trang trại theo hướng hiện đại, hiệu quả và bền vững. Thường xuyên, chủ động, kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc của nông dân, nhất là các vướng mắc liên quan đến đất đai, nguồn vốn tín dụng ưu đãi... Riêng những kiến nghị, đề xuất của các chủ trang trại gửi đến buổi đối thoại phải được trả lời, giải đáp thỏa đáng cho người dân.
Đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh Trần Phong phát biểu kết luận tại hội nghị đối thoại.
Đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh cũng đề nghị các cấp Hội Nông dân tiếp tục tuyên truyền, vận động hội viên chuyển mạnh từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp; tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị để nâng cao hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp. Các chủ trang trại, hội viên tích cực gửi các ý kiến, kiến nghị, hiến kế về UBND tỉnh thông qua các cấp Hội Nông dân để có các quyết sách đúng, trúng, phù hợp nhu cầu thực tiễn…
Việt Nam và Đức có nhiều tiềm năng hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp
Xét về cơ cấu kinh tế-thương mại, Việt Nam và Đức có tính bổ trợ rất cao và đây là một lợi thế để các bên tăng cường phối hợp chính sách, thúc đẩy hơn nữa thương mại hai chiều.
Thứ trưởng Trần Thanh Nam (ngồi giữa cavat đỏ) chụp ảnh với đại diện các hiệp hội, doanh nghiệp Đức tại buổi Tọa đàm kết nối thương mại nông-lâm-thủy sản Việt Nam-CHLB Đức. (Ảnh: Phương Hoa/Vietnam+)
Đoàn công tác Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam do Thứ trưởng Trần Thanh Nam dẫn đầu đã có chuyến thăm làm việc 5 ngày tại Cộng hòa Liên bang Đức.
Chuyến thăm diễn ra đúng dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Cộng hòa Liên bang Đức, 14 năm thiết lập quan hệ Đối tác Chiến lược.
Sau 50 năm hợp tác, mối quan hệ giữa hai bên đã không ngừng được củng cố, vun đắp và phát triển ngày càng tốt đẹp trên mọi lĩnh vực.
Trong các ngày từ 14-18/5, đoàn công tác đã làm việc với Bộ Nông nghiệp và Thực phẩm Cộng hòa Liên bang Đức; Bộ Hợp tác và Phát triển kinh tế Liên bang Đức; Liên minh Nông nghiệp Đức (GAA); Hiệp hội Nông nghiệp Đức; Gặp Chủ tịch Nghị viện bang Thüringen; Bộ trưởng Xã hội, Y tế, Lao động và Gia đình; Bộ trưởng Văn phòng Thủ hiến bang bang Thüringen cùng nhiều ban ngành liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp.
Điểm nhấn nổi bật trong chuyến thăm lần này là buổi tọa đàm kết nối thương mại nông-lâm-thủy sản Việt Nam-Cộng hòa Liên bang Đức do Thứ trưởng Trần Thanh Nam, phối hợp với Đại sứ quán Việt Nam tại Cộng hòa Liên bang Đức và GAA đồng tổ chức.
Ngoài thành phần đoàn Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam, buổi tọa đàm đã thu hút được sự tham gia của nhiều hội doanh nghiệp Việt Nam-Cộng hòa Liên bang Đức, hiệp hội, trường đào tạo nghề, kênh phân phối, chuỗi siêu thị của Cộng hòa Liên bang Đức và khoảng gần 50 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, chế biến nông-lâm-thủy sản, lĩnh vực dịch vụ logistics phục vụ xuất nhập khẩu các mặt hàng nông nghiệp.
Thứ trưởng Trần Thanh Nam (thứ hai từ bên phải sang), Đại sứ Vũ Quang Minh và Giám đốc Liên minh Nông nghiệp Đức, Tiến sỹ Per Brodersen đồng chủ trì buổi tọa đàm. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN)
Tại buổi tọa đàm, các hiệp hội, doanh nghiệp Việt Nam và Đức đã tích cực thảo luận, chia sẻ thông tin về nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng cũng như các quy định trong xuất nhập khẩu và kinh nghiệm xuất khẩu hàng rau quả, nông sản, thủy sản, sản phẩm thịt vào chuỗi siêu thị của Cộng hòa Liên bang Đức.
Các đại biểu đồng thời đề xuất các cơ quan chức năng tạo điều kiện thuận lợi và phối hợp để thúc đẩy hợp tác nông nghiệp, tiếp cận thị trường cho các sản phẩm mà hai bên ưu tiên, đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Phát biểu tại buổi tọa đàm, Thứ trưởng Trần Thanh Nam đã điểm lại những thành tựu kinh tế nói chung và lĩnh vực thương mại nông nghiệp nói riêng của Việt Nam và Đức, đánh giá cao tiềm năng hợp tác đa lĩnh vực giữa Việt Nam và Đức về đảm bảo an toàn thực phẩm trong toàn chuỗi sản xuất, nâng cao năng lực đào tạo gắn với thực hành, đồng thời những tiên tiến trong cơ giới hóa và chuyển đổi số.
Thứ trưởng Trần Thanh Nam đã đưa ra ba đề xuất. Một là các hiệp hội của Cộng hòa Liên bang Đức định kỳ hằng năm tổ chức cho các doanh nghiệp hoạt động kết nối với các doanh nghiệp, hiệp hội phía Việt Nam để xúc tiến và quảng bá, phát triển thị trường tiêu thụ cho sản phẩm của Cộng hòa Liên bang Đức.
Hiệp hội và doanh nghiệp Việt Nam hợp tác với phía hiệp hội của Cộng hòa Liên bang Đức để tổ chức đưa đoàn doanh nghiệp tham gia tại các sự kiện xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu sản phẩm nông-lâm-thủy sản của Việt Nam thông qua các hội chợ, triển lãm thương mại, khảo sát thị trường, nghiên cứu nhu cầu thị hiếu... tại thị trường Cộng hòa Liên bang Đức.
Hai là các hiệp hội ngành hàng nông sản của Cộng hòa Liên bang Đức và của Việt Nam thiết lập kênh liên kết thông qua hiệp hội với hiệp hội, tạo các nhóm doanh nghiệp liên kết theo chuỗi cung ứng (kho lạnh, bảo quản, vận chuyển, kho ngoại quan, kết nối kênh phân phối, siêu thị…) nhằm đảm bảo tuân thủ các quy định theo chuỗi giá trị sản phẩm, vừa giúp giảm chi phí logistics, đảm bảo chất lượng sản phẩm từ khâu sản xuất cho đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
Ba là các doanh nghiệp của Việt Nam cần liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp của Cộng hòa Liên bang Đức trong sản xuất, chế biến đáp ứng quy định, phù hợp thị hiếu thị trường để xuất khẩu vào kênh phân phối, siêu thị và cộng đồng doanh nghiệp Việt kiều tại Cộng hòa Liên bang Đức.
Đại sứ Vũ Quang Minh, đồng chủ trì cuộc tọa đàm, khẳng định sự kiện này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh hai nước cùng với cả thế giới đang phải đối mặt với những thách thức chưa từng có, gây khó khăn và xáo trộn lớn cho thương mại nói riêng và hợp tác kinh tế nói chung giữa các nước, cả về mặt song phương và đa phương, trong đó có những chính sách mới về thuế quan của Mỹ, cuộc xung đột tại Ukraine và các điểm nóng khác trên thế giới cũng như cuộc cạnh tranh địa chính trị toàn cầu.
Đại sứ nhấn mạnh trong bối cảnh này, Đức và Việt Nam, hai Đối tác Chiến lược tin cậy càng cần tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác nhiều mặt cùng có lợi, đặc biệt là về kinh tế-thương mại, trong đó nông nghiệp, thủy sản và môi trường là những lĩnh vực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Đoàn công tác Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam làm việc với Bộ Nông nghiệp và Thực phẩm Đức. (Ảnh: Phương Hoa/Vietnam+)
Liên quan đến vấn đề quan thuế, cả Liên minh châu Âu (EU) và Việt Nam đều đang nỗ lực đàm phán với Mỹ với thiện chí cao nhất. Tuy nhiên, theo Đại sứ, các bên đều phải chuẩn bị cho mọi phương án.
Xét về cơ cấu kinh tế-thương mại, Việt Nam và Đức có tính bổ trợ rất cao và đây là một lợi thế để các bên tăng cường phối hợp chính sách, thúc đẩy hơn nữa thương mại hai chiều, tận dụng thế mạnh của thị trường hai nước, sẵn sàng tăng thị phần cho nhau để đối phó với mọi tình huống khó khăn và thách thức.
Nếu xét về cơ cấu xuất nhập khẩu, có thể thấy Đức là nền kinh tế lớn nhất châu Âu, có thị trường tiêu dùng quy mô và tiêu chuẩn cao, hiển nhiên có thể là một thị trường chiến lược thay thế số một của Việt Nam, khi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) mang lại nhiều ưu đãi thuế quan và hai nước có quan hệ tốt đẹp nhiều mặt, đặc biệt đang tiến tới nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện.
Về phần mình, Tiến sỹ Per Brodersen, Giám đốc GAA, nồng nhiệt chào đón đoàn công tác của Thứ trưởng Trần Thanh Nam. Tiến sỹ khẳng định nông nghiệp và thực phẩm không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với toàn bộ cơ cấu nền kinh tế Đức, mà còn đối với cả toàn cầu.
Tiến sỹ Per Brodersen nói: “An ninh lương thực là mối quan tâm của tất cả chúng ta." Khẩu hiệu, vừa là phương châm, vừa là tuyên bố của Liên minh Nông nghiệp Đức, sẽ phù hợp với cả thời điểm hiện tại và trong tương lai.
Theo Tiến sỹ Per Brodersen, quan hệ nông nghiệp Đức-Việt Nam đang bước vào giai đoạn mới với tiềm năng hết sức to lớn, cả về sản lượng và hiệu quả, cũng như xuất khẩu và giá trị gia tăng.
Tiến sỹ cho rằng việc đoàn Bộ Nông nghiệp và Môi trường của Việt Nam có cuộc làm việc với Bộ Nông nghiệp và Thực phẩm Đức đã mở ra nhiều cơ hội hợp tác và phát triển giữa hai nước, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và thực phẩm.
Đoàn công tác Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam làm việc với Bộ Hợp tác và Phát triển Kinh tế Đức. (Ảnh: Phương Hoa/Vietnam+)
Trong các ngày làm việc tiếp theo tại thành phố Erfurt, bang Thüringen và Frankfurt, bang Hessen, đoàn đã có nhiều buổi gặp gỡ và trao đổi với các cơ quan ban ngành liên quan đến lĩnh vực hợp tác nông nghiệp và đào tạo nghề.
Đáng nói, Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam đã ký kết 6 biên bản ghi nhớ với Trung tâm giáo dục và đào tạo nghề thành phố Erfurt, bang Thüringen.
Đoàn cũng đã có buổi gặp gỡ và làm việc với Đại sứ quán Việt Nam tại Cộng hòa Liên bang Đức./.