Nông dân trồng sầu riêng VietGAP
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Một nông dân sản xuất giỏi, người đã nhanh chóng chuyển hướng cây trồng, canh tác những cây trồng có giá trị kinh tế cao. Đặc biệt, ông cũng là người tiên phong trồng cây theo tiêu chuẩn VietGAP, xây dựng mã vùng trồng với định hướng xuất khẩu. Đó là ông Nguyễn Nghĩa Dũng, nông dân vùng đất xã Đạ Rsal.
Ông Nguyễn Nghĩa Dũng và vườn sầu riêng đã được cấp mã số vùng trồng
Nông dân Nguyễn Nghĩa Dũng, thôn Pang Pế Nâm, xã Đạ Rsal, huyện Đam Rông (tỉnh Lâm Đồng) hiện đang có 7 ha sầu riêng. Diện tích sầu riêng được trồng nhiều đợt khác nhau, đợt đầu gồm 4 ha đã trồng được 11 năm, vào năm 2013-2014. Trước đó, ông là nông hộ chuyên canh cây có múi gồm cam, quýt, bưởi, những giống cây ăn trái cũng cho thu nhập ổn định. Tuy nhiên, nhận thấy nhu cầu của người tiêu dùng thay đổi, ông Dũng đã chuyển hướng sang chặt bớt cam, quýt, trồng sầu riêng thay thế. Diện tích còn lại, ông duy trì trồng cà phê và một số loại cây ăn trái thử nghiệm. Ông Nguyễn Nghĩa Dũng chia sẻ: “Là nông dân, chúng tôi xác định phải canh tác những cây trồng cho năng suất cao, giá trị kinh tế lớn. Như gia đình tôi đã nhận thấy đất Đạ Rsal rất hợp với cây sầu riêng và đã nhanh chóng chuyển đổi bớt diện tích cam, quýt già cỗi, nhiều bệnh sang trồng sầu riêng”.
Ngay từ ban đầu, khi xuống giống sầu riêng, ông Nguyễn Nghĩa Dũng đã xác định trồng với quy mô lớn, canh tác vườn thuần để có những vụ mùa cho trái đồng loạt. Theo ông, vườn có quy mô càng lớn, năng suất càng cao, nông dân càng dễ trong việc chăm sóc cũng như tiêu thụ. Và, ông đã chọn giống chuẩn, đó là giống sầu riêng Thái Monthon cơm vàng hạt lép. Ngay từ khi sầu riêng có trái, khi chưa có Nghị định thư xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc, ông Dũng đã canh tác sầu riêng theo tiêu chuẩn VietGAP. “Trồng cây sầu riêng theo tiêu chuẩn VietGAP, có thể hơi mất công cập nhật, theo dõi nhật ký đồng ruộng, phải ghi chép cẩn thận giống, phân bón, thuốc men… nhưng bù lại, chi phí giảm và cây sầu riêng khỏe, bộ rễ rất tốt. Gia đình tôi tuân thủ nghiêm túc quy trình canh tác VietGAP theo quy định của ngành Nông nghiệp, vì vậy khi xây dựng mã số vùng trồng rất thuận lợi, gần như không phải thay đổi quy trình canh tác nhiều”, ông Dũng nhận xét.
Theo ông Dũng, quy trình canh tác VietVAP trên cây sầu riêng cũng gần như các quy định trong Nghị định thư xuất khẩu trái sầu riêng tươi. Đặc biệt, khi canh tác VietGAP, đất trong vườn sầu riêng an toàn, có hệ vi sinh vật có lợi phong phú, giúp hạn chế sâu bệnh. Các quy định như không sử dụng thuốc diệt cỏ, không phun thuốc ngoài danh mục…, ông Dũng tuân thủ từ lâu, giúp hệ sinh thái trong vườn an toàn. Canh tác VietGAP tạo điều kiện thuận lợi để người nông dân đáp ứng được yêu cầu canh tác sầu riêng xuất khẩu.
Vụ sầu riêng 2024, gia đình ông Nguyễn Nghĩa Dũng có 4 ha sầu riêng cho trái, ước tính thu được 100 tấn. Số trái này đã được doanh nghiệp đặt cọc, sẽ thu hoạch phục vụ xuất khẩu vì vườn đã được cấp mã số vùng trồng, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Ông Dũng cho biết, ông xây dựng mã số vùng trồng với doanh nghiệp và đáp ứng rất nhanh do có sẵn quy trình canh tác VietGAP từ nhiều năm nay. Được biết, ông đã chốt bán vườn sầu riêng với giá 81 ngàn đồng/kg, ước tính thu được 8 tỷ đồng. Và từ những năm sau, khi các diện tích sầu riêng lần lượt bước vào giai đoạn thu hoạch bền vững, sản lượng sẽ tăng dần lên, thu nhập của gia đình cũng sẽ tăng cao.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Nghĩa Dũng vẫn sẽ duy trì diện tích cà phê bên cạnh diện tích sầu riêng. Theo ông, đa dạng hóa cây trồng giúp người nông dân an toàn hơn, giảm tình trạng phụ thuộc hoàn toàn vào một loại cây trồng. Và, ông sẽ tiếp tục trồng lại cây có múi như cam, quýt, bưởi vì theo ông, vùng Đạ Rsal rất hợp với cây có múi. Thị trường dành cho cây có múi cũng rất rộng và có nhu cầu lớn. Và tất nhiên, dù canh tác sầu riêng, cà phê hay cây có múi, ông Dũng vẫn thực hiện quy trình canh tác VietGAP, đảm bảo chất lượng trái cũng như giữ môi trường bền vững.
Không chỉ trồng cây sầu riêng, cây cà phê, gia đình ông Nguyễn Nghĩa Dũng còn mở địa điểm thu mua, thu mua hết những diện tích sầu riêng nhỏ lẻ của bà con trong thôn, trong xã. Ông còn cung ứng giống cây trồng chất lượng cao cũng như sẵn sàng tư vấn cho bà con về kỹ thuật chăm sóc cây trồng với mục tiêu bà con cùng vươn lên.
Ông Nguyễn Viết Sương - Chủ tịch Hội Nông dân xã Đạ Rsal đánh giá, ông Nguyễn Nghĩa Dũng là nông dân sản xuất giỏi, tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Ông cũng là người sẵn sàng áp dụng kiến thức mới, canh tác nông nghiệp hiện đại, an toàn, thân thiện với môi trường. Hiện, gia đình ông Dũng và một số hộ dân trồng sầu riêng đã được Hội Nông dân xã và Phòng Nông nghiệp huyện Đam Rông hỗ trợ tập huấn, cấp giấy chứng nhận sản phẩm VietGAP và hướng tới đăng ký sản phẩm OCOP của địa phương. Diện tích sầu riêng của gia đình ông Dũng cũng đã được cấp mã số vùng trồng, là nơi học tập kinh nghiệm của nhiều nông hộ trong vùng, cùng nhau xây dựng vùng cây ăn trái xuất khẩu bền vững.
DIỆP QUỲNH
Sản phẩm trái sầu riêng cấp đông của Bến Tre đạt tiêu chuẩn OCOP 5 sao
Nguồn tin: Báo Đồng Khởi
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam đã ký ban hành Quyết định số 2171, ngày 4-7-2024 về việc phê duyệt kết quả đánh giá, phân hạng sản phẩm Chương trình mỗi xã một sản phẩm cấp Quốc gia năm 2024 (đợt 1). Theo đó, tỉnh Bến Tre có sản phẩm trái sầu riêng cấp đông của Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Trái cây Chánh Thu (xã Hòa Nghĩa, huyện Chợ Lách) đạt “Sản phẩm OCOP cấp Quốc gia” năm 2024.
Quyết định định số 2171 phân hạng sản phẩm đạt “Sản phẩm OCOP cấp Quốc gia” (sản phẩm OCOP 5 sao) cho 4 sản phẩm mới và công nhận lại “Sản phẩm OCOP cấp Quốc gia” cho 6 sản phẩm. Sản phẩm trái sầu riêng cấp đông là 1 trong 4 sản phẩm mới đã vinh dự được công nhận “Sản phẩm OCOP cấp Quốc gia” năm 2024.
Sản phẩm trái sầu riêng của Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Trái cây Chánh Thu được giới thiệu, trưng bày tại cuộc họp ngày 25-6-2024. Ảnh: CTV
Cũng theo quyết định này, sản phẩm trái sầu riêng cấp đông sẽ được sử dụng biểu trưng và tem OCOP quốc gia trên bao bì, nhãn mác và các tài liệu giới thiệu, quảng bá về sản phẩm theo quy định. Kết quả phân hạng có giá trị 36 tháng kể từ ngày được công nhận. Sản phẩm OCOP cấp Quốc gia cũng sẽ được Văn phòng Điều phối nông thôn mới Trung ương (Cơ quan thường trực Chương trình OCOP) đề xuất các giải pháp hỗ trợ để tiếp tục hoàn thiện sản phẩm, giới thiệu, xúc tiến thương mại trên thị trường trong và ngoài nước.
Cẩm Trúc
Cơ hội xuất khẩu nông sản với sầu riêng cấp đông
Nguồn tin: Báo Đắk Lắk
Bà Vũ Kim Hạnh, nhà tư vấn đầu tư, xuất khẩu hàng Việt Nam chất lượng cao chia sẻ, sầu riêng Việt Nam hiện nay không chỉ có hướng xuất sang Trung Quốc, Hàn Quốc ở dạng quả tươi, mà sầu riêng cấp đông còn là mặt hàng được Thái Lan nhập khẩu nhiều nhất.
Củng cố chất lượng canh tác, đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu sẽ là hướng đi phù hợp để ngày một gia tăng giá trị cho loại nông sản này.
Đa dạng thị trường, đa phương chế biến!
Ông Vũ Đức Côn, Chủ tịch Hiệp hội Sầu riêng Đắk Lắk cho rằng, nên định vị chiến lược xuất khẩu sầu riêng bền vững cho địa phương, cũng như toàn vùng cao nguyên, dựa vào cơ hội “lệch mùa” thu hoạch so với địa phương khác.
Cụ thể, sầu riêng Đắk Lắk có vụ chính từ tháng 7 - 9, sau đó đến tỉnh Gia Lai, huyện Bảo Lộc (Lâm Đồng). Những thời điểm này sai khác với vụ thu hoạch sầu riêng ở miền Tây Nam Bộ (từ tháng 3 - 5), và khá lệch so với sầu riêng Thái Lan (vốn thu hoạch từ tháng 4 - 6 hằng năm). Lệch mùa thu hoạch sẽ tạo “khan hiếm” cục bộ ở dòng xuất khẩu chính của thị trường, và là lý do để một nước xuất khẩu sầu riêng rất cạnh tranh như Thái Lan phải mua sầu riêng Việt Nam.
Hơn nữa, hướng xuất khẩu sầu riêng lâu nay ở Tây Nguyên là xuất nguyên trái tươi, phục vụ nhu cầu ăn múi tự nhiên của người dùng. Trung Quốc trở thành thị trường nhập khẩu sầu riêng chính từ Tây Nguyên và Việt Nam, là do hướng tiêu thụ này. Song sầu riêng tươi đòi hỏi lịch trình vận chuyển ngắn hạn, điều kiện bảo quản khắt khe nên chi phí cao, lợi nhuận thực tế cho người nông dân không cao mà lại nhiều rủi ro. Nếu đổi sang hình thức xuất khẩu múi sầu riêng cấp đông như Thái Lan, nhắm đến những tiêu chuẩn chế biến chuyên sâu khác nhau, sầu riêng Đắk Lắk và Tây Nguyên sẽ có những cơ hội khác hẳn.
Theo đó, ông Vũ Đức Côn cho biết, địa phương đang phối hợp các cấp ngành quản lý đề xuất, thương thảo xuất khẩu sầu riêng cấp đông chính ngạch vào thị trường Trung Quốc. Nếu đạt được thỏa thuận này, sầu riêng Đắk Lắk sẽ có thêm nhiều hướng phân phối, đa dạng thị trường, đa phương chế biến, thu hút được nhiều dự án đầu tư hấp dẫn vào địa bàn cũng như thực hiện kết nối logistics ra bên ngoài thuận lợi hơn.
Ngay với thị trường trong nước, sầu riêng ăn múi tươi đến nay đang ở mức giá cao, không phải người tiêu dùng nào cũng chấp nhận được. Do đó, nếu chuyển sang xử lý sầu riêng cấp đông, phục vụ các yêu cầu chế biến chuyên sâu, không còn bị lệ thuộc thời gian mùa vụ, sầu riêng Đắk Lắk lại càng có ưu thế cạnh tranh với thị trường.
Sơ chế, đóng gói sầu riêng cấp đông tại nhà máy của Công ty TNHH Ban Mê Green Farm (TP. Buôn Ma Thuột). Ảnh: Minh Thuận
Ba cơ hội không thể bỏ lỡ
Theo bà Vũ Kim Hạnh, có ít nhất ba cơ hội thay đổi thị trường và chất lượng hàng hóa nông sản khi chuyển dịch sầu riêng từ trái cây tươi sang cấp đông.
Thứ nhất, việc xuất khẩu sầu riêng của những vùng trồng trọng điểm như Tây Nguyên sẽ mở rộng từ Trung Quốc đến Thái Lan, và nếu đi kèm chiến lược cấp đông đóng túi, sầu riêng xuất khẩu còn có thêm những loại hình sản phẩm chế biến cao cấp, thực phẩm chuyên biệt để đi vào châu Âu hay Hoa Kỳ… Nếu thị trường trong nước cũng quen dần các phương thức bảo quản, tiêu thụ sầu riêng cấp đông hiện đại hơn, nhu cầu tiêu dùng thực phẩm của người dân cũng sẽ thay đổi và là cơ hội rất lớn cho nông sản Tây Nguyên phát triển.
Thứ hai, sầu riêng thay vì thu hoạch tươi nguyên trái có thể xử lý bóc múi cấp đông, là một hình thức xử lý tốt hơn, bảo đảm thời gian bảo quản, chất lượng trái cây được ổn định, an toàn. Tình trạng thu hoạch sớm, sử dụng các loại hóa chất bảo quản nguy hiểm, ảnh hưởng sức khỏe người dùng sẽ dần bị loại bỏ. Ngược lại, giá thành sầu riêng qua cấp đông lại không ngừng tăng lên và việc tiêu thụ thuận lợi, chủ động hơn, không còn lệ thuộc mùa chính.
Thứ ba, vấn đề quan trọng hơn, chuyển hướng thu hoạch và bảo quản sầu riêng cấp đông sẽ giúp thay đổi quy trình và nhận thức canh tác của người nông dân, tạo những chuỗi giá trị đầu tư mới vào nông nghiệp nông thôn, đa dạng hóa, xã hội hóa nguồn lực sản xuất nông nghiệp vùng Tây Nguyên. Người nông dân với hướng bảo quản sầu riêng cấp đông sẽ chủ động được lịch trình sản xuất của mình và tuân thủ tốt những yêu cầu canh tác, thu hoạch đúng tiêu chuẩn quốc tế hóa, ngày càng đổi mới, tăng cường nhận thức và cơ hội làm giàu.
Theo ông Vũ Đức Côn, những cảnh báo cơ hội này, rất đáng được các cấp quản lý và ngành chức năng quan tâm, chính quyền các địa phương thiết thực áp dụng. Khó khăn hiện nay của hướng thay đổi sản phẩm này, chính là hệ thống các kho lạnh chuyên ngành, các kho bảo quản nông sản chất lượng cao tại các địa bàn, cụ thể ở Đắk Lắk vẫn còn hạn chế, thiếu sự quy hoạch đồng bộ, tập trung bảo đảm chất lượng, sản lượng thu hoạch tốt cho các vùng chuyên canh diện tích lớn.
Đồng thời, hướng vận động xuất khẩu sầu riêng cấp đông cũng đòi hỏi sự chung tay vào cuộc của cộng đồng các doanh nghiệp kinh doanh và người nông dân để có được những hệ thống xe vận tải chuyên dụng, phối hợp tổ chức các dịch vụ logistics chất lượng, an toàn và bền vững hơn.
Nhận thức về chuỗi cung ứng nông sản giá trị cao, từ khâu canh tác đến chế biến thực phẩm vì người tiêu dùng cần được quảng bá rộng rãi với cộng đồng xã hội, đến tận từng người nông dân, từ đó mới thực sự tạo chuyển biến mạnh cho sầu riêng xuất khẩu.
Nguyên Đức
Cây dừa sáp cho ‘trái ngọt’ trên vùng đất trũng phèn
Nguồn tin: Báo Sóc Trăng
Cây dừa dễ trồng, nhẹ công chăm sóc, phù hợp với nhiều loại đất. Hiện nay, nhiều hộ dân ở xã Mỹ Hương, huyện Mỹ Tú (Sóc Trăng) đã trồng các giống dừa mới như: dừa xiêm xanh, dừa xiêm đỏ, dừa dứa… trong đó cây dừa sáp cũng đã được trồng rất thành công, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.
Anh Dương Thanh Tòng, ấp Xẻo Gừa, xã Mỹ Hương, huyện Mỹ Tú gặt hái thành công khi mang dừa sáp trồng trên đất nhà. Đưa chúng tôi ra xem vườn dừa sáp đang độ cho trái, anh Thanh Tòng bộc bạch: “Khu vườn dừa sáp có tổng diện tích 1ha. Phần đất này trước đây trồng lúa, trồng các loại cây ăn trái, hiệu quả kinh tế không cao. Năm 2018, tôi có người quen thực hiện đề tài trồng cây dừa sáp cấy mô thành công ở nhiều địa phương khác nhau nên tôi mua giống về trồng cho toàn bộ khu vườn 1ha. Cây dừa sáp cấy mô có thời gian sinh trưởng và chế độ chăm sóc cũng như những giống dừa khác. Sau 3 năm trồng, dừa bắt đầu cho trái, đến năm thứ 4 cho trái ổn định hơn. 1 quầy dừa (buồng dừa) chỉ để từ 4 - 8 trái, nhằm cho trái đạt kích cỡ khi xuất bán ra thị trường. Với số lượng trái như trên thì tỷ lệ trái sáp đạt từ 70 - 80%/quầy dừa”.
Anh Dương Thanh Tòng (bên trái), xã Mỹ Hương, huyện Mỹ Tú (Sóc Trăng) giới thiệu vườn dừa sáp 1ha đem về thu nhập hơn 380 triệu đồng/năm. Ảnh: THÚY LIỄU
Tính đến thời điểm hiện tại, vườn dừa sáp của anh Tòng đã thu hoạch bước sang năm thứ 3, dừa cho trái quanh năm và đã đạt sản lượng ổn định. Dừa sáp được thương lái thu mua tại vườn có giá từ 100.000 - 120.000 đồng/trái (tùy size). Ngoài bán cho thương lái tại vườn, anh Tòng còn cung ứng dừa sáp cho nhiều trạm dừng chân trên các tuyến quốc lộ trong và ngoài tỉnh. Cùng với đó, trái dừa sáp của anh cũng đã cung cấp cho Siêu thị Coop.Mart Sóc Trăng bán hơn 1 năm qua. Bên cạnh bán trái dừa sáp tươi, anh Tòng còn sản xuất giống cây dừa sáp bán ra thị trường với giá 100.000 đồng/cây. Sau khi đã trừ hết các khoản chi phí, bình quân mỗi năm anh thu nhập trên 380 triệu đồng từ vườn dừa sáp.
Giống như nhiều loại dừa khác, cây dừa sáp có tuổi thọ từ 40 - 50 năm. Để cây phát triển tốt và cho trái đạt độ sáp tốt, anh Tòng tưới nước 2 lần/tuần trong mùa nắng nóng; mùa mưa không cần tưới nước mà cần phải làm các rãnh thoát nước trên bề mặt liếp trong vườn dừa, tránh nước đọng lại trên mặt liếp ảnh hưởng đến thân và rễ dừa. Dừa chỉ cần bón phân 2 lần/năm, ngoài các loại phân chuyên dụng còn bón thêm các loại phân hữu cơ, để làm mát cây và góp phần cho đất quanh trong vườn dừa luôn tơi xốp. Sản phẩm trái dừa sáp của hộ anh Thanh Tòng đang chuẩn bị tham gia Hội thi đánh giá xếp hạng sản phẩm 3 sao OCOP của huyện Mỹ Tú năm 2024.
“Toàn tỉnh Sóc Trăng có diện tích trồng dừa là 8.748ha. Dừa được trồng ở hầu hết các địa phương trên địa bàn tỉnh với nhiều loại giống khác nhau. Đầu ra trái dừa khá ổn định, tuy nhiên giá bán có lúc tăng, lúc giảm, tùy thuộc vào nhu cầu của thị trường. Riêng về cây dừa sáp trên địa bàn tỉnh diện tích không đáng kể, có hộ chỉ trồng vài ba cây thử nghiệm. Tuy nhiên, với diện tích trồng dừa lên đến 1ha tại hộ anh Dương Thanh Tòng, đặc biệt là dừa đạt tỷ lệ cho sáp cao, cho thấy hộ trồng dừa sáp đã rất thành công. Dừa dễ trồng nhưng để cây cho năng suất cao, chất lượng tốt, hộ dân cần lựa chọn giống dừa có nguồn gốc rõ ràng, tìm hiểu kỹ thổ nhưỡng vùng đất, điều kiện tự nhiên trước khi phát triển trồng dừa. Trong quá trình cây sinh trưởng, phải quan tâm và chú ý đến các loại sâu hại tấn công trên dừa như: bọ xít nâu, bọ dừa, bọ vòi voi, kiến vương, đuông dừa, sâu đục trái, sâu đầu đen để phòng trị kịp thời…”, đồng chí Trần Vĩnh Nghi - Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Sóc Trăng thông tin.
THÚY LIỄU
Trồng dâu, nuôi tằm cho thu nhập ổn định
Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Nghề trồng dâu, nuôi tằm được đánh giá là mô hình phát triển kinh tế hiệu quả, giúp nhiều nông dân xã Hòa Hiệp (huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) có thu nhập ổn định.
Ông Võ Phú Thạnh có thu nhập khá từ trồng dâu, nuôi tằm và hiện đang tiếp tục nhân rộng diện tích vườn dâu.
Dù đã có việc làm ổn định tại TP.Hồ Chí Minh nhưng ông Võ Phú Thạnh (ấp Phú Sơn, xã Hòa Hiệp, huyện Xuyên Mộc) vẫn quyết định về quê làm nông nghiệp. Thay vì trồng nhãn, cà phê, tiêu như phần lớn người dân quanh vùng, ông Thạnh mày mò, học hỏi để phát triển kinh tế bằng nghề trồng dâu, nuôi tằm.
Đầu năm 2023, ông Thạnh đầu tư hệ thống tưới béc phun, trồng 1ha dâu dâu và làm 1 nhà nuôi tằm diện tích khoảng 150m2. Cây dâu khá thích nghi với điều kiện thời tiết, thổ nhưỡng trong vùng nên sinh trưởng và phát triển tốt, sau khi trồng hơn 4 tháng là có thể thu hoạch lá. “Mỗi tháng nuôi 2 lứa tằm, mỗi lứa nuôi 2 hộp giống (10g trứng/hộp), đã được ấp nở tằm con. Thức ăn của tằm chỉ lá dâu sạch, dâu trồng không được phun thuốc BVTV, bón phân hữu cơ, cây dâu có thể thu hoạch tới 10 năm mới trồng lại. Sau 15 ngày nuôi, tôi thu hoạch khoảng 150kg kén, với giá bán bán hiện nay từ 150-180 ngàn đồng/kg, lợi nhuận hơn 25 triệu đồng/tháng”, ông Thạnh vui vẻ nói.
Cách đó không xa, ông Nguyễn Đông Hội (ở ấp Phú Sơn) đã chuyển đổi 5 sào đất trồng mì sang trồng dâu, nuôi tằm. Cũng theo ông Hội, nghề trồng dâu, nuôi tằm không khó, thỉnh thoảng phun xịt sâu bệnh và bón phân chuồng là cây dâu phát triển tốt. Tính ra 1 công lao động vừa trồng dâu, vừa nuôi tằm sẽ có thu nhập gần 3 triệu đồng/sào/tháng, cao hơn nhiều so với trồng bắp, trồng mì.
Nghề trồng dâu, nuôi tằm phát triển trên địa bàn xã Hòa Hiệp khoảng 2 năm trở lại đây. Nhận thấy nghề trồng dâu, nuôi tằm có triển vọng, ông Võ Phú Thạnh đã cùng với Hội Nông dân xã vận động, khuyến khích các hộ nuôi liên kết thành lập Tổ hợp tác để có sản lượng ổn định xuất bán cho các thương lái, cho lợi nhuận cao hơn.
Theo ông Lê Hồng Tuấn, Phó Chủ tịch UBND xã Hòa Hiệp, trước đây trên địa bàn xã chỉ có vài hộ trồng dâu, nuôi tằm với quy mô nhỏ. Đến nay, toàn xã đã có 25 hộ trồng dâu, trong đó 20 hộ đã có thu nhập từ nghề này. So với nhiều loại cây trồng khác, chi phí đầu tư trồng dâu thấp, nuôi tằm nhanh cho thu hoạch, giá kén tương đối ổn định nên nghề trồng dâu nuôi tằm được đánh giá là hiệu quả kinh tế cao.
Tuy nhiên, ông Tuấn cho rằng, khó khăn của nghề trồng dâu nuôi tằm là trên địa bàn chưa có trại ấp trứng tằm, kho lạnh bảo quản. Chính điều này khiến việc tiêu thụ kén phải qua khâu trung gian, bị ép giá, làm giảm lợi nhuận của người nông dân.
“Trong thời gian tới, địa phương sẽ xây dựng các mô hình hợp tác xã, tổ hợp tác; tạo điều kiện để nông dân tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi từ Ngân hàng CSXH, từ Quỹ HTND để phát triển sản xuất; hỗ trợ liên kết với các DN ký hợp đồng tiêu thụ kén lâu dài để bà con yên tâm đầu tư mở rộng quy mô nuôi”, ông Tuấn chia sẻ.
Bài, ảnh: PHONG VŨ
Lợi nhuận khá từ vụ lúa Hè Thu
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long,
Năng suất đạt tương đối, nông dân có lợi nhuận khá từ vụ Hè Thu.
Những ngày qua nông dân trong tỉnh Vĩnh Long tập trung thu hoạch lúa Hè Thu. Mặc dù mưa giông thường xuyên diễn ra khiến việc thu hoạch lúa ở một số nơi gặp khó khăn, nhưng nhìn chung nông dân vẫn đạt lợi nhuận khá trong vụ lúa này.
Theo Sở Nông nghiệp-PTNT, hiện toàn tỉnh đã thu hoạch khoảng 30.000ha lúa Hè Thu, chiếm 82,1% diện tích xuống giống, ước tính năng suất bình quân đạt 5,9 tấn/ha. Diện tích lúa còn lại đang giai đoạn chín và đang thu hoạch khoảng 6.550ha.
Thời tiết từ đầu vụ lúa đến trước thu hoạch tương đối thuận lợi, ít sâu bệnh, cây lúa phát triển tốt. Tuy nhiên, đến thời điểm thu hoạch tập trung thường xảy ra mưa kèm giông lốc nên đã làm nhiều diện tích lúa đổ ngã. Theo đó, tại các ruộng này năng suất bị thiệt hại phổ biến từ 10-15%, chi phí thu hoạch bằng máy cũng tăng thêm từ 10-30%. Riêng đối với phần lớn diện tích lúa không bị đổ ngã năng suất vẫn đảm bảo.
Vừa thu hoạch xong lúa Hè Thu, chú Phạm Thanh Hiểu (xã Long An, huyện Long Hồ) phấn khởi khi ruộng lúa không đổ ngã trong các đợt mưa giông vừa qua. Qua đó, năng suất được đảm bảo, lợi nhuận đạt khá cao. Đây cũng là kết quả đạt được của nhiều nông dân khi áp dụng quản lý nước ngập khô xen kẽ và phòng trừ dịch bệnh theo IPM.
“Ruộng để khô nhiều hơn ngập nên cây lúa phát triển tốt, không bị nhiễm phèn, không bị ngộ độc hữu cơ. Dịch bệnh năm nay cũng không phát sinh nhiều, không có dịch hại nào đáng kể. Mùa này năng suất cũng gần bằng với vụ Đông Xuân, nếu như vụ Đông Xuân được 14-15 bao/công thì vụ này cũng 13-14 bao/công”- chú Hiểu cho biết thêm.
Tuy nhiên, với một số ruộng bị đổ ngã, năng suất lúa cũng bị giảm từ 10-30%. Có ruộng bị sập do mưa lớn nhiều ngày, chú Trịnh Văn Hải (xã Bình Phước, huyện Mang Thít) cho hay: “Mưa kéo dài nhiều ngày trước thời điểm thu hoạch nên lúa của tôi bị đổ ngã khoảng 20-30%. Vụ này chắc năng suất giảm khoảng 30% so với vụ Đông Xuân, sau khi trừ chi phí cũng còn lời khoảng 1 triệu đồng/công”.
Theo nhiều nông dân, khoảng 10 ngày nay, giá lúa tươi dao động từ 7.300-7.700 đ/kg đối với các giống lúa gieo sạ phổ biến là OM 5451 và OM 18, thấp hơn lúc mới gieo sạ. Cũng chính vì vậy có tình trạng giá nông dân bán thấp hơn giá đặt cọc trước đó hoặc tình trạng thương lái chịu lỗ vốn thu mua lúa của bà con nông dân.
Anh Lê Thanh Phong- thương lái thu mua lúa ở huyện Long Hồ cho hay: “Đầu vụ tôi đặt cọc lúa với giá 7.800-8.000 đ/kg, khoảng 1 tuần nay, giá lúa có giảm khoảng 500-700 đ/kg. Nếu không thu mua thì nông dân sẽ giận, vụ sau không bán cho tôi nữa nên tôi đành ráng chịu lỗ thu mua vụ này để lấy uy tín vụ sau mua tiếp”.
Theo ngành nông nghiệp, mặc dù gặp một số khó khăn nhưng nhìn chung việc thu hoạch lúa Hè Thu đến nay đúng kế hoạch mà các địa phương đề ra, nông dân đảm bảo có lợi nhuận. Theo kế hoạch, vụ lúa Hè Thu sẽ được thu hoạch dứt điểm trong tháng 7, sau đó nông dân chuẩn bị đất gieo sạ vụ Thu Đông sớm, hạn chế thiệt hại do mưa bão, triều cường diễn biến phức tạp giai đoạn cuối vụ.
Theo Chi cục Trồng trọt và BVTV (Sở Nông nghiệp-PTNT), thời tiết hiện nay nắng mưa xen kẽ thích hợp cho bệnh đạo ôn cổ bông tiếp tục phát sinh phát triển trên lúa Hè Thu muộn và đạo ôn lá trên lúa Thu Đông sớm.
Ngành nông nghiệp khuyến cáo, những diện tích lúa Hè Thu đã thu hoạch xong cần vệ sinh đồng ruộng, xử lý nấm Trichoderma giúp rơm rạ mau phân hủy nhằm hạn chế ngộ độc hữu cơ; theo dõi diễn biến rầy di trú để có kế hoạch xuống giống lúa Thu Đông tập trung “né rầy” hiệu quả theo lịch khuyến cáo của địa phương. Áp dụng tổng hợp các biện pháp canh tác ngay từ đầu vụ nhằm quản lý tốt các đối tượng gây hại như: ốc bươu vàng, bọ trĩ (bù lạch), chuột, cỏ dại,…
Bên cạnh đó, nguy cơ ruộng lúa bị ngộ độc hữu cơ từ việc tranh thủ mùa vụ do gieo sạ cập rập có thể dẫn đến tỷ lệ nhiễm bệnh gia tăng.
Đối với những diện tích chuẩn bị xuống giống, sau khi đã thu hoạch lúa Hè Thu cần vệ sinh đồng ruộng thật kỹ lúa rài, lúa chét và cỏ dại xung quanh bờ ruộng, xới trục kỹ và phải đảm bảo thời gian cách ly ít nhất 14 ngày. Đặc biệt những vùng xuống giống lúa Thu Đông không đảm bảo thời gian cách ly cần phải phun nấm Trichoderma, bón lót phân lân ngay khi làm đất lần cuối nhằm hạn chế ngộ độc hữu cơ. Xử lý vôi, bơm và tháo nước rửa đất cho những diện tích có nguy cơ ngộ độc hữu cơ cao.
Bài, ảnh: NGUYÊN KHANG
Giá rơm giảm
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Theo nhiều nông dân, vụ lúa Hè Thu này, chỉ những ruộng lúa ít đổ ngã, nền đất khô cứng và đường vận chuyển thuận lợi thì mới có thương lái đến tìm nông dân mua rơm. Tuy nhiên, sản lượng thu mua ít, giá bán cũng không cao, chỉ từ 20.000-40.000 đ/công (1.000m2).
Nhiều người thu mua rơm cho hay, rơm vụ này chất lượng không cao lại khó phơi khô bảo quản nên chủ yếu chuyển đi nơi khác bán lại cho các hộ dân làm nấm rơm hoặc tủ gốc cây trồng, rau màu. Chi phí thuê cuộn rơm cao hơn nhiều so với số tiền mua rơm của nông dân, khoảng 8.000 đ/cuộn, mỗi công cuộn được từ 13-15 cuộn. Đối với nông dân, việc bán rơm chủ yếu để đưa lượng xác bã thực vật này ra khỏi đồng ruộng nhằm giảm chi phí xử lý rơm rạ cũng như hạn chế ngộ độc hữu cơ vụ lúa Thu Đông.
Ông Nguyễn Văn Năm (xã Long Phước, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long) cho hay: “Vụ Hè Thu này mưa nhiều, đất ướt, cuộn rơm rất khó nên chi phí cao hơn bình thường, cũng ít có thương lái đến mua. Tuy nhiên, tôi cũng cuộn rơm bán để xử lý đất dễ hơn, sớm gieo sạ vụ sau. Giá rơm giảm mạnh khiến vụ này mất đi nguồn thu đáng kể”.
NGUYÊN KHANG
Tận dụng thực bì làm tăng độ màu mỡ của đất
Nguồn tin: Báo Bình Định
Đốt thực bì sau khi khai thác gỗ rừng trồng là cách làm phổ biến hiện nay. Thời tiết nắng nóng, việc làm này gia tăng nguy cơ cháy rừng. Công ty TNHH Lâm nghiệp Quy Nhơn đã áp dụng cách băm nhỏ thực bì rồi rải trên mặt đất, vừa phòng cháy rừng, vừa tăng độ màu mỡ của đất.
Đến giữa tuần này, ông Lê Hùng Doanh ở thôn Tân Vinh (xã Canh Vinh, huyện Vân Canh, Bình Định) đã xử lý xong toàn bộ khối lượng thực bì khá lớn, không chỉ trên diện tích rừng trồng 2 ha của gia đình mà còn trên hàng trăm héc ta rừng trồng mà ông nhận thầu khai thác gỗ. Hơn 3 năm làm theo phương pháp xử lý thực bì không dùng lửa do Công ty TNHH Lâm nghiệp Quy Nhơn hướng dẫn, chuyển giao ông thấy rõ lợi ích việc này mang lại.
Công nhân băm nhỏ thực bì sau khi khai thác gỗ rừng trồng. Ảnh: N.T
Ông Doanh kể, lúc mới nghe qua, tôi thấy khó khăn quá vì tốn thời gian và tiền thuê nhân công băm thực bì. Trong vụ trồng rừng kế tiếp năng suất lại không cao bằng so với cách đốt. Tuy nhiên, đến năm thứ hai thì có chuyển biến rất lớn. Nếu gom thực bì lại đốt, nhìn sạch sẽ hơn nhưng khi mưa xuống, đất bị xói mòn. Phần thực bì được xử lý nhỏ, rải trên mặt đất giúp giữ lại được chất hữu cơ của rừng, một số phân hủy tạo thêm chất dinh dưỡng cho đất. Nhờ đó, chỉ đến năm thứ hai, cây trồng sum suê cành lá, vươn cao, phát triển rất mạnh.
Ông Trần Nguyên Tú, Chủ tịch Công ty TNHH Lâm nghiệp Quy Nhơn, chia sẻ: Nhiều chủ rừng, công ty lâm nghiệp trong và ngoài tỉnh đã đến tham khảo, học hỏi phương pháp này. Tổ chức GFA GmbH của Đức (đơn vị cấp chứng chỉ Quản lý rừng bền vững - FSC) trong những lần trở lại công ty để đánh giá việc duy trì chứng chỉ hằng năm, luôn đánh giá cao hiệu quả xử lý thực bì không đốt trên diện rộng của chúng tôi.
Việc xử lý thực bì trồng rừng không đốt hạn chế được khả năng cháy lan đến các diện tích canh tác lân cận, đồng thời khói bụi từ việc đốt thực bì cũng được hạn chế đáng kể. Bên cạnh đó, cách làm này góp phần tạo tư duy canh tác theo hướng bền vững, không gây ảnh hưởng đến môi trường.
“Hiện tại, ngoài diện tích rừng trồng, công ty đã mở rộng triển khai phương pháp này ra diện tích rừng đặc dụng và phòng hộ. Các đơn vị liên quan gồm lực lượng kiểm lâm, các chủ rừng, chính quyền địa phương cấp huyện, xã… cũng tham khảo, ứng dụng giải pháp này phục vụ công tác phát triển rừng trên địa bàn quản lý và công tác của ngành”, ông Nguyễn Hoài Nam, Trưởng phòng Kỹ thuật - Quản lý bảo vệ rừng Công ty TNHH Lâm nghiệp Quy Nhơn, người cùng với Chủ tịch Trần Nguyên Tú sáng tạo ra giải pháp xử lý thực bì không đốt, cho biết.
NGỌC TÚ
Vĩnh Long: Tăng cường quản lý mã số vùng trồng
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Nông dân ngày càng nâng cao ý thức hơn trong việc thực hiện mã số vùng trồng.
Theo ngành nông nghiệp, việc cấp mã số vùng trồng (MSVT), cũng như thực hiện tốt truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông nghiệp là cơ hội để tăng sức cạnh tranh cho nông sản xuất khẩu lẫn tiêu thụ tại thị trường nội địa. Do đó, để bảo đảm uy tín của nông sản, ngành nông nghiệp đã tăng cường giám sát, quản lý chặt chẽ MSVT, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm về MSVT.
Vi phạm trong thực hiện MSVT
Nhiều địa phương thực hiện MSVT cho rằng, việc cấp MSVT không chỉ giúp người tiêu dùng và cơ quan chức năng dễ dàng truy xuất nguồn gốc, đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu thông qua việc sản xuất theo quy trình nhất định có kiểm soát dịch hại, đảm bảo vấn đề an toàn thực phẩm, mà còn giúp nông dân ý thức được vấn đề sản xuất liên quan chặt chẽ đến chất lượng và giá thành sản phẩm. Đồng thời, có thể xem đây là “chìa khóa” trong việc xây dựng lòng tin về chất lượng, uy tín nông sản trên thị trường quốc tế cũng như lợi ích kinh tế của nông dân.
Ông Nguyễn Văn Tám- Trưởng Phòng Nông nghiệp-PTNT huyện Trà Ôn cho biết: Toàn huyện hiện có 12 xã được cấp 21 MSVT còn hiệu lực (18 mã nội địa và 3 mã xuất khẩu), với tổng diện tích 177,2ha, bao gồm các loại cây trồng chủ lực: cam sành, nhãn, vú sữa, sầu riêng, lúa. Ước sản lượng 21 MSVT trong 6 tháng đầu năm đạt 11.176 tấn, các vùng sản xuất được cấp MSVT tiêu thụ nông sản thuận lợi, được thương lái trong và ngoài huyện đến tận vườn thu mua.
Xác định rõ tầm quan trọng và những lợi ích của MSVT, thời gian qua, ngành chức năng cũng đã tăng cường tuyên truyền, triển khai cho các địa phương, các vùng trồng có đủ điều kiện và tiêu chuẩn cấp MSVT. Đồng thời, tăng cường giám sát, quản lý chặt chẽ MSVT.
Tuy nhiên, thời gian qua, một số nước nhập khẩu liên quan cũng đã có thông báo về việc không tuân thủ các yêu cầu về kiểm dịch thực vật, một số vùng trồng bị thu hồi MSVT vì nước nhập khẩu phát hiện có sinh vật gây hại trên các lô hàng và có dư lượng hóa chất vượt quá quy định. Các thông báo này cũng yêu cầu Việt Nam phải có biện pháp kiểm soát chặt chẽ các đối tượng kiểm dịch thực vật và dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật tồn dư trong nông sản của các lô hàng xuất khẩu…
Theo ngành nông nghiệp, việc không tuân thủ các quy định về kiểm dịch thực vật tại các vùng trồng, cơ sở đóng gói sẽ có nguy cơ làm mất thị trường xuất khẩu. Để tránh những hệ lụy tiêu cực về sau, ngoài việc bổ sung các chính sách mới, cần có chế tài mạnh nhằm gia tăng quản lý MSVT.
Ông Hồ Phước Dư- Trưởng Phòng Nông nghiệp-PTNT huyện Mang Thít cho biết: Thời gian qua, huyện cũng đã triển khai thực hiện việc thiết lập, quản lý, giám sát MSVT; tập huấn cho 11 vùng trồng xuất khẩu phục vụ công tác phỏng vấn trực tuyến từ phía Trung Quốc, đang chờ Trung Quốc phỏng vấn và hướng dẫn thực hiện, đề nghị cấp 5 MSVT nội địa. Tuy nhiên, việc quản lý, duy trì MSVT đã được cấp gặp nhiều khó khăn. Trên địa bàn huyện đã xảy ra vi phạm khi xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc của MSVT ở xã Chánh An, việc ghi chép sổ tay và nhập nhật ký canh tác lên hệ thống phần mềm điện tử của các hộ dân tại các vùng trồng còn hạn chế.
Nâng cao nhận thức, tăng cường quản lý
Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý và giám sát MSVT và cơ sở đóng gói nông sản phục vụ xuất khẩu, Bộ Nông nghiệp-PTNT cũng đã có đề nghị các địa phương tăng cường công tác hướng dẫn, giám sát, kiểm tra việc cấp, quản lý và sử dụng mã số; phối hợp thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm. Chỉ đạo các đơn vị kiểm dịch thực vật tại cửa khẩu tăng cường kiểm tra, kiểm soát hàng hóa và thông tin về vùng trồng, cơ sở đóng gói liên quan tới lô hàng. Phát hiện, xử lý và tuyệt đối không cấp giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật cho các lô hàng không tuân thủ.
Theo đó, các địa phương cũng cần nâng cao chất lượng kiểm tra ban đầu đối với các MSVT và cơ sở đóng gói; tăng cường giám sát mã số sau khi được cấp; bố trí đủ nguồn lực để thực hiện công tác quản lý MSVT, cơ sở đóng gói và triển khai các chương trình giám sát an toàn thực phẩm đối với các hàng hóa xuất khẩu, đặc biệt là trong vùng được cấp mã số. Tổ chức tốt chuỗi liên kết sản xuất thực chất từ vùng trồng- cơ sở đóng gói- cơ sở xử lý kiểm dịch thực vật- doanh nghiệp xuất khẩu nhằm tạo ra sản phẩm chất lượng đáp ứng các tiêu chuẩn về kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm; tuân thủ yêu cầu của nước nhập khẩu và đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia.
Ông Nguyễn Văn Liêm- Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp-PTNT cho biết: Thời gian tới, ngành nông nghiệp sẽ tiếp tục hỗ trợ xây dựng các nhãn hiệu, thương hiệu nông sản và chương trình xúc tiến thương mại nông sản; đảm bảo truy xuất nguồn gốc, xây dựng MSVT, mã số vùng nuôi, mã số cơ sở đóng gói nhằm đáp ứng tốt cho thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước; tăng cường giám sát việc sử dụng MSVT, mã số vùng nuôi, đặc biệt việc mua, bán các sản phẩm ngoài MSVT, mã số vùng nuôi...
Tính đến thời điểm hiện tại toàn tỉnh có 213 vùng trồng đã được cấp mã số (129 MSVT xuất khẩu và 84 MSVT nội địa) với diện tích 3.744,8ha, 4.070 hộ và 13 mã số cơ sở đóng gói. Trong đó, 129 MSVT xuất khẩu còn hiệu lực với diện tích 2.731,3ha: khoai lang 42 mã số, bưởi 5 roi 25 mã số, sầu riêng 20 mã số, chôm chôm 18 mã số, nhãn 13 mã số, lúa 4 mã số, mít 4 mã số, chanh không hạt 2 mã số; xoài 1 mã số, đủ điều kiện xuất khẩu sang thị trường của Trung Quốc, Hoa Kỳ, Úc, New Zealand, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU... 84 MSVT nội địa với diện tích 1.013,5ha trên các loại cây: nhãn, mít, sầu riêng, cam, bưởi, măng cụt, lúa, ổi, rau các loại. Đến nay có 4 MSVT đã thu hồi ở huyện Mang Thít và huyện Tam Bình.
Bài, ảnh: TRÀ MY
Câu lạc bộ tỉ phú đầu tiên ở Hậu Giang: Thu lợi nhuận từ 0,8 - 5,1 tỉ đồng/năm
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Câu lạc bộ Nông dân tỉ phú xã Tân Bình (CLB), huyện Phụng Hiệp (Hậu Giang) sau 3 tháng thành lập đến nay ghi nhận nhiều kết quả.
Câu lạc bộ Nông dân tỉ phú đầu tiên của tỉnh được thành lập.
CLB gồm 16 thành viên, trong đó 15 thành viên có mô hình trồng sầu riêng chất lượng VietGAP và trồng sầu riêng sử dụng phân hữu cơ, tổng diện tích 48ha; 1 thành viên thực hiện mô hình kinh tế tuần hoàn nuôi bò thịt và bò sinh sản.
Thành viên trồng sầu riêng trong CLB thực hiện theo hướng sử dụng phân hữu cơ, không sử dụng phân hóa học, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong danh mục cho phép và áp dụng hệ thống tưới tự động.
Tham gia CLB, các thành viên cùng hỗ trợ nhau vốn sản xuất, trao đổi, chia sẻ kỹ thuật, kinh nghiệm chăm sóc đạt năng suất, chất lượng cao. Từ đó, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế cho các hộ thành viên.
Cụ thể, vụ sầu riêng vừa qua, CLB đạt sản lượng trung bình 20 tấn/ha, giá bán bình quân 60.000 đồng/kg, 1ha sầu riêng cho thu nhập 1,2 tỉ đồng, sau khi trừ chi phí lợi nhuận thu về khoảng 800 triệu đồng/ha. Qua đó, mỗi thành viên trong CLB thu lợi nhuận từ 0,8-5,1 tỉ đồng tùy diện tích. Riêng mô hình kinh tế tuần hoàn cho thu nhập 1,1 tỉ đồng.
Thời gian tới, CLB tiếp tục vận động phát triển thêm thành viên mới; đồng thời tổ chức cho thành viên tham quan, học tập mô hình hợp tác xã, câu lạc bộ về nông nghiệp hoạt động có hiệu quả trong tỉnh để học tập thêm kinh nghiệm, giúp CLB ngày càng được nâng chất.
QUỲNH LAM
Lợi kép từ nuôi vịt trong lô cao su
Nguồn tin: Báo Bình Phước
Để tăng thu nhập trên cùng một diện tích đất, nhiều nông dân đã trồng xen canh các loại cây công nghiệp, nông nghiệp ngắn ngày với nhau. Tuy nhiên, tại xã Tân Lợi, huyện Hớn Quản (tỉnh Bình Phước), một số nông hộ lại chọn cách nuôi vịt trong lô cao su, vừa tăng thu nhập vừa giảm chi phí phân bón cho cây.
Gia đình chị Vương Thị Mai ở ấp Bà Lành, xã Tân Lợi, huyện Hớn Quản có 1 ha cao su đang cho thu hoạch. Để tăng thu nhập, hơn 1 năm trước, chị Mai mua lưới quây vườn và bắt đầu nuôi vịt grimaud dưới tán cao su. Mỗi ngày, sau khi cạo mủ cao su xong, chị dành thời gian chăm sóc đàn vịt. Chỉ sau 45 ngày nuôi, vịt grimaud đã được xuất chuồng. Lứa đầu tiên chị nuôi 3.000 con có lãi, vì vậy chị bắt đầu tăng đàn, lứa thứ ba chị nuôi 6.000 con. Đến nay, chị Mai đã nuôi và xuất bán 6 lứa vịt, kinh tế gia đình cải thiện đáng kể. “Nuôi vịt trong lô cao su rất thuận lợi, không phải dọn dẹp chuồng, ít tốn công, vốn đầu tư chuồng trại không đáng kể, vịt có không gian rộng, nhanh lớn hơn. Tôi thấy nuôi vịt theo mô hình này khá ổn, mang lại thu nhập tốt” - chị Mai chia sẻ.
Dưới tán cao su hộ anh Nguyễn Thanh Đạo nuôi hàng ngàn con vịt
Gia đình anh Nguyễn Thanh Đạo ở ấp Sóc Trào A, xã Tân Lợi cũng nuôi vịt grimaud trong lô cao su. Anh Đạo cho biết, vịt nuôi trong lô cao su thoáng mát nên nhanh lớn, ít hao hụt. Chi phí chuồng trại không đáng kể, chỉ cần ít lưới quây lại cho vịt khỏi chạy, vài tấm ván, tấm tôn, thùng để đựng thức ăn, nước uống. Phân vịt thải ra nuôi cây cao su, vừa không phải dọn chuồng vừa giảm chi phí phân bón. Trung bình mỗi tháng, gia đình anh Đạo xuất bán 4.500 con vịt thương phẩm, giá bán từ 35-80.000 đồng/kg tùy từng thời điểm, lợi nhuận trung bình khoảng 20.000 đồng/con.
Theo anh Đạo, giống vịt grimaud tăng trọng nhanh, thời gian nuôi ngắn hơn các giống vịt khác. Đây là dòng vịt siêu nạc nên tỷ lệ mỡ, hao hụt sau giết mổ thấp hơn so với các loại vịt khác, chất lượng thịt thơm ngon đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng.
“Khi vịt mới vài ngày tuổi, cơ thể rất mẫn cảm với sự thay đổi thời tiết, vì vậy phải đảm bảo duy trì nhiệt độ úm phù hợp. Để giảm tỷ lệ hao hụt đàn khi đưa vịt từ chuồng úm ra sàn nuôi cần chú ý không để chuột, chó, mèo tấn công; tiêm vắc xin phòng bệnh đầy đủ cho vịt. Vịt grimaud tăng trọng nhanh nhất ở giai đoạn từ 15-40 ngày tuổi, sau 40 ngày tốc độ tăng sẽ chậm lại. Do đó, cần điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế” - anh Đạo chia sẻ.
Vịt grimaud dễ nuôi hơn các giống vịt khác, khả năng thích nghi tốt, chịu được mưa, gió, ít bệnh, ăn uống dễ, tỷ lệ hao hụt thấp, chỉ khoảng 2-3% và tăng trưởng đồng đều, dễ bán. 3 năm gần đây, giá vịt grimaud ổn định nên người chăn nuôi có lãi. So với nuôi vịt thả đồng và nuôi ở ao, sông, suối không tận dụng được thức ăn thì nuôi vịt trên cạn, đặc biệt là trong lô cao su vừa giảm chi phí vừa không ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng đàn. Đồng thời, khi nuôi vịt trong lô cao su, nhà vườn không phải bón phân cho cây mà lượng mủ cho nhiều hơn. Lợi ích kép từ thu hoạch mủ cao su và nuôi vịt đem lại cuộc sống tốt hơn cho nông dân. Vì vậy, ngày càng có nhiều người chọn cách chăn nuôi vịt trong lô cao su để tăng thu nhập.
Kỹ sư NGUYỄN VĂN BƯƠNG, Công ty TNHH Guyomarc’h Việt Nam, tỉnh Bình Dương:; Vịt grimaud du nhập vào Việt Nam từ năm 2010. Để nuôi có hiệu quả, người nuôi cần tuân thủ nghiêm quy trình khi vịt từ 1-50 ngày tuổi (xuất chuồng). Úm vịt bằng đèn hồng ngoại trên sàn cách mặt đất khoảng 30cm, điều chỉnh bóng đèn sao cho vịt không bị quá nóng hay quá lạnh. Nếu không có sàn thì khu vực úm phải đảm bảo sạch sẽ, khô ráo, không bị mưa tạt, gió lùa.
Gia Nghi
Bình Định: 49 trang trại, cơ sở chăn nuôi đạt tiêu chuẩn VietGAHP
Nguồn tin: Báo Bình Định
Theo thông tin từ Sở NN&PTNT Bình Định, toàn tỉnh có 49 trang trại hoạt động chăn nuôi, sản xuất con giống theo hướng ứng dụng công nghệ cao, có hệ thống chăn nuôi hiện đại, khép kín (34 trang trại heo, 14 trang trại gà, 1 trang trại bò sữa).
Sản phẩm chăn nuôi trong trang trại, ứng dụng công nghệ cao chiếm khoảng 30% đối với chăn nuôi heo, 15% đối với chăn nuôi gà. Bên cạnh đó, Bình Định có trang trại chăn nuôi bò sữa Vinamilk quy mô hơn 2.100 con, có hệ thống quản lý, chăn nuôi hiện đại, công suất sản xuất hơn 10 triệu lít sữa/năm hoạt động rất hiệu quả.
Qua thống kê, đến nay, toàn tỉnh đã có 49 trang trại, cơ sở chăn nuôi được chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAHP, an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm.
AN NHIÊN
Vĩnh Long: Tái sử dụng hiệu quả chất thải trong chăn nuôi
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Theo Sở Nông nghiệp-PTNT Vĩnh Long, hiện nay, phần lớn 945 trang trại chăn nuôi (CN) gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh đều áp dụng các biện pháp bảo vệ môi trường và xử lý chất thải (CT) CN.
CT CN hiện được người CN quản lý bằng nhiều cách, bao gồm ủ phân compost, sử dụng cho hầm khí đốt sinh học (biogas) và sử dụng trực tiếp phân tươi làm phân bón. Trong ủ phân compost, CT rắn được thu lại và trộn để sản xuất phân bón hữu cơ, còn phần chất lỏng được rửa trôi khỏi sàn chuồng và xả vào môi trường xung quanh hoặc ao cá.
Ngoài ra, CT được thu lại, xử lý trong hầm khí sinh học, khí gas tạo ra sẽ được sử dụng cho việc nung nấu, sử dụng làm nguồn năng lượng tái tạo cho trang trại hoặc cho cộng đồng địa phương. Còn CT sau biogas được sử dụng làm phân bón hoặc xả vào các ao CN cá.
Trong số 277 trang trại CN heo có 12 trang trại sử dụng túi HDPE (4,33%) và 265 trang trại xử lý CT bằng hầm biogas (95,67%). Bên cạnh đó còn có 1 trại sử dụng túi HDPE kết hợp sử dụng máy tách ép phân để sử dụng làm phân bón hữu cơ bón cho cây trồng hoặc hoa màu.
Ngoài ra, trong số 304 trang trại bò có 122 trại xử lý CT bằng hầm biogas (40%) và 182 trại xử lý bằng cách ủ phân compost (60%). 362 trang trại CN gia cầm (100%) đều thực hiện xử lý CT CN, bằng cách hốt phân bán, sau đó, dội rửa chuồng sau mỗi đợt xuất bán gia cầm xuống các ao lắng có lục bình để lọc nước trước khi thải ra sông rạch.
MINH HÒA
Hiếu Giang tổng hợp