Tăng trưởng ấn tượng
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho hay, Việt Nam đã trải qua quý I đầy thử thách nhưng cũng nhiều thành công. Chỉ riêng tháng 3, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam ước đạt hơn 6,1 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản quý I đạt hơn 15,7 tỷ USD, tăng hơn 13% so với cùng kỳ năm trước. Cán cân thương mại ngành nông lâm thủy sản quý I ước đạt thặng dư 4,4 tỷ USD.
![]() |
Thứ trưởng Bộ NN&MT Phùng Đức Tiến. Ảnh: Thanh Huyền. |
Xét theo vùng lãnh thổ, châu Á là thị trường xuất khẩu lớn nhất các mặt hàng nông, lâm, thủy sản của Việt Nam. Hai thị trường lớn tiếp theo là châu Mỹ và châu Âu. So với cùng kỳ năm trước, ước trị giá xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam 3 tháng đầu năm trong khu vực châu Á tăng 2%; châu Mỹ tăng 15,7%; châu Âu tăng 37,8%; châu Phi tăng 2,1 lần; và châu Đại Dương tăng 0,8%.
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết, thời gian qua, xuất khẩu nông sản đối mặt với nhiều khó khăn từ tình hình quốc tế. Đặc biệt là những căng thẳng trong quan hệ thương mại giữa Mỹ - Trung Quốc, Mỹ - Nga và các vấn đề liên quan đến Ukraine.
Ngoài ra, một số mặt hàng chủ lực cũng bị tác động mạnh bởi thay đổi chính sách của một số thị trường như: Gạo bị tác động mạnh bởi chính sách của Ấn Độ; sầu riêng bị tác động bởi chính sách của Trung Quốc...
"Tuy nhiên, dù đối mặt với nhiều khó khăn từ tình hình quốc tế, chúng ta vẫn không ngừng nỗ lực để duy trì và phát triển xuất khẩu nông sản và đạt được thành tích ấn tượng", Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.
Cụ thể, để đối phó với những thay đổi trong chính sách thương mại của các nước khác, Việt Nam đã có những bước chuẩn bị kỹ lưỡng, mềm dẻo, trong đó có việc chủ động xây dựng các kịch bản ứng phó và hợp tác chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan. Các cơ quan chuyên môn cũng đã làm việc với các đối tác quốc tế để giảm thiểu tác động tiêu cực và tìm ra các giải pháp hiệu quả nhất cho ngành nông sản Việt Nam.
“Dù còn nhiều thách thức nhưng nhờ kim ngạch xuất khẩu quý I tăng trưởng khá tốt, chúng ta có thể yên tâm về việc quý sau sẽ tăng trưởng hơn quý trước. Hoàn toàn có thể vững tiến đến mục tiêu xuất khẩu toàn ngành nông nghiệp đạt 64-65 tỷ USD trong năm nay”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến khẳng định.
Hướng tới nông nghiệp bền vững
Tính riêng về ngành hàng, mặc dù xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc gặp khó nhưng xuất khẩu rau quả vẫn đạt gần 10 tỷ USD, duy trì được mức tăng trưởng tích cực. Xuất khẩu thủy sản 3 tháng đầu năm cũng tăng hơn 18%, đạt 2,29 tỷ USD. Gỗ và sản phẩm gỗ đạt 3,95 tỷ USD sau ba tháng, tăng 11,6%.
![]() |
Xuất khẩu thủy sản tăng trưởng tích cực. Ảnh minh họa: IT. |
Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, hiện nay, có mặt hàng tăng về sản lượng nhưng giảm giá trị như lúa gạo, còn có những mặt hàng tăng cả giá trị lẫn sản lượng như chè; có những mặt hàng giảm về sản lượng nhưng tăng giá trị như cà phê, hạt tiêu...
“Điều này chứng tỏ chúng ta đang đi đúng hướng trong việc tái cơ cấu, nâng cao giá trị của sản phẩm nông sản Việt Nam”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến khẳng định.
Để đạt được điều đó, quan trọng nhất là phải triển khai các giải pháp đồng bộ về quản lý chất lượng và kiểm soát nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm.
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết, trong thời gian tới ngành nông nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng tái cơ cấu, phát triển bền vững.
“Mục tiêu là không chỉ tăng trưởng về sản lượng mà còn nâng cao giá trị gia tăng cũng như chất lượng sản phẩm. Điều này sẽ đảm bảo cho sản phẩm nông sản Việt Nam không chỉ được ưa chuộng ở các thị trường truyền thống mà còn mở rộng ra các thị trường mới”, Thứ trưởng Tiến nhấn mạnh.
Đất nông nghiệp được làm nhà thương mại: 300 dự án TP.HCM lập tức xin thực hiện
Nghị quyết 171 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại qua thỏa thuận nhận quyền hoặc đang có quyền sử dụng đất sẽ có hiệu lực từ 1/4.
Theo ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội bất động sản TP.HCM (HoREA), tính đến ngày 20/3, tại TP.HCM đã ghi nhận 256 doanh nghiệp đề xuất thực hiện 303 dự án nhà ở thương mại theo cơ chế thí điểm được quy định tại Nghị quyết 171 của Quốc hội.
Những dự án này được đề xuất trên tổng cộng 303 khu đất, với diện tích gần 2.000 ha, phần lớn là đất nông nghiệp hoặc đất phi nông nghiệp không phải là đất ở. Vì vậy, việc Nghị quyết có hiệu lực sẽ tháo gỡ được nhiều khó khăn cho doanh nghiệp.
Ông Châu bày tỏ quan điểm đánh giá cao Nghị quyết thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất. Ông khẳng định đây là tin mừng đối với doanh nghiệp bất động sản vì được mở thêm cánh cửa mới để làm nhà thương mại.
Nghị quyết 171 của Quốc về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại qua thỏa thuận nhận quyền hoặc đang có quyền sử dụng đất sẽ có hiệu lực từ 1/4. (Ảnh minh họa)
Đồng quan điểm, TS. Nguyễn Văn Đính, Chủ tịch Hội Môi giới bất động sản Việt Nam (VARS), nhận định, việc thí điểm cho phép doanh nghiệp được mua đất không phải đất ở để làm dự án nhà ở không chỉ tháo gỡ khó khăn về pháp lý cho dự án nhà ở thương mại đang “kẹt” vì không có yếu tố đất ở mà còn tăng khả năng tiếp cận đất đai, khuyến khích nhà đầu tư phát triển dự án, góp phần hỗ trợ tăng nguồn cung nhà ở cho thị trường.
Tuy nhiên, ông Đính cho rằng quá trình chuyển đổi và nhận chuyển đổi vẫn cần sự hỗ trợ của cơ quan quản lý Nhà nước. Bởi việc thỏa thuận với người dân có đất nằm trong quy hoạch đất ở để làm nhà ở thương mại có thể gặp khó khăn, do người dân không muốn chuyển đổi, hoặc muốn chuyển nhượng với giá quá cao.
Vì vậy, về dài hạn, quy định theo hướng Nhà nước đóng vai trò là nhà cung cấp quỹ đất lớn nhất, để triển khai các dự án phát triển kinh tế - xã hội thông qua đấu giá, hoặc đấu thầu sử dụng đất sẽ là giải pháp quan trọng, nhằm đảm bảo cho thị trường cân bằng và nâng cao khả năng tiếp cận nhà ở cho người dân.
Trong khi đó, theo Luật sư Nguyễn Văn Đỉnh, chuyên gia pháp lý bất động sản, việc Nghị quyết 171 có hiệu lực được kỳ vọng sẽ tháo gỡ được vướng mắc cho các dự án mà nhà đầu tư đang sử dụng đất hoặc đã “mua gom” đất, phù hợp với quy hoạch làm nhà ở thương mại nhưng chưa thể thực hiện do không có đất ở.
Cũng theo ông Đỉnh, Nghị quyết đã mở ra cánh cửa cho phép tự thỏa thuận với người dân có đất để nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo cơ chế “thuận mua - vừa bán” sẽ làm hài hòa lợi ích giữa cả 3 bên: Doanh nghiệp (có được đất), Người dân (được đền bù thỏa đáng) và Nhà nước (không phải thu hồi đất, giảm công việc phải làm nhưng vẫn thu được tiền đất, thuế, phí, lệ phí...).
"Cơ chế dân sự dựa trên nền tảng bình đẳng về địa vị pháp lý, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, tự do thỏa thuận, thuận mua - vừa bán luôn là lựa chọn tốt nhất và cần khuyến khích áp dụng", ông Đỉnh nhấn mạnh.
Đặc biệt, ngoài Nghị quyết 171, Chính vừa cũng vừa ban hành thêm Nghị định 71 về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.
So với Nghị quyết 171 (phạm vi áp dụng cho trường hợp doanh nghiệp, tổ chức đang có quyền sử dụng đất hoặc nhận quyền sử dụng đất), Nghị định 75 có sự mở rộng hơn khi cho phép áp dụng với cả trường hợp tổ chức sử dụng đất do mua tài sản, nhận góp vốn bằng tài sản gắn liền với đất.
Sự mở rộng này là hợp lý bởi điều kiện để tổ chức được nhận quyền sử dụng đất là rất chặt chẽ, bao gồm điều kiện khu đất phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận.
Trong khi thực tiễn rất sinh động, chẳng hạn trường hợp nhà đầu tư đề xuất thỏa thuận về quyền sử dụng đất để thực hiện dự án nhà ở thương mại trên khu đất 10ha, gồm 100 thửa đất mà chỉ cần một vài thửa không được cấp giấy chứng nhận.
"Việc cho phép áp dụng với cả trường hợp tổ chức mua tài sản trên đất sẽ tháo gỡ các vướng mắc có thể nảy sinh", ông Đỉnh nhấn mạnh.
Theo Nghị quyết 171, nhà đầu tư được thỏa thuận nhận quyền sử dụng với đất nông nghiệp, phi nông nghiệp (đất thương mại dịch vụ) không phải đất ở, đất khác trong cùng thửa để làm dự án nhà ở thương mại. Chính sách này được thí điểm trong 5 năm. Trước đó, nhà đầu tư chỉ được làm dự án nhà ở thương mại khi có quyền sử dụng với đất ở, theo Luật Nhà ở 2014.
Trường hợp trong khu, thửa đất có phần do cơ quan, tổ chức Nhà nước quản lý nhưng không tách được thành dự án độc lập thì được đưa vào diện tích đất chung để lập dự án và Nhà nước thu hồi, giao cho nhà đầu tư không qua đấu giá, đấu thầu.
Điều kiện để dự án được thí điểm chính sách này là khu, thửa đất phải ở khu vực đô thị, phù hợp quy hoạch sử dụng đất cấp huyện. Dự án thí điểm cần có tối đa 30% diện tích đất ở tăng thêm trong kỳ quy hoạch (so với hiện trạng sử dụng đất) theo phương án phân bổ và khoanh vùng đất đai của quy hoạch tỉnh đến 2030.
UBND cấp tỉnh sẽ xem xét, cấp phép cho tổ chức kinh doanh bất động sản nhận chuyển quyền sử dụng đất. Cùng với đó, doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phải đáp ứng điều kiện về đất đai, pháp luật về nhà ở, kinh doanh bất động sản, đầu tư.
Châu Anh
Hội thảo tham vấn Kế hoạch hành động chuỗi giá trị chủ lực của tỉnh
Sáng ngày 02/4, Dự án 'Phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp thông minh thích ứng biến đổi khí hậu tại tỉnh Trà Vinh (CSAT) phối hợp với Công ty TNHH Tư vấn Hiệp Chí (đơn vị tư vấn) tổ chức hội thảo tham vấn Kế hoạch hành động chuỗi giá trị chủ lực của tỉnh (VCAP) trong khuôn khổ Dự án CSAT Trà Vinh.
Đại biểu tham dự hội thảo.
Tham dự hội thảo có các đồng chí: Nguyễn Ngọc Quang, Chuyên gia Văn phòng Quỹ Quốc tế về phát triển nông nghiệp (IFAD); Hồng Ngọc Hưng, Phó Giám đốc Sở Tài chính, Giám đốc Ban Quản lý dự án CSAT Trà Vinh; Lê Văn Đông, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường; Nguyễn Phú Son, Trưởng nhóm đơn vị tư vấn và 60 đại biểu là các thành viên của dự án tham dự trực tiếp và trực tuyến.
Dự án CSAT Trà Vinh được triển khai tại 09 huyện, thị xã, thành phố, không đầu tư trùng lắp với phạm vi, nội dung thực hiện của Dự án AMD trước đây cũng như các dự án khác có nội dung tương tự trên địa bàn tỉnh. Việc lập kế hoạch hành động chuỗi giá trị (VCAP) được xem là hoạt động cốt lõi, chi phối toàn bộ hoạt động của Dự án CSAT. Dự án có 03 hợp phần, trong đó hoạt động VCAP thuộc hợp phần 1 của Dự án.
Ông Lê Văn Gia Nhỏ, thành viên đơn vị tư vấn thông tin về chuỗi giá trị cam sành, bưởi
Theo Kế hoạch của Ban Quản lý Dự án CSAT Trà Vinh, VCAP được đơn vị tư vấn thực hiện hoàn thành trong quý II/2025 và phải đảm bảo tính gắn kết, lồng ghép các nguồn lực phù hợp với các chủ trương, chính sách về phát triển chuỗi giá trị của tỉnh trong phát triển các sản phẩm chủ lực. Trong đó có 05 chuỗi giá trị ưu tiên được dự án xác định để xây dựng kế hoạch VCAP: chuỗi lúa, dừa, tôm, cây ăn trái, rau màu phù hợp với Kế hoạch số 47/KH-UBND, ngày 22/6/2022 về thực hiện Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững tỉnh Trà Vinh giai đoạn 2022 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Phát biểu tại hội thảo, đồng chí Hồng Ngọc Hưng, Giám đốc Ban Quản lý dự án CSAT Trà Vinh nhấn mạnh: định hướng phát triển ngành nông nghiệp tỉnh Trà Vinh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050 trên nền nông nghiệp hàng hóa, hiệu quả cao, bền vững. Ngành nông nghiệp phát triển đồng thời theo hướng sinh thái (thuận thiên), nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, tạo ra sản phẩm nông sản hàng hóa đạt chất lượng cao, an toàn thực phẩm, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước; đầu tư đồng bộ, sản xuất vùng tập trung, chuyên canh nguyên liệu, công nghệ.
Đồng chí Hồng Ngọc Hưng, Giám đốc Ban Quản lý dự án CSAT Trà Vinh phát biểu tại hội thảo.
Mục tiêu của Dự án được xem là phù hợp với định hướng phát triển ngành nông nghiệp của tỉnh là phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp thông minh tại tỉnh Trà Vinh nhằm hỗ trợ phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long theo Nghị quyết số 120/NQ-CP, ngày 17/11/2017 của Chính phủ.
Từng sản phẩm cụ thể của 05 chuỗi chủ lực đã được Sở Nông nghiệp và Môi trường thống nhất. Cụ thể: chuỗi giá trị lúa (lưu ý đến lúa giảm phát thải); chuỗi giá trị dừa (tập trung dừa công nghiệp, dừa tươi uống nước); chuỗi giá trị tôm (tập trung tôm sinh thái, tôm lúa); chuỗi giá trị rau, màu (tập trung đậu phộng, ớt); chuỗi giá trị cây ăn trái (tập trung cam sành, bưởi).
Tin, ảnh: MỸ NHÂN
Phát triển đặc sản nho, tăng sức hút du lịch
Để phát huy hơn nữa giá trị cây nho và sản phẩm đặc thù nho, tỉnh Ninh Thuận tiếp tục đẩy mạnh phát triển du lịch nông nghiệp bằng cách giới thiệu và phát triển các giống nho tươi mới.
Khách du lịch thích thú chụp hình tại vườn nho Thảo Nguyên. Ảnh: Thanh Sang/TTXVN
Những giống nho này không chỉ cho giá trị kinh tế cao, có hương vị độc đáo, mà còn mang đến trải nghiệm thú vị cho du khách khi tham quan các vườn nho, góp phần tăng sức hút cho ngành du lịch địa phương.
Sức hút từ vườn nho
Tại trang trại nho Hoàng Yến (xã Phước Thuận, huyện Ninh Phước), anh Tống Minh Hoàng đã thành công trong việc kết hợp kỹ thuật trồng nho tiên tiến từ nước ngoài với kinh nghiệm truyền thống địa phương. Trên diện tích khoảng 1 ha, trang trại của anh đang canh tác 8 giống nho theo tiêu chuẩn VietGAP; trong đó nho Hạ đen, Ngón tay đen và Mẫu đơn là những giống chủ lực mang lại hiệu quả kinh tế cao. Cùng với sản xuất nho ăn tươi, anh Hoàng còn cung cấp cây giống, chuyển giao kỹ thuật kết hợp xây dựng trang trại thành điểm đến du lịch, trao đổi kinh nghiệm trồng nho.
Chia sẻ về hiệu quả của các giống nho mới, anh Tống Minh Hoàng cho biết: Điển hình như giống nho Hạ đen cho khả năng sinh trưởng tốt, kháng bệnh cao, năng suất thu hoạch trung bình đạt 1,5 - 2 tấn/1.000 m2/vụ, sản xuất được 2 vụ mỗi năm. Nho Hạ đen khi chín có màu đen hấp dẫn, vị ngọt, giòn, thanh mát và không hạt nên được thị trường và du khách rất ưa chuộng với giá bán dao động từ 170.000 - 220.000 đồng/kg.
Nằm trên cung đường DT 702 ra Vườn quốc gia Núi Chúa, làng nho Thái An (xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải) đang là điểm dừng chân lý tưởng cho du khách thỏa sức du ngoạn trong những vườn nho bạt ngàn. Ông Nguyễn Khắc Phòng, Giám đốc Hợp tác xã dịch vụ tổng hợp nông nghiệp Thái An cho biết, hợp tác xã đang đẩy mạnh đầu tư vào các giống nho ăn tươi mới theo mô hình nông nghiệp công nghệ cao trên diện tích hơn 5.000 m2 gồm: nho hồng Nhật, nho Ngón tay đen và nhiều giống nho khác. Những giống nho này có hình dáng và màu sắc bắt mắt, quả to, khi ăn có độ giòn, chắc thịt cùng vị ngọt thơm đặc trưng, nhờ đó được du khách đến tham quan rất yêu thích.
Ông Nguyễn Khắc Phòng nói thêm: "Khách đến đây ai cũng mê mẩn các giống nho mới này. Chúng tôi đang có kế hoạch khuyến khích các thành viên mở rộng diện tích trồng để đảm bảo luôn có nho phục vụ du khách và cung cấp cho thị trường những sản phẩm tốt nhất, mang lại nguồn thu nhập ổn định cho người dân".
Tham gia đoàn du khách từ Thành phố Hồ Chí Minh đến tham quan vườn nho công nghệ cao tại làng nho Thái An, du khách Châu Thanh Hoàng bày tỏ sự thích thú: Đến vườn nho của hợp tác xã nho Thái An, anh thấy đủ loại nho trĩu quả như: nho hồng Nhật, nho đỏ, nho Ngón tay đen... Khi ăn thử thì thấy ngọt thanh, nếu để lạnh rồi ăn thì quả còn giòn và ngọt hơn nữa.
Tại những vườn nho ở Ninh Thuận, du khách không chỉ được quan sát quy trình chăm sóc công phu mà còn được thỏa mãn vị giác với hương vị tươi ngon của nho và các sản phẩm chế biến từ quả nho. Trải nghiệm tự tay cắt những chùm nho chín mọng chắc chắn sẽ là một kỷ niệm đáng nhớ. Các vườn nho nơi đây có thể cho thu hoạch từ 2 - 3 vụ mỗi năm, năng suất từ 1,5 - 3 tấn/sào.
Tiềm năng kinh tế lớn
Giống nho NH01-152 khi quả chín có màu đỏ vang rất đẹp. Ảnh: Nguyễn Thành/TTXVN
Mùa nho chín rộ thường từ tháng 3 đến tháng 6, tháng 8 đến tháng 9 và dịp Tết Nguyên đán. Lúc này, những giàn nho xanh mướt, trĩu quả tạo nên một khung cảnh tuyệt đẹp, lý tưởng để du khách ghi lại những khoảnh khắc tuyệt vời trong hành trình khám phá "thủ phủ nho" Ninh Thuận.
Theo lãnh đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Ninh Thuận, du lịch sinh thái vườn nho với các giống nho ăn tươi mới, chất lượng cao đang phát triển mạnh mẽ, thu hút đông đảo du khách tham quan, trở thành một phần quan trọng trong các tour du lịch của tỉnh. Sự đa dạng và phong phú của mô hình này mang đến cho du khách những trải nghiệm độc đáo, giúp du khách khám phá trọn vẹn vẻ đẹp của vùng đất và con người Ninh Thuận.
Để đáp ứng nhu cầu phục vụ du khách ngày càng tăng, ngành Du lịch phối hợp với các địa phương tổ chức các lớp tập huấn về kỹ năng đón tiếp khách, cách bố trí và sắp xếp các loại hình dịch vụ cho người trồng nho; lắp đặt biển báo dọc các tuyến đường để hướng dẫn du khách tham quan một cách thuận tiện nhất. Các hợp tác xã, trang trại và nhà vườn cũng chủ động đầu tư bảng hiệu, bãi đỗ xe và chỉnh trang khu vực phục vụ thành những điểm đến tham quan hấp dẫn.
Với hơn 1.000 ha nho, tỉnh Ninh Thuận mỗi năm cung cấp cho thị trường từ 26.000 - 28.000 tấn nho tươi. Không chỉ dừng lại ở các giống nho đỏ Cardinal và nho xanh NH01-48 truyền thống, hiện nay, các hộ dân, trang trại và hợp tác xã trong tỉnh đang tích cực ứng dụng công nghệ cao để canh tác nhiều giống nho mới có giá trị kinh tế cao như nho Ngón tay đen, nho hồng Nhật, nho Mẫu đơn, nho Kẹo, nho Hạ đen, giống nho đỏ mới... Những giống nho này đang mở ra tiềm năng kinh tế lớn với thu nhập từ 500 - 600 triệu đồng/ha/vụ và 1 - 1,2 tỷ đồng/ha/năm.
Trong năm 2025, Ninh Thuận tiếp tục đẩy mạnh mở rộng diện tích trồng các giống nho ăn tươi mới và xây dựng các vùng trồng nho đạt tiêu chuẩn VietGAP để nâng cao hiệu quả kinh tế, gắn với phát triển du lịch nông nghiệp. Tỉnh triển khai các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho người trồng nho liên kết với các doanh nghiệp để đầu tư và sản xuất theo chuỗi giá trị; chú trọng chuyển giao công nghệ vào sản xuất, bảo quản và đa dạng hóa các sản phẩm chế biến từ quả nho nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường và du khách.
Nguyễn Thành (TTXVN)
Vì sao nông dân Bình Thuận chưa mặn mà với thanh long hữu cơ?
Với mục tiêu phát triển nông nghiệp hữu cơ bền vững, thân thiện môi trường, hướng đến giá trị gia tăng và xuất khẩu, tỉnh Bình Thuận xác định thanh long là cây lợi thế. Tuy nhiên, hiện việc sản xuất thanh long hữu cơ còn gặp khó khăn.
Giá thành cao nhưng đầu ra không đảm bảo
Người nông dân thu hoạch thanh long.
Trao đổi với Người Đưa Tin, anh Võ Thanh Minh (xã Hàm Mỹ, huyện Hàm Thuận Nam) cho biết, để sản xuất thanh long hữu cơ, cần có công ty bao tiêu sản phẩm, ký hợp đồng bình ổn giá và đảm bảo tiêu chuẩn dư lượng.
Tuy nhiên, tại địa phương, quy trình sản xuất thanh long hữu cơ chưa được phổ biến, người dân chủ yếu sản xuất thanh long sạch mà không có hợp tác bao tiêu đầu ra. Do đầu ra khó khăn, nông dân vẫn chuộng sản xuất theo quy trình thông thường, phục vụ thị trường Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ.
Đại diện Hợp tác xã thanh long Hòa Lệ (huyện Hàm Thuận Bắc) cũng cho biết, hiện nay HTX làm thanh long theo hướng GlobalGAP. Nếu làm theo hướng hữu cơ thì đầu ra không có. Có một hợp tác xã khác làm theo hướng hữu cơ nhưng lỗ hơn hơn 1 tỷ đồng.
Hiện nay, HTX Hòa Lệ đã liên kết với các công ty xuất nhập khẩu có uy tín xuất khẩu thanh long sạch sang các thị trường như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Ấn độ và một số nước Trung Đông. Bên cạnh đó, HTX đang đẩy mạnh xuất khẩu các thị trường tiềm năng như châu Âu, Mỹ, Úc, Nhật Bản,…
Người dân đang chăm sóc một vườn thanh long ở tỉnh Bình Thuận.
Trao đổi với PV, ông Phan Văn Tấn, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Bình Thuận thông tin, đối với sản xuất thanh long hữu cơ tại tỉnh Bình Thuận được thực hiện theo 3 hình thức: sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn hữu cơ của quốc tế.
Hình thức này phổ biến ở các trang trại diện tích tương đối lớn và có liên kết với các doanh nghiệp để xuất khẩu.
Ông Phan Văn Tấn, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Bình Thuận.
Sản xuất thanh long được cấp chứng nhận hữu cơ theo tiêu chuẩn Việt Nam, hình thức này phổ biến ở các hợp tác xã. Phổ biến hơn là hình thức sản xuất theo hướng hữu cơ, người dân chủ động sản xuất và tuân thủ các quy trình sản xuất hữu cơ.
Trong đó, hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, tăng cuờng sử dụng phân bón hữu cơ, sử dụng các dung dịch thảo mộc, biện pháp vật lý (bẫy, bã), biện pháp sinh học (bọ rùa, kiến vàng, nấm đối kháng….) để kiểm soát sinh vật gây hại.
Hình thức này thường tập trung ở các vườn thanh long nhỏ lẻ, các hợp tác xã, các trang trại sản xuất để xuất khẩu sang các thị trường khó tính (châu Âu).
Tuy nhiên, ông Tấn cũng nhìn nhận, phát triển nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn còn gặp nhiều khó khăn. Đây là hướng đi mới với yêu cầu nghiêm ngặt, nên việc áp dụng và mở rộng còn hạn chế.
Số lượng doanh nghiệp tham gia liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hữu cơ vẫn còn ít, đặc biệt là các mô hình chuỗi khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ.
Nguồn cung vật tư đầu vào như phân bón vi sinh, thuốc bảo vệ thực vật còn hạn chế và có giá cao hơn so với sản xuất thông thường. Bên cạnh đó, chi phí đầu tư lớn khiến giá thanh long hữu cơ luôn ở mức cao, dẫn đến thị trường tiêu thụ bị thu hẹp và thiếu ổn định.
Trang trại thanh long ở huyện Hàm Thuận Bắc nhìn từ trên cao.
600ha sản xuất thanh long theo hướng hữu cơ
Theo đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2021-2030, tỉnh Bình Thuận đặt mục tiêu mở rộng sản xuất thanh long hữu cơ.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh, ông Phan Văn Tấn cho biết, thanh long là cây lợi thế của tỉnh. Với nền tảng sản xuất theo VietGAP, GlobalGAP tạo tiền đề cho việc áp dụng quy trình hữu cơ nghiêm ngặt hơn.
Nhờ đó, người trồng đã quen thuộc với các tiêu chuẩn canh tác an toàn. Tỉnh phấn đấu đạt 60 ha thanh long hữu cơ vào năm 2025 và 1.250ha vào năm 2030.
Một vựa thanh long ở Bình Thuận.
Theo ông Phan Văn Tấn, để khắc phục những khó khăn, tồn tại trong việc sản xuất thanh long hữu cơ, tỉnh Bình Thuận sẽ thực hiện các chính sách tín dụng; các chính sách khuyến khích; chú trọng đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp.
Tỉnh xác định các vùng sản xuất thanh long có tiềm năng thế mạnh về sản xuất các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ để khuyến khích, kêu gọi các doanh nghiệp, các hợp tác xã và người dân có nhu cầu đầu tư vào sản xuất.
"Để đạt được chỉ tiêu nêu trên, trong thời gian đến, tỉnh Bình Thuận tập trung thực hiện đẩy mạnh công tác triển khai xây dựng các mô hình sản xuất thanh long hữu cơ theo liên kết chuỗi giá trị từ sản xuất - chế biến - tiêu thụ sản phẩm hữu cơ kết hợp với du lịch nông thôn, nông nghiệp sinh thái.
Bên cạnh đó, đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá sản phẩm thanh long hữu cơ ra thị trường trong và ngoài nước", Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Bình Thuận Phan Văn Tấn cho hay.
Cuối năm 2024, diện tích cây thanh long trên địa bàn tỉnh Bình Thuận đạt 25.800ha, năng suất đạt 218 tạ/ha, sản lượng đạt 560.000 tấn. Đến nay có 124,5ha thanh long chứng nhận hữu cơ; trong đó 120ha thanh long được chứng nhận tiêu chuẩn hữu cơ quốc tế (Mỹ, Canada, Châu Âu), 4,5ha thanh long chứng nhận theo tiêu chuẩn của Việt Nam. Ngoài ra, diện tích cây thanh long áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt GlobalGAP đạt khoảng 453ha, đạt tỉ lệ 1,76 % so với tổng diện tích, diện tích cây thanh long áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt VietGAP đạt khoảng 8.541,2ha, đạt tỉ lệ đạt 33,1 % so với tổng diện tích.
Nguyễn Đắc Phú
Hợp tác xã - Đầu tàu thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hàng hóa phát triển
Với vai trò chủ thể, các hợp tác xã (HTX) trên địa bàn tỉnh đã và đang tác động mạnh vào quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, hình thành các vùng sản xuất tập trung với nhiều cây trồng có năng suất cao, giá trị kinh tế, tạo ra các chuỗi liên kết sản xuất, kết nối cung cầu, đảm bảo đầu ra ổn định cho nông sản, nâng cao thu nhập cho nông dân.
Vĩnh Phúc là địa phương có tiềm năng về đất đai, điều kiện phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung. Tuy nhiên, một thời gian dài, việc phát triển các vùng sản xuất tập trung gặp rất nhiều khó khăn, giá trị kinh tế thấp. Do yêu cầu về quy mô, diện tích sản xuất lớn trong khi ruộng đất trên địa bàn tỉnh còn manh mún, các mô hình chủ yếu là tự phát, chưa có chủ thể đứng ra đảm nhiệm vai trò quản lý.
Thực tế này đòi hỏi cần có những “đầu tàu” đủ năng lực quản lý, tạo mối quan hệ sản xuất bền vững, hài hòa lợi ích giữa nông dân và doanh nghiệp tiêu thụ để thúc đẩy các vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn hình thành và phát triển.
Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Nhân Lý, xã Phú Xuân (Bình Xuyên) xây dựng thành công vùng sản xuất lúa hàng hóa, nâng cao thu nhập cho nông dân địa phương. Ảnh: Chu Kiều
Với tinh thần ham học hỏi, dám nghĩ dám làm, tự tin đột phá, nhiều nông dân, thế hệ trí thức trẻ đã mạnh dạn xây dựng HTX theo mô hình mới, đáp ứng nhu cầu thời kỳ mới đặt ra. Điển hình như HTX dịch vụ nông nghiệp Nhân Lý, xã Phú Xuân (Bình Xuyên).
Sau khi chuyển đổi thành công theo Luật HTX năm 2012 từ tháng 12/2014, HTX đã có sự nỗ lực không ngừng, xây dựng, hình thành vùng sản xuất lúa theo hướng hữu cơ với tổng diện tích canh tác hơn 150 ha với sự tham gia của hơn 2.450 thành viên, xây dựng thương hiệu “Gạo ngon Phú Xuân” có chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Qua tìm hiểu, giá trị sản xuất nông nghiệp tại xã Phú Xuân trước khi HTX dịch vụ nông nghiệp Nhân Lý mới đi vào hoạt động còn thấp, đặc biệt là ứng dụng cơ giới hóa rất chậm, dù đồng đất bằng phẳng, tưới tiêu thuận lợi.
HTX ra đời như một làn gió mới, đẩy nhanh quá trình ứng dụng cơ giới hóa, khép kín quy trình gieo cấy, đưa Phú Xuân trở thành điểm sáng của tỉnh về mô hình mạ khay, cấy máy.
Các nút thắt trong sản xuất nông nghiệp dần được tháo gỡ, người dân đồng thuận chủ trương dồn thửa đổi ruộng, hình thành cánh đồng mẫu lớn, tích cực tham gia vào chuỗi liên kết sản xuất với Tập đoàn Quế Lâm Phương Bắc, sản xuất lúa theo hướng hữu cơ, sử dụng giống thuần chất lượng cao và phân bón vi sinh hữu cơ, tạo ra gạo ngon chất lượng cao, nâng cao giá trị sản xuất trên mỗi diện tích canh tác.
Không chỉ riêng HTX dịch vụ nông nghiệp Nhân Lý, nhiều HTX nông nghiệp sau khi chuyển đổi hoạt động theo Luật HTX năm 2012 hoặc được thành lập mới đã mạnh dạn đầu tư, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất làm tăng chất lượng, giá trị sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường.
Một số HTX bước đầu sắp xếp lại về quy mô, lĩnh vực hoạt động phù hợp với yêu cầu thực tế tại địa phương và hoạt động có hiệu quả. Doanh thu bình quân mỗi HTX nông nghiệp năm 2024 đạt 1,2 tỷ đồng/năm; lãi bình quân đạt 250 triệu đồng/năm.
Với sự lớn mạnh của các HTX đầu tàu, các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung của tỉnh ngày càng phát triển, tạo ra các sản phẩm đặc trưng vùng miền, được chứng nhận sản phẩm OCOP từ 3 sao cấp tỉnh trở lên như bưởi Vĩnh Tường, thanh long ruột đỏ Lập Thạch, dưa chuột VietGap An Hòa, su su Hồ Sơn… Nông nghiệp hàng hóa đã mở ra hướng đi bền vững cho nông dân tại địa phương, nâng cao thu nhập, đời sống vật chất cho nông dân.
Phát triển khu vực kinh tế tập thể (KTTT) mà nòng cốt là các HTX luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm. Tại Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nghị quyết 20 của Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT trong giai đoạn mới đã được ban hành, thể hiện rõ quan điểm của Ðảng tiếp tục củng cố và phát triển vai trò khu vực KTTT và khẳng định KTTT sẽ được hỗ trợ để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số, nâng cao trình độ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Trên cơ sở đó, tỉnh cũng ban hành nhiều cơ chế chính sách hỗ trợ các HTX trên địa bàn tích cực đổi mới, phát huy vai trò đầu tàu, hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa, xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, tiên tiến, chủ động nắm bắt các cơ hội phát triển.
Toàn tỉnh hiện có 220 HTX nông nghiệp đang hoạt động với 26 chuỗi liên kết sản xuất, dù số lượng HTX là tương đối lớn, song những “đầu tàu” có thực lực và khả năng phát triển còn chưa nhiều.
Để mở ra cơ hội cho nông nghiệp Vĩnh Phúc phát triển trong kỷ nguyên số, các HTX cần nắm rõ tinh thần đổi mới, sáng tạo, sớm cơ cấu lại tổ chức bộ máy, đầu tư nguồn lực, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi phương thức hoạt động phù hợp với tình hình mới, đặc biệt là đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số để tương xứng với vai trò chủ lực.
Từ đó dẫn dắt các phong trào đổi mới sản xuất nông nghiệp, hình thành nhiều vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa, tăng cường liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp bao tiêu đầu ra để đem lại những giá trị bền vững cho ngành nông nghiệp của tỉnh.
Nguyễn Hường
Trà Vinh phát triển bền vững nghề nuôi tôm nước lợ
Với 65km đường bờ biển, tỉnh Trà Vinh có nhiều tiềm năng và thế mạnh phát triển nghề nuôi trồng thủy sản; trong đó nuôi tôm nước lợ được xác định là ngành kinh tế quan trọng của địa phương. Năm qua, diện tích và sản lượng tôm nuôi nước lợ của Trà Vinh lớn thứ 06 khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, với trên 33.330 ha, sản lượng đạt hơn 94.000 tấn, giá trị sản xuất đạt trên 7.500 tỷ đồng. Hiện ngành nông nghiệp địa phương đang tập trung khắc phục những tồn tại, hạn chế để nghề nuôi tôm nước lợ trên địa bàn tỉnh phát triển bền vững.
Mô hình nuôi tôm thâm canh của nông dân huyện Cầu Ngang.
Nhiều thách thức
Ngành tôm nước lợ trên địa bàn tỉnh được hình thành hơn 30 năm. Thời gian đầu chủ yếu phát triển nuôi theo hình thức quảng canh cải tiến và bán thâm canh. Đến năm 2000, sau khi Nhà nước có chính sách đầu tư phát triển các trại sản xuất giống và nuôi thâm canh, cùng sự ra đời của mạng lưới hậu cần dịch vụ về giống, thức ăn, thuốc hóa chất, thu mua, chế biến,… thì hình thức nuôi thâm canh tôm sú bắt đầu phát triển mạnh.
Tuy nhiên, hiện nghề nuôi tôm nước lợ ở Trà Vinh đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Tại các vùng nuôi tôm, hạ tầng chưa được đầu tư hoàn thiện; môi trường bị ô nhiễm do mức độ thâm canh hóa ngày càng cao; dịch bệnh phát sinh nhiều và thường xuyên, nhiều bệnh mới xuất hiện; nguồn tôm giống chất lượng sản xuất tại địa phương hạn chế…
Đồng chí Sơn Sâm Phone, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản, Kiểm ngư và Biển đảo (Sở Nông nghiệp và Môi trường Trà Vinh) cho rằng, tình hình biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, xuất hiện nhiều hiện tượng như nước biển dâng; thời tiết, nhiệt độ, độ mặn trong nước thay đổi liên tục… làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường nuôi. Trong khi đó, hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi tôm ở Trà Vinh chủ yếu dùng chung với hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, vì vậy việc cấp thoát nước cũng không đảm bảo, các vùng nuôi thâm canh không có ao xử lý nước nên rất dễ xảy ra dịch bệnh.
Bên cạnh đó, địa phương thiếu trầm trọng nguồn tôm giống chất lượng tại chỗ. Toàn tỉnh có 16 cơ sở giống chỉ cung ứng được khoảng 01 tỷ con giống, đáp ứng khoảng 20% nhu cầu nuôi tôm của người dân. Số lượng giống còn lại phải nhập từ các tỉnh như Ninh Thuận, Bình Thuận, Bạc Liêu... Việc sử dụng nguồn giống chưa đảm bảo chất lượng cũng làm giảm tỷ lệ sống của tôm nuôi.
Giai đoạn 2020 - 2024, tổng diện tích nuôi tôm bị thiệt hại toàn tỉnh gần 9.000 ha, chiếm 5,6% diện tích thả nuôi. Tôm chết chủ yếu trong giai đoạn từ 03 - 50 ngày tuổi, với các bệnh như đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp, đường ruột, phân trắng… Không chỉ vậy, giá thành sản xuất tôm nuôi ở Trà Vinh hiện nay khá cao; người nuôi tôm ở Trà Vinh còn bị hạn chế về lợi nhuận.
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Trà Vinh Trần Trường Giang cho biết, so với các nước có lượng tôm xuất khẩu lớn trên thế giới hiện nay, thì chi phí sản xuất tôm nguyên liệu ở Trà Vinh khá cao do qua nhiều khâu trung gian. Phần lớn các hộ nuôi tôm ở địa phương sản xuất quy mô nhỏ lẻ, thiếu liên kết sản xuất; trong đó nhiều hộ phải vay vốn để đầu tư sản xuất, khiến giá thành sản xuất bị "đẩy" lên. Điều này là giảm lợi nhuận của người nuôi tôm, tôm nguyên liệu của Trà Vinh khó cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu.
Phát triển nghề bền vững
Theo kế hoạch, năm 2025, toàn tỉnh Trà Vinh thả nuôi 24.000 ha tôm sú, sản lượng đạt khoảng 10.500 tấn; 8.000 ha tôm thẻ chân trắng, sản lượng gần 90.000 tấn. Để đạt mục tiêu đề ra trong năm nay và phát triển bền vững ngành tôm nước lợ trong thời gian tới, Trà Vinh đang thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
Theo đó, địa phương ưu tiên đầu tư hạ tầng thủy lợi, điện, giao thông vùng nuôi tôm trọng điểm; tổ chức lại sản xuất theo hướng liên kết chuỗi giá trị ngành hàng, trong đó doanh nghiệp là mắt xích chủ yếu đóng vai trò dẫn dắt toàn chuỗi, liên kết bảo đảm hài hòa lợi ích với người nuôi. Tỉnh sẽ liên doanh, liên kết với các tỉnh, thành đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh để mở rộng thị trường, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào ngành tôm nước lợ tỉnh Trà Vinh; hình thành và phát triển các vùng nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao.
Địa phương đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào thực tiễn cho nuôi tôm nước lợ; nhân rộng mô hình mới, giải pháp, công nghệ nuôi thích ứng với điều kiện biến đổi thời tiết, nuôi tôm bằng nhiều hình thức như: chia giai đoạn, sử dụng chế phẩm sinh học, tuần hoàn khép kín, an toàn sinh học, công nghệ cao... và các mô hình liên kết sản xuất hiệu quả giúp người nuôi, doanh nghiệp giảm thiệt hại và chủ động sản xuất.
Tỉnh cũng chuyển giao, nâng cấp và áp dụng công nghệ tiên tiến trong sơ chế, bảo quản tôm nguyên liệu để nâng cao giá trị gia tăng, đảm bảo an toàn thực phẩm, đáp ứng được yêu cầu của nước nhập khẩu; hỗ trợ các trang trại, doanh nghiệp nuôi - chế biến tôm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, xây dựng thương hiệu, xúc tiến thị trường, tiêu thụ sản phẩm tôm…
Mô hình nuôi tôm siêu thâm canh mật độ cao của nông dân thị xã Duyên Hải.
Bên cạnh đó, tỉnh tích cực kêu gọi doanh nghiệp đầu tư xây dựng trại giống quy mô lớn đạt chuẩn, nuôi tôm công nghệ cao quy mô lớn, xây dựng các nhà máy chế biến tôm tại địa phương. Tăng cường phối hợp các viện, trung tâm nghiên cứu, trường đại học trong và ngoài nước để đẩy mạnh công tác nghiên cứu, chọn tạo giống tôm tăng trưởng nhanh, sạch bệnh để chủ động cung cấp cho vùng nuôi tôm. Tập trung giải pháp giảm thiểu dịch bệnh trên tôm nuôi.
Mới đây, tại hội thảo về phòng, chống dịch bệnh trên tôm nuôi nước lợ được ngành nông nghiệp tổ chức tại huyện Duyên Hải, nhà khoa học đến từ các viện, trường đã hướng dẫn các hộ nuôi cách phòng, trị dịch bệnh phát sinh trên tôm nuôi; trong đó có nhiều bệnh mới xuất hiện thời gian gần đây.
Thời gian tới, ngành chuyên môn tăng cường quan trắc, cảnh báo môi trường nước để kịp thời khuyến cáo, cảnh báo người nuôi; hướng dẫn biện pháp phòng, chống dịch bệnh, thực hiện tốt giải pháp kỹ thuật để giảm thiểu thiệt hại tôm nuôi.
Theo Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Trà Vinh Trần Trường Giang, để giảm giá thành sản xuất tôm nguyên liệu ở Trà Vinh, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, ngành nông nghiệp khuyến khích các hộ nuôi liên kết sản xuất, ký kết trực tiếp với doanh nghiệp không qua thương lái để giảm chi phí trung gian; tổ chức lại sản xuất theo hướng liên kết hình thành vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn gắn với tiêu chuẩn chứng nhận để nâng cao chất lượng tôm nguyên liệu, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Gia đình ông Nguyễn Văn Út, xã Long Toàn, thị xã Duyên Hải trước đây nuôi tôm theo hình thức quảng canh, quảng canh cải tiến. Sau thời gian tích lũy được kinh nghiệm và được chuyển giao khoa học - kỹ thuật, năm 2018 ông mạnh dạn đầu tư nuôi tôm thẻ chân trắng áp dụng công nghệ cao. Hiện gia đình ông có 08 ao nuôi trên diện tích 05ha, mật độ thả trung bình là 250 con/m2.
Để nghề nuôi ngày càng phát triển theo tiêu chí nuôi theo quy trình an toàn dịch bệnh và phong trào nuôi phát triển và bền vững, ông Út cho rằng, người nuôi phải kiểm soát tốt nguồn giống, nên sử dụng giống sạch bệnh hoặc đã được xét nghiệm âm tính với các bệnh nguy hiểm; kết hợp với áp dụng biện pháp an toàn sinh học tại cơ sở, tiến bộ kỹ thuật trong nuôi tôm để kiểm soát nguy cơ làm mầm bệnh xâm nhập. Các hộ nên liên kết, hình thành tổ hợp tác, hợp tác xã, câu lạc bộ,… để chia sẻ kinh nghiệm sản xuất, dễ tiếp cận chính sách hỗ trợ và đối tác cung cấp vật tư đầu vào, tiêu thụ đầu ra.
Ông Nguyễn Văn Út đề xuất cơ quan chuyên môn tăng cường tập huấn chuyển giao khoa học - kỹ thuật cho các hộ nuôi tôm; kịp thời cung cấp thông tin về biến động thời tiết, giá cả, thị trường, tình hình xuất nhập khẩu các nước để người dân chủ động sản xuất, tránh thiệt hại.
Bài, ảnh: THANH HÒA
Xã An Thái, huyện Phú Giáo: Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường
Những năm qua, xã An Thái, huyện Phú Giáo đã đạt nhiều kết quả quan trọng trong việc phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường. Các chính sách hỗ trợ của nhà nước, cùng với đó người nông dân mạnh dạn thực hiện các mô hình nông nghiệp bền vững, giải pháp xử lý phế phẩm nông nghiệp giúp nâng cao thu nhập, kinh tế địa phương phát triển ổn định gắn với bảo vệ môi trường.
Sản xuất nông nghiệp ƯDCNC giúp xã An Thái phát triển nông nghiệp bền vững. Trong ảnh: Sơ chế chuối tại Khu nông nghiệp công nghệ cao An Thái của Công ty Cổ phần Nông nghiệp U&I
Phát triển nông nghiệp bền vững
Ông Bùi Văn Bảo, Chủ tịch UBND xã An Thái, cho biết xã đã quy hoạch vùng chuyên canh cao su, chuyển đổi giống cây trồng năng suất thấp sang giống cây cao sản, kháng bệnh tốt. Đồng thời, địa phương phát triển vườn cây ăn trái ứng dụng công nghệ cao (ƯDCNC), tạo nền tảng cho kinh tế phát triển bền vững. Ngành chăn nuôi cũng được tổ chức theo mô hình trang trại, gắn với bảo vệ môi trường; đổng thời ứng dụng công nghệ cao giúp kiểm soát dịch bệnh, xử lý chất thải triệt để, hạn chế ô nhiễm, bảo đảm sức khỏe cộng đồng.
Điển hình như mô hình trồng cây ăn quả của Công ty Cổ phần Nông nghiệp U&I ở xã An Thái có diện tích hơn 411 ha, với các loại cây trồng như chuối cấy mô, bưởi da xanh, dưa lưới... Trong đó, sản phẩm dưa lưới và chuối cấy mô đạt tiêu chuẩn OCOP (Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm”) 4 sao. Mô hình này tạo việc làm thường xuyên cho hơn 300 lao động trong xã với thu nhập trung bình 8 triệu đồng/tháng. Mô hình đạt lợi nhuận sau thuế hơn 4,5 tỷ đồng/năm. Công ty còn liên kết với các hộ dân để hướng dẫn kỹ thuật trồng và tiêu thụ sản phẩm. Đại diện Công ty Cổ phần Nông nghiệp U&I cho biết mô hình trồng cây ăn quả tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật, bải đảm an toàn sinh học, vệ sinh môi trường. Phân bón, thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng đúng giai đoạn sinh trưởng và mùa vụ, giúp cây phát triển tối ưu. Quá trình canh tác được ghi chép đầy đủ, bảo đảm truy xuất nguồn gốc, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế.
Hiện nay, các trang trại tại xã An Thái đều áp dụng công nghệ hiện đại như nhà kính thông minh, hệ thống tưới nhỏ giọt, phun sương điều khiển từ xa qua ứng dụng di động, giúp giảm công lao động thủ công. Công nghệ GPS và GIS được sử dụng để phân tích đất, dự báo sản lượng, theo dõi năng suất cây trồng, phát hiện sâu bệnh sớm và xử lý kịp thời. Lãnh đạo xã An Thái cho biết thời gian qua, địa phương đã phối hợp với các doanh nghiệp, đơn vị liên quan đào tạo, tập huấn giúp nông dân tiếp cận máy móc hiện đại và công nghệ số; đồng thời đẩy mạnh số hóa thông tin sản xuất, gắn mã QR truy xuất nguồn gốc nông sản, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm và tạo thuận lợi cho công tác quản lý.
Hướng tới nông thôn mới kiểu mẫu
Xã An Thái được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới (NTM) nâng cao vào năm 2020. Phát huy kết quả đạt được, xã đang chú trọng công tác bảo vệ môi trường, hướng tới đạt chuẩn NTM kiểu mẫu. Hiện xã đã có 19/19 chỉ tiêu đạt NTM kiểu mẫu và đã hoàn thiện hồ sơ trình cấp trên đề nghị công nhận xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu. Xã cũng đã đạt 29/39 chỉ tiêu NTM thông minh theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Theo đó, để đạt các tiêu chí NTM kiểu mẫu, xã quan tâm thực hiện tốt việc xử lý phế phẩm nông nghiệp thông qua việc tuyên truyền, hướng dẫn người dân phân loại, tái chế chất thải. Bên cạnh đó, các cơ sở sản xuất nông nghiệp ƯDCNC trên địa bàn đều đầu tư công trình bảo vệmôi trường, bảo đảm vệsinh môi trường theo quy định…
Ông Bùi Thanh Hương, Trưởng ban Điều hành ấp 5, cho hay hiện trên địa bàn ấp có hơn 300 hộ dân. Cây cao su giữ vai trò chủ lực trong phát triển kinh tế của ấp. Bên cạnh đó, nhiều gia đình phát triển cây ăn trái có múi, bảo đảm có nguồn thu nhập ổn định. Giới thiệu về tuyến đường Tiền Trạm trên địa bàn ấp, ông Hương phấn khởi cho biết đây là tuyến đường hoa tiêu biểu của ấp. Trước đây, tuyến đường này chỉ là đường đất nhỏ hẹp, người dân quen gọi là “đường xe bò”. Qua nhiều năm cải tạo, tuyến đường dần được mở rộng, được bê tông hóa. Người dân địa phương còn chủ động trồng hoa dọc hai bên đường, tạo cảnh quan xanh - sạch - đẹp. Đặc biệt, hệ thống chiếu sáng và nước sạch cũng đã được đầu tư, góp phần nâng cao chất lượng sống cho người dân nơi đây.
“Đường sá khang trang, môi trường sạch đẹp không chỉ giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của bà con mà còn tạo động lực để người dân phát triển kinh tế. Ngoài ra, việc phân loại rác tại nguồn giúp người dân có thể dùng chất thải hữu cơ để làm phân bón, cải thiện đất trồng, vừa giảm rác thải vừa tiết kiệm chi phí”, bà Trần Hồng Khanh, sinh sống dọc tuyến đường Tiền Trạm, phấn khởi nói.
Lãnh đạo xã An Thái cho biết, xu hướng sản xuất nông nghiệp xanh đang được nhiều người dân hướng ứng. Người nông dân đang dần chuyển đổi sang sản xuất theo hướng sinh thái, tận dụng phế thải để tái chế, nhờ vậy giá trị sản xuất ngày một tăng cao, thu nhập ổn định hơn trước. Địa phương đã và đang phối hợp với các tổ chức, đoàn thể tuyên truyền, vận động người dân tham gia phân loại và xử lý chất thải tại nguồn. Hiện nay, tỷ lệ hộ dân thực hiện phân loại rác đạt 56,49%, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ môi trường và xây dựng NTM kiểu mẫu.
Toàn xã An Thái hiện có 33 mô hình nông nghiệp ƯDCNC (gồm 21 mô hình chăn nuôi, 12 mô hình trồng cây ăn trái) và 1 mô hình nông nghiệp theo hướng hữu cơ. Các mô hình này đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, thân thiện với môi trường và đang được người dân tiếp tục đầu tư, mở rộng sản xuất. Các chính sách hỗ trợ người dân phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường đã góp phần giúp người dân ổn định, nâng cao chất lượng cuộc sống. Năm 2024, thu nhập bình quân đầu người của xã đạt gần 93 triệu đồng, tăng 10,46% so với năm 2023.
TIẾN HẠNH
Hải Dương: Phấn đấu xây dựng từ nông thôn mới nâng cao đến nông thôn mới kiểu mẫu
Nhằm đáp ứng Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm 2025, Hải Dương hiện đang tập trung cho nhiệm vụ phấn đấu có thêm 29 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 16 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.
Tỉnh Hải Dương phấn đấu năm 2025 có thêm 45 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và nông thôn mới kiểu mẫu.
Theo đó, Hải Dương phấn đấu năm 2025 có thêm 29 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, nâng tổng số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao của tỉnh lên 94 xã (đạt 62,2%); 16 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu, nâng tổng số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu lên 35 xã (đạt 23,2%). Trong đó, huyện Tứ Kỳ có 6 xã đăng ký hoàn thành nông thôn mới nâng cao; huyện Thanh Hà có 4 xã đăng ký hoàn thành nông thôn mới kiểu mẫu, nhiều nhất tỉnh.
Đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất để xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu. Ảnh: Báo Hải Dương.
Để hoàn thành nhiệm vụ trên, UBND tỉnh yêu cầu các địa phương chú trọng đầu tư nâng cấp hạ tầng giao thông, hệ thống cơ sở vật chất văn hóa thể thao, trường học, trạm y tế xã; hạ tầng bảo vệ môi trường nông thôn; phát triển, hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng số trong nông nghiệp, nông thôn... Cơ cấu lại ngành nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn theo hướng kinh tế tuần hoàn, nông nghiệp sinh thái, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp. Triển khai Chương trình mỗi xã một sản phẩm, trong đó chú trọng phát triển sản phẩm tiềm năng 4 sao, 5 sao gắn với lợi thế của các địa phương.
Toàn tỉnh Hải Dương hiện có 65 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 19 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.
Sông Hồng
Quyết Thắng: Phát triển đa dạng mô hình sản xuất nông nghiệp hiệu quả
Xác định phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong xây dựng nông thôn mới (NTM), những năm qua, cấp ủy, chính quyền xã Quyết Thắng, huyện Hữu Lũng đã chú trọng định hướng, hỗ trợ người dân phát triển sản xuất có hiệu quả. Qua đó, góp phần giúp người dân vươn lên phát triển kinh tế, tăng thu nhập, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương.
Người dân thôn Kép III, xã Quyết Thắng chăm sóc đàn bò vỗ béo
Những ngày cuối tháng 3/2025, chúng tôi có dịp tham quan mô hình chăn nuôi bò của gia đình anh Nguyễn Văn Mạnh, thôn Kép III, xã Quyết Thắng – một trong những hộ điển hình trong phong trào chăn nuôi bò vỗ béo đem lại thu nhập cao. Anh Mạnh cho biết: Năm 2019, được tham gia các lớp tập huấn của xã, huyện, gia đình tôi biết đến phương pháp nuôi bò vỗ béo và đã đầu tư xây dựng chuồng trại để chăn nuôi. Từ đó, trong chuồng luôn duy trì từ 22 đến 25 con. Trung bình mỗi năm, gia đình tôi xuất bán khoảng 20 con bò, đem lại lợi nhuận trên 200 triệu đồng.
Không chỉ gia đình anh Mạnh, những năm qua, nhiều hộ dân trên địa bàn xã Quyết Thắng đã chủ động xây dựng các mô hình kinh tế phù hợp, vươn lên phát triển kinh tế. Đến nay, toàn xã đã phát triển được trên 40 mô hình sản xuất hiệu quả, tiêu biểu như: mô hình trồng cây ăn quả (trên 20 ha); mô hình trồng trám đen (15 ha); mô hình trồng mắc ca (2 ha); mô hình trồng dưa bao tử (trên 20ha); mô hình trồng lúa J02 (trên 7ha); mô hình chăn nuôi gà thương phẩm (trên 25.000 con); … đem lại thu nhập cho nhiều hộ từ 150 đến 250 triệu đồng/năm. Ngoài các mô hình trên, người dân trên địa bàn xã hiện đang tiếp tục thử nghiệm một số mô hình khác như: chăn nuôi trâu bò thương phẩm…
Ông Lương Văn Bính, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Quyết Thắng cho biết: Để người dân có kỹ thuật nuôi, trồng hiệu quả, đối với mỗi mô hình chúng tôi tổ chức hướng dẫn, tập huấn cho các hộ gồm cả tập huấn định kỳ và tập huấn chuyên đề. Hằng năm, chính quyền xã phối hợp với Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện tổ chức từ 8 đến 10 lớp tập huấn về quy trình, kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi cho bà con. Đối với các mô hình hiệu quả, chúng tôi hướng dẫn bà con mở rộng quy mô, nâng cao năng suất, chất lượng. Cùng với đó, xã vận động thành lập và phát triển các tổ hợp tác, hợp tác xã (HTX). Đến nay, xã đã vận động thành lập được 2 HTX và 3 tổ hợp tác hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.
Chị Phạm Thị Năm, Tổ trưởng Tổ hợp tác trồng trám đen cho biết: Năm 2020, thông qua các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật ở xã tôi biết đến mô hình trồng trám theo hướng an toàn và tham gia sản xuất trám đen theo quy trình VietGAP. Năm 2023, tôi đã thành lập tổ hợp tác trồng trám đen, gồm 12 thành viên. Theo đó, chúng tôi đã chú trọng áp dụng khoa học kĩ thuật vào khâu chăm sóc và nhận thấy hiệu quả rõ rệt, tỉ lệ đậu quả cao. Đến nay, các thành viên trong tổ đã trồng và chăm sóc trên 5ha theo tiêu chuẩn VietGAP. Trung bình mỗi năm, cho thu hoạch từ 3 - 4 tạ quả/ha, tăng gấp đôi so với quy trình chăm sóc truyền thống.
Song song với việc tập huấn, để người dân có nguồn lực đầu tư phát triển các mô hình sản xuất, cấp ủy, chính quyền xã đã chỉ đạo các tổ chức hội, đoàn thể nhận ủy thác hỗ trợ người dân tiếp cận với các nguồn vốn vay ưu đãi; chính sách hỗ trợ. Đến nay, xã đã có 429 lượt hộ được vay vốn ưu đãi với tổng dư nợ vốn tại Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện đạt gần 27,3 tỷ đồng. Nguồn vốn cho vay được người dân sử dụng chủ yếu với mục đích trồng cây ăn quả và chăn nuôi. Ngoài ra, từ năm 2020 đến nay, chính quyền xã tuyên truyền, hướng dẫn người dân tiếp cận với các nguồn vốn vay ưu đãi, đặc biệt là vay theo Nghị quyết số 08/2019 của HĐND tỉnh về chính sách đặc thù khuyến khích đầu tư, phát triển hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2020 – 2025. Theo đó, từ khi triển khai đến nay, xã đã phối hợp thực hiện giải ngân được 6 dự án với số tiền 3 tỷ đồng.
Có thể thấy việc phát triển các mô hình sản xuất đã và đang góp phần tích cực trong công tác giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho người dân trên địa bàn xã Quyết Thắng. Cụ thể, kết thúc năm 2024, tỉ lệ hộ nghèo toàn xã còn 2,75%, giảm 15% so với năm 2020; thu nhập bình quân đầu người của xã hiện đạt 45,7 triệu đồng/người/năm, tăng 20 triệu đồng so với năm 2020.
MAI LINH - HỒ DUNG
Cán bộ nông nghiệp vác ba lô đi nằm vùng giúp hộ nghèo chống đói rét cho trâu bò
Mô hình chăn nuôi trâu bò nhờ vốn hỗ trợ từ Chương trình 1719 và vốn xã hội hóa được kỳ vọng giúp nhiều hộ dân thoát nghèo. Để mô hình này thành công trong thực tế, đã có không ít cống hiến lặng thầm của đội ngũ cán bộ nông nghiệp ở cơ sở.
Huy động nhiều nguồn lực tạo sinh kế cho người nghèo
Gia đình chị Nông Thị Vui là một trong nhiều hộ nghèo và cận nghèo ở bản Cắn (xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng) được chính quyền địa phương hỗ trợ triển khai mô hình nuôi trâu bò bằng nguồn vốn từ Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (gọi tắt là Chương trình 1719) và huy động nguồn lực xã hội hóa.
Chỉ vài ngày sau khi nhận trâu, nhà chị may mắn đón thêm luôn 1 chú nghé con khỏe đẹp, thêm hy vọng rút ngắn thời gian thoát diện hộ cận nghèo.
Gia đình chị Nông Thị Vui được chính quyền địa phương hỗ trợ triển khai mô hình nuôi trâu bò. Ảnh: Thạch Thảo
Nuôi trâu bò là mô hình hỗ trợ sinh kế cho hộ nghèo, cận nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được triển khai trên địa bàn huyện Thạch An nhiều năm nay. Con giống lấy từ trung tâm giống gia súc trung ương, đảm bảo chất lượng tốt.
Những con trâu có cân nặng trung bình 2,8-3,2 tạ, con to hơn 3,7 tạ, quy ra tiền tầm 30 triệu đồng. Nếu không có sự hỗ trợ của chính quyền và các mạnh thường quân, hộ nghèo và cận nghèo khó có đủ tiền mua.
Bên cạnh những con trâu chuyên đi cày, cũng có những con trâu chỉ để sinh sản. Trung bình 5 năm, 1 trâu/bò mẹ sinh khoảng 3-4 nghé/bê con. Giá bán nghé trung bình 10-20 triệu đồng/con, sau 5 năm, hộ nuôi có thể thu tới hàng chục triệu đồng. Chưa kể nuôi trâu bò còn có nguồn phân bón cho cây trồng.
Để được tham gia chương trình hỗ trợ, người dân phải cam kết duy trì chuỗi giá trị chăn nuôi trâu bò trong 5 năm.
Bê/nghé có thể bán sớm để thêm thu nhập (nuôi lớn tầm 24 tháng có thể bán cho đơn vị liên kết thu mua). Nhưng trâu/bò mẹ sinh sản phải nuôi đủ 5 năm mới được đem bán.
“Nhà nào nhận trâu/bò về rồi bán luôn là vi phạm quy định, sẽ bị bắt phải trả lại”, chị Nông Thị Điềm, chuyên viên Phòng Nông nghiệp huyện Thạch An nhắc nhở chị Vui.
Chị Nông Thị Điềm, chuyên viên Phòng Nông nghiệp huyện Thạch An. Ảnh: Xuân Quý
Chị Điềm cho biết, các hộ dân triển khai mô hình nuôi trâu bò ở Thạch An nhận được khá nhiều sự hỗ trợ từ Chương trình 1719 và nguồn xã hội hóa, chỉ cần đối ứng một phần chi phí rất nhỏ.
Chẳng hạn như kinh phí thực hiện thụ tinh nhân tạo cho trâu bò sinh sản khoảng 300 nghìn đồng/liều tinh, người dân chỉ phải chi 1 nửa, phần còn lại do hợp tác xã hoặc doanh nghiệp chủ trì liên kết hỗ trợ.
Cán bộ thú y sẽ đến tận nhà phối tinh trực tiếp cho gia súc cái động dục, và sẽ giám sát, kiểm tra, theo dõi sức khỏe của trâu bò trong suốt 5 năm người dân triển khai mô hình phát triển sinh kế này.
Những câu chuyện chỉ người trong nghề mới thấm
Chúng tôi theo chân chị Vui đi thăm mẹ con trâu nghé đang được chị chăm bẵm, thả ăn cỏ ở vườn đồi. Trâu mẹ phản ứng, không cho người lạ tới gần.
Vừa vỗ về trâu, chị Vui kể: “Hồi đầu nuôi con trâu này cũng khá vất vả. Trâu được lấy về từ dưới xuôi, ăn loại cỏ khác. Lúc về nhà mình, cỏ xanh mướt nó cũng không ăn. Mình lấy cả máy thái chuối, băm mịn, nó vẫn không chịu. Phải thử nhiều loại, sau thấy nó ăn cỏ voi. Giờ thì chăm sóc dễ hơn rồi. Từ chỗ không ăn lá ngô, giờ trâu ăn cả cây to. Cây chuối chặt cục ra cũng ăn, không cần băm nữa”.
Trên đường đi thăm quan thực tế mô hình nuôi trâu bò sinh sản tại địa phương, các cán bộ nông nghiệp huyện kể thêm cho chúng tôi nghe khá nhiều câu chuyện mà chỉ người trong nghề mới thấm.
Trước hết là khâu chọn trâu bò giống. Nguồn trâu bò giống tại địa phương có thể thích nghi tốt với điều kiện địa phương, nhưng lại không đủ số lượng để triển khai chương trình hỗ trợ cho các hộ nghèo, cận nghèo.
Mới đây, trước khi cấp trâu bò cho dân, đơn vị chủ trì liên kết phải mất tới 40 ngày để lựa chọn giống, tiêm phòng, lấy mẫu máu kiểm tra xem có dương tính với các bệnh của gia súc hay không, rồi mới chuyển tới tay các hộ nuôi.
Mô hình hỗ trợ chăn nuôi trâu bò tại huyện Thạch An đã tạo sinh kế bền vững cho nhiều hộ nghèo và cận nghèo. Ảnh: Thạch Thảo
Tiếp đó là những vấn đề phát sinh trong quá trình chăn nuôi. Trâu/bò ở bản Cắn thường được thả đi ăn cỏ, và cho ăn thêm rơm, cám ngô. Những lúc trời mưa rét, không có cỏ thì phải đi mua lá mía. Có năm hợp tác xã (đơn vị chủ trì liên kết) phải chở lá mía từ nơi khác về để bà con cho trâu/bò ăn, mỗi ngày 2 xe, khá vất vả.
Nhưng không đơn giản là cứ đưa trâu bò về cho ăn cỏ rồi chúng tự nhiên lớn dần. Có hộ mang trâu bò sinh sản từ dự án hỗ trợ về nhà nhưng trâu mới không hợp với trâu nhà đang nuôi sẵn, lại phải tính toán đầu tư thêm chuồng nuôi. Có con trâu sau khi được thả đi ăn cỏ, lạ chỗ không biết đường về. Thậm chí có con quen ăn kiểu cắt cỏ mang tận miệng, không biết tự đi tìm cỏ để ăn. Mất khá nhiều thời gian để chúng thích nghi với môi trường sống ở miền núi.
Đặc biệt, do sử dụng nguồn vốn hỗ trợ khá lớn từ ngân sách nhà nước để triển khai mô hình, nếu không cẩn thận, để xảy ra thiệt hại, cán bộ địa phương sẽ có thể bị quy trách nhiệm. Vì thế, những cán bộ nông nghiệp như chị Điềm luôn canh cánh nỗi lo, thường xuyên tận tâm đồng hành với các hộ dân.
“Có đợt rét kéo dài tới 5-7 ngày, vòi nước đóng băng, các hộ nuôi phải quây bạt kín chuồng, lấy củi đun để sưởi ấm cho trâu bò. Cán bộ phòng nông nghiệp phải vác ba lô quần áo đi nằm vùng cả tuần để giúp dân phòng chống đói rét cho trâu bò, thế mà 1 con trâu vẫn bị chết do quá rét. Tiếc lắm”, chị Điềm bồi hồi nhớ lại.
Mô hình hỗ trợ chăn nuôi trâu bò tại huyện Thạch An có đặc thù là mỗi hộ nghèo hoặc cận nghèo thường chỉ có thể nuôi được 1 con trâu/bò; nếu được cho thêm cũng khó lo chi phí đối ứng.
Hiện tại, lấy công làm lãi từ mô hình chăn nuôi trâu bò vẫn đang trở thành một nguồn sinh kế bền vững, giúp nhiều hộ dân nơi đây có thêm thu nhập, dần cải thiện đời sống, sớm thoát cảnh nghèo.
Bình Minh
Vốn tín dụng góp phần phát triển nông nghiệp, nông thôn
Xác định vai trò nòng cốt của'tam nông', thời gian qua, các ngân hàng trên địa bàn tỉnh đã tập trung nguồn vốn phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, đơn giản hóa thủ tục cho vay, tăng cường khả năng tiếp cận vốn của người dân. Từ đó, góp phần cùng các cấp, các ngành của tỉnh thực hiện thành công mục tiêu Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới.
Người dân xã Yên Sơn, huyện Hữu Lũng sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi của NHCSXH phát triển mô hình trồng cây ăn quả
Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm tăng cường đầu tư vốn phát triển nông nghiệp, nông thôn, trong đó có đầu tư qua kênh tín dụng ngân hàng. Thông qua nguồn vốn tín dụng, các hộ dân, doanh nghiệp, hợp tác xã trên địa bàn tỉnh đã đầu tư vốn để phát triển nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả, đem lại thu nhập cao.
Những năm qua, nhiều chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn về vốn cho lĩnh vực “tam nông” đã được ban hành như: Nghị quyết số 26 ngày 5/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Nghị định số 41 ngày 12/4/2010 của Chính phủ, sau được thay thế bằng Nghị định số 55 ngày 9/6/2015 và đến năm 2018 được sửa đổi bằng Nghị định 116 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Các nghị định này quy định chi tiết, cụ thể các chính sách hỗ trợ về mặt tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn để khuyến khích người dân đầu tư phát triển.
Để thực hiện hiệu quả các nghị định của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, những năm qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam Chi nhánh tỉnh Lạng Sơn (nay là NHNN khu vực 5) đã quán triệt kịp thời các chủ trương, chỉ đạo của Chính phủ đến người dân, doanh nghiệp. Tại các cuộc họp, hội nghị với các tổ chức tín dụng trên địa bàn, NHNN luôn quán triệt, chỉ đạo các ngân hàng ưu tiên xem xét cho vay đối với các khoản vay thuộc lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Ngoài ra, NHNN và các ngân hàng cũng chủ động phối hợp với các đơn vị liên quan tăng cường thông tin, tuyên truyền về các sản phẩm tín dụng, chủ trương, chính sách mới đến các đối tượng khách hàng, nhất là các khách hàng ở vùng sâu, vùng xa; thực hiện cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh chuyển đổi số, thanh toán không dùng tiền mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, doanh nghiệp trên địa bàn tiếp cận vốn ngân hàng.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh Lạng Sơn (Agribank Lạng Sơn) là đơn vị điển hình trong hoạt động cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tính đến nay, tổng dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn của Agribank Lạng Sơn đạt 8.462 tỷ đồng, tăng 252 tỷ đồng so với năm 2024, với 17.835 hộ đang vay vốn.
Ông Nguyễn Hồng Đức, Giám đốc Agribank Lạng Sơn cho biết: Trong những năm qua, Agribank Lạng Sơn luôn khẳng định vai trò chủ lực trong đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đơn vị luôn chủ động cải tiến quy trình, đơn giản hóa thủ tục cho vay vốn; nâng cao khả năng thẩm định để rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ vay vốn, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng tiếp cận vốn tín dụng.
Bên cạnh đó, chi nhánh cũng đưa ra nhiều sản phẩm dịch vụ tiện ích đối với khách hàng, nhất là khu vực nông thôn như: tổ tư vấn lưu động đến tận các xã, cho vay thấu chi nông nghiệp nông thôn với lãi suất ưu đãi… đảm bảo các hộ dân có vốn thực hiện kịp thời ý tưởng sản xuất kinh doanh.
Cùng với Agribank Lạng Sơn, với mục tiêu phát triển bền vững và “không để ai bị bỏ lại phía sau”, nguồn vốn tín dụng chính sách thông qua hệ thống Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) tỉnh đã góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ tại các xã vùng sâu, vùng xa, từ đó diện mạo khu vực nông thôn khởi sắc rõ rệt. Ông Phan Anh ắng, Phó Giám đốc Chi nhánh NHCSXH tỉnh cho biết: Hiện nay, ngân hàng đang triển khai 19 chương trình tín dụng chính sách xã hội, với tổng dư nợ các chương trình cho vay đạt trên 5.100 tỷ đồng, 90.104 hộ vay. Nhờ nguồn vốn này, các hộ nghèo và đối tượng chính sách khác ở khu vực nông thôn, nhất là vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã phát triển sản xuất, kinh doanh vươn lên thoát nghèo, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần.
Không chỉ tại 2 ngân hàng trên, những năm qua, nhiều ngân hàng trên địa bàn tỉnh đã và đang triển khai hiệu quả nguồn vốn tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Hiện toàn tỉnh có 16 chi nhánh tổ chức tín dụng cấp 1, 12 chi nhánh cấp 2, 57 phòng giao dịch. Từ việc chủ động triển khai thực hiện cũng như các biện pháp đơn giản hóa thủ tục cho vay đã góp phần khơi thông nguồn vốn tín dụng lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, tính đến nay, dư nợ cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt hơn 21.600 tỷ đồng, chiếm 47,8% tổng dư nợ toàn tỉnh, với 109.087 khách hàng còn dư nợ.
Đặc biệt, để thúc đẩy tín dụng nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, ngày 10/12/2019, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 08, Nghị quyết số 15 ngày 17/7/2021 về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị quyết 08 về chính sách đặc thù khuyến khích đầu tư, phát triển hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2020 – 2025. ực hiện chương trình hỗ trợ lãi suất tín dụng theo Nghị quyết 08, đến nay, toàn tỉnh có 1.260 dự án được hỗ trợ lãi suất tín dụng với dư nợ trên 490 tỷ đồng.
Tính đến nay, dư nợ cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt hơn 21.600 tỷ đồng, chiếm 47,8% tổng dư nợ toàn tỉnh, với 109.087 khách hàng còn dư nợ.
Giúp người dân nông thôn vươn lên
Với sự chỉ đạo sát sao từ NHNN cùng sự chủ động, tích cực của các ngân hàng trên địa bàn tỉnh, nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng đã được đầu tư đến khắp các xã trong toàn tỉnh. Từ nguồn vốn tín dụng, nhiều hộ dân đã đầu tư để phát triển các mô hình hình như: trồng rừng, trồng cây ăn quả, chăn nuôi, kinh doanh dịch vụ… đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Đơn cử như gia đình anh Hoàng Đức Nghiêm, thôn Nà Bản, xã Hồng Thái, huyện Bình Gia - một trong những hộ tiêu biểu vươn lên từ nguồn vốn tín dụng. Anh Nghiêm chia sẻ: Gia đình tôi trước đây chỉ làm ruộng nên nguồn thu nhập không ổn định. Năm 2022, được cán bộ Agribank Bình Gia tuyên truyền về các chương trình cho vay của ngân hàng, gia đình tôi đã làm hồ sơ vay vốn theo Nghị quyết 08 với số tiền 200 triệu đồng để chăn nuôi trâu, bò vỗ béo. Để có kiến thức áp dụng vào thực tiễn, hằng năm, tôi đều chủ động tham dự các lớp tập huấn chuyển giao khoa học do xã phối hợp tổ chức. Nhờ đó, đàn trâu, bò của gia đình đều phát triển tốt, gia đình tôi luôn duy trì khoảng 7 - 10 con/lứa, bình quân mỗi năm, gia đình tôi xuất bán ra thị trường khoảng 200 con trâu, bò, đem lại thu nhập trên 150 triệu đồng.
Còn đối với gia đình chị Vi ị Sự, thôn Bãi Danh, xã Yên Sơn, huyện Hữu Lũng, nguồn vốn ưu đãi của NHCSXH đã giúp gia đình chị có thu nhập ổn định, vươn lên trở thành hộ khá của xã. Chị Sự cho biết: Những năm trước đây, điều kiện kinh tế gia đình tôi rất khó khăn, năm 2019, nhờ được sự tư vấn, hướng dẫn của Hội Liên hiệp Phụ nữ xã, tôi mạnh dạn vay 50 triệu đồng của Phòng Giao dịch NHCSXH huyện để đầu tư trồng, chăm sóc cây na dai. Từ đó diện tích na của gia đình tôi phát triển tốt, bình quân mỗi năm gia đình tôi có thu nhập 200 triệu đồng.
Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng đã góp phần tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông thôn và xây dựng nông thôn mới, giúp người dân từng bước nâng cao thu nhập, vươn lên làm giàu.
Ông Nông Xuân Tỉnh, Chủ tịch UBND xã Vũ Sơn, huyện Bắc Sơn cho biết: Hiện nay, dư nợ tín dụng trên địa bàn xã là trên 44,9 tỷ đồng, trong đó, dư nợ tín dụng tại NHCSXH trên 22 tỷ đồng và Agribank là 22,9 tỷ đồng. Từ nguồn vốn này, người dân trên địa bàn xã đã đầu tư phát triển các mô hình như: chăn nuôi, trồng rừng, trồng cây ăn quả, đào cảnh... Qua đó, thu nhập của người dân trên địa bàn xã từng bước được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm qua từng năm. Cụ thể hiện nay, thu nhập bình quân đầu người đạt 62 triệu đồng/người/năm, tăng 11 triệu đồng so với năm 2023.
Thời gian tới, NHNN tiếp tục chỉ đạo các ngân hàng triển khai có hiệu quả các chủ trương của Chính phủ, cấp ủy, chính quyền địa phương về phát triển, hỗ trợ nông nghiệp, nông thôn. Đặc biệt là chỉ đạo Agribank Lạng Sơn, Chi nhánh NHCSXH tỉnh phát huy vai trò chủ lực cùng với hệ thống ngân hàng trên địa bàn đẩy mạnh cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn, các chính sách tín dụng ưu đãi, giảm lãi suất cho vay, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng đối với các hộ dân, doanh nghiệp, hợp tác xã. Đồng thời, chỉ đạo các chi nhánh tổ chức tín dụng trên địa bàn triển khai các giải pháp mở rộng tín dụng, thực hiện hiệu quả chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo các nghị định của Chính phủ, nghị quyết của HĐND tỉnh ...
Có thể khẳng định, nguồn vốn tín dụng đã thực sự trở thành động lực giúp kinh tế nông nghiệp của tỉnh phát triển mạnh mẽ. Qua đó, không chỉ góp phần hiện đại hóa sản xuất mà còn giúp nhiều hộ dân vươn lên làm giàu, cải thiện đời sống. Thông qua đó, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh bình quân hằng năm từ 3% đến 5%; hết năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh còn 3,36%. Đồng thời, đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh. Đến nay, toàn tỉnh có 106/175 xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 27 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; 10 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu./.
HIỂU LAM
Nông nghiệp Quảng Trị chuyển mình mạnh mẽ trước thềm kỷ nguyên mới
Trong chiến lược phát triển của tỉnh Quảng Trị, nông nghiệp được xác định là 'bệ đỡ' của nền kinh tế. Vì vậy, trong những năm qua, ngành nông nghiệp đã được tỉnh quan tâm chỉ đạo và đã đạt được nhiều kết quả. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng bình quân 3,21%/năm, vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII đề ra.
Đập ngăn mặn sông Hiếu đưa vào sử dụng phục vụ đắc lực cho sản xuất nông nghiệp và dân sinh- Ảnh: Đ.T
Cơ cấu ngành nông nghiệp có sự dịch chuyển rõ nét theo hướng nâng cao giá trị, sinh thái xanh, tuần hoàn, ứng dụng công nghệ cao. Toàn tỉnh hiện có hơn 80 dự án phát triển nông nghiệp, trong đó có hơn 10 dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, lâm nghiệp, chế biến nông, lâm, thủy sản...
Trong lĩnh vực trồng trọt đaữu tiên lựa chọn các sản phẩm chủ lực, có lợi thế cạnh tranh để xây dựng thương hiệu, phát triển thị trường, xây dựng và tham gia vào chuỗi giá trị như lúa, dược liệu, hồ tiêu, cà phê, chanh leo... Năng suất, sản lượng và diện tích lúa chất lượng cao, diện tích lúa cánh đồng lớn, sản xuất lúa theo tiêu chuẩn tăng khá so với nhiệm kỳ trước. Sản lượng lương thực bình quân hằng năm ước đạt 29 vạn tấn, cao hơn so với mức bình quân nhiệm kỳ trước 1,5 vạn tấn.
Diện tích lúa chất lượng cao ước đạt trên 41.000 ha, đạt trên 80% diện tích gieo cấy, tăng 2.000 ha so với năm 2020. Diện tích sản xuất lúa cánh đồng lớn ước đạt 11.780 ha, tăng hơn 1.000 ha so với năm 2020. Diện tích cây trồng các loại sản xuất theo tiêu chuẩn đạt hơn 1.626 ha, tăng so với năm 2020 là 692 ha, trong đó diện tích sản xuất hữu cơ: 546,65 ha, sản xuất canh tác tự nhiên: 151,2 ha, sản xuất theo hướng hữu cơ: 529 ha, VietGap: 197,8 ha và sản xuất theo an toàn thực phẩm: 202 ha.
Chăn nuôi được phục hồi và phát triển. Việc ứng dụng đồng bộ các tiến bộ khoa học về giống, quy trình chăm sóc được đẩy mạnh, góp phần nâng cao chất lượng và giá trị của ngành. Đến nay, tỉ lệ lợn ngoại, lợn lai ngoại chiếm 95% tổng đàn lợn, tổng đàn lợn nuôi tại các trang trại chăn nuôi chiếm 57% tổng đàn lợn, tỉ lệ đàn bò lai Zebu chiếm trên 72% tổng đàn bò, tăng 16,2% so với năm 2020.
Phương thức chăn nuôi đang chuyển dần theo theo hướng trang trại công nghiệp, ứng dụng công nghệ cao và an toàn sinh học. Toàn tỉnh có 699 trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm, tăng 396 trang trại so với năm 2020. Cógần 50 dưạ́n lớn đầu tư vào lĩnh vực chăn nuôi với tổng nguồn vốn cam kết đầu tư hàng ngàn tỉ đồng.
Trong đó một số dự án đã đi vào hoạt động như Dự án trang trại chăn nuôi kết hợp nông nghiệp công nghệ cao trồng dược liệu tại Hướng Linh, Hướng Hóa với quy mô 12.000 con lợn thịt, Trang trại chăn nuôi công nghệ cao khép kín Vĩnh Tú với quy mô 24.000 con lợn thịt, 5.000 con lợn nái.
Nông dân Cam Lộ làm đất để trồng màu - Ảnh: Đ.T
Công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng được tổchức thực hiện tốt; đã huy động, lồng ghép các nguồn lực để phát triển trồng rừng gỗ lớn có chứng chỉ quản lý rừng bền vững; chuyển đổi cơ cấu giống lâm nghiệp theo hướng sử dụng giống nuôi cấy mô.
Đến nay, Quảng Trị trở thành một trong những tỉnh đứng đầu cả nước về trồng rừng gắn với chứng chỉ rừng FSC với gần 18.050 ha, tăng hơn 23% so với năm 2020. Diện tích trồng rừng hằng năm đều đạt và vượt kế hoạch đề ra, bình quân trồng mới rừng tập trung đạt hơn 10.130 ha, cao hơn bình quân nhiệm kỳ trước gần 3.000 ha. Tỉ lệ che phủ rừng trên địa bàn toàn tỉnh được duy trì 49% - 50%.
Nuôi trồng thủy sản tiếp tục phát triển về diện tích, sản lượng trên cơ sở đa dạng hóa đối tượng và phương thức nuôi, ứng dụng nuôi tôm công nghệ cao, đầu tư thâm canh. So với năm 2020, sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng gần 9%, diện tích nuôi trồng thủy sản hướng công nghệ cao tăng gấp 2 lần; nhiều mô hình nuôi thủy sản ứng dụng công nghệ mới, công nghệ sinh học được triển khai, nhân rộng và đem lại hiệu quả cao. Sản lượng thủy sản bình quân hằng năm ước đạt 37.000 tấn, tăng gần 7%.
Cơ sở hạ tầng nông nghiêp, nông thôn cũng như diện mạo và đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn không ngừng được cải thiện và nâng cao. Đến năm 2025 tỉ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới dự kiến đạt 75,8%, tỉ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu đạt 32% và có thêm 4 huyện đạt chuẩn nông thôn mới.
Để nông nghiệp Quảng Trị không chỉ hoàn thành tốt vai trò là “bệ đỡ” của nền kinh tế mà còn đóng góp vào tăng trưởng của nền kinh tế trong giai đoạn mới, nâng cao đời sống người dân, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của tỉnh cần tập trung thực hiện có hiệu quả các giải pháp sau đây:
Cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng phát triển hàng hóa, áp dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến và nông nghiệp sinh thái, hữu cơ để nâng cao chất lượng sản phẩm; phát triển kinh tế nông nghiệp tuần hoàn, các mô hình mới, xây dựng các vùng chuyên canh gắn với chỉ dẫn địa lý và thương hiệu sản phẩm.
Phát huy tiềm năng, lợi thế từng tiểu vùng sinh thái để định hình phát triển cây trồng, vật nuôi chủ lực, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mới, công nghệ cao về giống, sinh học, kỹ thuật sản xuất và thu hoạch, bảo quản, chế biến và kết nối thị trường tiêu thụ. Mở rộng diện tích các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao như sâm Bố Chính, hồ tiêu, cà phê, cao su, lúa chất lượng cao.
Phát triển chăn nuôi theo mô hình trang trại, áp dụng công nghệ cao trong kiểm soát dịch bệnh và nâng cao chất lượng giống. Tổ chức lại hoạt động khai thác hải sản theo hướng bền vững, hiệu quả. Tăng cường bảo vệ, tái sinh nguồn lợi thủy sản. Phát triển rừng trồng, rừng chứng chỉ FSC, thúc đẩy phát triển thị trường tín chỉ các bon.
Khuyến khích phát triển mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới để nâng cao hiệu quả sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Khuyến khích doanh nghiệp và các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, liên doanh, liên kết với các hợp tác xã, tạo dựng thương hiệu các sản phẩm OCOP, hình thành các chuỗi liên kết, tiêu thụ sản phẩm.
Mở rộng liên kết với các doanh nghiệp lớn để tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp sạch, hữu cơ để tiếp cận thị trường quốc tế thông qua sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP. Phát triển kinh tế nông thôn gắn với chương trình nông thôn mới. Tăng cường đầu tư vào hạ tầng nông thôn, đặc biệt là hệ thống thủy lợi, giao thông nội đồng.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về nông nghiệp, nông thôn. Rà soát, ban hành bổ sung, điều chỉnh các cơ chế chính sách để tháo gỡ các điểm nghẽn, tập trung nguồn lực đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng, thúc đẩy sản xuất hàng hóa quy mô lớn tập trung; nông nghiệp chất lượng cao, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ; đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong nông nghiệp; tháo gỡ khó khăn về nguồn lực.
Thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ tạo đột phá trong nâng cao năng suất, chất lượng, phát triển kinh tế tuần hoàn, thương mại điện tử, chuyển đổi số, kiểm soát chất lượng, truy xuất nguồn gốc. Thực hiện chuyển đổi số toàn diện, hoàn thiện cơ sở dữ liệu ngành nông nghiệp, nông thôn kết nối với dữ liệu quốc gia và chuyên ngành.
Đổi mới toàn diện tổ chức sản xuất, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn đáp ứng nhu cầu tái cơ cấu ngành. Từng bước chuyển đổi tư duy, hình thành đội ngũ nông dân chuyên nghiệp, có đủ trình độ, kỹ năng nghề, nhất là lực lượng lao động trẻ ở nông thôn nhằm chuyển đổi mạnh mẽ tư duy sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp.
Với những tiềm năng, thế mạnh về điều kiện tự nhiên, Quảng Trị có nhiều lợi thế để phát triển nền nông nghiệp đa dạng, hiện đại, bền vững và có khả năng cạnh tranh cao. Việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, ứng dụng công nghệ cao, xây dựng chuỗi giá trị và tăng cường liên kết sẽ giúp nền nông nghiệp của tỉnh phát triển mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống của người dân.
Lê Văn Úy
Phát triển trang trại gắn với nền kinh tế xanh
Những năm qua, các trang trại của Hà Nội đã dần chuyển đổi sang mô hình sản xuất, kinh doanh xanh - sạch. Đây không còn là mục tiêu mà là hướng chuyển đổi bắt buộc để các trang trại nông nghiệp đáp ứng nhu cầu phát triển của thị trường.
Hà Nội đặt ra kế hoạch đến năm 2025, xanh hóa sản xuất với tỷ lệ gia tăng các sản phẩm được dán nhãn xanh, sinh thái hằng năm đạt 15%/năm.
Chăm sóc đàn gà tại Trang trại Chăn nuôi gà và lợn rừng ở xã Minh Phú (huyện Sóc Sơn). Ảnh: Thái Anh
Sản xuất xanh là điều kiện phát triển
Hướng tới những sản phẩm xanh, những năm qua, Trang trại Chăn nuôi gà và lợn rừng của gia đình chị Nguyễn Thị Thu Thoan (xã Minh Phú, huyện Sóc Sơn) là một trong những mô hình tuần hoàn, đem lại hiệu quả cao.
Chị Thoan chia sẻ, ngay từ khi bắt tay triển khai xây dựng trang trại, gia đình đã hướng tới sản xuất an toàn, xanh, thân thiện với môi trường. Theo đó, trang trại sử dụng đệm lót sinh học làm từ nguồn phế phẩm chăn nuôi giúp đàn vật nuôi ít bị bệnh, khu vực chuồng trại giảm thiểu mùi hôi. Sau đó, đệm lót sinh học được tận dụng cùng với nguồn chất thải để làm phân bón hữu cơ. Thức ăn của gà là thực vật trộn men vi sinh, không sử dụng kháng sinh, chất tăng trọng…
Với quy trình sản xuất đó, năm 2021, sản phẩm gà vi sinh Thu Thoan đã được cấp chứng nhận sản phẩm OCOP 4 sao. Trang trại cũng đã được cấp giấy chứng nhận sản phẩm phù hợp Tiêu chuẩn Việt Nam về nông nghiệp hữu cơ.
Tương tự, hướng tới phát triển du lịch sinh thái, đáp ứng đúng yêu cầu về tiêu chí xanh, môi trường sạch, anh Nguyễn Tiến Dũng, ở thôn Nội Đồng, xã Đại Thịnh (huyện Mê Linh) phát triển trang trại hoa lan với hệ thống chăm sóc hoa lan khép kín. Các công đoạn như tưới nước, nhân giống, tạo thế hoa đều được thực hiện trong nhà màng với tiêu chuẩn cao, bảo đảm môi trường. Trồng hoa sẽ yêu cầu sử dụng các chế phẩm sinh học, nhưng sử dụng chế phẩm hữu cơ, thân thiện môi trường là yêu cầu trang trại hướng tới. Ngoài hoa lan, trang trại còn phát triển mô hình trồng rau hữu cơ gắn với phát triển du lịch.
Điển hình trong sản xuất xanh, sản phẩm hữu cơ phải kể đến mô hình sản xuất lúa, rau an toàn của Hợp tác xã Đồng Phú (huyện Chương Mỹ). Từ dự án Pamci do Trường Đại học Tokyo Nhật Bản hỗ trợ cho nhóm nông dân thôn Thượng Phúc, xã Đồng Phú, đến năm 2023, Hợp tác xã Nông nghiệp hữu cơ Đồng Phú (huyện Chương Mỹ) đã triển khai sản xuất hữu cơ trên diện tích 65ha/vụ. Quá trình canh tác không có sự tham gia của chất hóa học hay bất kỳ một loại phân hóa học nào ngoài phân chuồng ủ hoai mục. Toàn bộ quá trình sản xuất được ghi chép đầy đủ và được giám sát qua hệ thống camera đồng ruộng.
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội Nguyễn Xuân Đại khẳng định, ngành xác định muốn nâng cao hiệu quả, giá trị sản xuất, giảm phát thải khí nhà kính, bắt buộc phải làm nông nghiệp xanh. Theo đó, những năm qua nhiều mô hình sản xuất xanh, hữu cơ đã được hình thành. Đáng lưu ý, số lượng trang trại mới thành lập sau này đều đi theo hướng xanh, sạch, an toàn. Theo thống kê hiện có khoảng 300 hợp tác xã nông nghiệp, trang trại sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ; 117 hợp tác xã nông nghiệp và 366 trang trại ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao…
Còn những khó khăn
Thực tế, sản xuất xanh không còn là xu hướng mà đã trở thành điều kiện bắt buộc trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, phát triển nông nghiệp xanh trong giai đoạn hiện nay còn nhiều khó khăn khi chính những người sản xuất vẫn chưa hiểu hết về nông nghiệp xanh. Ngoài ra, quy mô sản xuất xanh, thị trường xanh vẫn chưa đáp ứng được sự kết nối, liên thông để hình thành nền kinh tế nông nghiệp xanh.
Theo Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Mạnh Quyền, các trang trại hiện nay cần gắn chặt với ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại vào sản xuất. Bên cạnh đó, cần xây dựng được các chuỗi liên kết sản xuất ngay trong các trang trại và giữa các trang trại với trang trại, giữa nhà phấn phối, kênh phân phối.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong (chuyên gia kinh tế), trong bối cảnh hiện nay phải tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức về tăng trưởng xanh; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học ứng dụng công nghệ xanh, đặc biệt trong nông nghiệp. Với điều kiện phát triển trong lòng đô thị, thì nông nghiệp xanh là hướng đi bắt buộc để phù hợp với quy hoạch cũng như điều kiện phát triển của Hà Nội.
Hướng tới nền nông nghiệp xanh, Hà Nội định hướng với các mô hình nông nghiệp nói chung và kinh tế trang trại nói riêng phải chuyển đổi phương thức canh tác, đẩy mạnh chuyển đổi mô hình trồng trọt từ vô cơ sang hữu cơ; xây dựng các mô hình sản xuất tiết kiệm nước, đưa cơ giới hóa vào sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng để nâng cao hiệu quả kinh tế và nâng cao hiệu quả sử dụng đất; hướng dẫn các cơ sở chăn nuôi, xử lý chất thải trong chăn nuôi, nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Ngoài ra, Hà Nội hướng tới chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao gắn với các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn, bảo đảm an toàn thực phẩm.
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Xuân Đại khẳng định, ngành sẽ cùng với các địa phương rà soát các quy hoạch, hỗ trợ các trang trại thuê đất, chuyển giao khoa học, công nghệ. Ngành cũng kiến nghị với các địa phương cùng đồng hành xây dựng chuyển đổi số trong sản xuất để hỗ trợ các trang trại phát trên nền tảng số để đẩy mạnh tiêu thụ.
Đỗ Minh
Hiếu Giang tổng hợp