Nông dân trồng khóm phấn khởi khi giá khóm ở mức cao
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang
Nhiều tháng qua, giá khóm ở huyện Tân Phước (tỉnh Tiền Giang) luôn giữ ở mức cao, nông dân trồng khóm rất phấn khởi.
Thu hoạch khóm tại huyện Tân Phước.
Theo các hộ nông dân trồng khóm ở huyện Tân Phước, giá khóm nhiều tháng qua luôn giữ ổn định ở mức từ 9.000 - 11.000 đồng/kg. Với mức giá này, nông dân trồng khóm có được thu nhập khá.
Một số thương lái thu mua khóm trên địa bàn huyện cho biết: Khóm hiện có giá giao động từ 11.000 - 13.000 đồng/kg và ổn định trong nhiều tháng qua. Nếu mức giá này tiếp tục được giữ ổn định thì mỗi ha khóm thu hoạch cho đến khi trồng lại vụ mới, nông dân có thể thu được lợi nhuận trên 200 triệu đồng/ha.
Theo thống kê của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tân Phước, trên địa bàn huyện có tổng cộng hơn 15.400 ha khóm.
Thanh Lâm
Cây giống sầu riêng hút hàng
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Thời gian gần đây, giá sầu riêng (SR) giữ mức cao, nhiều nhà vườn chuyển đổi mô hình kinh tế sang trồng SR. Cùng với đó, cây giống SR hiện được xuất khẩu sang nhiều nước lân cận như: Lào, Campuchia... góp phần làm cho loại cây giống này hút hàng, giá tăng.
Nắm bắt nhu cầu, một số hộ dân tại huyện Chợ Lách (tỉnh Bến Tre) đến huyện Long Hồ và Mang Thít (tỉnh Vĩnh Long) thuê đất ruộng với giá 4- 5 triệu đồng/công để ươm cây SR giống. Hiện, giá cây chưa ghép là 40.000 đ/cây. Sau 2 năm ươm, trừ chi phí, nông dân thu lãi trên 60 triệu đồng/công.
Các hộ thuê đất ươm SR cho biết, giá các loại cây giống SR hạt lép (như Ri 6, monthong...) loại cây ghép được 2 cơi lá giá khoảng 70.000-80.000 đồng/cây, loại 3 cơi lá giá 100.000-120.000 đồng/cây. Đây là mức giá cao nhất trong khoảng 3 năm qua.
NGUYỄN XUÂN
Hoà Bình: Nông dân Mường Động hợp tác trồng thanh long
Nguồn tin: Báo Hoà Bình
Về Mường Động - Kim Bôi (Hoà Bình), chúng tôi đến thăm tổ hợp tác (THT) cây thanh long Đông Bắc, xóm Đồng Nang, xã Đông Bắc. Đây là một trong những THT của nông dân địa phương đang phát huy hiệu quả với việc liên kết trồng và tiêu thụ thanh long. Toàn bộ diện tích trồng thanh long 4,5ha được chăm sóc theo tiêu chuẩn VietGAP.
Ông Bùi Văn Bình, xóm Đồng Nang, xã Đông Bắc (Kim Bôi) chăm sóc vườn thanh long.
Là người tiên phong đưa cây thanh long về trồng trên đất Đông Bắc, ông Bùi Văn Bình, xóm Đồng Nang tích lũy được nhiều kinh nghiệm, kỹ thuật chăm sóc tốt cho cây trồng, cũng vì vậy ông được bầu là Tổ trưởng THT cây thanh long Đông Bắc. Ông Bình chia sẻ: Gia đình trồng thanh long đã 10 năm nay. Trước đó, trên những diện tích trồng lúa kém hiệu quả, gia đình chuyển sang trồng ngô, mía nhưng năng suất, chất lượng không đạt yêu cầu. Trăn trở tìm hướng đi mới cho diện tích đất sản xuất, năm 2004 tôi về huyện Lạc Thủy tham quan, học hỏi kỹ thuật canh tác cây thanh long, sau đó mua giống về trồng thử nghiệm. Trước khi trồng thanh long phải chuẩn bị cây trụ bê tông, được chôn với khoảng cách khoảng 3m x 3m. Cây thanh long sẽ được trồng vào tháng 11 - 12. Sau khoảng 18 tháng sẽ cho quả bói. Đến năm thứ 3, cây bắt đầu cho thu hoạch ổn định. Thanh long thu hoạch từ tháng 6 - 12 hàng năm, nếu chăm sóc tốt, mỗi tháng cây sẽ cho thu hoạch 2 lứa.
Cũng theo ông Bình, cây thanh long hay bị bệnh thối cành, vì vậy khi có hiện tượng phải tiến hành cắt bỏ ngay. Quan trọng nhất khi trồng theo hướng VietGAP, người trồng sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật phải đảm bảo thời gian cách ly theo đúng quy định trước thu hoạch từ 10 - 15 ngày. Mỗi năm, với 500 gốc thanh long, gia đình ông Bình thu hoạch 10 tấn quả. Bởi áp dụng theo quy trình chăm sóc an toàn nên quả luôn đảm bảo độ ngọt, trọng lượng, được các tiểu thương tới tận vườn thu mua. Bình quân mỗi năm, gia đình ông thu nhập từ 120 - 150 triệu đồng sau khi đã trừ các chi phí.
Cũng là một trong những thành viên có thu nhập ổn định từ khi tham gia THT cây thanh long Đông Bắc, hiện gia đình ông Bùi Văn Tình, xóm Đồng Nang sở hữu vườn thanh long 0,5ha với khoảng 700 gốc. Ông Tình cho biết: Để cây thanh long phát triển tốt, gia đình phát cỏ và bón phân định kỳ 4 lần/năm. Phân bón được sử dụng là các loại có nguồn gốc hữu cơ. So với cây trồng khác, thanh long có thời gian thu hoạch dài nên dễ tiêu thụ. Những quả nặng trên 4 lạng, chất lượng tốt, mẫu mã đẹp sẽ được tiểu thương ở Hải Dương và Hà Nội đến tận nơi thu mua với giá 20.000 đồng/kg. Mỗi năm, từ bán thanh long gia đình thu về khoảng 200 triệu đồng.
Sau nhiều năm, thấy hiệu quả kinh tế từ chuyển đổi cơ cấu cây trồng của gia đình ông Bình, ông Tình, nhiều hộ xóm Đồng Nang đã cải tạo vườn, học hỏi kinh nghiệm, hợp tác, liên kết trồng và tiêu thụ sản phẩm. Đến nay, bước đầu cây thanh long mang lại hiệu quả kinh tế cho 15 hộ thành viên của THT. Theo thống kê, diện tích thanh long của xã Đông Bắc có khoảng 10ha, tập trung ở một số xóm: Đồng Nang, Ve, Đầm Định, Trang …
Đồng chí Nguyễn Thị Minh Anh, Phó Trưởng phòng NN&PTNT huyện Kim Bôi cho biết: Thanh long là một trong những loại cây trồng huyện định hướng để phát triển mở rộng. Loại cây này không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân mà còn phù hợp với điều kiện khí hậu địa phương. Toàn huyện Kim Bôi hiện có gần 30ha trồng thanh long, trong đó xã Đông Bắc khoảng 10ha. Để phát triển và nhân rộng diện tích trồng thanh long, huyện tiếp tục định hướng hộ sản xuất nhỏ lẻ tại các xóm, xã liên kết thành lập HTX, sản xuất theo chuỗi giá trị; hỗ trợ vay vốn, chứng nhận quy trình sản xuất nông nghiệp tốt VietGAP, GlobalGAP; tập huấn khoa học kỹ thuật trồng và chăm sóc cây thanh long… Đồng thời, hỗ trợ các hộ sản xuất, THT quảng bá, kết nối tiêu thụ sản phẩm thông qua tham gia các hội chợ do huyện, tỉnh tổ chức...
Thu Hằng
Xây dựng vùng nguyên liệu chanh dây xuất khẩu
Nguồn tin: Báo Đắk Lắk
Sáng 17/9, Tập đoàn Vạn Hòa (TP. Hồ Chí Minh) đã tổ chức Hội thảo xây dựng chuỗi giá trị, phát triển vùng trồng, liên kết và bao tiêu sản phẩm chanh dây Hoàng Kim VN77 tại địa bàn Đắk Lắk.
Tham dự có Giám đốc Sở NN-PTNT Nguyễn Hoài Dương; đại diện Phòng NN-PTNT/Kinh tế các địa phương; các doanh nghiệp, HTX trong và ngoài tỉnh.
Giống chanh dây Hoàng Kim VN77 hương mật ong là giống cây khá mới, đã được Tập đoàn Vạn Hòa công bố lưu hành theo quy định. Sau quá trình trồng thử nghiệm khoảng 80 ha ở nhiều địa phương có khí hậu và thổ nhưỡng khác nhau như Đắk Lắk, Đắk Nông, Tiền Giang, Bình Thuận, Tây Ninh… cho thấy giống chanh dây Hoàng Kim VN77 có khả năng thích nghi và kháng sâu bệnh khá tốt, đặc biệt ở các vùng với nhiệt độ khí hậu có độ ẩm cao và trồng được với tất cả các vùng miền như Tây Nguyên, Đồng bằng Sông Cửu Long…
Các đại biểu tham dự hội thảo
Đối với các vườn đã có thu trái ở Đắk Lắk, Tiền Giang, đạt sản lượng trung bình 30 tấn/ha, Tập đoàn Vạn Hòa bao tiêu với giá hiện nay là 20.000 đồng/kg đối với hàng xuất khẩu; lợi nhuận mang lại khoảng 200 – 250 triệu đồng/ha.
Ngoài việc thu hoạch trái tươi để xuất khẩu và tiêu thụ trong nước, chanh dây Hoàng Kim còn có thể được chế biến sâu thành nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế cao như mứt, si rô, nước ép…
Từ kết quả đạt được, Tập đoàn Vạn Hòa sẽ mở rộng diện tích với quy mô từ 5.000 - 10.000 ha để phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu và chế biến sâu sản phẩm sau thu hoạch. Tập đoàn Vạn Hòa cũng cam kết với những đơn vị, cá nhân hợp tác sản xuất với tập đoàn sẽ được hưởng các ưu đãi tốt nhất về giống, kỹ thuật cũng như việc bảo đảm bao tiêu đầu ra sản phẩm cho người trồng…
Tại hội thảo, đại diện các doanh nghiệp, HTX, hộ nông dân cho rằng, hiện nay nhiều nông dân đang sử dụng giống chanh dây vàng nhưng nguồn gốc giống không rõ ràng, hay bị sâu bệnh trong quá trình phát triển nên năng suất kém. Mặt khác, đầu ra sản phẩm chưa ổn định, việc liên kết với các doanh nghiệp còn lỏng lẻo dẫn đến khi giá thị trường lên xuống thì việc bao tiêu sản phẩm không được thực hiện. Qua hội thảo, các đại biểu mong muốn phía Tập đoàn Vạn Hòa có sự đồng hành, hỗ trợ với người trồng trong suốt quá trình xây dựng vùng nguyên liệu từ khâu giống, kỹ thuật, bao tiêu sản phẩm…
Phát biểu tại hội thảo, Giám đốc Sở NN-PTNT Nguyễn Hoài Dương đề nghị Tập đoàn Vạn Hòa tiếp tục phối hợp với Sở NN-PTNT, Phòng NN-PTNT/Kinh tế và chính quyền các địa phương để thúc đẩy phát triển bền vững ngành hàng chanh dây; thiết lập các tiêu chuẩn về kiểm tra chất lượng sản phẩm để bảo đảm tiêu chuẩn xuất khẩu và an toàn vệ sinh thực phẩm.
Đồng thời, xây dựng hệ thống hỗ trợ, đào tạo, tập huấn cho người nông dân về kỹ thuật sản xuất và quản lý nông nghiệp hiệu quả; xây dựng các mô hình liên kết ứng dụng công nghệ; bảo đảm bao tiêu sản phẩm cho người dân như cam kết…
Minh Thuận
Quảng Ninh: Nâng tầm cây chè Đường Hoa
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Quảng Ninh
Từ sản phẩm chủ yếu xuất khẩu thô, chè Đường Hoa (huyện Hải Hà) giờ đây đang được Công ty TNHH Đầu tư xây dựng và thương mại Việt Tú nâng tầm trở thành tinh hoa, qua đó nâng cao giá trị cho cây chè, góp phần giải quyết việc làm cho lao động địa phương, thúc đẩy KT-XH phát triển.
Xuất phát điểm từ một người buôn trà, bà Hà Ngọc Quỳnh, Giám đốc Công ty TNHH Thuấn Quỳnh, hiểu những búp chè trồng trên đất đồi Hải Hà đặc biệt thế nào. Với mong muốn phát triển vùng chè, năm 2000 bà Quỳnh định cư tại huyện Hải Hà, cùng với lãnh đạo Nông trường chè Đường Hoa đưa các giống chè mới về canh tác.
Bản thân bà Quỳnh nhiều năm phát triển diện tích trồng chè của riêng mình, hỗ trợ tiền cho bà con trồng hàng trăm ha chè Ngọc Thuý, mua chè của người trồng toàn huyện để tiêu thụ. Từng có giai đoạn dài xưởng chè Thuấn Quỳnh đưa phần lớn sản lượng chè Hải Hà xuất ra thị trường Đài Loan. Bà Quỳnh cũng là người khởi xướng xu hướng trồng chè hữu cơ và biến những đồi chè xanh ngát trở thành sản phẩm du lịch trên địa bàn.
Tiếp nối tâm huyết đó của bà Quỳnh, chị Phạm Thị Thanh Hương (con gái bà Quỳnh) CEO Công ty TNHH Đầu tư xây dựng và thương mại Việt Tú đã quyết định nâng tầm cây chè với thương hiệu Trà Việt Tú. Chè Hải Hà được trồng hữu cơ, phát triển nhờ hấp thụ nguồn dưỡng khí từ thổ nhưỡng, khí hậu vùng địa lý đặc biệt lưng tựa núi, mặt hướng biển. Đồi chè không dựng hệ thống tưới tiêu, mà để nước mưa tự nhiên tưới tắm cho cây chè. Nhờ đó, chè mang một hương vị riêng biệt, khác hẳn với những giống chè được trồng tại các vùng khác trên toàn quốc, cũng như các sản phẩm chè đến từ các quốc gia khác.
Năm 2020, chị Hương lặn lội tìm đến các viện nghiên cứu thương hiệu trà nổi tiếng của nước ngoài để phân tích mẫu và tham khảo quy trình trồng chè hữu cơ tiêu chuẩn Nhật, châu Âu và Mỹ. Cùng với kinh nghiệm lâu năm của mẹ, chị Hương đã mời chuyên gia nước ngoài về phối hợp, đồng thời dành thời gian tìm tòi, nghiên cứu sáng tạo công thức chế biến chè. Bằng tâm huyết, đam mê và nỗ lực, giờ đây trên đồi chè có diện tích 15ha, một quy trình sản xuất hoàn toàn hữu cơ, được giám định thường xuyên từ mẫu đất, mẫu nước, trồng và thu hái thuận tự nhiên đã được xây dựng và áp dụng, đem lại kết quả là một vùng chè nguyên liệu đảm bảo các tiêu chuẩn khắt khe nhất của Đài Loan và Nhật Bản.
Từ vùng sản xuất này, chè còn được chế biến thành nhiều dòng cao cấp khác nhau như hồng trà, lục trà, ô long... đáp ứng thị hiếu của nhiều thị trường khó tính về trà. Trở thành dấu ấn và định vị thương hiệu riêng cho chè Đường Hoa khi so sánh với chè Thái Nguyên, chè Tân Cương hay chè Lâm Đồng…
Sản phẩm trà Việt Tú được giới thiệu tại Hội chợ Trung Quốc - Nam Á và Hội chợ Xuất nhập khẩu Côn Minh (Trung Quốc) năm 2024.
Không chỉ có gian hàng thử trà, giới thiệu trà và trải nghiệm văn hoá uống trà Việt tại nhiều địa phương trong cả nước, trà Việt Tú hiện có gần 20 sản phẩm khác biệt với giá bán từ vài triệu đồng đến vài chục triệu đồng/kg, có loại trà giá trên 100 triệu đồng/kg. Hương vị trà tự nhiên, thuần khiết, đậm đà khác biệt, Có thể kể đến như: Lục trà Đường Hoa, Ô long Đường Hoa, Bạch mẫu đơn Đường Hoa, Bích xuân loan Đường Hoa, Mỹ nhân Đường Hoa, Hồng trà Đường Hoa, Hồng mật trà Đường Hoa… Đơn vị cũng tập trung xây dựng câu chuyện thương hiệu về một sản phẩm chè biển - đặc trưng không nơi nào có về vùng chè Đường Hoa, nơi có núi, có biển, khí hậu thổ nhưỡng riêng biệt, tạo nên hương vị độc đáo và riêng có.
Chị Phạm Thị Thanh Hương, CEO Công ty TNHH Đầu tư xây dựng và thương mại Việt Tú, chia sẻ: Với mong muốn nâng tầm trà Việt, chia sẻ tinh hoa và văn hóa thưởng trà để kết nối, chúng tôi sẽ tiếp tục đưa chè Đường Hoa đến với thị trường thế giới. Bên cạnh mở rộng không gian thưởng trà tại nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước, nhất là tại điểm, khu vực thu hút khách du lịch, chúng tôi sẽ tiếp tục tích cực tham gia hội chợ, đẩy mạnh quảng bá, kết nối thị trường xuất khẩu. Chúng tôi tin rằng, trà Việt Tú nói riêng, chè Đường Hoa nói chung sẽ tiếp tục khẳng định vị thế trên thị trường.
Minh Yến
Mưa dầm, giá cắt lúa lên mức 400.000 đồng/công
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Những ngày qua, do ảnh hưởng mưa dầm kèm theo giông lốc đã làm nhiều ruộng lúa Hè thu cuối vụ đang trong giai đoạn thu hoạch trên địa bàn huyện Long Mỹ (tỉnh Hậu Giang) bị đổ ngã làm cho công việc cắt lúa gặp rất nhiều khó khăn, dẫn đến tình trạng ùn ứ công cắt và tiền thuê máy cắt cũng ở mức cao.
Nhiều ruộng lúa Hè thu trong giai đoạn thu hoạch trên địa bàn huyện Long Mỹ bị đổ ngã, mướn máy cắt với giá cao.
Cụ thể, đối với những ruộng có lúa bị đổ ngã thì giá công cắt đang ở mức 400.000 đồng/công (một công 1.300m2), riêng ruộng nào có lúa còn đứng thì mức giá là 350.000 đồng/công, tăng 50.000 đồng/công so với thời điểm trước bão số 3. Ngoài tiền thuê công cắt ở mức cao thì những ruộng lúa bị đổ ngã năng suất chỉ dao động từ 500-600kg/công, giảm khoảng 100kg/công so với ruộng có lúa không đổ ngã. Nguyên nhân giảm là do quá trình thu hoạch, máy cắt không thể thu hoạch hết những chỗ đổ ngã mà chỉ cắt được một phần nằm phía trên. Bên cạnh đó, một điều đáng quan tâm khác là giá thu mua lúa tươi trong những ngày qua cũng giảm bình quân từ 100-200 đồng/kg so với giá mà bà con đã nhận tiền cọc với “cò” lúa hoặc thương lái trước đó khoảng 7-10 ngày. Hiện tại, đối với giống lúa Đài Thơm 8 (cắt máy) được thương lái cân lúa tươi tại ruộng với mức từ 8.000-8.100 đồng/kg.
Qua rà soát mới đây của ngành nông nghiệp tỉnh, hiện nông dân trong tỉnh đã thu hoạch được hơn 72.000ha trong tổng số gần 74.200ha lúa Hè thu đã xuống giống, ước năng suất bình quân đạt 6,19 tấn/ha. Hiện diện tích lúa Hè thu chưa thu hoạch chỉ còn trên địa bàn huyện Long Mỹ, người dân đang tranh thủ đẩy nhanh tiến độ cắt lúa khi thời tiết thuận lợi nhằm giảm thiệt hại về năng suất, nhất là ở những ruộng bị đổ ngã.
HỮU PHƯỚC
Yên Bái: Xót xa vùng dâu Việt Thành
Nguồn tin: Báo Yên Bái
Cơn bão số 3 đã biến vùng dâu tằm ở xã Việt Thành (Yên Bái) - nơi được coi là “thủ phủ” nghề trồng dâu, nuôi tằm của huyện Trấn Yên trở nên tan hoang, xơ xác. Nỗi xót xa không thể kể hết của những người trồng dâu, nuôi tằm. Người dân sẽ rất khó để khắc phục được diện tích dâu tằm này nếu không có sự hỗ trợ của Nhà nước và các sở, ngành, địa phương.
Gia đình Vũ Thị Lan, thôn Lan Đình, xã Việt Thành có 1,2 mẫu dâu, đang nuôi 3 nong tằm, hứa hẹn sẽ đem lại nguồn thu khoảng 6 triệu đồng cho gia đình. Vậy mà đang chuẩn bị vào kén lứa đầu tiên này thì thiên tai ập xuống, cả 3 nong tằm bị ngập trong nước, phải đổ bỏ. Mặc dù nước lũ đã rút nhưng ruộng dâu vẫn bám đầy bùn nhão, nhiều cây dâu chết rũ vì ngâm nước lâu ngày.
Cùng cảnh với gia đình chị Lan, gia đình ông Trần Anh Đức cùng thôn, có 1,5 mẫu dâu, với 6 nong tằm/lứa. Những ngày đầu cơn bão số 3, thấy nước lên, gia đình ông đã chuẩn bị tích trữ lượng lớn lá dâu cho tằm ăn và tưởng chỉ đến thế. Vạy mà chỉ sau một đêm mưa xối, nước lũ dâng cao, cả 6 nong tằm cũng đều đã hỏng. Hôm nay, ông phải đem ra ruộng đổ. Ông Đức não nề: "Diện tích dâu tằm đang xanh tốt, vụ tằm này mới là lứa đầu thì nước tràn về nhấn chìm hết các ruộng dâu. Bị chìm trong nước lâu ngày, phù sa bồi lấp nên toàn bộ diện tích dâu của gia đình xuất hiện lá úa, ngọn thối nhũn, khả năng cao cây dâu sẽ chết. Hiện gia đình tôi chưa biết tính sao”.
Nhiều diện tích dâu tằm tại xã Việt Thành, huyện Trấn Yên đã chết khô do ngập trong bùn nước lâu ngày.
Cơn bão số 3 đã làm vỡ đê sông Hồng, nước tràn vào đã nhấn chìn toàn bộ 30 ha cây dâu tằm của Hợp tác xã Dâu tằm tại thôn Trúc Đình, xã Việt Thành. Cả 11 hộ của hợp tác xã này chỉ còn lại được chút kén từ những nong tằm đợt 1 chín sớm. Diện tích dâu không còn, kéo theo việc ươm nuôi tằm con cũng bị gián đoạn, ảnh hưởng không nhỏ đến thu nhập của các thành viên Hợp tác xã.
Xã Việt Thành hiện có trên 220ha dâu. Đây là địa phương có diện tích trồng dâu nuôi tằm lớn nhất của huyện Trấn Yên. Do ảnh hưởng của bão số 3, 100% diện tích dâu của xã bị ngập chìm trong nước. Đến nay, nhiều diện tích dâu nước đã rút song bị hỏng lá, bùn đất bám đầy gốc, làm cây dâu bị thối ngọn, trên 50% diện tích khó có khả năng hồi phục, cần phải trồng lại mới.
Theo ông Đỗ Minh Tùng - Phó Chủ tịch UBND xã Việt Thành, địa phương sẽ tiếp tục phối hợp với các cơ quan chức năng, ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn kiểm tra, đánh giá mức độ thiệt hại. Từ đó, đưa ra giải pháp phù hợp. Đối với diện tích trên cao mà cứu được thì áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăm sóc để cây dâu phục hồi. Đối với những diện tích phải trồng lại cần phải xem xét yếu tố cải tạo đất, nếu nhiều cát bồi lắng sẽ phải đào đi. Nói chung, để ổn định được vùng dâu như hiện tại là rất khó khăn, nhưng Việt Thành quyết tâm giữ vững làng nghề trồng dâu nuôi tằm.
Việt Thành có thêm những lý do để giữ vững vùng dâu. Đó là sự quan tâm, lo lắng sát sao của các đồng chí lãnh đạo trung ương, tỉnh, huyện cho vùng dâu Việt Thành. Đặc biệt, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên- Môi trường Đỗ Đức Duy đã trực tiếp lên thị sát cánh đồng dâu và có những chỉ đạo rất cụ thể về phương án khắc phục, trong đó có nhấn mạnh chính sách đặc thù để khôi phục lại diện tích dâu.
Bão số 3 đã làm trên 750 ha dâu bị ảnh hưởng, chiếm ¾ diện tích dâu của toàn huyện, trong đó vùng trọng điểm dâu Việt Thành bị thiệt hại nặng nề nhất. Trước những mất mát do thiên tai, người dân trồng dâu nuôi tằm Trấn Yên rất cần sự quan tâm của Nhà nước, các sở, ngành, địa phương có những chính sách hỗ trợ cải tạo đất, cây giống để bà con trồng lại dể khôi phục diện tích, cũng là giữ một sản phẩm nông nghiệp chủ lực của huyện Trấn Yên.
Minh Huyền - Mạnh Cường
Vĩnh Long: Quản lý bệnh thối gốc và thối củ trên khoai lang
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Thời gian gần đây, bệnh thối gốc và thối củ trên khoai lang (KL) xuất hiện nhiều hơn, gây thiệt hại nặng đến năng suất và lợi ích kinh tế của người dân Vĩnh Long. Để quản lý tốt bệnh này, ngành chức năng đã thực hiện mô hình “Quản lý bệnh thối gốc và thối củ trên cây KL ở địa bàn huyện Bình Tân” nhằm giúp nông dân quản lý bệnh một cách an toàn, hiệu quả, tạo ra sản phẩm an toàn đáp ứng tốt nhu cầu của các thị trường khó tính hiện nay và thân thiện với môi trường.
Thời gian qua, việc thâm canh tăng vụ trên cây KL đã khiến tình hình dịch hại xuất hiện và gây hại ngày càng nhiều. Đặc biệt, thời gian gần đây, bệnh thối gốc và thối củ trên cây KL xuất hiện nhiều hơn, gây thiệt hại nặng đến năng suất và lợi ích kinh tế của người dân.
Theo kết quả giám định bước đầu của Trường ĐH Cần Thơ, bệnh thối gốc và thối củ KL tại huyện Bình Tân do nấm thuộc chi Diaporthe gây ra, gồm 2 loài Diaporthe batatas và Diaporthe destruens.
Bệnh xuất hiện và gây hại nặng ở các vùng chuyên canh từ 2-3 vụ KL liên tục/năm, bệnh thường xuất hiện ở giai đoạn cây KL được 2 tháng trở về sau; sử dụng nguồn giống không đảm bảo chất lượng; ruộng trồng mật độ dày; sử dụng nhiều phân bón hóa học; bệnh thường gây hại nặng vào mùa mưa và chân ruộng thường xuyên bị ngập nước.
Nhằm tìm ra giải pháp quản lý hiệu quả đối tượng dịch hại mới này, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất cho nông dân, Chi cục Trồng trọt và BVTV (Sở Nông nghiệp-PTNT) đã triển khai mô hình “Quản lý bệnh thối gốc và thối củ trên cây KL”.
Được thực hiện trong 6 tháng, ngay từ đầu vụ, mô hình đã áp dụng đồng bộ quy trình quản lý tổng hợp như: biện pháp canh tác, luân canh, giống khỏe, trồng với mật độ thưa, tăng cường sử dụng phân hữu cơ và các chế phẩm sinh học...
Qua các lần lấy chỉ tiêu từ khi xuống giống đến giai đoạn 150 ngày sau khi trồng, không phát hiện bệnh xuất hiện trong mô hình. Điều này cho thấy, việc áp dụng quy trình quản lý tổng hợp trên sẽ giúp quản lý tốt đối với bệnh thối gốc và thối củ trên cây KL.
Không chỉ vậy, mô hình còn bảo tồn được thiên địch trên ruộng như: bọ rùa, nhện, kiến ba khoang, bọ đuôi kìm… Trong mô hình tăng cường sử dụng phân hữu cơ nhằm thay thế một phần phân hóa học góp phần tăng sức đề kháng của cây trồng một cách gián tiếp thông qua vai trò quan trọng của chúng đối với các đặc tính sinh học của đất, cũng như sự phát triển của các cộng đồng vi sinh vật có ích trong đất làm cây khỏe mạnh hơn và có khả năng chống chịu tốt đối với dịch hại và góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm.
Triệu chứng gây hại của bệnh thối gốc và thối củ trên cây khoai lang.
Tại thời điểm 145 ngày sau khi trồng, tỷ lệ củ thương phẩm của ruộng trong mô hình đạt 79,8% cao hơn so với đối chứng nông dân là 3,3%. Đồng thời, bề mặt vỏ củ KL của ruộng mô hình trơn bóng (không có hiện tượng rạn nứt vỏ) và màu sắc đẹp hơn rất nhiều so với ruộng đối chứng.
Ruộng trong và ngoài mô hình được đánh giá có năng suất tương đương nhau, bán với giá như nhau nhưng nhờ vào việc giảm lượng phân hóa học và giảm được 4 lần phun thuốc BVTV làm cho chi phí đầu tư trong mô hình thấp hơn, dẫn đến lợi nhuận đạt được trong mô hình cao hơn so với ruộng nông dân là 2.130.000đ/1.000m2.
Tham gia thực hiện mô hình, anh Nguyễn Văn Nhiên (xã Mỹ Thuận, huyện Bình Tân) cho biết: “Tôi thấy trong suốt vụ tình hình sinh trưởng của cây KL trong mô hình phát triển tốt. Cây sinh trưởng khỏe, khả năng xuống củ và nuôi củ rất tốt.
Củ có độ đồng đều cao hơn và có trọng lượng lớn hơn so với đối chứng nông dân ngoài mô hình. Trong mô hình sử dụng giống khỏe và sạch bệnh góp phần tăng khả năng chống chịu sâu, bệnh và điều kiện bất lợi của môi trường.
Bên cạnh, mô hình trồng với mật độ thưa giúp cây sinh trưởng, phát triển tốt hơn và giảm được phân bón. Tôi nhẩm tính vụ khoai này năng suất, chất lượng tốt hơn, lợi nhuận cũng tăng hơn. Thời gian tới tôi sẽ tiếp tục áp dụng trên các ruộng khoai còn lại”.
Bà Đinh Thị Tuyết Hạnh- Phó Phòng Nông nghiệp-PTNT huyện Bình Tân cho biết: Mô hình “Quản lý bệnh thối gốc và thối củ đối với cây KL” với kết quả khả quan quản lý bệnh và hiệu quả kinh tế cao.
Để nhân rộng mô hình, thời gian tới phòng nông nghiệp sẽ phối hợp với địa phương tuyên truyền rộng rãi đến nông dân. Đồng thời, phối hợp tổ chức tập huấn, chuyển giao quy trình sản xuất cho các ngành, đoàn thể, các hội viên ở cơ sở, lực lượng tổ khuyến nông cộng đồng, nâng cao năng lực sản xuất cho nông dân cũng như các tổ hợp tác, HTX nông nghiệp.
Bên cạnh đó, tiếp tục xây dựng và thực hiện mô hình ở những mùa vụ và các vùng đất khác trên địa bàn huyện để đưa ra các giải pháp quản lý tốt dịch bệnh, đồng thời giúp người dân có điều kiện tiếp xúc với phương pháp kỹ thuật mới đảm bảo năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao.
Hộ nông dân tham gia thực hiện mô hình tiếp tục ứng dụng các kỹ thuật đã được cán bộ chuyên môn tập huấn cần hướng dẫn và tuyên truyền, hướng dẫn lại cho những hộ dân lân cận trong vùng áp dụng quy trình quản lý bệnh thối gốc và thối củ đối với cây KL.
Ông Nguyễn Vĩnh Phúc- Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và BVTV cho biết: Từ kết quả thực hiện cho thấy, khả năng xâm nhiễm của bệnh sẽ cao đối với trường hợp có tạo vết thương cho cây KL. Đồng thời, việc thực hiện tốt biện pháp quản lý tổng hợp ngay từ đầu vụ cùng với chế độ chăm sóc hợp lý như: sử dụng phân hữu cơ để tăng cường sức khỏe đất, sức khỏe cây khoai; không sử dụng thuốc trừ cỏ, Pachlobutrazol,… để xử lý xuống củ và ức chế dây; bón phân cân đối và hợp lý theo nhu cầu của cây KL, tăng cường sử dụng các chế phẩm sinh học,… Tất cả các yếu tố đó đã giúp cây khoai phát triển tốt, tăng cường sức đề kháng nên khi chủng nguồn nấm vào thì cây khoai đủ sức chống chịu nên sau 3 lần chủng bệnh thì cây khoai chỉ nhiễm bệnh với tỷ lệ thấp. Đồng thời, khi phát hiện bệnh sớm và áp dụng thuốc BVTV để quản lý sẽ khống chế tốt, ngăn ngừa bệnh lây lan.
Bài, ảnh: THẢO LY
Phát triển hợp tác xã, gắn với chuỗi giá trị nông sản địa phương
Nguồn tin: Báo Cần Thơ
Để xây dựng và phát triển các chuỗi giá trị nông sản, phù hợp với tiềm năng và lợi thế của các địa phương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) TP Cần Thơ đã và đang triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ hợp tác xã (HTX) nông nghiệp liên kết với doanh nghiệp sản xuất hàng hóa theo hướng tập trung, gắn với ứng dụng công nghệ cao, cơ giới hóa vào sản xuất... Qua đó, đã giúp cho nhiều HTX nông nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động trong bối cảnh mới, góp phần hình thành và phát triển mô hình HTX, gắn với chuỗi giá trị nông sản chủ lực của địa phương.
Hoạt động cho cá ăn tại ao nuôi của HTX nông nghiệp thủy sản Thắng Lợi, huyện Vĩnh Thạnh.
Theo Sở NN&PTNT TP Cần Thơ, để nâng cao hiệu quả hoạt động cho các HTX nông nghiệp, Sở đã phối hợp với các đơn vị có liên quan và các quận, huyện triển khai nhiều chương trình hỗ trợ củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động cho các HTX nông nghiệp; đồng thời, lồng ghép nhiều dự án hỗ trợ cho các HTX nông nghiệp tiếp cận được vốn đầu tư trang thiết bị, máy móc hiện đại để sản xuất hàng hóa, nông sản đạt chất lượng an toàn, có truy xuất nguồn gốc rõ ràng; kết hợp hỗ trợ xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu tập thể; hỗ trợ HTX liên kết với các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa, nông sản theo hướng tập trung, áp dụng tốt các quy trình, tiêu chuẩn chất lượng, đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ của thị trường nội địa và xuất khẩu. Hiện TP Cần Thơ có 183 HTX nông nghiệp, trong đó có 52 HTX liên kết với doanh nghiệp theo chuỗi giá trị, góp phần nâng cao giá trị nông sản và thu nhập cho nông dân.
HTX Tiến Dũng ở huyện Cờ Đỏ là một trong những mô hình tiêu biểu được Sở NN&PTNT thành phố hỗ trợ tham gia các chương trình, dự án nâng cao năng lực quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh, phát triển vùng nguyên liệu lúa gắn với liên kết tiêu thụ. Theo ông Nguyễn Danh Dũng, Giám đốc HTX Tiến Dũng, HTX đã ký hợp tác với Tập đoàn Lộc Trời và Công ty TNHH Thạnh Hưng tổ chức dịch vụ cung ứng lúa giống, phân, thuốc bảo vệ thực vật và tiêu thụ lúa hàng hóa cho thành viên và nông dân liên kết với HTX. Đặc biệt, sau vụ lúa đông xuân năm 2022-2023, HTX đã phát triển thêm nhiều mối liên kết với các đối tác, đảm bảo đầu ra cho hơn 2.800 tấn lúa tươi/vụ cho 27 thành viên và gần 100 hộ nông dân liên kết sản xuất lúa tập trung trong cánh đồng lớn. Hiệu quả liên kết theo chuỗi giá trị không chỉ giúp HTX Tiến Dũng tạo ra vùng nguyên liệu ổn định, với sản lượng lớn, đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp thu mua, mà còn giúp nông dân dễ áp dụng khoa học kỹ thuật, cơ giới hóa đồng ruộng để tiết giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất và lợi nhuận, nhất là không còn nỗi lo bị thương lái ép giá khi đến thời điểm thu hoạch. Nhờ đó, HTX Tiến Dũng ngày càng thu hút thêm thành viên và nông dân tham gia, tạo điều kiện cho HTX mở rộng quy mô diện tích lên 300ha, với trên 150 nông hộ sản xuất, từng bước khẳng định vai trò dẫn dắt, tương trợ thành viên và nông dân sản xuất gắn tiêu thụ trong bối cảnh mới.
Từng bước xây dựng, hoàn thiện mô hình HTX gắn với phát triển chuỗi giá trị sản phẩm cá tra là hướng đi được HTX nông nghiệp Thủy sản Thắng Lợi, huyện Vĩnh Thạnh triển khai thành công. Ước tính bình quân, mỗi năm HTX cung cấp cho công ty, đối tác từ 6.600-7.000 tấn cá, đạt doanh thu từ 146-180 tỉ đồng/vụ nuôi, mang lại nguồn thu nhập trên 500 triệu đồng/hộ. Ông Huỳnh Thanh Bình, Giám đốc HTX nông nghiệp thủy sản Thắng Lợi, chia sẻ: Trước bối cảnh giá cá tra thường xuyên biến động cũng như yêu cầu về kỹ thuật ngày càng khắt khe của thị trường xuất khẩu, ngoài việc tổ chức, hướng dẫn thành viên nuôi cá theo đúng quy trình an toàn, HTX đã linh động đàm phán với các doanh nghiệp thu mua cá tra thực hiện ký kết hợp đồng đầu tư, chia sẻ lợi nhuận. Theo đó, doanh nghiệp cung cấp thức ăn, thuốc thú y, chế phẩm sinh học cho thành viên HTX; còn thành viên HTX chỉ cần nuôi cá tra đúng quy trình và đúng với kích cỡ theo hợp đồng ký kết với doanh nghiệp. Với cách làm này, thành viên nuôi cá tra không phải không còn áp lực vay vốn ngân hàng để đầu tư sản xuất, mà vẫn ổn định được đầu ra, giúp mang lại nguồn thu nhập cao cho gia đình mặc cho thị trường biến động. Và đây là điều mà HTX tâm đắc nhất sau gần 14 năm hoạt động.
Liên kết với các doanh nghiệp bao tiêu đầu ra cho thành viên theo hướng phát triển bền vững đã giúp HTX nông nghiệp Thắng Lợi ngày càng “ăn nên làm ra”. Hiện HTX có 44 thành viên, trong đó có 12 hộ nuôi cá, với tổng diện tích ao nuôi 20ha và có 32 thành viên trồng lúa, với tổng diện tích 120ha. Cùng đó, HTX còn đầu tư xe vận tải hàng hóa, xây dựng nhà kho trữ phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, với quy mô 200 tấn; kết hợp mở một cửa hàng chuyên cung cấp phân bón và các loại thuốc bảo vệ thực vật cho thành viên và nông dân trên địa bàn huyện Vĩnh Thạnh với giá cả ưu đãi cho nông dân, giúp giải quyết việc làm thường xuyên gần 100 lao động tại địa phương, với mức thu nhập trung bình 4,5 triệu đồng/tháng.
Để các HTX nông nghiệp phát triển bền vững, gắn với chuỗi giá trị nông sản địa phương, Sở NN&PTNT TP Cần Thơ sẽ phối hợp với các sở, ngành cùng các hội, đoàn thể và các địa phương tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý, điều hành cho cán bộ quản lý HTX; hỗ trợ kết nối giữa HTX với các doanh nghiệp; tăng cường công tác xúc tiến thương mại, gắn với hoạt động chuyển đổi số, đưa sản phẩm nông sản của HTX lên các sàn giao dịch điện tử; tạo điều kiện cho các HTX nông nghiệp tiếp cận được các chính sách, chương trình, dự án, đề án đã và đang được triển khai trên địa bàn thành phố… Qua đó giúp gia tăng năng lực hoạt động cho các HTX nông nghiệp, góp phần hình thành và phát triển chuỗi giá trị nông sản chủ lực, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương.
Bài, ảnh: MỸ HOA
‘Cò’ lúa - thương lái và nông dân: Cần phải giữ chữ tín
Nguồn tin: Báo Bạc Liêu
Dù đồng tình hay phản đối thì cũng cần phải nhìn nhận một cách khách quan là “cò” lúa dần trở thành một mắc xích quan trọng trong khâu sản xuất và tiêu thụ lúa gạo hiện nay. Thế nhưng, sự gắn kết, cộng đồng trách nhiệm giữa “cò” lúa và nông dân vẫn còn lỏng lẻo dẫn đến nhiều hệ lụy ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và lợi nhuận của nông dân.
Nhiều diện tích lúa hè thu của nông dân TX. Giá Rai bị ngã sập do ảnh hưởng mưa bão, dông lốc. Ảnh: C.L
“Cò” lúa làm giá
Theo lời ông Năm Nhỏ (xã Phong Tân, TX. Giá Rai): “Lúc trước, tôi được báo giá nhận cọc 9.000 đồng/kg lúa, giờ mưa dông, lúa sập “cò” lúa kêu tôi bán với giá 7.000 - 7.200 đồng/kg. Lúa chín mà ngập chìm trong nước, nếu không cắt, sấy, bán nhanh thì lên mọng coi như mất trắng nên gia đình tôi cũng bóp bụng đồng ý”.
Những năm gần đây, với sự xuất hiện của lực lượng “cò” lúa phần nào giúp đỡ nông dân khi đến mùa thu hoạch. Nếu như trước đây, nông dân phải chạy đôn, chạy đáo tìm kiếm thương lái, thì hiện nay, nông dân chỉ cần gọi điện thoại cho “cò” là mọi việc được giải quyết suôn sẻ. Tuy nhiên, đi đôi với sự tiện lợi, bán lúa thông qua “cò” kéo theo nhiều phiền toái cho nông dân. “Cò” lúa là lực lượng trung gian giữa người bán và người mua, thường “ăn” theo hoa hồng mà thương lái đưa ra, ngoài ra, còn làm giá với nông dân để ăn thêm chênh lệch. Lợi nhuận thu được từ hạt lúa của nông dân cũng vì thế bị qua tay phân chia nhiều người. Nhiều người không khỏi bực tức khi bị cánh “cò” lúa viện đủ lý do, làm cho nông dân hoang mang, từ lúa ướt, lúa dơ, lúa chưa đủ ngày, cho đến giá lúa đang sụt giảm… với mục đích chính là để nông dân chấp thuận với mức giá họ đưa ra.
Có một thực tế dẫn đến sự xuất hiện của “cò” lúa trong chuỗi sản xuất ngành hàng này mà ai cũng nhận thấy đó chính là sự lỏng lẻo, thiếu liên kết trong sản xuất và thói quen canh tác ruộng lúa manh mún, nhỏ lẻ không cùng thứ giống của nông dân. Vì vậy, doanh nghiệp không thể đảm nhiệm được việc thu mua trực tiếp nên phải nhờ “cò”, từ đó lực lượng này ngày một đa dạng, với đủ loại hình như “cò” lúa, “cò” rơm, “cò” máy cắt, máy xới, có luôn cả “cò” mua bán lúa giống theo mùa…
Thương lái bắt ép
Vừa phải chịu cảnh “cò” lúa ép giá, nông dân còn bị tình trạng thương lái chèn ép. Cũng viện nhiều lý do, thương lái đưa ra các chiêu trò buộc nông dân phải giảm giá, với các hình thức, như: chia phí vận chuyển, lúa không đạt chất lượng. Năm nào giá lúa tăng, thương lái cho ghe đậu sẵn tại bến, lúa người nào gặt xong là cân liền. Nhiều hộ đang thu hoạch cũng buộc phải cân vì thương lái hối thúc. Tuy nhiên, đến khi lúa giảm giá, hay gặp các điều kiện thời tiết bất lợi khiến lúa ngã đổ, ngập nước, đen vỏ, là thương lái tìm cách kéo dài thời gian, đưa ra rất nhiều lý do không đưa ghe tới thu mua.
Việc kéo dài thời gian, không chịu thu mua lúa khiến nông dân gặp nhiều khó khăn. Lúa để lâu không cắt dễ bị ẩm, mốc, nảy mầm… làm giảm chất lượng, khó bán. Ngoài ra, do nông dân thu hoạch lúa đồng loạt, nếu không bán sớm thì những nông dân cắt sau không có nơi để chất lúa. Với những lý do trên, nông dân buộc phải bán cho thương lái với giá thấp hơn thỏa thuận ban đầu nhằm mau chóng kết thúc mùa vụ. Hoặc những đám ruộng dù được bỏ cọc thu mua lúa ngay từ đầu vụ, nhưng đến khi thu hoạch, giá cả thị trường có biến động là họ sẵn sàng bỏ cọc hoặc buộc nông dân vào thế kẹt rồi “bắt tay” với “cò” lúa ép giá. Đây không chỉ là câu chuyện diễn ra vào vụ lúa hè thu, lúc nông dân gặp bất lợi mà ngay cả những vụ được cho là thuận lợi trong năm như đông xuân cũng bị tương tự. Đành rằng là làm ăn, buôn bán hiện nay hoàn toàn dựa vào cơ chế thị trường, nhưng việc chèn giá, ép giá đã khiến cho lợi nhuận của nông dân cũng theo đó bị kéo giảm.
Để nông dân không chịu thiệt
Bạc Liêu đang bước vào những ngày cuối trong kỳ thu hoạch trà lúa hè thu 2024 với tổng diện tích toàn tỉnh gần 58.000ha. Đợt mưa lớn diện rộng kèm theo dông lốc đầu tháng 9 làm nhiều diện tích lúa đang trỗ chín, gần đến ngày thu hoạch chìm trong nước. Trên nhiều cánh đồng, lúa đổ ngã nằm sát mặt ruộng, cộng thêm thời tiết có mưa làm lúa nảy mầm, giảm chất lượng và năng suất. Trong bối cảnh giá phân bón tăng cao, điều kiện canh tác gặp nhiều khó khăn thì những chiêu trò của thương lái, “cò” lúa đã góp phần làm tăng chi phí sản xuất, đồng thời giảm lợi nhuận của nông dân. Để tránh tình trạng phải lụy “cò” và thương lái như hiện nay, ngành chức năng cần khuyến khích, tạo điều kiện để nông dân tham gia vào mô hình “Cánh đồng lớn”.
Bên cạnh đó, nông dân cũng cần phải giữ chữ tín trong khâu liên kết. Bởi thực tế có không ít trường hợp nông dân “bẻ kèo” bán tháo cho thương lái bên ngoài khi giá lúa tăng cao, dù trước đó đã ký kết hợp đồng liên kết bao tiêu với “cò” lúa, thương lái. Để có được nhiều mối làm ăn lâu dài, hình thành chuỗi liên kết bền chặt, cộng đồng trách nhiệm nhằm hạn chế bớt rủi ro và những tác động từ cơ chế thị trường, nông dân cần tìm hiểu thị trường, liên kết sản xuất các giống lúa chất lượng cao với hợp đồng bao tiêu ngay từ đầu vụ với công ty, doanh nghiệp, giảm bớt các khâu trung gian trong sản xuất và tiêu thụ để từ đó giúp tăng năng suất, lợi nhuận.
Chí Linh
Phát triển thị trường xuất khẩu các sản phẩm thế mạnh
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Vùng đồng bằng sông Cửu Long đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của cả nước. Đây là vùng đất tiềm năng, trọng điểm về sản xuất, xuất khẩu nông sản, thủy sản của cả nước và ngành nông nghiệp luôn giữ vị trí quan trọng góp phần đảm bảo đời sống an sinh xã hội của bà con nông dân trong khu vực.
Đóng góp nhiều cho xuất khẩu
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm 2024 của vùng Tây Nam bộ đạt 15,7 tỉ USD, tăng 14,9% so với cùng kỳ 2023, chiếm 6,9% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Kim ngạch nhập khẩu 7 tháng đầu năm 2024 của cả vùng đạt 7,59 tỉ USD, tăng 15,96% so với cùng kỳ 2023, chiếm 3,57% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Cán cân thương mại của vùng 7 tháng đầu năm 2024 đạt thặng dư 8,11 tỉ USD, tương đương với 3,56% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Các địa phương có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ USD trong 7 tháng đầu năm 2024 là Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Sóc Trăng. Các địa phương còn lại đều có mức kim ngạch dưới 1 tỉ USD. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của 12/13 tỉnh, thành phố đạt kết quả tăng trưởng dương so với cùng kỳ (trừ Cà Mau).
Các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long có đóng góp quan trọng trong sản xuất phục vụ tiêu thụ nội địa và xuất khẩu các mặt hàng nông sản thủy sản quan trọng như gạo, thủy sản (tôm, cá tra...) và rau quả trái cây như sầu riêng, thanh long, mít, xoài, quýt... Các thị trường xuất khẩu gạo chủ yếu của vùng bao gồm cả các thị trường xuất khẩu truyền thống, trọng điểm như Trung Quốc, Philippines và Malaysia, Bờ Biển Ngà và các thị trường mới, còn nhiều tiềm năng như Liên bang Nga và các thị trường khu vực châu Phi, Tây Á, Nam Á như Nam Phi, Algerie, Angola, các Tiểu vương quốc Ả-rập Thống nhất.
Đối với mặt hàng rau quả, việc nhiều loại trái cây đã được tiếp tục khơi thông, thâm nhập và mở rộng xuất khẩu vào nhiều thị trường truyền thống, “khó tính” như sầu riêng tươi và đông lạnh, dừa tươi vào Trung Quốc; nhãn, thanh long, dừa tươi vào thị trường Mỹ; vải, nhãn vào thị trường Nhật Bản; xoài, bưởi vào Hàn Quốc; chanh, bưởi vào thị trường Newzealand… đã góp phần giúp xuất khẩu rau quả trong thời gian qua liên tục tăng trưởng mạnh.
Đồng bằng sông Cửu Long hiện đứng đầu cả nước về xuất khẩu thủy sản, chiếm 60% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Cá tra và tôm đã trở thành sản phẩm xuất khẩu có giá trị cao và là một trong những mặt hàng thủy sản chủ lực, mang lại hiệu quả kinh tế cho vùng. Tuy nhiên, các sản phẩm công nghiệp trong khu vực còn hạn chế chủ yếu trong một số ngành như may mặc, giầy dép. Các mặt hàng công nghiệp khác, công nghiệp chế biến trong khu vực còn ít chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của khu vực.
Theo Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương thì đồng bằng sông Cửu Long là vùng kinh tế quan trọng, là vùng tập trung và có điều kiện thuận lợi phát triển nông nghiệp, đóng góp lượng lớn hàng nông sản xuất khẩu của quốc gia. Vùng ĐBSCL giàu tiềm năng nhưng lại đang tụt hậu so với đà tăng trưởng kinh tế của cả nước. Nếu như 2 thập niên trước vùng đóng góp khoảng 16% GDP của cả nước thì đến nay tỷ trọng này chỉ còn 12%. Trong đó, những nguyên nhân được chỉ ra như chúng ta chưa có chiến lược xuất khẩu bền vững cho từng thị trường. Tăng trưởng xuất khẩu nhanh nhưng chưa vững chắc, rất dễ bị tổn thương bởi các cú sốc từ bên ngoài. Lợi thế cạnh tranh của hàng xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa trên giá cả, chứ chưa dựa trên giá trị. Xuất khẩu nông sản theo hình thức trao đổi thương mại biên giới (tiểu ngạch) vẫn chiếm tỷ trọng cao. Một số mặt hàng nông sản chưa đáp ứng được những yêu cầu của thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản,... do sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún, hàm lượng công nghệ thấp. Chưa thực sự chú trọng đến công tác xây dựng thương hiệu hàng hóa chất lượng cao. Cơ sở hạ tầng, dịch vụ hỗ trợ phát triển chưa đồng đều, cũng như còn bất cập trước yêu cầu sản xuất quy mô lớn, thiếu hạ tầng logistics phục vụ nông nghiệp, chưa đáp ứng được nhu cầu để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Các khâu sản xuất, chế biến, tiêu thụ, lưu thông chưa có sự gắn kết chặt chẽ, khiến nguy cơ đứt gãy rất dễ xảy ra. Sản xuất và thị trường chưa có sự kết nối chặt chẽ giữa vùng với các thị trường trong nước, giữa thị trường trong vùng với thị trường quốc tế, dẫn tới sản xuất kinh doanh hiệu quả thấp, khó thu hút các dự án đầu tư quy mô và dài hạn.
Mặt hàng trái cây, trong đó có sầu riêng của các tỉnh ĐBSCL đã đóng góp quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu những tháng đầu năm nay.
Đẩy mạnh liên kết, mở rộng thị trường
Cục Xuất nhập khẩu cho rằng, mặc dù đứng trước nhiều thách thức, cũng như khó khăn, nhưng hoạt động xuất nhập khẩu của vùng ĐBSCL cũng có nhiều cơ hội để tận dụng, góp phần vào sự phát triển ổn định của kinh tế - xã hội khu vực. Đầu tiên phải kể đến những kết quả đạt được từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng của Đảng, Chính phủ trong thời gian qua, đó chính là các Hiệp định thương mại tự do (FTA). Bộ Công thương đã và đang đẩy mạnh việc đàm phán và ký kết các FTA, cam kết cũng như liên kết thương mại với đối tác tiềm năng để đa dạng hóa sản phẩm lẫn thị trường, kết nối và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu; hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng cam kết FTA để đẩy mạnh hơn nữa việc xuất khẩu. Thêm vào đó, theo một số báo cáo, lạm phát đang dần có xu hướng hạ nhiệt tại các nền kinh tế lớn, hàng tồn kho có xu hướng giảm và nhu cầu nhập khẩu ở một số thị trường lớn cũng có xu hướng tăng lên. Do đó, triển vọng thị trường xuất khẩu hàng hóa năm 2024 sẽ được mở rộng; nhập khẩu được dự báo sẽ hồi phục và lấy lại đà tăng trưởng. Bên cạnh đó, Chính phủ đã cam kết đầu tư vào hạ tầng giao thông và hạ tầng công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc vận chuyển và sản xuất hàng hóa, giúp doanh nghiệp tăng cường năng suất và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đồng thời, cam kết hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tiếp cận vốn và công nghệ mới, cung cấp các chính sách khuyến khích và ổn định để thúc đẩy xuất khẩu.
Theo Cục Xuất nhập khẩu, thực hiện định hướng tại Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2021-2030 về đảm bảo phát triển xuất khẩu bền vững và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo chiều sâu, trong thời gian tới, ngoài nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, sự quan tâm, hỗ trợ của Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan, để thúc đẩy phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa của vùng đồng bằng sông Cửu Long, các tỉnh, thành của vùng cần tiếp tục tập trung nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng, đặc biệt là phát triển mạng lưới giao thông; triển khai nghiên cứu các giải pháp khoa học công nghệ để phát triển sản xuất xuất khẩu bền vững. Cùng với đó, các tỉnh cần tiếp tục đẩy mạnh cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường các hoạt động thu hút đầu tư. Tăng cường xúc tiến thương mại trên nền tảng số giúp các doanh nghiệp, địa phương khai thác tốt các thông tin về cửa khẩu, xuất nhập khẩu hàng hóa; phát triển các loại hình dịch vụ gắn với phát triển kinh tế cửa khẩu, trọng tâm là dịch vụ logistics, đại lý hải quan, tư vấn pháp luật, kiểm nghiệm, kiểm dịch theo hướng chất lượng, văn minh, hiện đại, nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí cho các doanh nghiệp, thương nhân tham gia hoạt động xuất nhập khẩu qua địa bàn; đồng thời, khuyến khích phát triển một số loại dịch vụ mới có giá trị gia tăng cao.
Triển khai hoạt động kết nối doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp, đặc biệt là hàng nông, lâm, thủy sản của Việt Nam tới các đại diện thương mại Việt Nam tại các nước và vùng lãnh thổ nhằm giới thiệu, quảng bá sản phẩm, tìm kiếm cơ hội mở rộng thị trường. Tăng cường công tác theo dõi tình hình tại các cửa khẩu, kịp thời thông báo, khuyến cáo tới các địa phương có hàng hóa xuất khẩu qua các cửa khẩu biên giới phía Bắc, đặc biệt là hoa quả, nông sản để chủ động, nâng cao hiệu quả của công tác điều tiết hàng hóa và phương tiện. Tăng cường các hoạt động kết nối thông tin giữa các tỉnh trong vùng, đẩy mạnh hoạt động liên kết vùng giữa các thành viên trong vùng nhằm hỗ trợ, giúp đỡ, khắc phục khó khăn hạn chế, phát huy được các thế mạnh của từng địa phương trong hoạt động xúc tiến thương mại và xuất khẩu. Xây dựng cơ chế hình thành các chuỗi sản xuất công nghiệp, gắn công nghiệp khai thác với chế biến, chế tạo giữa các tỉnh. Đồng thời, chia sẻ hình thành vùng nguyên liệu chính ở mỗi địa phương và liên kết, hỗ trợ tìm kiếm đầu ra cho các sản phẩm là thế mạnh của mỗi địa phương. Có chính sách hỗ trợ, thúc đẩy các doanh nghiệp chuyển nhanh, chuyển mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Trung Quốc theo hình thức chính ngạch. Tăng cường kiểm soát chặt chẽ hàng hóa xuất nhập khẩu, đấu tranh, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, tập trung vào các mặt hàng cấm, hàng ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội, hàng giả nhãn hiệu, gian lận nguồn gốc, xuất xứ, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Thống kê của Bộ Công thương cho thấy, rất nhiều nhóm ngành hàng của Việt Nam đã vượt mốc kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỉ USD, như nhóm hàng rau quả, gạo, tôm..., phần lớn đến từ đồng bằng sông Cửu Long. Riêng mặt hàng gạo, năm 2024, ước tính tổng lượng gạo xuất khẩu cả nước vẫn duy trì mức trên 8 triệu tấn, trong đó riêng vùng đồng bằng sông Cửu Long 7,6 triệu tấn. Tính chung đến nay, vùng đồng bằng sông Cửu Long đang đóng góp khoảng 31% GDP toàn ngành nông nghiệp với hơn 50% sản lượng lúa, 95% lượng gạo xuất khẩu, 65% sản lượng thủy sản nuôi, khai thác, 60% lượng cá xuất khẩu và xấp xỉ 70% lượng trái cây các loại... Trong tốp các địa phương có sản lượng nuôi, khai thác thủy hải sản cung ứng cho thị trường toàn cầu, tập trung hầu hết tại vùng đồng bằng sông Cửu Long.
H.TÂM
Nuôi chim bồ câu Pháp tạo thu nhập cho nông dân địa phương
Nguồn tin: Báo Đồng Khởi
Hơn 5 năm, ông Nguyễn Văn Tiến (tên thường gọi là Chín Tiến), 59 tuổi, ngụ tại Tổ nhân dân tự quản (NDTQ) số 5, ấp An Thiện, xã Thành Thới B, huyện Mỏ Cày Nam (tỉnh Bến Tre) gắn bó với mô hình nuôi chim bồ câu Pháp mang lại hiệu quả thiết thực và hiện tại có thu nhập hơn 20 triệu đồng/tháng.
Ông Nguyễn Văn Tiến cung cấp thức ăn cho chim bồ câu Pháp.
Năm 2019, ông Chín Tiến mua 50 cặp chim bồ câu Pháp (khoảng 3 tháng tuổi) giống, tại huyện Củ Chi (TP. Hồ Chí Minh), với giá 250 ngàn đồng/cặp về nuôi thử nghiệm để tạo thu nhập cho gia đình. Hiện tại, đàn bồ câu đã phát triển nên ông Chín Tiến tận dụng 200m2 đất cặp nhà làm chuồng nuôi 600 cặp (tương ứng 1,2 ngàn con) chim bồ câu Pháp. Trong đó, có 500 cặp đang sinh sản và 100 cặp hậu bị.
Tháng 9-2023, Tổ hợp tác (THT) nuôi chim bồ câu Pháp ấp An Thiện được thành lập, với 6 thành viên (TV) tham gia. Mỗi TV nuôi từ 30 - 1,2 ngàn con. Ông Nguyễn Văn Tiến làm Tổ trưởng THT, kết nối đầu mối tiêu thụ và tiến hành thu gom chim bồ câu Pháp thương phẩm của TV giao cho thương lái. Khoảng 4 ngày (đợt), thương lái tại TP. Mỹ Tho (Tiền Giang) đến tận điểm tập kết (cách nhà ông Chín Tiến 100m) để thu mua từ 120 - 170 con chim bồ câu Pháp thương phẩm của THT.
Theo ông Chín Tiến, người nuôi có thể khai thác giá trị chăn nuôi trong vòng 5 năm đối với 1 cặp chim bồ câu Pháp. Tuy nhiên, sau 3 năm nuôi cần trang bị 1 cặp hậu bị sinh sản khác. Phải thường xuyên kiểm tra tình hình sức khỏe và chú ý những bệnh phổ biến như: hen, khẹt trên vật nuôi. Những bệnh này đều có thể xử lý hiệu quả và triệt để bằng thuốc đặc trị theo kiểu mẹo dân gian.
Chim bồ câu Pháp thương phẩm được thu mua có trọng lượng trung bình từ 300 - 400 gram/con. Giá bán 45 ngàn đồng/con. Quá trọng lượng quy định, ông Chín Tiến sẽ để lại gầy giống, nhằm phát triển số lượng nuôi của gia đình. Sau 17 ngày, chim bồ câu Pháp mẹ ấp trứng sẽ nở thành con. Hơn 15 ngày được mẹ nuôi, có thể xuất bán chim bồ câu Pháp con.
Mỗi ngày, ông Chín Tiến cung cấp 2 cữ thức ăn cho chim bồ câu Pháp bằng cách pha trộn theo tỷ lệ: 60% lúa mạch và bắp và 40% còn lại là thức ăn công nghiệp cho gà. Hiện tại, ông Chín Tiến đã đầu tư hơn 5 triệu đồng để lắp đặt hệ thống nước tự động có 1 ly (giá 5 ngàn đồng/ly) chứa chung nước uống dành cho 2 lồng nuôi liền kề được kết nối với bồn chứa nước sinh hoạt gia đình.
Ông Chín Tiến bố trí 1 cặp (trống và mái) chim bồ câu Pháp sống chung trong mỗi lồng nuôi bằng sắt (diện tích 50cm2) và được đặt cách mặt đất hơn 0,5m, có trang bị ổ đựng trứng cho chim sinh sản. Với 600 lồng nuôi, ông thiết kế chồng thành 3 lớp lồng nuôi và chừa khoảng trống giữa 2 lớp lồng chừng 20cm để thuận tiện cho việc thu gom phân của vật nuôi. Dưới lồng nuôi, ông Chín Tiến đặt khay nhựa 60cm2 để thu gom phân của vật nuôi để bán cho người dân địa phương (giá 20 ngàn đồng/bao) phục vụ trong sản xuất nông nghiệp.
“Nuôi chim bồ câu Pháp rất nhẹ nhàng, chỉ cần bỏ ra 2 giờ/ngày để chăm sóc vật nuôi. Hiện tại, chim bồ câu Pháp đang trong tình trạng “cung không đủ cầu” trên thị trường tiêu thụ. Vì thế, tôi rất vững tin trong việc chăm nuôi trước nguồn giống chất lượng của gia đình trên thị trường tiêu thụ cùng sự bình ổn giá cả chim bồ câu Pháp và kỹ thuật của bản thân”, ông Chín Tiến tâm sự.
Ngoài việc phát triển kinh tế gia đình, ông Chín Tiến còn đảm nhiệm nhiều chức vụ ở địa phương như: Chi hội trưởng Chi hội Nông dân ấp An Thiện; Tổ trưởng Tổ NDTQ số 5, ấp An Thiện và Chi hội phó Chi hội Cựu chiến binh ấp An Thiện. Ghi nhận sự đóng góp tại địa phương, ông Nguyễn Văn Tiến đã được lãnh đạo các cấp trao tặng những phần thưởng cao quý như: Bằng khen thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua xây dựng xã Thành Thới B đạt chuẩn xã nông thôn mới năm 2023 của UBND tỉnh; nhiều giấy khen thi đua thực hiện tốt công tác hội và phong trào tại địa phương.
Ông Nguyễn Văn Tiến đã thành công với mô hình nuôi chim bồ câu Pháp, tạo nguồn thu nhập ổn định cho gia đình. Hướng tới, Hội Nông dân xã sẽ giới thiệu, nhân rộng mô hình, góp phần vào công tác giảm nghèo và phát triển kinh tế nông hộ tại địa phương”. (Chủ tịch Hội Nông dân xã Thành Thới B Cao Văn Beo)
Bài, ảnh: Lê Đệ
Thái Nguyên: Nuôi gà thịt bản địa theo hướng hữu cơ cho lãi cao
Nguồn tin: Báo Thái Nguyên
Sau 3 tháng triển khai, đến nay, Dự án “Chăn nuôi gà thịt bản địa theo hướng hữu cơ và chứng nhận OCOP gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm” năm 2024 đã hoàn thành và đạt hiệu quả rất thiết thực. Đây là dự án do xã Tân Khánh (Phú Bình), Trung tâm Nghiên cứu chuyển giao và Dịch vụ công nghệ sinh học hữu cơ (Bio-TCORTS) phối hợp với Trung tâm Khuyến nông tỉnh Thái Nguyên triển khai.
Mô hình chăn nuôi gà thịt bản địa theo hướng hữu cơ gắn với tiêu thụ sản phẩm của gia đình ông Trương Văn Hướng, thành viên HTX chăn nuôi gà đồi Tân Tiến, xã Tân Khánh (Phú Bình).
Tham gia Dự án, gia đình ông Trương Văn Hướng, thành viên HTX chăn nuôi gà đồi Tân Tiến, xã Tân Khánh, đã nuôi 3.200 con gà Ri và được tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi gà thịt bản địa theo hướng hữu cơ gắn với tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời sử dụng chế phẩm sinh học bổ sung vào thức ăn giúp gà khỏe mạnh, không cần dùng đến kháng sinh trong phòng trị bệnh; sử dụng đệm lót bằng mùn cưa bổ sung chế phẩm sinh học giúp chuồng trại chăn nuôi không có mùi hôi, bảo đảm thoáng sạch, giảm thiểu ô nhiễm môi trường…
Nhờ đó, đàn gà sinh trưởng tốt, tỷ lệ sống đạt 97%, trọng lượng trung bình đạt 2,03kg/con, tiêu tốn 2,6kg thức ăn/kg tăng trọng. Sau khi trừ các khoản chi phí, gia đình ông Hướng thu lãi trên 121 triệu đồng, tăng 22,66% so với trước khi tham gia Dự án; chất lượng thịt gà được người tiêu dùng đánh giá tốt. Vì vậy, sản phẩm gà đồi Tân Tiến - gà tươi của HTX chăn nuôi gà đồi Tân Tiến được UBND huyện Phú Bình công nhận OCOP 3 sao.
Cùng với đó, sau khi tham gia lớp tập huấn ngoài mô hình và tham quan mô hình chăn nuôi của gia đình ông Trương Văn Hướng, 10 hộ chăn nuôi gà ở địa phương đã đăng ký áp dụng quy trình chăn nuôi theo hướng hữu cơ, hướng đến sản phẩm OCOP và liên kết với HTX chăn nuôi gà đồi Tân Tiến tiêu thụ sản phẩm.
Tùng Lâm
Từ thợ mộc đến nông dân chăn nuôi giỏi
Nguồn tin: Báo Bình Định
Chật vật với nghề thợ mộc, ông Nguyễn Văn Công (SN 1971, ở thôn Tân Hóa Bắc, xã Cát Hanh, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định) chuyển sang lĩnh vực chăn nuôi. Với nghề mới, ông đạt danh hiệu Nông dân sản xuất kinh doanh giỏi cấp tỉnh giai đoạn 2017 - 2022; mới đây ông vinh dự được Hội Nông dân tỉnh đề nghị UBND tỉnh trao tặng bằng khen.
Trước đây, cuộc sống gia đình ông Nguyễn Văn Công luôn trong cảnh chật vật, khi các khoản chi tiêu đều trông cậy vào nghề thợ mộc của ông. Năm 1998, nhận thấy tiềm năng từ nghề nuôi vịt, vợ chồng ông quyết định chuyển sang nuôi vịt thịt với số lượng khoảng 400 con mỗi lứa, mỗi năm nuôi 2 lứa. Tuy nhiên, giá cả bấp bênh khiến việc chuyển đổi nghề này không thành công như mong đợi.
Ông Nguyễn Văn Công đang chăm sóc đàn gà thịt. Ảnh: TRỌNG LỢI
Không nản lòng, năm 1999, ông Công đầu tư trồng 1,5 ha cây keo, sau 5 năm thu hoạch được 120 triệu đồng. Số tiền này không chỉ giúp ông phục hồi tài chính mà còn là nền tảng để tiếp tục đầu tư vào chăn nuôi heo. “Cây keo không chỉ cứu gia đình tôi qua giai đoạn khó khăn, mà còn là nền tảng để tôi bắt đầu lại”, ông chia sẻ.
Năm 2014, ông Công quyết định đầu tư vào chăn nuôi heo. “Năm đó, 5 con heo nái sinh ra hơn 60 heo con/lứa và nhờ giá heo lúc đó khá tốt, chúng tôi đã có lãi”, ông nhớ lại. Thành công bước đầu giúp ông tự tin mở rộng quy mô trang trại. Đến năm 2021, ông đã phát triển lên 20 con heo nái, mỗi năm sinh ra hơn 500 heo con. Nhờ chủ động con giống và chịu khó phát triển đàn heo thịt, mỗi năm ông xuất bán khoảng 52 tấn heo thịt, doanh thu đạt hơn 800 triệu đồng.
Tận dụng đất vườn nhà, ông nuôi gà và phát triển thêm đàn bò sinh sản. “Từ năm 2021 đến nay, tôi nuôi khoảng 600 con gà thịt mỗi năm, cùng với 6 con bò sinh sản. Tổng thu nhập từ việc bán gà, heo và bò đạt gần 1 tỷ đồng mỗi năm”, ông Công cho hay.
Ông Nguyễn Văn Công nhận định: “Thành công không đến ngay từ đầu. Nó đòi hỏi sự kiên nhẫn và học hỏi không ngừng. Tôi luôn theo dõi thị trường và áp dụng tiến bộ KHKT vào chăn nuôi để nâng cao hiệu quả. Khi thị trường không thuận lợi, cần phải biết thay đổi chiến lược. Chăn nuôi là một nghề kinh doanh, không thể dựa vào may rủi”.
Bên cạnh việc làm giàu cho gia đình, ông Công còn tích cực giúp đỡ cộng đồng. Mỗi năm, gia đình ông hỗ trợ từ 5 - 7 hộ nghèo bằng cách chia sẻ kinh nghiệm và kỹ thuật chăn nuôi, đồng thời tạo điều kiện cho họ tham gia mô hình của mình. “Khi mình có điều kiện hơn, việc giúp đỡ bà con cùng phát triển là điều nên làm, lúc đó cả cộng đồng sẽ cùng vươn lên”, ông nhấn mạnh.
Với sự kiên trì, dám thay đổi và không ngừng học hỏi, ông Nguyễn Văn Công đã xây dựng thành công một trang trại chăn nuôi, mang lại thu nhập ổn định cho gia đình và trở thành hình mẫu đáng học hỏi trong cộng đồng.
Ông Lê Văn Dũng, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Phù Cát, cho biết: Hằng năm, ông Công còn tích cực ủng hộ quỹ Đền ơn đáp nghĩa và quỹ Hỗ trợ nông dân. Ông còn phối hợp với cán bộ nông nghiệp xã tổ chức các lớp tập huấn tại nhà, chia sẻ kinh nghiệm và chuyển giao tiến bộ KHKT cho các hộ khó khăn. Gia đình ông luôn thực hiện tốt nghĩa vụ công dân, góp phần xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Gia đình ông liên tục được công nhận là gia đình văn hóa xuất sắc và gia đình nông dân sản xuất kinh doanh giỏi từ cấp huyện đến cấp tỉnh.
TRỌNG LỢI
Hiếu Giang tổng hợp