Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 21 tháng 10 năm 2024

Trang chủ»Tin tức»Tổng hợp tin nông nghiệp ngày 21 tháng 10 năm 2024

 

Xử lý trái vụ bưởi Tết, nông dân chờ mùa bội thu

 

Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu

Hiện nay, nông dân Bà Rịa-Vũng Tàu đang tập trung chăm sóc bưởi da xanh để kịp bán dịp cuối năm và Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025. Thời tiết thời điểm này khá thuận lợi với sự phát triển của trái bưởi nên nông dân kỳ vọng sẽ có một vụ bưởi Tết bội thu.

 

 

Ông Hồ Hoàng Kha (xã Sông Xoài, TX.Phú Mỹ) chăm sóc vụ bưởi Tết tại vườn.

Để bảo đảm thu hoạch đúng dịp Tết, ông Mai Văn Quân (ngụ phường Hắc Dịch, TX.Phú Mỹ) thực hiện các bước kỹ thuật để 1ha bưởi ra hoa trái vụ. Năm nay, thời tiết thuận lợi nên dự báo năng suất bưởi vụ Tết sẽ cao, với khoảng 7 tấn trái. “Bưởi trái vụ nên khó chăm sóc, chi phí cũng cao hơn. Bù lại, giá bưởi dịp Tết thường cao nên tôi tập trung đầu tư cho vụ này”, ông Quân nói.

Thời điểm này, 1ha bưởi da xanh của ông Nguyễn Văn Êm (ở ấp Sông Xoài 1, xã Sông Xoài, TX.Phú Mỹ) cũng đang trong thời kỳ cho trái, dự kiến kịp xuất bán vào dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025. Ông Êm cho biết, từ tháng 5 âm lịch ông đã xử lý kỹ thuật trái vụ. Vườn bưởi của ông dự kiến cho năng suất cao, sản lượng khoảng 10 tấn.

Ông Nguyễn Văn Êm chia sẻ: “Mưa xuống, tôi xịt kích thích là cây ra bông. Thời tiết thuận lợi nên cây không bị rụng bông, hy vọng trái đẹp, chất lượng bảo đảm phục vụ nhu cầu thị trường Tết”.

Còn theo ông Dương Hoàng Nam, với việc xử lý bưởi Tết khá thuận lợi, tỷ lệ đậu hoa cao nên dự tính sản lượng khoảng 15 tấn. “Năm ngoái, với 1,5ha bưởi Tết, tôi trúng mùa, lại bán được giá nên lợi nhuận thu về hơn 350 triệu đồng. Hy vọng năm nay, sản lượng tăng, giá cao để có thêm thu nhập”, ông Nam cho biết.

Theo ngành nông nghiệp, diện tích bưởi da xanh của tỉnh chủ yếu tập trung tại TX.Phú Mỹ với hơn 400ha. Trong đó hơn 80% diện tích được nông dân chuyển dần canh tác theo hướng hữu cơ, VietGAP… Dự kiến, sản lượng bưởi tại TX.Phú Mỹ cung cấp cho thị trường Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025 khoảng 8.000 tấn.

Ông Hồ Hoàng Kha, Phó Giám đốc HTX Bưởi da xanh Sông Xoài (TX.Phú Mỹ) cho biết, nhờ áp dụng quy trình VietGAP xử lý cho trái bưởi ra hoa và thu hoạch đúng dịp Tết nên làm tăng giá trị của trái bưởi. Đây là dịp nhu cầu tiêu thụ bưởi nhiều nhất, giá cũng cao nhất trong năm. Dự báo vụ bưởi Tết năm nay của bà con nông dân rất khả quan, sản lượng có thể tăng gấp rưỡi. Bên cạnh đó, giá bưởi đang được thương lái thu mua tại vườn khoảng 22 ngàn đồng/kg, tăng gần gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái, là động lực bước đầu để người trồng bưởi tập trung chăm sóc nhằm cung cấp cho thị trường Tết những trái bưởi đẹp và chất lượng.

Bài, ảnh: ĐÔNG HIẾU-BÙI TRƯỞNG

 

Sơn La: Liên kết sản xuất, tăng giá trị, đem lại thu nhập cao cho nông dân

 

Nguồn tin: Báo Chính Phủ

Tăng cường liên kết, áp dụng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, các sản phẩm nông sản của HTX Nông nghiệp Mường Bú, xã Mường Bú, huyện Mường La, tỉnh Sơn La được cung cấp vào các hệ thống siêu thị, cửa hàng nông sản sạch, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu.

 

 

Thành viên HTX Nông nghiệp Mường Bú, huyện Mường La, tỉnh Sơn La trao đổi kỹ thuật chăm sóc cây trồng sau thu hoạch - Ảnh: VGP/LS

Nhận thấy nhu cầu ngày càng cao của người dân về thực phẩm sạch, an toàn, tháng 8/2019, ông Vũ Đăng Kế đã liên kết cùng một số anh em, bạn bè có kinh nghiệm trong sản xuất góp vốn thành lập HTX Nông nghiệp Mường Bú với 9 thành viên. Đến nay, HTX có 14 thành viên; sản xuất 58 ha cây ăn quả các loại gồm: 18 ha xoài, 12 ha nhãn, 16 ha táo đại, còn lại là cam, bưởi, mít...

Bước vào hoạt động, Ban Giám đốc HTX đã tuyên truyền, vận động các thành viên ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Đồng thời, bàn bạc xây dựng kế hoạch sản xuất phù hợp, lựa chọn các loại cây trồng thích ứng với điều kiện thổ nhưỡng, nhu cầu thị trường. Phối hợp với các cơ quan chuyên môn hướng dẫn quy trình chăm sóc, thu hái, bảo quản sản phẩm theo tiêu chuẩn VietGAP; xây dựng và thiết kế bao bì, nhãn mác, tem truy xuất nguồn gốc cho sản phẩm cây ăn quả; tổ chức cách thức tiếp cận thị trường tiêu thụ sản phẩm...

Chia sẻ về quá trình đưa sản phẩm vào hệ thống siêu thị, ông Vũ Đăng Kế, Giám đốc HTX Nông nghiệp Mường Bú, cho biết: Duy trì việc tiêu thụ nông sản trong hệ thống siêu thị được xác định rõ 2 yếu tố cần thiết, bảo đảm chất lượng và sản lượng. Để làm được điều này, trong quá trình sản xuất, các thành viên HTX luôn tuân thủ nghiêm ngặt quy trình theo tiêu chuẩn VietGAP.

Đồng thời, tính toán kỹ lịch thời vụ, gối vụ để liên tục có sản phẩm cung ứng cho thị trường. Đảm bảo chất lượng sản phẩm khi tiêu thụ, HTX chủ động đầu tư kho lạnh, phương tiện vận chuyển nông sản. Trong mỗi đợt thu hoạch, HTX đều tổ chức test mẫu sản phẩm theo quy định.

Ông Cà Văn Chôm, thành viên HTX Nông nghiệp Mường Bú, chia sẻ: Gia đình tôi có 6 ha trồng cây ăn quả các loại, như: Xoài, nhãn, táo đại... Tuy nhiên, sản xuất quy mô hộ gia đình khả năng cạnh tranh không cao, nên năm 2019, gia đình tôi đã tham gia HTX. Đến nay, 6 ha cây ăn quả của gia đình tuân thủ quy trình sản xuất an toàn đã cam kết, sản phẩm đạt sản lượng và chất lượng cao hơn trước. Trung bình mỗi năm gia đình tôi thu trên 60 tấn các loại quả, trừ chi phí thu lãi 200 triệu đồng.

Thời điểm này, các thành viên HTX đang tập trung cắt tỉa, làm cỏ, bón phân cho cây nhãn, xoài sau thu hoạch; chăm sóc diện tích táo đại trái vụ. Theo chia sẻ của các thành viên, việc sản xuất theo quy trình VietGAP là xu thế, yêu cầu của thị trường, nên ai cũng áp dụng. Nếu không sản phẩm sản xuất ra sẽ khó cạnh tranh và giá bán thấp.

Các khâu từ làm đất đến tỉa cành, tạo tán, bón phân, bao trái... đều đảm bảo đúng kỹ thuật và có sổ theo dõi định kỳ. Nhờ áp dụng biện pháp sản xuất an toàn, các sản phẩm nông sản của HTX Nông nghiệp Mường Bú đã tiếp cận thị trường và được người tiêu dùng lựa chọn. Đến nay, 58 ha cây ăn quả của HTX đều được cấp chứng nhận VietGAP.

Mở rộng thị trường tiêu thụ, HTX chủ động đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử, giúp người mua tìm kiếm, tiếp cận sản phẩm nhanh. Từ đầu năm đến nay, HTX đã bán 350 tấn quả các loại, chủ yếu là xoài, nhãn, ổi. Hầu hết sản phẩm được tiêu thụ nội địa, thông qua chuỗi liên kết với hệ thống các siêu thị, trung tâm thương mại, các chợ đầu mối trong nước và xuất khẩu sang các thị trường Trung Quốc, Đài Loan... HTX đã tạo việc làm ổn định cho thành viên, thu nhập trung bình đạt 200 triệu đồng/thành viên/năm.

HTX Nông nghiệp Mường Bú đang tiếp tục liên kết sản xuất; tìm kiếm mở rộng thị trường, ký kết các hợp đồng bao tiêu sản phẩm với các doanh nghiệp, chuỗi siêu thị... Trong quá trình phát triển, HTX rất mong các cấp, ngành tạo điều kiện cho các thành viên được tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi, tham gia hoạt động quảng bá, giới thiệu sản phẩm, tạo thị trường tiêu thụ ổn định, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

LS

 

Lần đầu tiên Thái Bình có sản phẩm lúa được cấp chứng nhận hữu cơ

Nguồn tin: Báo Thái Bình

Sáng ngày 18/10, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức hội nghị tổng kết mô hình sản xuất lúa hữu cơ gắn với liên kết, tiêu thụ sản phẩm tại xã Thụy Thanh (Thái Thụy, Thái Bình).

 

 

Các đại biểu thăm lúa tại mô hình.

Nhằm xây dựng được những vùng chuyên sản xuất lúa hữu cơ, xây dựng thương hiệu nông sản Thái Bình; đưa sản xuất trồng trọt của tỉnh phát triển bền vững theo hướng sản xuất an toàn với quy mô hàng hóa, ứng dụng công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào sản xuất nâng cao giá trị kinh tế; sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên đất trồng lúa, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật sản xuất lúa hữu cơ đến các địa phương trong tỉnh, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng mô hình sản xuất lúa hữu cơ với quy mô 11ha tại xã Thụy Thanh (Thái Thụy).

Theo đó, vùng sản xuất lúa được lựa chọn sản xuất lúa theo tiêu chuẩn hữu cơ, áp dụng hoàn toàn quy trình sản xuất hữu cơ theo Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 11041:2017 về nông nghiệp hữu cơ; áp dụng phương pháp mạ khay máy cấy, dùng phân bón cho sản xuất hữu cơ, thực hiện các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp trên diện rộng.

Qua quá trình theo dõi, đánh giá cho thấy, khi sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ, năng suất lúa đạt khoảng 50 – 60% so với sản xuất lúa thâm canh, đạt từ 31 – 42 tạ/ha/vụ. Qua 3 năm, 6 vụ sản xuất, mô hình cho thấy canh tác lúa hữu cơ đã dần cải tạo đất, tăng sức khỏe cây trồng và khả năng chống chịu với các đối tượng sâu, bệnh hại, loại bỏ dư lượng các chất hóa học tồn dư trong nông sản, nâng cao chất lượng nông sản.

Bên cạnh việc đánh giá hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội của mô hình, hội nghị cũng nhìn nhận những thuận lợi, khó khăn trong sản xuất hữu cơ. Từ những hiệu quả mô hình, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị tiếp tục duy trì, mở rộng mô hình sản xuất lúa hữu cơ tại xã Thụy Thanh (Thái Thụy) và xây dựng một số mô hình điểm ở những địa phương khác với quy mô diện tích tập trung làm cơ sở tuyên truyền giúp người dân nhận thức đầy đủ, ý nghĩa của sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Đồng thời đề nghị các địa phương quan tâm nâng cấp hệ thống thủy lợi, cơ sở hạ tầng phục vụ công tác quy vùng, thúc đẩy sản xuất hữu cơ.

Tại hội nghị, đơn vị chứng nhận đã trao chứng nhận sản phẩm được sản xuất phù hợp với tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ cho mô hình. Đây cũng là địa phương đầu tiên của tỉnh có sản phẩm lúa được cấp chứng nhận hữu cơ.

Ngân Huyền

 

Thừa Thiên Huế: Kiệu Hương Chữ với hành trình tìm lại thương hiệu

 

Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế

Kiệu Hương Chữ (TX. Hương Trà, Thừa Thiên Huế) từ lâu nổi tiếng là giống kiệu củ nhỏ, giòn, cay, thơm nồng nhưng không hăng rất đặc trưng mà các vùng khác không có được. Dẫu vậy, với nhiều yếu tố, giống kiệu quý đang gần như biến mất trên vùng đất này.

 

 

Thu hoạch kiệu sau thời gian trồng thử nghiệm

Khoảng 10 năm về trước, ngoài thị trường trong tỉnh, kiệu Hương Chữ còn được đóng gói, ép chân không bày bán ở một số siêu thị, tỉnh, thành lân cận. Tuy nhiên, sau một thời gian, thay vì “cháy hàng” như kỳ vọng đã xuất hiện than phiền mùi kiệu rất nặng và “vương vấn” khá lâu nếu ở trong môi trường kín, có điều hòa, như trong siêu thị, trong cốp xe… khiến việc mở rộng thị trường đành gác lại.

Bên cạnh đó, khoảng 5-7 năm trở lại đây, nhiều người dân địa phương chuyển sang trồng kiệu cao sản (còn gọi là kiệu trâu). Giống kiệu này được lấy từ miền Nam, tuy không cay, thơm bằng nhưng mẫu mã đẹp, củ to tròn, năng suất cao, giá bán tương đương khiến diện tích kiệu Hương Chữ dần bị thu hẹp. Và đến nay, giống kiệu quý này gần như tuyệt tích ngay trên quê hương mình.

“Qua khảo sát, hiện chỉ còn một số ít người địa phương trồng rải rác trong vườn nhà với diện tích không đáng kể. Từ chỉ đạo của thị xã, chúng tôi đã đến từng nhà thu thập, nhân giống, từ đó lên phương án phục hồi lại giống kiệu Hương Chữ chính gốc”, ông Đoàn Phước Lễ - Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp TX. Hương Trà cho hay.

Từ những gốc kiệu ít ỏi được nhân giống, sau khi tiến hành khảo sát, chọn đất, tập huấn kỹ thuật, cung cấp giống, phân bón, vật tư…, đến tháng 6/2024, Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp TX. Hương Trà cùng 20 hộ dân tham gia chính thức xuống giống mô hình “Trồng kiệu theo hướng VietGAP” tại xứ đồng Ông Hồng (P. Hương Chữ) diện tích tập trung 1ha, với mục đích phục hồi, tiến tới đăng ký thương hiệu cho cây kiệu Hương Chữ.

Theo ông Lễ, quá trình trồng không phải mọi thứ đều thuận lợi. Thời gian đầu kiệu phát triển khá tốt, nhưng đến tháng thứ 2, cây kiệu có hiện tượng bị sâu, giòi đục thân, khiến cây ngừng sinh trưởng, củ nhỏ. Đến tháng thứ 3, tỷ lệ bệnh thối củ gây hại khoảng 10-15%. Trước tình trạng này, Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp TX. Hương Trà đã hướng dẫn người trồng dùng các loại thuốc đã cấp phát để phun phòng trừ.

Sau khoảng 4 tháng chờ đợi trong hồi hộp, đến kỳ thu hoạch, lượng kiệu thu được khoảng 8 tấn/ha, trừ mọi chi phí, lãi thu về từ 70-80 triệu đồng. “Do đây là mô hình kiệu trái vụ, điều kiện thời tiết không thích hợp bằng chính vụ nên năng suất đạt chưa cao. Nếu chính vụ (chủ yếu trồng vào tháng 9 đến tháng 1 năm sau) thì năng suất và lãi còn cao hơn nhiều, nhất là khi bán trúng dịp Tết. Nói chung, thu nhập từ kiệu trên chân đất này so với một số loại cây trồng khác vẫn đem lại hiệu quả kinh tế hơn”, ông Đoàn Phước Lễ nhận định.

Ông Trần Xuân Anh – Trưởng phòng Kinh tế TX. Hương Trà cho hay, thời gian tới, phòng sẽ tham mưu thị xã, từ đó mở các lớp tập huấn về xử lý, đóng gói sản phẩm thay vì hút chân không như trước; tiếp tục hỗ trợ người trồng kiệu Hương Chữ kết nối, tìm kiếm, mở rộng thị trường; đồng thời, đề nghị địa phương phổ biến thông tin, hướng dẫn kỹ thuật cho các hộ khác làm theo để nâng cao nhận thức về sản xuất an toàn rau màu nói chung, kiệu Hương Chữ nói riêng…, qua đó, góp phần tiếp tục thực hiện chủ trương tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng tăng giá trị, nâng cao chất lượng sản phẩm.

Cũng theo ông Trần Xuân Anh, tuy 1ha kiệu trồng theo hướng VietGAP ở xứ đồng Ông Hồng vẫn đang mang tính thử nghiệm, dẫu vậy, thành công bước đầu đã cho thấy triển vọng về sự trở lại của thương hiệu kiệu Hương Chữ trên thị trường khi mô hình này đã giúp người dân nắm bắt được các kỹ thuật, như: Chọn giống, xử lý giống, làm đất, sử dụng phân, thuốc bảo vệ thực vật… Bên cạnh đó, là cam kết của siêu thị GO! Huế đồng ý để kiệu Hương Chữ có mặt trên các kệ hàng trong hệ thống của mình nếu sản phẩm làm ra đạt các tiêu chuẩn an toàn theo quy định.

Đây cũng là cơ sở để Hương Trà mở rộng diện tích trồng kiệu Hương Chữ theo tiêu chuẩn VietGAP, tiến tới đăng ký thương hiệu cho sản phẩm kiệu Hương Chữ trong thời gian tới.

Bài, ảnh: ĐĂNG MINH

 

Cà Mau: Tận dụng vườn tạp trồng lúa sạch

 

Nguồn tin: Báo Cà Mau

Thay vì tận dụng bờ bao vuông tôm và phần đất trống quanh nhà trồng rau màu để tăng thu nhập, hiện nhiều hộ tại ấp Trần Ðộ, xã Thạnh Phú có cách làm sáng tạo, đó là chuyển đổi sang trồng lúa sạch 2 vụ/năm, phục vụ nhu cầu đời sống hằng ngày cho gia đình. Mô hình này đang được chính quyền địa phương vận động bà con nông dân nhân rộng.

Mô hình tận dụng vườn tạp, phần đất trống quanh nhà để gieo sạ lúa được bà con nông dân ấp Trần Ðộ thử nghiệm năm 2023 và thu hoạch đạt năng suất khá cao. Vụ mùa năm nay, bà con tiếp tục nhân rộng, chọn giống lúa nhóm A gieo sạ (có thời gian sinh trưởng trên dưới 100 ngày), để rút ngắn thời gian cho thu hoạch và lấp lại vụ 2.

Hộ ông Nguyễn Thanh Liêm tận dụng phần đất vườn tạp gần nhà với khoảng 1.000 m2, chọn giống lúa ST25 gieo sạ ngay sau khi mùa mưa bắt đầu. Trong suốt quá trình gieo sạ trên phần đất vườn tạp, ông hạn chế tối đa việc sử dụng phân bón và tuyệt đối không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Tuy vậy, cây lúa vẫn sinh trưởng, phát triển khá tốt, đang trong giai đoạn chín rộ, sẵn sàng cho thu hoạch và sẽ được lấp lại vụ 2.

 

 

Ông Liêm chia sẻ: “Phần đất vườn tạp hiện đang trồng lúa, trước đây là đầm tôm công nghiệp kém hiệu quả, được gia đình san lấp và thường xuyên phát sinh cỏ dại. Năm 2023, gia đình gieo sạ thử nghiệm trồng lúa, lúa phát triển khá tốt, thu hoạch năng suất đạt cao hơn so với ruộng lúa - tôm. Năm nay gia đình tiếp tục duy trì gieo sạ theo hình thức trồng 2 vụ lúa/năm. Tuy nhiên, do số lượng hộ dân tận dụng vườn tạp gieo sạ lúa chưa nhiều, khi cây lúa bước vào giai đoạn trổ và chín thường xuyên bị chim chuột tấn công gây hại, phần nào ảnh hưởng đến năng suất. Nếu mô hình này được phổ biến, nhân rộng, có nhiều người làm thì sẽ hạn chế được chim chuột phá”.

Tận dụng phần đất trống gần nhà với diện tích khoảng 300 m2, gieo sạ vụ lúa và đã thu hoạch, hiện hộ ông Phan Văn Quận đang khẩn trương cải tạo theo hình thức thủ công, giúp đất thêm tơi xốp và lấp lại vụ 2. Ông Quận cho biết: “Mặc dù diện tích đất trống gần nhà không nhiều nhưng gieo sạ vụ lúa cũng cho thu hoạch hơn 10 giạ, đảm bảo nguồn lương thực cho gia đình khoảng nửa năm. Sạ lại vụ 2, năng suất từ bằng hoặc cao hơn vụ 1, coi như gia đình không phải tốn chi phí mua gạo ăn cả năm”.

Cũng ở ấp Trần Ðộ, hộ ông Sử Văn Giang không chỉ tận dụng tối đa phần đất trống quanh nhà, kể cả diện tích trước sân để trồng lúa, với diện tích hơn 1.000 m2, lúa đang phát triển khá tốt. “Thay vì không trồng lúa, cỏ dại mọc um tùm, phải tốn công sức và thời gian phát dọn; trồng lúa mang lại nhiều lợi ích cho gia đình, làm đẹp cảnh quan môi trường nông thôn, có lúa gạo ăn, không phải tốn tiền mua và khỏi phải phát dọn cỏ thường xuyên”, ông Giang chia sẻ.

 

Hộ ông Sử Văn Giang tận dụng tối đa phần đất trống quanh nhà và trước sân để gieo sạ lúa.

Hộ ông Sử Văn Giang tận dụng tối đa phần đất trống quanh nhà và trước sân để gieo sạ lúa.

Theo tính toán của bà con nông dân ấp Trần Ðộ, đối với mỗi hộ gia đình ở vùng nông thôn, nếu tận dụng từ 300-500 m2 vườn tạp, phần đất trống quanh nhà trồng 2 vụ lúa/năm thì sẽ thu hoạch từ 20-30 giạ lúa, đảm bảo nguồn lương thực cung cấp cho gia đình (với sản phẩm lúa sạch, an toàn sức khoẻ, không phải tốn tiền mua gạo hằng ngày), thậm chí dư thừa dùng phát triển nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm tăng thu nhập.

Ông Trương Minh Luân, Trưởng ấp Trần Ðộ, cho biết, mô hình tận dụng vườn tạp, phần đất trống quanh nhà trồng lúa cho năng suất khá cao, được bà con nông dân trên địa bàn ấp trồng thử nghiệm năm 2023 và vụ mùa năm 2024 đang được duy trì. Chính quyền địa phương sẽ tiếp tục tuyên truyền, vận động bà con nông dân nhân rộng trong những năm tiếp theo. Bởi với mô hình này, cây lúa phát triển khá tốt, bà con không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật phòng ngừa sâu bệnh, tạo ra sản phẩm lúa sạch có lợi cho sức khoẻ và đáp ứng nhu cầu đời sống./.

Việt Tiến

 

Vĩnh Long: Diện tích khoai lang Bình Tân ngày càng giảm

 

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

Theo Phòng Nông nghiệp-PTNT huyện Bình Tân (Vĩnh Long), khoai lang được xác định là loại màu chủ lực của huyện, vào những năm đỉnh điểm, diện tích dao động từ 13.000-14.000ha, sản lượng đạt gần 400.000 tấn/năm.

Tuy nhiên, kể từ sau khi chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, tình hình xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, giá cả bấp bênh, người trồng không có lời nên không mặn mà tái sản xuất trở lại, khiến diện tích ngày càng giảm.

Riêng 9 tháng của năm 2024, toàn huyện xuống giống 813ha khoai lang, giảm 220ha so cùng kỳ; trong đó, khoai lang tím 330ha.

Theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Bình Tân, nhiệm kỳ 2020-2025, khoai lang vẫn là 1 trong 3 cây trồng chủ lực của huyện, do đó, trong các năm qua, huyện đã phối kết hợp với các đơn vị, công ty, viện, trường ĐH… tổ chức các chương trình, dự án, mô hình nhằm bảo vệ, duy trì, phát triển và nâng cao diện tích, năng suất khoai lang.

Đồng thời, vận động người dân ứng dụng khoa học- công nghệ vào sản xuất, cũng như sản xuất theo hướng GAP, chứng nhận an toàn thực phẩm, thực hiện mã số vùng trồng, có truy xuất nguồn gốc để tạo ra sản phẩm sạch, đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu, với giá cả và thu nhập ổn định cho người trồng.

Để từ đó, từng bước phục hồi “thủ phủ khoai lang Bình Tân” trước đây.

TRUNG THÀNH (Bình Tân)

 

Lào Cai có 1 nông dân và 1 hợp tác xã nông nghiệp được vinh danh toàn quốc

 

Nguồn tin:  Báo Lào Cai

Trung ương Hội Nông dân Việt Nam vừa tổ chức tôn vinh 63 nông dân Việt Nam xuất sắc và 63 hợp tác xã nông nghiệp tiêu biểu toàn quốc năm 2024.

Sự kiện thuộc chuỗi hoạt động của Chương trình “Tự hào nông dân Việt Nam” nhân kỷ niệm 94 năm ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 - 14/10/2024).

Tỉnh Lào Cai có Hợp tác xã Thịnh Phong, xã Bản Lầu (huyện Mường Khương) được vinh danh “Hợp tác xã nông nghiệp tiêu biểu toàn quốc” và ông Nguyễn Văn Hợp ở thị trấn Nông trường Phong Hải (huyện Bảo Thắng) được vinh danh “Nông dân Việt Nam xuất sắc” năm 2024.

Hợp tác xã Thịnh Phong hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực trồng trọt, thu mua nông sản, cung ứng vật tư nông nghiệp, chăn nuôi. Hiện hợp tác xã liên kết với nông dân địa phương trồng 35 ha dứa; tiêu thụ hơn 5.000 tấn quả dứa/vụ cho nông dân trong vùng. Doanh thu năm 2023 của hợp tác xã đạt 1,6 tỷ đồng. Năm 2020, đơn vị đạt danh hiệu thi đua của Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Lào Cai về hợp tác xã điển hình.

 

 

Ông Nguyễn Văn Hợp, thị trấn Nông trường Phong Hải (Bảo Thắng) được vinh danh “Nông dân Việt Nam xuất sắc” năm 2024.

Ông Nguyễn Văn Hợp ở thị trấn Nông trường Phong Hải (Bảo Thắng) với mô hình chăn nuôi thủy sản, sản xuất cá giống tại chỗ. Bên cạnh phát triển kinh tế gia đình, ông Hợp tích cực tuyên truyền, hướng dẫn người dân trong thôn và địa phương phát triển kinh tế từ nuôi thủy sản, giúp đỡ hơn 60 gia đình vươn lên thoát, làm giàu từ nuôi cá theo hướng công nghiệp.

Gia đình ông là địa chỉ tin cậy để Nhân dân trong và ngoài vùng nghiên cứu, học tập kinh nghiệm, đồng thời bao tiêu sản phẩm cá cho người dân. Ông thường xuyên chuyển giao kỹ thuật, hướng dẫn các hộ trong và ngoài huyện nuôi cá thương phẩm, điều tiết sản lượng hằng tháng để ổn định đầu ra sản phẩm, cung ứng cho thị trường.

Với cương vị Giám đốc Hợp tác xã Thủy sản Phong Hải, ông đã chủ động xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh và hướng dẫn, định hướng chăn nuôi cho các xã viên; tạo việc làm ổn định cho 20 xã viên; doanh thu nuôi thủy sản của gia đình các xã viên đạt từ 200 triệu đồng/năm trở lên; ngoài ra tạo việc làm cho 25 - 30 lao động thời vụ tại địa phương với mức thu nhập ổn định.

Kim Thoa

 

Nông dân dám nghĩ, dám làm

 

Nguồn tin:  Báo Long An

Thời gian qua, phong trào Nông dân (ND) thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững thu hút đông đảo cán bộ, hội viên, ND tham gia. Qua đó, tạo động lực khích lệ ND hăng hái thi đua lao động, sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi hiệu quả, góp phần thúc đẩy KT-XH phát triển.

Mô hình mới hiệu quả

Với tính cần cù, chịu thương, chịu khó và biết áp dụng những tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, mô hình trồng tre lấy măng của ông Trang Văn Thanh (ấp 1, xã Quê Mỹ Thạnh, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An) mang lại hiệu quả cao.

Nhận thấy hiệu quả kinh tế từ cây thanh long không cao, giá cả bấp bênh, năm 2022, ông Thanh mạnh dạn chuyển đổi 4.000m2 đất trồng thanh long sang trồng tre lấy măng. Ông đầu tư gần 20 triệu đồng xây dựng hệ thống tưới, thuê nhân công làm đất và mua 450 gốc tre tứ quý về trồng.

 

 

Mô hình trồng tre lấy măng của ông Trang Văn Thanh (ấp 1, xã Quê Mỹ Thạnh, huyện Tân Trụ) là mô hình mới, bước đầu cho hiệu quả

Đến nay, vườn tre trồng lấy măng của ông Thanh được 2 năm. Ông Thanh cho biết, tre dễ trồng, nhẹ công chăm sóc, chỉ cần tưới nước, bón phân đầy đủ, thường xuyên bồi đất vào gốc là có thể sinh trưởng và phát triển tốt. Trong canh tác, ND cần thường xuyên tỉa cành dư để tạo môi trường thông thoáng; mỗi bụi tre chỉ để từ 4-5 cây để nuôi măng. Sau khoảng 1 năm trồng, tre sẽ cho thu hoạch măng, sản lượng tăng dần theo từng năm.

“Măng tre cao khoảng 30cm là có thể thu hoạch (từ 1,2-2kg/mục). Măng tre cho thu hoạch quanh năm (mùa thuận, giá bán dao động từ 10.000-15.000 đồng/kg, mùa nghịch từ 25.000-35.000 đồng/kg). Hiện mỗi ngày, gia đình tôi thu hoạch khoảng 50kg măng tre, giá bán cho thương lái từ 10.000-15.000 đồng/kg, lợi nhuận từ 500.000-700.000 đồng/ngày. Hiện nay, thị trường tiêu thụ măng tre khá ổn định, thu hoạch xong bán rất nhanh” - ông Thanh cho biết.

Thấy trồng tre mang lại hiệu quả kinh tế cao, đầu ra ổn định, năm 2023, ông Thanh tiếp tục lên liếp 4.000m2 đất trồng thêm 400 gốc tre và hiện nay cũng cho thu hoạch. Đồng thời, ông ươm dưỡng tre giống bán cho ND ở các tỉnh: Tây Ninh, Đồng Tháp, Bình Phước,... Trung bình mỗi tháng, ông bán từ 500-1.000 cây tre giống, với giá 30.000 đồng/cây, thu lợi nhuận khoảng 20 triệu đồng.

Chủ tịch Hội ND xã Quê Mỹ Thạnh, huyện Tân Trụ - Lê Văn Lợi cho biết: “Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi là một trong những giải pháp góp phần nâng cao thu nhập cho ND. Gần đây, ND mạnh dạn chuyển đổi hàng chục hécta đất sản xuất lúa kém hiệu quả sang trồng các loại cây trồng khác (dừa, thanh long, bưởi, mãng cầu), trong đó có mô hình trồng tre lấy măng của ông Trang Văn Thanh. Mô hình chuyển đổi bước đầu mang lại hiệu quả khả quan, mở ra hướng đi mới, có nhiều triển vọng cho ND trong xã”.

Mạnh dạn chuyển đổi vật nuôi

Với tinh thần “dám nghĩ, dám làm”, ông Huỳnh Văn Tài (khu phố 2, phường 1, thị xã kiến Tường) tìm cho mình hướng đi mới trong phát triển kinh tế, đó là mô hình Nuôi ong lấy mật. Sau khi nhiều năm tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm từ một số hộ nuôi ong ở địa phương, năm 2018, ông Tài quyết định khởi nghiệp, mua 20 thùng ong (40 triệu đồng) về nuôi. Lúc đầu, do chưa có kinh nghiệm trong chăn nuôi ong nên thu nhập không cao, thậm chí ông Tài bị thua lỗ. Thế nhưng, ông không nản chí, chịu khó tìm tòi, học hỏi trên sách báo, Internet, từ đó thực hiện quy trình sản xuất vừa nuôi, vừa rút kinh nghiệm nên mô hình nuôi ong dần phát triển.

Ông Tài cho biết, để đàn ong khỏe mạnh, cho năng suất, chất lượng mật cao, đòi hỏi sự khéo léo của người nuôi, nhất là phải thường xuyên kiểm tra, vệ sinh để thùng ong luôn khô ráo, sạch sẽ. Trong quá trình kiểm tra đàn ong, người nuôi phải hết sức nhẹ nhàng, cẩn thận để đàn ong không bị xáo trộn. Người nuôi phải am hiểu tập tính của ong, mùa nào có nguồn hoa tràm dồi dào thu lấy mật, mùa nào nuôi dưỡng ong. Ngoài ra, muốn cho đàn ong phát triển mạnh, người nuôi phải nắm vững kỹ thuật tách đàn, tạo ong chúa, lấy mật.

Ông Tài hiện nuôi gần 60 thùng ong mật, trung bình mỗi năm cho thu hoạch khoảng 7 tháng (từ tháng 4 đến tháng 11). Mỗi tháng, ong cho thu hoạch 2 lần, khoảng 200-300 lít mật (tùy theo thời tiết); mỗi năm, trừ chi phí, thu nhập hơn 70 triệu đồng. Đặc biệt, sản phẩm mật ong của ông được địa phương công nhận sản phẩm OCOP 3 sao mang thương hiệu Thành Tài.

Không những thế, ông còn mạnh dạn áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất 4ha lúa, thu nhập hơn 150 triệu đồng/năm. Từ những cách làm hay, tiên tiến trong sản xuất, chăn nuôi, nhiều năm liền, ông Huỳnh Văn Tài được công nhận danh hiệu ND thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi cấp tỉnh, huyện.

Dám nghĩ, dám làm

Sau thời gian học hỏi kinh nghiệm từ những hộ dân trồng bưởi ở các địa phương lân cận, năm 2019, anh Huỳnh Văn Nhứt (ấp Láng Biển, xã Hưng Điền, huyện Vĩnh Hưng) mạnh dạn đầu tư gần 20 triệu đồng lên liếp và mua 150 cây bưởi da xanh về trồng trên 0,5ha đất lúa kém hiệu quả của gia đình.

Sau gần 4 năm, diện tích bưởi của gia đình anh bắt đầu cho thu hoạch. Năm 2023, thu hoạch được 6 tấn bưởi với giá trung bình từ 15.000-20.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, anh thu về lợi nhuận gần 100 triệu đồng, gấp nhiều lần so với trồng lúa.

Theo anh Nhứt, ngoài việc lựa chọn giống cây phù hợp thì chăm sóc đúng kỹ thuật là yếu tố quan trọng giúp cây mang lại hiệu quả kinh tế bền vững. Cây bưởi nên trồng với mật độ vừa phải, khoảng cách lý tưởng là 5x5m/cây, bình quân 1ha đất trồng khoảng 250-300 cây.

Anh Nhứt còn lắp hệ thống tưới nước tự động, vừa tiết kiệm được tiền thuê nhân công, vừa bảo đảm cây được tưới đều với lượng nước vừa đủ. Cây bưởi từ lúc trồng đến khi thu hoạch từ 3-4 năm và chi phí đầu tư khoảng 1-1,2 triệu đồng/cây. Thấy cây bưởi thích nghi với thổ nhưỡng, năm 2024, anh Nhứt tiếp tục lên liếp 0,3ha đất trồng thêm 80 cây và số diện tích này đang phát triển tốt.

Chủ tịch UBND xã Hưng Điền, huyện Tân Hưng - Trần Văn Cường cho biết: “Thời gian qua, phong trào ND thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững thu hút đông đảo cán bộ, hội viên, ND tham gia. Xã luôn quan tâm, tạo điều kiện cho ND tiếp cận nguồn vốn vay, phối hợp ngành chức năng chuyển giao khoa học - kỹ thuật tiên tiến, đặc biệt là tổ chức cho ND tham quan thực tế các mô hình sản xuất hiệu quả. Qua đó, nhiều ND chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi mang lại hiệu quả kinh tế, thu về lợi nhuận, mở ra hướng đi mới, dần phá thế độc canh cây lúa”./.

Văn Đát

 

Cải tạo đất để nâng cao hiệu quả canh tác lúa

 

Nguồn tin:  Báo Cần Thơ

Vùng ÐBSCL được xem là "vựa lúa" của cả nước, nơi cung cấp phần lớn lượng gạo phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, đất canh tác lúa trong vùng đang đối mặt với tình trạng mất cân đối dinh dưỡng bởi khai thác đất chưa đúng cách, cũng như do thâm canh, tăng vụ và lạm dụng phân vô cơ. Biến đổi khí hậu (BÐKH) và xâm nhập mặn cũng đang tác động đến tính chất của đất, làm ảnh hưởng năng suất lúa. Ðể ổn định và nâng cao được hiệu quả sản xuất lúa, ngành chức năng cần quan tâm hỗ trợ, hướng dẫn nông dân thực hiện các giải pháp cải tạo, bồi bổ dinh dưỡng cho đất và sử dụng phân bón hợp lý.

 

 

Áp dụng cơ giới hóa trong làm đất và gieo sạ lúa tại Viện Lúa ÐBSCL ở huyện Thới Lai, TP Cần Thơ.

Ðất bị mất cân đối dinh dưỡng

Với diện tích đất trồng lúa trên 1,5 triệu héc-ta, diện tích gieo trồng hằng năm trên 3 triệu héc-ta, hằng năm vùng ÐBSCL đóng góp 50% tổng sản lượng gạo và 90% lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Tuy nhiên, theo nhiều báo cáo, đánh giá tại các hội thảo, vùng ÐBSCL đang chịu nhiều tác động của BÐKH, nước biển dâng, xâm nhập mặn ngày càng nghiêm trọng. Ðiều này ảnh hưởng trực tiếp đến tính chất của đất, tác động đến năng suất lúa và đời sống bà con nông dân. Việc đẩy cao cường độ thâm canh, tăng vụ, sử dụng phân bón vô cơ chưa cân đối, chưa tuân thủ các quy trình canh tác tiên tiến đã làm mất cân bằng dinh dưỡng trong đất, làm ảnh hưởng đến các tính chất lý, hóa và sinh học của đất. Ðất lúa trong vùng cũng đối mặt với tình trạng mất cân đối dinh dưỡng do khai thác đất chưa đúng cách và chưa quan tâm đúng mức đến việc cải tạo, bồi bổ dinh dưỡng cho đất.

Một số kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy, đất ở ÐBSCL xét về độ phì, về tổng số hàm lượng đạm, lân, kali, magie (Mg), canxi (Ca)… chưa bị giảm đến ngưỡng chúng ta phải báo động nhưng hàm lượng các dưỡng chất "dễ tiêu" cho cây trồng ngày càng giảm dần. Theo GS.TS Nguyễn Bảo Vệ, nguyên Trưởng khoa Nông nghiệp, Trường Ðại học Cần Thơ, để đánh giá thực trạng về dinh dưỡng của đất canh tác lúa tại ÐBSCL, Chương trình canh tác lúa thông minh thích ứng với BÐKH vùng ÐBSCL do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp Công ty Cổ phần phân bón Bình Ðiền và các địa phương thực hiện trong giai đoạn từ 2016-2022 đã thu thập 76 mẫu đất tại ÐBSCL. Qua đó, đã phân tích 8 chỉ tiêu về độ phì nhiêu của đất, kết quả cho thấy hàm lượng Ca và Mg đủ cho nhu cầu của lúa, nhưng mất cân đối giữa Ca và Mg. Ðất tại nhiều nơi cũng có độ chua và độ mặn lớn, ảnh hưởng đến việc hấp thu dinh dưỡng của cây trồng. Hàm lượng chất hữu cơ trong đất không giảm mà tăng, nhưng giảm chất lượng làm đất thoái hóa, lúa bị dễ bị ngộ độc hữu cơ. Ðây là vấn đề chúng ta cần phải quan tâm trong quản lý độ phì của đất. Lân và kali trong đất vẫn còn dồi dào nhưng hàm lượng lân và kali "dễ tiêu" cho cây lúa bị giảm mạnh và có xu hướng còn giảm.

Cần giải pháp đồng bộ

Cục Trồng trọt thuộc Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) vừa phối hợp Hiệp hội ngành hàng lúa gạo Việt Nam và Công ty Cổ phần phân bón Bình Ðiền tổ chức Hội thảo Quốc gia "Ðất và phân bón" lần thứ nhất năm 2024, với chủ đề "Thực trạng độ phì nhiêu đất lúa vùng ÐBSCL và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón trong canh tác lúa" ở TP Cần Thơ. Tại hội thảo, các đại biểu đã tập trung phân tích, làm rõ thực trạng về đất lúa và việc canh tác lúa tại ÐBSCL, cũng như tác động của BÐKH và các điều kiện sản xuất bất lợi. Qua đó, đã thảo luận, đề xuất nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón trong canh tác, cũng như thực hiện các biện pháp để bảo vệ, cải tạo, phục hồi độ phì nhiêu của đất canh tác lúa. Nhiều đại biểu cho rằng, để cải tạo đất và nâng cao hiệu quả sản xuất lúa, các bộ ngành, địa phương cùng với nông dân, doanh nghiệp và các bên có liên quan cần tích cực vào cuộc để triển khai đồng bộ các giải pháp, kịp thời nhân rộng các mô hình và cách làm hay. Trong đó, chú ý "sức khỏe" của đất và nghiên cứu về dinh dưỡng của đất, thực hiện tốt các giải pháp về làm đất, thực hiện cách ly thời vụ, sử dụng phân bón tiết kiệm và hiệu quả, tránh tình trạng lạm dụng phân bón hóa học. Quản lý, xử lý tốt rơm rạ bằng vi sinh để tạo nguồn phân bón hữu cơ trả về đồng ruộng. Ðẩy mạnh áp dụng cơ giới hóa và các tiến bộ kỹ thuật để thực hiện san phẳng đồng ruộng, cày xới đất hợp lý nhằm tăng độ phì nhiêu, tăng hiệu quả sử dụng phân bón và giảm phát thải khí nhà kính trong canh tác lúa…

Theo ông Ngô Văn Ðông, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần phân bón Bình Ðiền, Chương trình canh tác lúa thông minh thích ứng với BÐKH vùng ÐBSCL, do Công ty phối hợp với Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và các địa phương, đơn vị có liên quan triển khai, với việc hài hòa một cách thông minh các yếu tố đầu vào đã cho hiệu quả rõ rệt. Quy trình canh tác do Chương trình đề xuất đã được Bộ NN&PTNT công nhận tiến bộ kỹ thuật để đưa vào áp dụng rộng rãi trong sản xuất lúa. Qua chương trình canh tác lúa thông minh cho thấy, chỉ khi hiểu được bản chất độ phì nhiêu của đất, phát hiện đúng yếu tố hạn chế cho sản xuất lúa sẽ cho phép sử dụng phân bón "đúng", giúp giảm chi phí, tăng hiệu quả và giảm phát thải. Theo GS.TS Nguyễn Bảo Vệ, để cây lúa hấp thu tốt các dưỡng chất có sẵn trong đất và giảm sử dụng phân bón hóa học, ngành chức năng cùng nông dân các địa phương cần chú ý làm đất sâu tầng, giúp cây lúa lấy nhiều dưỡng chất. Có thời gian phơi đất, ngâm đất và cách ly thời vụ. Làm rãnh nước rửa độc chất và tránh hiện tượng dồn độc. Bón các loại phân chuyên dùng để giúp cải tạo đất bị phèn, mặn, giúp cố định đạm, tăng khả năng hấp thụ dinh dưỡng của cây lúa và giảm ngộ độc hữu cơ…

Theo ông Lê Thanh Tùng, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, thực hiện Ðề án phát triển bền vững 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ÐBSCL, hiện Bộ NN&PTNT đã phối hợp các đơn vị, doanh nghiệp và địa phương triển khai 7 mô hình thí điểm tại các vùng sinh thái khác nhau để làm cơ sở nhân rộng. Các mô hình đã áp dụng quy trình canh tác lúa giảm chi phí, bền vững, phát thải thấp. Kết quả cho thấy, năng suất lúa trong các mô hình cao hơn bên ngoài, lợi nhuận của nông dân được nâng lên và giảm được phát thải khí nhà kính. Với việc thực hiện gieo sạ chính xác bằng máy kết hợp với bón vùi phân bón, sử dụng phân bón chuyên dụng và áp dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật đã giúp giảm mạnh lượng sử dụng giống và phân bón, với lượng phân bón tại các mô hình giảm từ 30-70kg/ha. Từ thực tế đó, chúng ta cần tiếp tục phát huy, nghiên cứu, áp dụng công nghệ trong bón phân, xây dựng công cụ quản lý, khuyến cáo nông dân sử dụng các loại phân bón chuyên dùng và chuyên cho từng vùng. Xây dựng cơ sở dữ liệu về đất để sử dụng phân bón tiết kiệm, hiệu quả.

Bài, ảnh: KHÁNH TRUNG

 

Hợp tác xã nông nghiệp-Tạo chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ

 

Nguồn tin:  Báo Bà Rịa - Vũng Tàu

Nhằm đạt mục tiêu phát triển bền vững, nhiều hợp tác xã (HTX) nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã tích cực xây dựng chuỗi liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản.

 

 

Bà Nguyễn Thị Thùy Dung, Phó Giám đốc HTX Bưởi da xanh Hắc Dịch cho biết, các thành viên HTX có lợi nhuận từ 300-400 triệu đồng/năm khi tham gia chuỗi sản xuất bưởi da xanh theo hướng VietGAP.

Liên kết tạo đầu ra ổn định

Ông Vòng A Mền, nông dân trồng bưởi da xanh tại xã Sông Xoài (TX.Phú Mỹ), hiện đang thu hoạch những trái cuối vụ từ hơn 2ha bưởi của mình. Cách đây 2 năm, ông quyết định chuyển đổi từ phương pháp canh tác thông thường sang hướng hữu cơ. Ông chia sẻ: “Trước đây, nông dân làm theo cách riêng của mình. Từ khi tham gia HTX, chúng tôi được hướng dẫn sản xuất theo quy trình VietGAP, đảm bảo chất lượng cho sản phẩm và giảm chi phí canh tác. HTX còn thu hoạch bưởi tận vườn”.

HTX Bưởi da xanh Hắc Dịch (TX.Phú Mỹ) hiện có 40 thành viên với tổng diện tích 38ha. HTX đã liên kết với 30 hộ nông dân trồng bưởi tại các xã Láng Lớn, Sông Xoài và phường Hắc Dịch, mở rộng diện tích canh tác lên khoảng 25ha. Ông Nguyễn Trọng Trung, Giám đốc HTX cho biết, sau khi thành lập vào năm 2022, HTX đã nhanh chóng chuyển sang canh tác bưởi theo hướng hữu cơ, đầu tư vào hệ thống tưới và phương tiện vận chuyển. Đến nay, HTX đã có 38ha bưởi da xanh canh tác theo quy trình VietGAP, với năng suất ổn định đạt 35 tấn/ha/năm.

HTX còn liên kết với các siêu thị tại TP.Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành khác trong nước, đồng thời mở rộng thị trường xuất khẩu sang Trung Quốc và EU. Bên cạnh đó, HTX hỗ trợ các thành viên mua vật tư, phân bón chất lượng với giá thấp hơn thị trường.

HTX Dưa lưới Long Tân (huyện Đất Đỏ) cũng đang hoạt động tích cực với 16 thành viên canh tác 25 nhà màng, chủ yếu trồng giống dưa oval vỏ vàng, ruột vàng. Mỗi năm, HTX sản xuất 4 vụ, với năng suất đạt từ 3-3,5 tấn dưa/vụ/nhà màng. Ngay từ khi thành lập, HTX đã xác định xây dựng quy trình sản xuất an toàn, áp dụng các phương pháp kỹ thuật tiên tiến và sử dụng nguồn nước sạch, không dùng thuốc bảo vệ thực vật. Nhờ đó, sản phẩm dưa lưới của HTX đã thu hút được thương lái từ nhiều tỉnh thành trong cả nước.

Ông Trương Văn Hậu, Giám đốc HTX Dưa lưới Long Tân cho biết, ngoài việc ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất, HTX cũng đang đầu tư vào mô hình kết hợp du lịch nông nghiệp. “Mặc dù việc phát triển nông nghiệp gắn với du lịch là một cơ hội, nhưng chúng tôi cũng gặp nhiều khó khăn và thách thức, nhất là với trình độ và tiềm lực kinh tế còn hạn chế của các thành viên”, ông Hậu chia sẻ.

HTX phát triển bền vững

Theo Liên minh HTX tỉnh, toàn tỉnh hiện có 494 tổ hợp tác và 195 HTX với 12.532 thành viên, trong đó có 18 HTX nông nghiệp đã liên kết với doanh nghiệp trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản. Việc áp dụng công nghệ nông nghiệp và xây dựng chuỗi sản xuất không chỉ mang lại lợi ích cho HTX, mà còn tạo việc làm ổn định cho hơn 4.800 lao động khu vực nông thôn.

Ông Trịnh Văn Tiến, Phó Giám đốc HTX Sản xuất- Dịch vụ-Nông nghiệp Xuân Trường (huyện Châu Đức) cho biết, HTX có 17 thành viên, canh tác hơn 20ha thanh long ruột đỏ. Nhờ ký kết giá tiêu thụ cố định ngay từ đầu, HTX có thể quản lý tốt đầu vào và đầu ra, tạo sự yên tâm cho các thành viên. Qua hơn 3 năm triển khai, mô hình liên kết này đã mang lại hiệu quả cao hơn nhiều lần so với sản xuất nhỏ lẻ trước kia, nâng cao thu nhập cho bà con nông dân.

Bà Nguyễn Thị Loan, Phó Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh, cho biết, thời gian qua, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có nhiều chính sách hỗ trợ thành lập mới và củng cố tổ chức HTX. Nghị quyết số 21 của HĐND tỉnh về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp đã giúp các HTX mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu, đồng thời tiếp cận các nguồn vốn tín dụng ưu đãi, hướng tới sự phát triển ổn định, bền vững.

Bài, ảnh: ĐINH HÙNG

 

Khi cử nhân kinh tế nuôi gà...

 

Nguồn tin: Báo Lào Cai

Đã qua rồi thời tư duy phấn đấu học đại học chỉ để đi công tác, làm công chức, viên chức cơ quan nhà nước. Nền kinh tế thị trường đang mở ra cơ hội phát triển, làm giàu cho nhiều người, nhất là những người được đào tạo, có nền tảng tri thức cao, người luôn sẵn sàng tự “đứng trên đôi chân” để khởi nghiệp. Ngày càng có nhiều hơn những tấm gương như thế ở nhiều nơi. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập tới hai mô hình chăn nuôi thành công tại huyện Bảo Thắng (Lào Cai,).

 

 

Anh Phan Nhật Quang, Chủ tịch HĐQT HTX chăn nuôi gia súc, gia cầm Xuân Tiến.

Trước đây, khi nói tới Hợp tác xã Chăn nuôi Quý Hiền tại huyện Bảo Thắng là nhắc tới ông Phan Quốc Ân, xã Xuân Quang với vai trò giám đốc. Điều không mấy người biết tới là đằng sau có một người rất quan trọng, đó là anh Phan Nhật Quang, con trai của ông Ân.

Cảm nhận ban đầu của tôi ở anh Phan Nhật Quang là ẩn trong vóc dáng cao gầy kia có sự nhạy bén, thức thời, lăn xả và linh hoạt trong quản lý. Đóng bộ sơ mi là lượt, giày bóng loáng chuẩn bị đi giao dịch với đối tác, nhưng khi thấy người lao động của cơ sở đang cần giúp đỡ, anh Quang liền bê cả bao thức ăn chăn nuôi bỏ lên xe rùa. Sau mấy cái phủi tay, như nhớ ra điều gì, anh Quang lại ngồi vào bàn làm việc và check email trên máy tính. 

Nhưng điều làm tôi khâm phục hơn ở người đàn ông 54 tuổi là nghị lực, sự quyết đoán và dũng cảm. Năm 1991, thanh niên Phan Nhật Quang tốt nghiệp hệ chính quy chuyên ngành Quản lý kinh tế nông nghiệp tại một trường đại học danh tiếng. Khi đó số cán bộ, công chức có bằng đại học chính quy trong cơ quan Nhà nước tại địa phương chưa nhiều, cơ hội phát triển, thăng tiến xán lạn nhưng anh Phan Nhật Quang vẫn xin nghỉ công tác sau 3 năm để về nhà phát triển kinh tế gia đình.

Ban đầu anh Quang tham gia hỗ trợ ông Phan Quốc Ân phát triển trồng chè, khi đó ông Ân là Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Xuân Tiến, đơn vị kinh tế tập thể có bề dày truyền thống lâu đời tại huyện Bảo Thắng. Khi Hợp tác xã Nông nghiệp Xuân Tiến giải thể, ông Ân và anh Quang chuyển sang chăn nuôi, Hợp tác xã Chăn nuôi Quý Hiền hình thành từ đó và sau này trở thành hợp tác xã có tiếng tăm về quy mô. Ông Ân đến tuổi nghỉ ngơi, anh Phan Nhật Quang sáng lập Hợp tác xã Chăn nuôi gia súc, gia cầm Xuân Tiến với 12 thành viên do chính anh làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị; bản thân anh Quang đứng đầu trại chăn nuôi với quy mô 60.000 con gà thịt.

Hợp tác xã Chăn nuôi gia súc, gia cầm Xuân Tiến, có địa chỉ tại xã Xuân Quang, hằng năm chăn nuôi trên 80.000 con gia cầm, cung ứng cho thị trường 400 đến 500 tấn gà thịt và chăn nuôi 500 con lợn với sản lượng lợn hơi xuất chuồng khoảng 100 tấn/năm, tổng doanh thu khoảng 40 tỷ đồng. Hiện, 40 lao động tại Hợp tác xã có việc làm ổn định, mức thu nhập trung bình 7 triệu đồng đến 8 triệu đồng/tháng.

Không đơn thuần là tập hợp những người làm mô hình chăn nuôi, thể hiện sự chuyên nghiệp, nhu cầu phát triển bền vững, anh Phan Nhật Quang đã soạn thảo nguyên tắc hoạt động của Hợp tác xã Nông nghiệp Xuân Tiến gồm “5 chung”. Bắt đầu bằng “chung đường”, các xã viên cùng nhau sản xuất một loại hàng hóa là gà thả vườn và lợn thương phẩm; “chung mua”, cùng mua nguồn vật tư đầu vào có uy tín, chất lượng; “chung bán”, các xã viên xây dựng kế hoạch phân phối ra thị trường, không để tình trạng xã viên tự cạnh tranh nguồn cung sẽ bị ép giá, mất giá; “chung tiền”, xã viên tham gia quỹ tài chính của Hợp tác xã để tạo ra nguồn vốn lưu động lớn; “chung thị trường”, sản phẩm chăn nuôi của Hợp tác xã Nông nghiệp Xuân Tiến đang phân phối phần lớn cho các nhà hàng tại thành phố Lào Cai, thị xã Sa Pa, ngoài tỉnh là Lai Châu, Hà Giang, Vĩnh Phúc, Hà Nội, các xã viên của Hợp tác xã sẵn sàng chia sẻ đầu mối cung ứng theo nguyên tắc “có đi, có lại”.

Nói về kinh nghiệm 30 năm tham gia và điều hành Hợp tác xã chăn nuôi, anh Phan Nhật Quang bảo, môi trường hội nhập quốc tế càng đòi hỏi nền kinh tế tri thức phải được đề cao. “Nếu bạn dựa vào kinh nghiệm thì chỉ là sự đúc kết thói quen trong 20 năm, 30 năm, khi thực tế thay đổi kinh nghiệm sẽ lạc hậu nhanh chóng. Nếu bạn dựa vào tri thức thì điểm tựa là thành quả phát triển của cả nhân loại, bạn sẽ tiếp cận có hệ thống nền khoa học, kỹ thuật của cả thế giới này. Bạn cũng không lo ngại sự thay đổi vì đã nắm được nguyên lý vận hành của thế giới”, anh Quang nói.

Anh Quang cũng cho biết thêm, chính vì coi trọng kinh tế tri thức mà anh đã định hướng cho con trai học chuyên ngành Chăn nuôi - thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam để sau này về phục vụ cơ sở và nối nghiệp bố.

Có những thời điểm mình trả lương cho cán bộ thú y đến 30 - 40 triệu đồng/tháng, vậy cớ gì mình lại để con mình đi học ngành, nghề khác.

Anh Phan Nhật Quang, xã Xuân Quang, huyện Bảo Thắng

Nằm lọt trong thung lũng nhỏ giữa những đồi quế xanh mướt, thuộc thôn Cố Hải, xã Sơn Hải là trang trại chăn nuôi của anh Nguyễn Vũ Toàn, sinh năm 1986 và chị Nguyễn Thị Huyền. Chị Huyền sinh ra và lớn lên ở thôn Cố Hải, học Đại học Công nghệ, khoa Quản lý kế toán, từng làm cho văn phòng đại diện Công ty Bánh kẹo Kinh Đô tại thành phố Lào Cai; anh Nguyễn Văn Toàn có tới 2 bằng đại học là Quản trị kinh doanh, Khoa học xã hội và nhân văn, từng có 9 năm làm cho Công ty Cổ phần Cao su Dầu Tiếng (Lào Cai).

Năm 1997, nếu không có quyết định bứt phá, về quê sản xuất nông nghiệp thì hẳn anh Toàn, chị Huyền đã không có thành công như ngày hôm nay. Anh Toàn kể, thực tế thì chăn nuôi gia cầm không liên quan gì tới các chuyên ngành của vợ chồng anh được học, nhưng tri thức là nền tảng quan trọng nhất, cơ sở để tự học, tiếp cận với khoa học kỹ thuật.

Khởi nghiệp bằng nuôi gà giống Đông Tảo, quá trình chăn nuôi anh Toàn nhận thấy việc nhập con giống, vận chuyển đường xa từ các tỉnh miền xuôi không đảm bảo, gà yếu hoặc chết nhiều, nên đến năm 2019, vợ chồng anh chuyển sang nuôi gà giống. Đến nay, mỗi tháng anh Toàn, chị Huyền xuất bán khoảng 70.000 con gà giống Đông Tảo, cung cấp cho thị trường nội tỉnh và Lai Châu, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ.

Câu chuyện của anh Quang, vợ chồng anh Toàn, chị Huyền và một số chủ trang trại khác nữa mà tôi biết tại huyện Bảo Thắng - vùng chăn nuôi trọng điểm của tỉnh, có thêm một điểm chung là “Mang chuông đi đấm xứ người”. Vốn là tỉnh miền núi, biên giới xa xôi, hàng hóa chăn nuôi phụ thuộc nhiều chủ yếu nhập khẩu và từ các tỉnh, thành miền xuôi thì nay đã xuất bán ngược lại. Sự thay đổi ấy có căn nguyên và nền tảng bền vững, đó chính là những tấm bằng đại học, là tri thức chứ không hề “ăn may” trong phát triển kinh tế như một số người vẫn nói hoặc nghĩ như thế.

Cao Cường

 

Lào Cai: Phát triển chăn nuôi gia cầm theo hướng bền vững

 

Nguồn tin: Báo Lào Cai

Những năm gần đây, chăn nuôi gia cầm không chỉ tăng trưởng về số lượng mà còn có bước tiến về phương thức nuôi: Từ chăn nuôi phân tán, quy mô nhỏ chuyển sang chăn nuôi tập trung, áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nên sản lượng và chất lượng sản phẩm ngày càng nâng cao.

 

 

Đàn gia cầm phát triển tốt.

Mặc dù, ngành chăn nuôi phải đối diện với không ít khó khăn do dịch bệnh, giá thức ăn chăn nuôi tăng, nhưng đàn gia cầm của tỉnh vẫn phát triển ổn định, tăng trưởng vượt kế hoạch đề ra. Tính đến hết tháng 9/2024, tổng đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh Lào Cai hơn 5,3 triệu con, vượt 2,8% kế hoạch năm, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm 2023.

Theo đánh giá của Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh, tổng đàn gia cầm của tỉnh thời gian qua tăng về số lượng là do các hộ đã tăng cường áp dụng khoa học - kỹ thuật, mở rộng quy mô chăn nuôi. Hình thức chăn nuôi gia cầm quy mô trang trại, gia trại tập trung ngày càng được nhân rộng. Chăn nuôi gia cầm phát triển góp phần bù đắp thiếu hụt sản lượng thịt lợn trong điều kiện dịch tả lợn châu Phi diễn biến phức tạp khiến tổng đàn lợn suy giảm.

Trang trại chăn nuôi gà của gia đình anh Nguyễn Văn Tú ở thôn Làng Bông, xã Xuân Quang (huyện Bảo Thắng) trong 3 năm qua luôn duy trì đàn hơn 20 nghìn con. Có được sự ổn định như hiện nay, gia đình anh áp dụng chăn nuôi an toàn sinh học, chú trọng vệ sinh thú y, tiêm phòng đầy đủ vắc-xin cho đàn gà. Theo anh Tú, đối với chăn nuôi gia cầm, khi nắm vững kỹ thuật và biện pháp phòng, chống dịch bệnh sẽ ít rủi ro hơn so với các vật nuôi khác.

Là địa bàn trọng điểm chăn nuôi của huyện Bảo Thắng, xã Xuân Quang hiện có 35 trang trại và gần 1.800 hộ nuôi quy mô gia trại, tổng đàn gà hơn 420 nghìn con. Để chăn nuôi hiệu quả, xã tuyên truyền, vận động các thôn thành lập tổ, nhóm chăn nuôi chia sẻ kinh nghiệm trong phòng, chống dịch bệnh; xây dựng kế hoạch vào đàn, xuất bán theo từng tháng, tránh tình trạng xuất bán tập trung vào cùng 1 thời điểm với số lượng lớn khiến dư nguồn cung, khó tiêu thụ, ảnh hưởng đến giá bán… Việc chăn nuôi gia cầm quy mô tập trung sẽ giúp chủ động phòng, chống dịch bệnh, do vậy đàn gia cầm được duy trì và phát triển ổn định.

Huyện Bảo Thắng hiện có tổng đàn gà hơn 2 triệu con (chiếm 40% tổng đàn toàn tỉnh), 185 trang trại (tăng 68 trang trại so với cùng kỳ năm 2023) và khoảng 10.600 hộ chăn nuôi. Trên thực tế, từ năm 2019, khi dịch tả lợn châu Phi hoành hành, đàn lợn suy giảm nhanh. Sau dịch, giá con giống tăng nên nhiều hộ chăn nuôi không thể phát triển đàn lợn trở lại. Do vậy, người dân chuyển sang chăn nuôi gia cầm tại chuồng trại trước đây nuôi lợn, dẫn đến tổng đàn gia cầm tăng nhanh. Trên địa bàn huyện có 1 cơ sở sản xuất giống gia cầm cung cấp hơn 70 nghìn con giống/năm.

Chăn nuôi trang trại quy mô tập trung chủ yếu sử dụng thức ăn công nghiệp, có đầu tư về chuồng trại, thiết bị chăn nuôi. Hình thức chăn nuôi này mang lại hiệu quả kinh tế cao nhờ kiểm soát được dịch bệnh. Toàn tỉnh có hơn 150 trang trại chăn nuôi gia cầm, 2 cơ sở chăn nuôi quy mô lớn, chăn nuôi theo chuỗi liên kết quy mô chăn nuôi thường xuyên đạt 10.000 - 20.000 con.

Các hộ chăn nuôi gia cầm đã chủ động áp dụng quy trình chăn nuôi an toàn sinh học, chăn nuôi trên nền đệm lót sinh học để bảo vệ môi trường (hiện có 4.094 hộ chăn nuôi gà trên nền đệm lót sinh học, chiếm 85% số hộ chăn nuôi); tỷ lệ tiêm vắc-xin cúm gia cầm đạt 98%. Hiện toàn tỉnh có tổng đàn gia cầm 5,3 triệu con, bằng 102,8% kế hoạch năm, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm 2023; sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 58.100 tấn, bằng 78,51% kế hoạch năm (74.000 tấn), tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2023.

Ông Phạm Bá Uyên, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh cho biết: Chăn nuôi gia cầm được đẩy mạnh trong thời gian qua do yêu cầu vốn đầu tư thấp hơn so với các vật nuôi khác và phù hợp với điều kiện của nhiều hộ. Bên cạnh đó, giá bán thịt hơi xuất chuồng và các sản phẩm gia cầm tương đối ổn định nên người dân tập trung đầu tư phát triển chăn nuôi gia cầm...

Để chăn nuôi gia cầm phát triển ổn định, bền vững, người dân cần thực hiện tốt các biện pháp kỹ thuật trong chăn nuôi, nhất là áp dụng biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học và phòng, chống tốt các loại dịch bệnh nhằm bảo đảm mang lại thu nhập cao.

Kim Thoa

 

Kỹ sư lâm nghiệp đam mê với nghề nuôi hươu

 

Nguồn tin: Khuyến Nông VN

Mô hình nuôi hươu sao lấy nhung và bán con giống không còn xa lạ đối với người dân trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, tiêu biểu là hộ gia đình anh Quan Văn Tiệp sinh năm 1975 trú tại tổ 2, phường Tân Hà, thành phố Tuyên Quang. Mỗi năm nhà anh thu lãi từ mô hình nuôi hươu hơn 400 triệu đồng.

Khi bước chân vào cửa chuồng nuôi hươu rộng 350 m2 của nhà anh Tiệp, chúng ta sẽ thấy hệ thống chuồng trại được thiết kế rất khoa học với các ô chuồng được xây dựng thành từng dãy, để thuận tiện cho việc chăm sóc hươu cũng như tách chuồng, đổi chuồng. Mỗi ô chuồng có kích thước 2 x 2,2 m; cao 1,5 m làm bằng chất liệu gỗ để tránh gây thương tích cho hươu và cũng có thêm 2 khu chuồng to mỗi chuồng rộng 80 m2 để nhốt hươu cái và hươu con khi tách mẹ. Tất cả các ô chuồng anh đều thiết kế hệ thống nước uống tự động, mặt sàn chuồng bằng nền đất sử dụng đệm lót sinh học để xử lý phân và tránh lúc hươu chạy nhảy bị bật móng, trên mái chuồng lắp đặt hệ thống phun mưa tự động để làm mát chuồng khi thời tiết nóng. Chỉ cần nhìn vào đã đủ để biết chủ trang trại chăn nuôi hươu có niềm đam mê và rất tâm huyết với con hươu.

Khi được hỏi về quá trình khởi nghiệp, anh Tiệp chia sẻ: Vào một dịp đi công tác tại tỉnh Hà Tĩnh anh được tham quan trang trại nuôi hươu, trong thời điểm đó tỉnh Tuyên Quang chưa có ai nuôi hươu trong chuồng. Vì vậy, năm 2009 anh quyết định mua 03 con hươu giống (01 đực, 02 cái) tại trang trại nuôi hươu sao Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh về nuôi thử nghiệm. Do không có vốn để đầu tư anh quyết bán con xe máy Wave Alpha - phương tiện đi lại duy nhất của gia đình và vay thêm người thân để đi mua hươu về nuôi. Mới đầu nuôi anh cũng gặp không ít khó khăn do chưa có kinh nghiệm chăn nuôi hươu thực tế. Khi mang hươu về nuôi thì mấy con hươu đều bị tiêu chảy, chướng hơi còi cọc, anh lại đi đến các trại nuôi hươu các tỉnh để học hỏi kinh nghiệm, lấy thuốc chữa. Sau 1 năm nuôi, anh hiểu được tập tính cũng như quy trình chăm sóc nên con hươu phát triển khỏe mạnh. Năm 2010, anh mua thêm 7 con hươu về nuôi để mở rộng đàn, có thời điểm đàn hươu của anh phát triển lên đến 70 con. Sau thời gian nuôi có hiệu quả và phát triển ổn định, năm 2017 anh nghỉ hẳn việc tại Công ty Lâm sản Tuyên Quang để ở nhà chăm sóc hươu và tư vấn hỗ trợ các hộ có nhu cầu nuôi hươu.

 

 

Khu vực nuôi hươu cái sinh sản của gia đình anh Tiệp

Anh Tiệp chia sẻ thêm về kinh nghiệm nuôi hươu không khó nhưng cần phải chú ý: Thức ăn của hươu chủ yếu là rau cỏ, củ quả và lá cây; cần thường xuyên thay đổi các loại thức ăn xen kẽ, đảm bảo ngon miệng để tránh hươu chán ăn. Giai đoạn hươu lên nhung cần bổ sung thêm chất tinh bột như ngô, lúa, sắn cho hươu ăn để tăng cường chất dinh dưỡng, nâng cao sức khỏe và trọng lượng. Để hươu phát triển tốt, khỏe mạnh phải chú trọng nguồn thức ăn sạch. Khi cho hươu ăn phải để ý xem lá cây có sâu cuốn lá, trứng sâu hay không, nếu ăn phải những thứ này, hươu rất dễ bị đầy hơi, tiêu chảy. Khi hươu bị tiêu chảy anh thường cho ăn lá mít, chuối và giảm tinh bột; chướng bụng thì giã tỏi cho ăn, viêm phổi thì tiêm thuốc. Những bệnh thường gặp ở hươu chủ yếu là bị tiêu chảy và chướng bụng chỉ cần điều chỉnh thức ăn cho hươu là được. Nguồn nước phải đảm bảo an toàn, sạch sẽ. Mùa hè, hươu cần được cung cấp 6 - 8 lít/con/ngày, mùa đông cần từ 4 - 6 lít/con/ngày, vì vậy mùa hè hệ thống nước trong chuồng hươu nhà anh mở cả ngày; mùa đông thì mở buổi trưa để đàn hươu chủ động tự uống nước. 

Để đảm bảo nguồn thức ăn có độ tươi xanh, an toàn không thuốc bảo vệ thực vật, gia đình anh đã cải tạo 1,0 ha đất để trồng cỏ voi, ngô sinh khối và cây chuối lấy lá làm thức ăn hàng ngày. Ngoài ra, xung quanh trại nhà anh còn trồng thêm mít để lấy lá làm thức ăn cho hươu vào mùa đông khi thiếu cỏ. Với kinh nghiệm 15 năm nuôi hươu, trang trại của anh Tiệp trở thành địa chỉ cung cấp con giống và tư vấn kỹ thuật uy tín. Nhiều hộ chăn nuôi ở các tỉnh Thái Nguyên, Phú Thọ, Lai Châu, Yên Bái và Hà Nội đều nhập giống hươu nhà anh và được anh tận tình giao giống tận nơi, tư vấn hướng dẫn quy trình kỹ thuật về cách dựng chuồng, làm nền để áp dụng đệm lót sinh học cho đến cách chăm sóc, vệ sinh, phòng bệnh cho hươu, kỹ thuật chăm sóc đảm bảo hươu sinh trưởng, phát triển tốt ít dịch bệnh.

Trang trại hươu của gia đình anh Tiệp chủ yếu là khai thác nhung và bán hươu giống. Hươu đực nuôi lấy nhung từ 2 tuổi bắt đầu cho thu hoạch nhung, lượng nhung thu được lần đầu tiên chỉ khoảng 100-200 gram/con, con hươu trưởng thành 1 năm thu được khoảng 0,8 -1 kg/con, nếu chăm sóc tốt và hươu đực cho cắt nhung 2 lần/năm. Lượng nhung thu được tỷ lệ thuận với số tuổi và trọng lượng của hươu nên hươu nuôi càng lớn lượng nhung thu được sẽ càng nhiều. Thời gian nhung mới nhú đến lúc cắt là 45 ngày khi nhung hươu đủ dinh dưỡng, không nên để quá già sẽ mất giá. Giá nhung bán ra thị trường là 2 triệu đồng/lạng. Đối với hươu giống, anh xuất bán con giống khi được 4 - 5 tháng tuổi, giá con cái giống là 13 triệu đồng/con; hươu đực giống bán 15 triệu đồng/con. Thị trường tiêu thụ nhung chủ yếu là người dân địa phương, khách vãng lai mua làm quà và các nhà hàng. Hiện nay, trang trại của anh đang có tổng hơn 40 con, trong đó 17 con hươu đực đang cho khai thác nhung, còn lại là hươu cái sinh sản và hươu con. Mỗi năm anh thu được gần 20 kg nhung và xuất bán được hơn 30 con hươu giống. Tổng trừ các loại chi phí, đàn hươu cho thu lãi hơn 400 triệu đồng. Dự kiến trong thời gian tới gia đình anh sẽ mở một cửa hàng giới thiệu sản phẩm nhung hươu tới khách hàng.

Mô hình nuôi hươu của gia đình anh Tiệp đã tạo công ăn việc làm thường xuyên cho 4 lao động với mức lương 6 triệu đồng/người/tháng. Cùng với nuôi hươu, gia đình anh tận dụng thêm diện tích ao rộng gần 3000 m2 để nuôi thêm cá và vịt bầu Minh Hương, mỗi lứa nuôi 1.000 con, mỗi năm nuôi gối được 4 lứa thu lãi hơn 100 triệu đồng/năm.

Ông Nguyễn Mạnh Cường, Chủ tịch UBND phường Tân Hà (TP Tuyên Quang) cho biết: Mô hình nuôi hươu của gia đình anh Quan Văn Tiệp là một mô hình hiệu quả, đem lại thu nhập cao cho gia đình. Là một tấm gương lao động sản xuất giỏi được mọi người học tập và làm theo, anh Tiệp cũng là người sẵn sàng chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, kỹ thuật chăm sóc phòng trừ bệnh đối với hươu. Hy vọng trong thời gian tới sẽ nhân rộng được càng nhiều mô hình kinh tế hiệu quả đem lại thu nhập ổn định, góp phần nâng cao đời sống người dân trên địa bàn./.

Vi Thị Thịnh - Trung tâm Khuyến nông Tuyên Quang

 

Thái Nguyên: Sản lượng chăn nuôi đạt trên 168 nghìn tấn

 

Nguồn tin: Báo Thái Nguyên

9 tháng năm 2024, sản lượng chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đạt trên 168 nghìn tấn, bằng 76,2% kế hoạch năm (trong đó thịt lợn là trên 76 nghìn tấn, thịt gia cầm trên 82 nghìn tấn, thịt trâu và bò gần 10 nghìn tấn). Dự ước sản lượng chăn nuôi năm 2024 đạt gần 223 nghìn tấn, bằng 100% kế hoạch; trứng gia cầm đạt 465 triệu quả…

 

 

Với quy mô nuôi 400 con bò 3B thịt, hàng năm, HTX chăn nuôi bò và dịch vụ sản xuất nông nghiệp Nga My (Phú Bình) cung cấp lượng lớn thịt bò thương phẩm ra thị trường.

Thị trường tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi từ đầu năm đến nay tương đối ổn định, phát huy được lợi thế của địa phương để phát triển một số loại vật nuôi chủ lực, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Năng suất, chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao, hiệu quả chăn nuôi tăng rõ rệt.Qua đó góp phần nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và mở rộng thị trường tiêu thụ.

Các sản phẩm chủ lực, đặc thù, có lợi thế đang được chuyển dần từ chăn nuôi nhỏ lẻ trong nông hộ sang chăn nuôi quy mô lớn, vừa và nhỏ; việc tổ chức sản xuất được thực hiện theo chuỗi khép kín từ trang trại đến bàn ăn.

Hiện nay, giá lợn hơi trên địa bàn tỉnh khoảng 65-66 nghìn đồng/kg; lợn giống (6-7 kg/con) có giá từ 1,9-2,1 triệu đồng/con; giá gà trắng công nghiệp khoảng 27-30 nghìn đồng/kg, gà lông màu nuôi công nghiệp từ 40-58 nghìn đồng/kg, gà lông màu nuôi thả vườn khoảng 70-85 nghìn đồng/kg; trứng gia cầm có giá từ 2-3 nghìn đồng/quả...

Tùng Lâm

 

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop